Faithful mother tongue,
I have been serving you.
Every night, I used to sit before you little bowls of colors
so you could have your birch, your cricket, your finch
as preserved in my memory.
This lasted many years.
You were my native land; I lacked any other.
I believed that you would also be a messenger
between me and some good people
even if they were few, twenty, ten
or not born, as yet.
Now, I confess my doubt.
There are moments when it seems to me I have squandered my life.
For you are a tongue of the debased,
of the unreasonable, hating themselves
even more than they hate other nations,
a tongue of informers,
a tongue of the confused,
ill with their own innocence.
But without you, who am I?
Only a scholar in a distant country,
a success, without fears and humiliations.
Yes, who am I without you?
Just a philosopher, like everyone else.
I understand, this is meant as my education:
the glory of individuality is taken away,
Fortune spreads a red carpet
before the sinner in a morality play
while on the linen backdrop a magic lantern throw
images of human and divine torture.
Faithful mother tongue,
perhaps after all it's I who must try to save you.
So I will continue to set before you little bowls of colors
bright and pure if possible,
for what is needed in misfortune is a little order and beauty
Berkeley, 1968
Czeslaw Milosz: Selected Poems 1931-2004
Tiếng mẹ đẻ của tôi mà tôi một lòng
một dạ
Tiếng mẹ đẻ của tôi mà tôi một lòng một dạ
Tôi đã phục vụ tiếng mẹ đẻ của tôi
Đêm nào cũng vậy, tôi để trước bà những cái chén màu sắc,
và như vậy bà có thể có cây roi, con dế, con chim sẻ của bà
(1)
Như tôi còn gìn giữ được, trong trí nhớ của mình
Điều này kéo dài trong nhiều năm
Bà là quê mẹ của tôi; tôi đâu có quê nào khác.
Tôi tin tưởng bà còn là vì thiên sứ
Giữa tôi và số thiện nhân
Ngay cả khi đám này đếm trên đầu ngón tay
Hoặc chưa có mống nào ra đời
Và bây giờ, tôi thú thực
Hình như là tôi có tí nghi ngờ
Có những lúc tôi cảm thấy mình hoang phí đời mình.
Bởi vì tiếng mẹ tôi là thứ tiếng của một đám người tệ hại
Của những kẻ không hề biết lẽ phải là gì
Của những kẻ thù hận lẫn nhau
Chúng thù chúng còn hơn cả thù những quốc gia khác
Thứ tiếng nói của bọn cớm, những tên chỉ điểm
Của bọn chuyên lầm lẫn
Một lũ bịnh vì sự ngây thơ của chính chúng
Nhưng không có bà, thì tôi là ai?
Chỉ là 1 tên học giả ở một xứ sở xa xôi
một sự thành công, không sợ hãi mà cũng không tủi nhục
Đúng rồi, tôi là ai nếu không có tiếng mẹ đẻ?
Chỉ là 1 triết gia
Như mọi người khác
Tôi biết, điều này có nghĩa như là học vấn của tôi:
Sự vinh quang cá nhân được lấy đi
Của cải trải ra tấm thảm đỏ
trước kẻ tội lỗi trong 1 vở kịch đạo đức,
trong khi trên tấm màn phông, cây đèn thần ném ra
những hình ảnh của sự tra tấn, con người và thần linh.
Tiếng mẹ đẻ mà tôi một lòng một dạ
Có lẽ, sau chót, chính tôi là người phải cố gắng cứu tiếng mẹ
đẻ của mình
Và tôi sẽ tiếp tục bày ra trước tiếng mẹ đẻ những cái chén mầu
sắc, sáng ngời, và trong sạch, nếu có thể
Bởi vì điều cần trong bất hạnh, là, một trật tự nho nhỏ và cái
đẹp
Czeslaw Milosz
Berkeley, 1968
(1)
Câu này, thú thực Gấu không hiểu tác giả muốn nói gì.
Trên net, có bài này, có cả nguyên văn tiếng Ba Lan, bạn nào
rành, chỉ giùm.
Cái đoạn Milosz phạng tiếng mẹ đẻ của ông, sao nghe thấm quá,
đã quá!
NQT
Birch là một loại cây giống cây lao của VN (từ điển Việt nam
gọi là cây bu-lô) , hoặc cây aspen của Mỹ, có thân màu trắng, đặc biệt
vỏ thân thường bị bóc ra . Lá trở vàng vào mùa thu, rất xinh đẹp .
Tiếng mẹ thủy chung
Tôi đã phục vụ bà
Hằng đêm tôi thường đặt trước mặt bà những chén sắc màu nho
nhỏ
để bà có thể có những cây birch, những chú dế, và những con
chim sẻ
như chúng đã được gìn giữ (bảo tồn) trong trí nhớ của tôi
ps. Vì anh nghĩ birch là cái roi cho nên mới khó hiểu . Chứ
khi biết đó là một loại cây mọc rất nhiều ở âu mỹ (cũng như tre trúc
ở VN ), thì những thứ thân quen từng nhìn thấy hàng ngày như cây tre,
như dế, như chim sẻ bỗng trở nên thân thiết ăn sâu trong trí nhớ của những
kẻ xa quê .
K.
Tks. NQT
Rain hisses onto stones as old men and women
drive donkeys to cover.
We stand in rain, more foolish than donkeys,
and shout, walk up and down in rain and accuse.
•
When rain stops the old men and women
who have waited quietly in doorways, smoking,
lead their donkeys out once more and up the hill.
•
Behind, always behind, I climb through the narrow
streets.
I roll my eyes. I clatter against stones.
PLUIE SOUDAINE
Une pluie sifflante s'abat sur les pavés tandis que
[vieux
et vieilles
mènent des ânes a l'abri.
Debout sous la pluie, plus ânes que les ânes,
nous hurlons, marchons de long en large sous la
[pluie et
accusons.
*
Quand la pluie cesse les vieux et les vieilles
qui attendaient tranquillement sous des porches en
[fumant,
repartent avec leurs ânes à l'assaut de la côte.
*
Derrière, toujours derrière, j'escalade les rues étroites.
Je roule des yeux. Je claque sur les pavés.
Mưa bất thần
Quất lên hè đá,
Ông bà bà già bèn dắt lừa vào mái hiên trú mưa
Chúng tôi,
Đứng dưới mưa, khùng hơn cả lừa khùng
Sủa như giặc, hầm hà hầm hừ đi đi lại lại
Buộc tội nhau
Mưa tạnh,
Ông già bà già
Lặng thinh chờ, hút thuốc
Bèn dắt lừa lên đồi
Sau chót, thi luôn luôn là sau chót
Tôi leo con phố hẹp
Đảo con mắt lé liên miên
Lách cách, lách cách
Nện giầy lên hè đá.
WINTER INSOMNIA
The mind can't sleep, can only lie awake and
gorge, listening to the snow gather as
for some final assault.
It wishes Chekov were here to minister
something-three drops of valerian, a glass
of rose water-anything, it wouldn't matter.
The mind would like to get out of here
onto the snow. It would like to run
with a pack of shaggy animals, all teeth,
under the moon, across the snow, leaving
no prints or spoor, nothing behind.
The mind is sick tonight.
INSOMNIE D'HIVER
L'esprit ne peut pas dormir, ne peut que rester éveillé
à se goinfrer, écoutant la neige se rassembler
comme pour un ultime assaut.
Il voudrait que Tchekhov soit là pour lui administrer
quelque chose - trois gouttes de valériane, un verre
d'eau de rose - n'irnporte quoi, ca lui serait égal.
L'esprit voudrait sortir d'ici,
s'en aller dans la neige. Il voudrait galoper
avec une meute de betes hirsutes, tous crocs dehors,
sous la lune, à travers la neige, ne laissant
ni traces ni fumées, ne laissant rien.
Il est malade cette nuit, l'esprit.
Đông Mất Ngủ
Cái đầu không thể ngủ, cứ trong mắt lên thức
Tọng đầy họng, lắng nghe tuyết quần tụ
Cho cú đánh chót
Giá mà có Chekhov ở đây, nhỉ
Làm 1 cái gì đó – ba giọt valerian, một ly nước hồng-
Bất cứ cái gì – ông ta vốn dễ tính, cái gì mà chẳng được
Cái đầu muốn ra bên ngoài
Đi trong tuyết
[Nè, không có cái vụ, nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay]
Nó muốn phóng, cùng một lũ thú,
Lông bờm xờm, răng nhe hết cả ra
Dưới trăng, băng trên tuyết
Không để lại dấu, khói,
Chẳng để lại cái đéo gì hết
Cái đầu bịnh
Đêm nay.
Paul Celan
[Without title.
Fragment of an
unfinished poem]
The grass of your eyes, bitter grass.
Wind, billow above it, eyelid of
tallow.
The water of your eyes, forgiven
water.
[Vô đề. Mẩu bài thơ chưa hoàn tất]
Cỏ trong mắt em, cỏ cay đắng
Gió, biển ở trên, mí mỡ
Nước trong mắt em, nước tha thứ.
Night of the New
Year
During the night of the New Year, season without
hours,
you dispatched the young catafalque
to petition your lover;
towards her the incendiary tears
marched out of the
mirrors
in the torch snowed over with sorrow,
sprouting out of her
head.
The ring extinguished in a cup
perched up on the window
to spy her traipsing through snow
with slumbering tresses;
the unbraided hands rushed to the
gate to await her,
while above in the chambers the
poets stepped to the
waltz.
But she strolled through the threshold
to fight back an
eyelid,
to witness the quick of her wakening
breast drift off to
sleep.
A die tumbled between the slabs,
with eyes of a nectarine
hue,
and the wooden citadel's steeple
left with a shadow.
Encounter
Tonight it'll rain on the green
dunes of limestone,
The wine preserved til today in
the mouth of a dead man
will awaken the land of foot-bridges,
displaced in a bell.
A human tongue will trumpet audacity
in a helmet.
And thus the trees will arrive
in a fury
to wait for the leaf that speaks,
delivered in an urn,
the heralds of the coast of sleep
sent off to the tide of
banners.
Let it douse in your eyes, so I'll
think that we'll die
together.
Your hair dripping out of the mirrors
will blanket the
regions of air,
where, with a hand of frost, I'll
set an autumn on fire.
From the waters imbibed by the
blind my short laurel will
scurry
up on a belated ladder, to take
a bite from your forehead.
Gặp Gỡ
Đêm nay mưa sẽ rơi trên những đụn đá vôi xanh
Rượu được gìn giữ cho đến bữa nay, trong miệng người chết
Sẽ đánh thức miền đất của những chiếc cầu chân đất, lạc lõng trong
tiếng chuông
Một giọng người sẽ thổi sự hung hãn trong cái nón sắt
Và như thế đó, cây sẽ tới trong vội vã
Đợi lá, được giải thoát khỏi cái bình, cất tiếng
Những viên sứ truyền lệnh của bờ biển của giấc ngủ
Sẽ được phái đi tới ngọn triều của những biểu ngữ
Hãy để nó tắt ngấm trong mắt em, như thế, anh sẽ nghĩ, chúng mình
sẽ cùng chết bên nhau
Tóc em trườn ra khỏi những chiếc gương sẽ phủ bầu trời
Ở đó, bằng bàn tay của sương giá, anh sẽ để mùa thu lên giàn lửa
Từ nước hút bởi 1 người mù, vòng nguyệt quế ngắn ngủi của anh sẽ leo
Cái thang muộn, để cắn vào trán em
To confront his executioners in the name of
the language they share with him, and to force them to their knees.
That was the major bet, held.
Have I ever read Paul Celan? I have listened to him for
a long time. I listen to him. Each time his books renew a dialogue
the beginning of which I can't remember, though nothing has come
to interrupt it since then.
Silent dialogue through words as light as free and adventurous
birds; all the world's gravity being in the sky; like stones laid
by nostalgic ghosts on the marble of nonexistent tombs; all the world's
pain being in the earth; and like ashes of an interminable day of horror
of which there remains but the unbearable image of pink smoke above millions
of burned bodies.
A nothing rose
a Noone's Rose
A nothing
were we, are we, will we remain, blossoming:
the nothing - , the
noonesrose.
Edmond Jabès:
The Memory of Words
Để đối chất với lũ đao phủ Bắc Kít, những kẻ cùng chia sẻ tiếng nói
với mi
Để bắt chúng quỳ gối
Quả đúng 1à 1 cú đánh quả lớn.
Tôi đã từng đọc Paul Celan? Tôi đã nghe ông nói một thời gian dài.
Tôi lắng nghe ông. Mỗi lần sách của ông làm mới lại 1 cuộc thoại, bắt đầu
ra sao, tôi chẳng thể nhớ, nhưng kể đó, chưa lần đứt đoạn bởi bất sự điều
gì.
Thoại lặng câm qua những con chữ, thì nhẹ như chim trời tự do rong
ruổi trong những chuyến ngao du; cái trọng lực của thế giới thì ở trên trời,
trong không khí; như những hòn đá được bầy ra bởi những hồn ma của hoài
nhớ trên những phiến cẩm thạch của những nấm mồ không hiện hữu, tất cả nỗi
đau của kiếp người thì ở trong đất; và như tro than của một ngày triền
miên của nỗi ghê rợn mà với nó, chẳng có gì còn lại, ngoại trừ một hình
ảnh không làm sao chịu đựng nổi của một BHD, giống như sương khói mầu hồng
ở bên trên hàng triệu triệu những thân xác bị thiêu đốt
Một bông hồng hư vô
Một BHD của Không Ai
All poets are Jews
Marina Tsvetayeva
[Paul Celan trích dẫn làm tiêu đề cho 1 bài thơ của ông]
Mọi thi sĩ là... Ngụy!
Đúng ý Vương Đại Gia, Vương Trí Nhàn, "May mà có Ngụy"!
Note:
Đây là hình ảnh những nấm mồ ở trên không, cực kỳ thần sầu, do quá thê
luơng, trong Tẩu Khúc Của Thần Chết.
Kertesz, Nobel văn chương, chôm, mà không biết
(1)
Alexandre Gefen:
Trở lại với Kaddish, và cú rụng rời chân tay, lỡ chuyến tàu, tôi
nghĩ, nguồn của nó, đúng là “Tẩu Khúc của Thần Chết”,
“Fugue de la mort”, của Paul Celan.
Kertesz:
Khi tôi bắt đầu viết Kaddish, tôi bị ám ảnh bởi ẩn dụ “mồ
đi trên mây” [“la tombe au-dessus des nuages”], chẳng hề biết là tôi trích
dẫn thơ Celan.
Sau này, biết, tôi lập tức đi 1 tiểu chú [Du coup, je l’ai ajouté en
exergue]….
Ông cảm thấy ra sao, lần đầu đọc bài thơ?
Tôi đọc nó, lần đầu tiên, qua Tây Đức, như là 1
dịch giả, năm 1983. Có một phụ nữ trẻ, trốn từ Đông Đức qua, trao tay cho
tôi bài thơ, tại nhà xb của những dịch giả, Straelen. Không phải 1 bài
thơ được in, nhưng 1 băng audio cassette.
Ghi âm bài thơ của Celan?
Đúng thế. Thực ra là tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi
biết tiếng Đức, nhưng thứ tiếng Đức văn học, một thứ tiếng Đức khác, ông
biết đấy.
Lần đó, đúng là âm nhạc của ngôn ngữ Đức mà tôi được nghe, thật là
đẹp…
WISLAWA
SZYMBORSKA
1923-
We were taught that
only man has an immortal soul. If today we speak differently
of a line separating us from the rest of living beings,
does it mean that this line, for us, doesn't exist? We feel it
exists, and, using an old-fashioned expression, it is due to the
consciousness and free will of man. In other words, only we know
guilt, amidst the universal innocence of nature. And this is the
subject of Wislawa Szymborska's poem.
Chúng ta được dạy cho biết, rằng thì
là, con người là 1 thứ thú vật có linh hồn bất tử. Nếu bây
giờ, chúng ta nói khác đi, về 1 dòng, phân biệt chúng ta với tất cả
những sinh vật còn lại, liệu dòng đó, đối với chúng ta, không hiện
hữu?
Chúng ta cảm thấy nó hiện hữu, và, sử dụng 1
cách diễn tả cổ hủ, điều này là do ý thức, và ước muốn tự do của
con người.
Nói 1 cách khác, chỉ chúng ta biết tội lỗi,
giữa cái ngây thơ vô tội phổ cập của thiên nhiên.
Và đây là đề tài của bài thơ của Szymborska:
IN PRAISE OF SELF-DEPRECATION
The buzzard has nothing
to fault himself with.
Scruples are alien to the black
panther.
Piranhas do not doubt the rightness
of their actions.
The rattlesnake approves of himself
without reservations.
The self-critical jackal does not
exist.
The locust, alligator, trichina,
horsefly
live as they live and are glad of
it.
The killer-whale's heart weighs
one hundred kilos
but in other respects it is light.
There is nothing more animal-like
than a clear conscience
on the third planet of the Sun.
Translated from the Polish by Magnus
J. Krynski and Robert A. Maguire
Ngợi Ca Cái Chuyện
Coi Thường Chính Mình
Con ó chẳng có điều gì để mà tự trách
Báo đen xa lạ với cái gọi là đắn đo, ngại ngùng
Cá pranhas chẳng bao giờ hồ nghi về chuyện, lẽ phải
thuộc về chúng ta, khi rỉa thịt con mồi
Rắn rattlesnake xoa đầu mình một cách hết mình
Làm đếch gì có thứ chó rừng tự phê, tự kiểm
Châu chấu, cá sấu, giun xoắn, mòng
Sống như là chúng sống và rất ư hài lòng
về chuyện này
Trái tim của con cá voi ăn thịt người nặng một
trăm ký
Nhưng trong những trường hợp khác, nhẹ hều
Không có gì tuyệt vời hơn, có lương tâm
trong sáng, như của con thú
Trên hành tinh thứ ba của Mặt Trời.
A similar theme is treated in this poem: the
self-torment afflicting us in the early morning.
Bài này cũng cùng đề tài, một mình thì lại chán mình làm
sao, vào cái giờ sớm sủa bốn giờ sáng!
FOUR IN THE MORNING
The hour from night to day.
The hour from side to side.
The hour for those past thirty.
The hour swept clean to the crowing of cocks.
The hour when earth betrays us.
The hour when wind blows from extinguished
stars.
The hour of and-what-if-nothing-remains-after-us.
The hollow hour.
Blank, empty.
The very pit of all other hours.
No one feels good at four in the morning.
If ants feel good at four in the morning
-three cheers for the ants. And let five
o'clock come
if we're to go on living.
Translated from the Polish
by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire
Czeslaw Milosz:
A Book of Luminous Things
Bốn giờ sáng
Giờ, đêm qua ngày
Bên này qua bên kia.
Giờ, cho những kẻ quá bốn bó
Giờ lên ngôi của tiếng gáy của những con gà trống
Giờ trái đất phản bội chúng ta
Giờ “đồn xa quằn quại bóng cờ
Phất phơ nghe từ ngàn thu “vọng” về”!
Giờ của “thiên thu liệu còn chi sau khi ta ngỏm”?
Giờ hổng
Bạch bản!
Rỗng tuếch!
Lỗ đen, đích thị nó, của tất cả những giờ khác!
Chẳng ai cảm thấy thú vị: Bốn giờ sáng!
Nếu lũ kiến cảm thấy thú, bốn giờ sáng
Mừng cho chúng!
Năm giờ sáng, hãy tới!
Thì cũng đành tiếp tục sống
Chứ biết làm sao bây giờ!
Wislawa Szymborska (2 July 1923 – 1 February
2012)
-Anh coi
thường em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người
ta coi thường mình.
TTT: MCNK
[Without title. Fragment of an
unfinished poem]
The grass of your eyes, bitter grass.
Wind, billow above it, eyelid of tallow.
The water of your eyes, forgiven water.
Night of the New Year
During the night of the New Year, season without
hours,
you dispatched the young catafalque to petition your
lover;
towards her the incendiary tears marched out of the
mirrors
in the torch snowed over with sorrow, sprouting out of
her
head.
The ring extinguished in a cup perched up on the window
to spy her traipsing through snow with slumbering tresses;
the unbraided hands rushed to the gate to await her,
while above in the chambers the poets stepped to the
waltz.
But she strolled through the threshold to fight back
an
eyelid,
to witness the quick of her wakening breast drift off
to
sleep.
A die tumbled between the slabs, with eyes of a nectarine
hue,
and the wooden citadel's steeple left with a shadow.
Encounter
Tonight it'll rain on the green dunes of limestone,
The wine preserved til today in the mouth of a dead man
will awaken the land of foot-bridges, displaced in a
bell.
A human tongue will trumpet audacity in a helmet.
And thus the trees will arrive in a fury
to wait for the leaf that speaks, delivered in an urn,
the heralds of the coast of sleep sent off to the tide
of
banners.
Let it douse in your eyes, so I'll think that we'll die
together.
Your hair dripping out of the mirrors will blanket the
regions of air,
where, with a hand of frost, I'll set an autumn on fire.
From the waters imbibed by the blind my short laurel
will
scurry
up on a belated ladder, to take a bite from your forehead.
Paul Celan
Thơ Celan không dễ đọc.
Gấu mua cuốn thơ vì mấy bài viết về ông, bài nào cũng thần sầu.
Không thể bỏ bài nào.
Vấn nạn thơ Celan, cũng là vấn nạn không thể viết,
nhất là bằng tiếng Đức, của Kafka, theo Gấu. Trong bài viết về
ông, của Edmond Jabès, cũng in trong cuốn sách, Hồi ức của chữ, The Memory of Words,
nguyên tác tiếng Tây, La Mémoire des Mots,
(Paris: Fourbis, 1990), Jabès viết: Đằng sau ngôn ngữ
Celan là tiếng vang chẳng thể nào tắt ngấm của một ngôn ngữ khác.
Nhận xét này cũng áp dụng cho Kafka, theo Gấu.
Nhưng nhận xét sau đây,
của Jabès, mới thần sầu:
Stéphane Mosès ghi nhận, trong bài nghiên cứu
của ông, “Trò chuyện trong núi,
Conversations in the Mountains", trong bài thơ này, việc Celan
sử dụng một số cảm nghĩ vay mượn từ Judeo-German [Đức-Do Thái] có thể
nằm trong phần thách đố của ông, đối với đám đao phủ thủ [could well
be on his part a challenge to the executioners]
Theo Jabès, không phải như vậy.
Cái sự thách đố lũ VC
Đức Nazi này, thì nằm ở chỗ khác. Nó nằm ngay trong chính cái gọi
là thơ, chính thơ.
The challenge to the executioner lies elsewhere. It
resides in the very language of the poetry.
Tuyệt!
Tin Văn sẽ đi hết mấy bài
viết về Celan, trong ENCOUNTERS WITH PAUL CELAN, bài nào cũng ngắn.
Bởi là vì có thể, đây cũng chính là vấn nạn
của thơ Mit, ngôn ngữ Mít.
Cũng chính là vết thương
hình chữ S.
Tomas
Transtromer
NIGHTBOOK PAGE
I stepped ashore one May night
into a chilly moonlight
where grass and flowers were gray
but their scent green.
I drifted up a slope
in the colorblind dark
while white stones
signaled back to the moon.
A time span
several minutes long
fifty-eight years wide.
And behind me
beyond the lead-shimmering waters
was the other coast
and those in command.
People with a future
instead of faces.
Trang sách đêm
Tôi bước lên bờ, một đêm tháng Năm,
Vào một đêm trăng lạnh
Nơi cỏ và hoa thì màu xám
Nhưng mùi của chúng, xanh
Tôi giạt lên một triền dốc
Vào một màu tối mù lòa
Trong khi những khối đá, trắng
Dội ngược về con trăng
Một mẩu thời gian
Mươi phút trải, dài
Tám mươi tám năm, rộng
Và đằng sau tôi
Quá những vùng nước trộn trạo màu chì
Là một bờ biển khác
Và những gì mà nó chủ trì, điều khiển
Những con người với tương lai
Thay vì những bộ mặt.
KYRIE
Sometimes my life opened its eyes in the dark.
A feeling as if crowds moved through the streets
in blindness and angst on the way to a miracle,
while I, invisible, remain standing still.
Like the child who falls asleep afraid
listening to his heart's heavy steps.
Long, long, until morning slips its rays in the locks
and the doors of darkness open.
Kyrie
Đôi khi đời tôi mở những con mắt của nó, vào bóng tối
Một cảm nghĩ, như thể những đám đông di chuyển trên đường
phố
Trong mù lòa, và sợ hãi, trên đường tới phép lạ
Trong khi tôi, vô hình, đứng một cục, mình ên
Như đứa trẻ thiu thiu ngủ sợ
Nghe những bước chân nặng nề của trái tim của nó
Dài, dài, cho tới khi buổi sáng chiếu những tia qua lỗ
khóa
Và những cánh cửa của bóng tối mở ra
Madrigal
I inherited a dark forest where I seldom walk. But there will
come a day when the dead and the living change places. Then the forest
will be set into motion. We aren't without hope. The most difficult crimes
remain unsolved despite the efforts of many police. In the same way
that somewhere in our lives there's a great unsolved love. I inherited
a dark forest but today I walk in another forest, the light one. Every
living thing that sings wriggles sways and crawls! It's spring and the
air is intense. I have a degree from the university of oblivion and I'm
as empty-handed as the shirt on the clothesline.
Wallace
Stevens
FLYER'S FALL
This man escaped the dirty fates,
Knowing that he did nobly, as he died.
Darkness, nothingness of human after-death,
Receive and keep him in the deepnesses of space-
Profundum, physical thunder, dimension in which
We believe without belief, beyond belief.
DEBRIS OF LIFE AND MIND
There is so little that is close and warm.
It is as if we were never children.
Sit in the room. It is true in the moonlight
That it is as if we had never been young.
We ought not to be awake. It is from this
That a bright red woman will be rising
And, standing in violent golds, will brush her hair.
She will speak thoughtfully the words of a line.
She will think about them not quite able to sing.
Besides, when the sky is so blue, things sing themselves.
Even for her, already for her. She will listen
And feel that her color is a meditation,
The most gay and yet not so gay as it was.
Stay here. Speak of familiar things a while.
Wallace Stevens
The Collected Poems
I had forgotten
I had forgotten in my
heart
How to weep, how to suffer pain,
How, through poetry, to impart
In all its rapture, love, again!
But then-in the wine-dark sea
Of ecstasy, I revive ...
Tormented, tearful, I thrive,
Words rhyme, come alive in me.
Pushkin
WISLAWA SZYMBORSKA
1923-
We were taught that only man has an
immortal soul. If today we speak differently of a line separating
us from the rest of living beings, does it mean that this line, for
us, doesn't exist? We feel it exists, and, using an old-fashioned expression,
it is due to the consciousness and free will of man. In other words,
only we know guilt, amidst the universal innocence of nature. And
this is the subject of Wislawa Szymborska's poem.
IN PRAISE OF SELF-DEPRECATION
Ngợi Ca Cái Chuyện Coi Thường Chính Mình
The buzzard has nothing to fault himself with.
Scruples are alien to the black panther.
Piranhas do not doubt the rightness of their actions.
The rattlesnake approves of himself without reservations.
The self-critical jackal does not exist.
The locust, alligator, trichina, horsefly
live as they live and are glad of it.
The killer-whale's heart weighs one hundred kilos
but in other respects it is light.
There is nothing more animal-like
than a clear conscience
on the third planet of the Sun:
Translated from the Polish by Magnus
J. Krynski and Robert A. Maguire
A similar theme is treated in this poem:
the self-torment afflicting us in the early morning.
FOUR IN THE MORNING
The hour from night to day.
The hour from side to side.
The hour for those past thirty.
The hour swept clean to the crowing of cocks.
The hour when earth betrays us.
The hour when wind blows from extinguished stars.
The hour of and-what-if-nothing-remains-after-us.
The hollow hour.
Blank, empty.
The very pit of all other hours.
No one feels good at four in the morning.
If ants feel good at four in the morning
-three cheers for the ants. And let five o'clock come
if we're to go on living.
Translated from the Polish by Magnus
J. Krynski and Robert A. Maguire
Czeslaw Milosz:
A Book of Luminous Things
Wislawa Szymborska (2 July 1923 – 1 February 2012)
-Anh
coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình.
TTT: MCNK
https://www.washingtonpost.com/entertainment/books/wislawa-szymborska-a-nobel-prize-winning-polish-poet-dies-at-88/2012/02/02/gIQAlAfnnQ_story.html
Wislawa Szymborska,
a Nobel Prize-winning poet who used the imagery of everyday objects
and a mordant style to explore dramatic themes of human experience
including love, war and death, died Feb. 1 at her home in Krakow, Poland.
She was 88. (Janek Skarzynski/AFP/Getty Images)
Ms. Szymborska shunned the idea of being a political
poet, though she recognized the personal could bleed into the political
while living under a communist regime.
“When I was young, I had a moment of believing in the
communist doctrine,” she told Hirsch in 1996. “I wanted to save
the world through communism. Quite soon, I understood that it doesn’t
work, but I’ve never pretended it didn’t happen to me.
“At the very beginning of my creative life, I loved
humanity,” she continued. “I wanted to do something good for mankind.
Soon, I understood that it isn’t possible to save mankind. There’s
no need to love humanity, but there is a need to like people. Not love,
just like. This is the lesson I draw from the difficult experiences
of my youth.”