*

Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn/ Viết

Thơ Mỗi Ngày


Faithful mother tongue,
I have been serving you.
Every night, I used to sit before you little bowls of colors
so you could have your birch, your cricket, your finch
as preserved in my memory.

This lasted many years.
You were my native land; I lacked any other.
I believed that you would also be a messenger
between me and some good people
even if they were few, twenty, ten
or not born, as yet.

Now, I confess my doubt.
There are moments when it seems to me I have squandered my life.
For you are a tongue of the debased,
of the unreasonable, hating themselves
even more than they hate other nations,
a tongue of informers,
a tongue of the confused,
ill with their own innocence.

But without you, who am I?
Only a scholar in a distant country,
a success, without fears and humiliations.
Yes, who am I without you?
Just a philosopher, like everyone else.

I understand, this is meant as my education:
the glory of individuality is taken away,
Fortune spreads a red carpet
before the sinner in a morality play
while on the linen backdrop a magic lantern throw
images of human and divine torture.

Faithful mother tongue,
perhaps after all it's I who must try to save you.
So I will continue to set before you little bowls of colors
bright and pure if possible,
for what is needed in misfortune is a little order and beauty
Berkeley, 1968

Czeslaw Milosz: Selected Poems 1931-2004

Tiếng mẹ đẻ của tôi mà tôi một lòng một dạ

Tiếng mẹ đẻ của tôi mà tôi một lòng một dạ
Tôi đã phục vụ tiếng mẹ đẻ của tôi
Đêm nào cũng vậy, tôi để trước bà những cái chén màu sắc,
và như vậy bà có thể có cây roi, con dế, con chim sẻ của bà  (1)
Như tôi còn gìn giữ được, trong trí nhớ của mình

Điều này kéo dài trong nhiều năm
Bà là quê mẹ của tôi; tôi đâu có quê nào khác.
Tôi tin tưởng bà còn là vì thiên sứ
Giữa tôi và số thiện nhân
Ngay cả khi đám này đếm trên đầu ngón tay
Hoặc chưa có mống nào ra đời

Và bây giờ, tôi thú thực
Hình như là tôi có tí nghi ngờ
Có những lúc tôi cảm thấy mình hoang phí đời mình.
Bởi vì tiếng mẹ tôi là thứ tiếng của một đám người tệ hại
Của những kẻ không hề biết lẽ phải là gì
Của những kẻ thù hận lẫn nhau
Chúng thù chúng còn hơn cả thù những quốc gia khác
Thứ tiếng nói của bọn cớm, những tên chỉ điểm
Của bọn chuyên lầm lẫn
Một lũ bịnh vì sự ngây thơ của chính chúng

Nhưng không có bà, thì tôi là ai?
Chỉ là 1 tên học giả ở một xứ sở xa xôi
một sự thành công, không sợ hãi mà cũng không tủi nhục
Đúng rồi, tôi là ai nếu không có tiếng mẹ đẻ?
Chỉ là 1 triết gia
Như mọi người khác

Tôi biết, điều này có nghĩa như là học vấn của tôi:
Sự vinh quang cá nhân được lấy đi
Của cải trải ra tấm thảm đỏ
trước kẻ tội lỗi trong 1 vở kịch đạo đức,
trong khi trên tấm màn phông, cây đèn thần ném ra
những hình ảnh của sự tra tấn, con người và thần linh.

Tiếng mẹ đẻ mà tôi một lòng một dạ
Có lẽ, sau chót, chính tôi là người phải cố gắng cứu tiếng mẹ đẻ của mình
Và tôi sẽ tiếp tục bày ra trước tiếng mẹ đẻ những cái chén mầu sắc, sáng ngời, và trong sạch, nếu có thể
Bởi vì điều cần trong bất hạnh, là, một trật tự nho nhỏ và cái đẹp

Czeslaw Milosz
Berkeley, 1968

(1)
Câu này, thú thực Gấu không hiểu tác giả muốn nói gì.
Trên net, có bài này, có cả nguyên văn tiếng Ba Lan, bạn nào rành, chỉ giùm.
Cái đoạn Milosz phạng tiếng mẹ đẻ của ông, sao nghe thấm quá, đã quá!
NQT

Birch là một loại cây giống cây lao của VN (từ điển Việt nam gọi là cây bu-lô) , hoặc cây aspen của Mỹ, có thân màu trắng, đặc biệt vỏ thân thường bị bóc ra . Lá trở vàng vào mùa thu, rất xinh đẹp .

Tiếng mẹ thủy chung
Tôi đã phục vụ bà
Hằng đêm tôi thường đặt trước mặt bà những chén sắc màu nho nhỏ
để bà có thể có những cây birch, những chú dế, và những con chim sẻ
như chúng đã được gìn giữ (bảo tồn) trong trí nhớ của tôi

ps. Vì anh nghĩ birch là cái roi cho nên mới khó hiểu . Chứ khi biết đó là một loại cây mọc rất nhiều ở âu mỹ (cũng như tre trúc ở VN ), thì những thứ thân quen từng nhìn thấy hàng ngày như cây tre, như dế, như chim sẻ bỗng trở nên thân thiết ăn sâu trong trí nhớ của những kẻ xa quê .
K.

Tks. NQT  

RAYMOND CARVER

  *
manhhai
Saigon 1966 - Central Market

Have You Ever Seen The Rain?


SUDDEN RAIN

Rain hisses onto stones as old men and women
drive donkeys to cover.
We stand in rain, more foolish than donkeys,
and shout, walk up and down in rain and accuse.

When rain stops the old men and women
who have waited quietly in doorways, smoking,
lead their donkeys out once more and up the hill.

Behind, always behind, I climb through the narrow
                streets.
I roll my eyes. I clatter against stones.


PLUIE SOUDAINE
Une pluie sifflante s'abat sur les pavés tandis que
                                                        [vieux et vieilles
mènent des ânes a l'abri.
Debout sous la pluie, plus ânes que les ânes,
nous hurlons, marchons de long en large sous la
                                                      [pluie et accusons.
*
Quand la pluie cesse les vieux et les vieilles
qui attendaient tranquillement sous des porches en
                                                                    [fumant,
repartent avec leurs ânes à l'assaut de la côte.
*
Derrière, toujours derrière, j'escalade les rues étroites.
Je roule des yeux. Je claque sur les pavés.

Mưa bất thần
Quất lên hè đá,
Ông bà bà già bèn dắt lừa vào mái hiên trú mưa
Chúng tôi,
Đứng dưới mưa, khùng hơn cả lừa khùng
Sủa như giặc, hầm hà hầm hừ đi đi lại lại
Buộc tội nhau

Mưa tạnh,
Ông già bà già
Lặng thinh chờ, hút thuốc
Bèn dắt lừa lên đồi

Sau chót, thi luôn luôn là sau chót
Tôi leo con phố hẹp
Đảo con mắt lé liên miên
Lách cách, lách cách
Nện giầy lên hè đá.


WINTER INSOMNIA

The mind can't sleep, can only lie awake and
gorge, listening to the snow gather as
for some final assault.

It wishes Chekov were here to minister
something-three drops of valerian, a glass
of rose water-anything, it wouldn't matter.

The mind would like to get out of here
onto the snow. It would like to run
with a pack of shaggy animals, all teeth,

under the moon, across the snow, leaving
no prints or spoor, nothing behind.
The mind is sick tonight.

INSOMNIE D'HIVER

L'esprit ne peut pas dormir, ne peut que rester éveillé
à se goinfrer, écoutant la neige se rassembler
comme pour un ultime assaut.

Il voudrait que Tchekhov soit là pour lui administrer
quelque chose - trois gouttes de valériane, un verre
d'eau de rose - n'irnporte quoi, ca lui serait égal.

L'esprit voudrait sortir d'ici,
s'en aller dans la neige. Il voudrait galoper
avec une meute de betes hirsutes, tous crocs dehors,

sous la lune, à travers la neige, ne laissant
ni traces ni fumées, ne laissant rien.
Il est malade cette nuit, l'esprit.
Đông Mất Ngủ
Cái đầu không thể ngủ, cứ trong mắt lên thức
Tọng đầy họng, lắng nghe tuyết quần tụ
Cho cú đánh chót

Giá mà có Chekhov ở đây, nhỉ
Làm 1 cái gì đó – ba giọt valerian, một ly nước hồng-
Bất cứ cái gì – ông ta vốn dễ tính, cái gì mà chẳng được

Cái đầu muốn ra bên ngoài
Đi trong tuyết
[Nè, không có cái vụ, nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay]
Nó muốn phóng, cùng một lũ thú,
Lông bờm xờm, răng nhe hết cả ra

Dưới trăng, băng trên tuyết
Không để lại dấu, khói,
Chẳng để lại cái đéo gì hết
Cái đầu bịnh
Đêm nay.

  Paul Celan

*

[Without title. Fragment of an
unfinished poem]

The grass of your eyes, bitter grass.
Wind, billow above it, eyelid of tallow.
The water of your eyes, forgiven water.
[Vô đề. Mẩu bài thơ chưa hoàn tất]
Cỏ trong mắt em, cỏ cay đắng
Gió, biển ở trên, mí mỡ
Nước trong mắt em, nước tha thứ.
 
Night of the New Year

During the night of the New Year, season without hours,
you dispatched the young catafalque to petition your lover;
towards her the incendiary tears marched out of the
        mirrors
in the torch snowed over with sorrow, sprouting out of her
        head.
The ring extinguished in a cup perched up on the window
to spy her traipsing through snow with slumbering tresses;
the unbraided hands rushed to the gate to await her,
while above in the chambers the poets stepped to the
        waltz.
But she strolled through the threshold to fight back an
        eyelid,
to witness the quick of her wakening breast drift off to
        sleep.
A die tumbled between the slabs, with eyes of a nectarine
        hue,
and the wooden citadel's steeple left with a shadow.
Encounter
Tonight it'll rain on the green dunes of limestone,
The wine preserved til today in the mouth of a dead man
will awaken the land of foot-bridges, displaced in a bell.
A human tongue will trumpet audacity in a helmet.

And thus the trees will arrive in a fury
to wait for the leaf that speaks, delivered in an urn,
the heralds of the coast of sleep sent off to the tide of
        banners.
Let it douse in your eyes, so I'll think that we'll die
        together.
Your hair dripping out of the mirrors will blanket the
regions of air,
where, with a hand of frost, I'll set an autumn on fire.
From the waters imbibed by the blind my short laurel will
        scurry
up on a belated ladder, to take a bite from your forehead.
Gặp Gỡ
Đêm nay mưa sẽ rơi trên những đụn đá vôi xanh
Rượu được gìn giữ cho đến bữa nay, trong miệng người chết
Sẽ đánh thức miền đất của những chiếc cầu chân đất, lạc lõng trong tiếng chuông
Một giọng người sẽ thổi sự hung hãn trong cái nón sắt

Và như thế đó, cây sẽ tới trong vội vã
Đợi lá, được giải thoát khỏi cái bình, cất tiếng
Những viên sứ truyền lệnh của bờ biển của giấc ngủ
Sẽ được phái đi tới ngọn triều của những biểu ngữ
Hãy để nó tắt ngấm trong mắt em, như thế, anh sẽ nghĩ, chúng mình sẽ cùng chết bên nhau

Tóc em trườn ra khỏi những chiếc gương sẽ phủ bầu trời
Ở đó, bằng bàn tay của sương giá, anh sẽ để mùa thu lên giàn lửa
Từ nước hút bởi 1 người mù, vòng nguyệt quế ngắn ngủi của anh sẽ leo 
Cái thang muộn, để cắn vào trán em

*


To confront his executioners in the name of the language they share with him, and to force them to their knees.
That was the major bet, held.

Have I ever read Paul Celan? I have listened to him for a long time. I listen to him. Each time his books renew a dialogue the beginning of which I can't remember, though nothing has come to interrupt it since then.
Silent dialogue through words as light as free and adventurous birds; all the world's gravity being in the sky; like stones laid by nostalgic ghosts on the marble of nonexistent tombs; all the world's pain being in the earth; and like ashes of an interminable day of horror of which there remains but the unbearable image of pink smoke above millions of burned bodies.

A nothing rose
a Noone's Rose


A nothing
were we, are we, will we remain, blossoming:
the nothing - , the
noonesrose.

Edmond Jabès: The Memory of Words

Để đối chất với lũ đao phủ Bắc Kít, những kẻ cùng chia sẻ tiếng nói với mi
Để bắt chúng quỳ gối
Quả đúng 1à 1 cú đánh quả lớn.

Tôi đã từng đọc Paul Celan? Tôi đã nghe ông nói một thời gian dài. Tôi lắng nghe ông. Mỗi lần sách của ông làm mới lại 1 cuộc thoại, bắt đầu ra sao, tôi chẳng thể nhớ, nhưng kể đó, chưa lần đứt đoạn bởi bất sự điều gì.
Thoại lặng câm qua những con chữ, thì nhẹ như chim trời tự do rong ruổi trong những chuyến ngao du; cái trọng lực của thế giới thì ở trên trời, trong không khí; như những hòn đá được bầy ra bởi những hồn ma của hoài nhớ trên những phiến cẩm thạch của những nấm mồ không hiện hữu, tất cả nỗi đau của kiếp người thì ở trong đất; và như tro than của một ngày triền miên của nỗi ghê rợn mà với nó, chẳng có gì còn lại, ngoại trừ một hình ảnh không làm sao chịu đựng nổi của một BHD, giống như sương khói mầu hồng ở bên trên hàng triệu triệu những thân xác bị thiêu đốt

Một bông hồng hư vô
Một BHD của Không Ai


All poets are Jews
Marina Tsvetayeva

[Paul Celan trích dẫn làm tiêu đề cho 1 bài thơ của ông]

Mọi thi sĩ là... Ngụy!
Đúng ý Vương Đại Gia, Vương Trí Nhàn, "May mà có Ngụy"!

Note:

Đây là hình ảnh những nấm mồ ở trên không, cực kỳ thần sầu, do quá thê luơng, trong Tẩu Khúc Của Thần Chết.
Kertesz, Nobel văn chương, chôm, mà không biết (1)

*

Alexandre Gefen:

Trở lại với Kaddish, và cú rụng rời chân tay, lỡ chuyến tàu, tôi nghĩ, nguồn của nó, đúng là “Tẩu Khúc của Thần Chết”, “Fugue de la mort”, của Paul Celan.

Kertesz:

Khi tôi bắt đầu viết Kaddish, tôi bị ám ảnh bởi ẩn dụ “mồ đi trên mây” [“la tombe au-dessus des nuages”], chẳng hề biết là tôi trích dẫn thơ Celan.
Sau này, biết, tôi lập tức đi 1 tiểu chú [Du coup, je l’ai ajouté en exergue]….

Ông cảm thấy ra sao, lần đầu đọc bài thơ?

Tôi đọc nó, lần đầu tiên, qua Tây Đức, như là 1 dịch giả, năm 1983. Có một phụ nữ trẻ, trốn từ Đông Đức qua, trao tay cho tôi bài thơ, tại nhà xb của những dịch giả, Straelen. Không phải 1 bài thơ được in, nhưng 1 băng audio cassette.

Ghi âm bài thơ của Celan?

Đúng thế. Thực ra là tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi biết tiếng Đức, nhưng thứ tiếng Đức văn học, một thứ tiếng Đức khác, ông biết đấy.
Lần đó, đúng là âm nhạc của ngôn ngữ Đức mà tôi được nghe, thật là đẹp…




WISLAWA SZYMBORSKA
1923-

We were taught that only man has an immortal soul. If today we speak differently of a line separating us from the rest of living beings, does it mean that this line, for us, doesn't exist? We feel it exists, and, using an old-fashioned expression, it is due to the consciousness and free will of man. In other words, only we know guilt, amidst the universal innocence of nature. And this is the subject of Wislawa Szymborska's poem.

Chúng ta được dạy cho biết, rằng thì là, con người là 1 thứ thú vật có linh hồn bất tử. Nếu bây giờ, chúng ta nói khác đi, về 1 dòng, phân biệt chúng ta với tất cả những sinh vật còn lại, liệu dòng đó, đối với chúng ta, không hiện hữu?
Chúng ta cảm thấy nó hiện hữu, và, sử dụng 1 cách diễn tả cổ hủ, điều này là do ý thức, và ước muốn tự do của con người.
Nói 1 cách khác, chỉ chúng ta biết tội lỗi, giữa cái ngây thơ vô tội phổ cập của thiên nhiên.
Và đây là đề tài của bài thơ của Szymborska:


IN PRAISE OF SELF-DEPRECATION
The buzzard has nothing to fault himself with.
Scruples are alien to the black panther.
Piranhas do not doubt the rightness of their actions.
The rattlesnake approves of himself without reservations.
The self-critical jackal does not exist.
The locust, alligator, trichina, horsefly
live as they live and are glad of it.
The killer-whale's heart weighs one hundred kilos
but in other respects it is light.
There is nothing more animal-like
than a clear conscience
on the third planet of the Sun.

Translated from the Polish by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire

Ngợi Ca Cái Chuyện Coi Thường Chính Mình
Con ó chẳng có điều gì để mà tự trách
Báo đen xa lạ với cái gọi là đắn đo, ngại ngùng
Cá pranhas chẳng bao giờ hồ nghi về chuyện, lẽ phải thuộc về chúng ta, khi rỉa thịt con mồi
Rắn rattlesnake xoa đầu mình một cách hết mình
Làm đếch gì có thứ chó rừng tự phê, tự kiểm
Châu chấu, cá sấu, giun xoắn, mòng
Sống như là chúng sống và rất ư hài lòng về chuyện này
Trái tim của con cá voi ăn thịt người nặng một trăm ký
Nhưng trong những trường hợp khác, nhẹ hều
Không có gì tuyệt vời hơn, có lương tâm trong sáng, như của con thú
Trên hành tinh thứ ba của Mặt Trời.

A similar theme is treated in this poem: the self-torment afflicting us in the early morning.
Bài này cũng cùng đề tài, một mình thì lại chán mình làm sao, vào cái giờ sớm sủa
bốn giờ sáng!

FOUR IN THE MORNING

The hour from night to day.
The hour from side to side.
The hour for those past thirty.
The hour swept clean to the crowing of cocks.
The hour when earth betrays us.
The hour when wind blows from extinguished stars.
The hour of and-what-if-nothing-remains-after-us.
The hollow hour.
Blank, empty.
The very pit of all other hours.
No one feels good at four in the morning.
If ants feel good at four in the morning
-three cheers for the ants. And let five o'clock come
if we're to go on living.

Translated from the Polish by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire

Czeslaw Milosz: A Book of Luminous Things
Bốn giờ sáng
Giờ, đêm qua ngày
Bên này qua bên kia.
Giờ, cho những kẻ quá bốn bó
Giờ lên ngôi của tiếng gáy của những con gà trống
Giờ trái đất phản bội chúng ta
Giờ “đồn xa quằn quại bóng cờ
Phất phơ nghe từ ngàn thu “vọng” về”!
Giờ của “thiên thu liệu còn chi sau khi ta ngỏm”?
Giờ hổng
Bạch bản!
Rỗng tuếch!
Lỗ đen, đích thị nó, của tất cả những giờ khác!
Chẳng ai cảm thấy thú vị: Bốn giờ sáng!
Nếu lũ kiến cảm thấy thú, bốn giờ sáng
Mừng cho chúng!
Năm giờ sáng, hãy tới!
Thì cũng đành tiếp tục sống
Chứ biết làm sao bây giờ!

Wislawa Szymborska (2 July 1923 – 1 February 2012)

-Anh coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình.


TTT: MCNK

*

[Without title. Fragment of an
unfinished poem]
The grass of your eyes, bitter grass.
Wind, billow above it, eyelid of tallow.
The water of your eyes, forgiven water.

   
Night of the New Year

During the night of the New Year, season without hours,
you dispatched the young catafalque to petition your lover;
towards her the incendiary tears marched out of the
        mirrors
in the torch snowed over with sorrow, sprouting out of her
        head.
The ring extinguished in a cup perched up on the window
to spy her traipsing through snow with slumbering tresses;
the unbraided hands rushed to the gate to await her,
while above in the chambers the poets stepped to the
        waltz.
But she strolled through the threshold to fight back an
        eyelid,
to witness the quick of her wakening breast drift off to
        sleep.
A die tumbled between the slabs, with eyes of a nectarine
        hue,
and the wooden citadel's steeple left with a shadow.
Encounter
Tonight it'll rain on the green dunes of limestone,
The wine preserved til today in the mouth of a dead man
will awaken the land of foot-bridges, displaced in a bell.
A human tongue will trumpet audacity in a helmet.

And thus the trees will arrive in a fury
to wait for the leaf that speaks, delivered in an urn,
the heralds of the coast of sleep sent off to the tide of
        banners.
Let it douse in your eyes, so I'll think that we'll die
        together.
Your hair dripping out of the mirrors will blanket the
regions of air,
where, with a hand of frost, I'll set an autumn on fire.
From the waters imbibed by the blind my short laurel will
        scurry
up on a belated ladder, to take a bite from your forehead.

Paul Celan

Thơ Celan không dễ đọc. Gấu mua cuốn thơ vì mấy bài viết về ông, bài nào cũng thần sầu. Không thể bỏ bài nào.
Vấn nạn thơ Celan, cũng là vấn nạn không thể viết, nhất là bằng tiếng Đức, của Kafka, theo Gấu. Trong bài viết về ông, của Edmond Jabès, cũng in trong cuốn sách, Hồi ức của chữ, The Memory of Words, nguyên tác tiếng Tây, La Mémoire des Mots, (Paris: Fourbis, 1990), Jabès viết: Đằng sau ngôn ngữ Celan là tiếng vang chẳng thể nào tắt ngấm của một ngôn ngữ khác.
Nhận xét này cũng áp dụng cho Kafka, theo Gấu.

Nhưng nhận xét sau đây, của Jabès, mới thần sầu:
Stéphane Mosès ghi nhận, trong bài nghiên cứu của ông, “Trò chuyện trong núi, Conversations in the Mountains", trong bài thơ này, việc Celan sử dụng một số cảm nghĩ vay mượn từ Judeo-German [Đức-Do Thái] có thể nằm trong phần thách đố của ông, đối với đám đao phủ thủ [could well be on his part a challenge to the executioners]
Theo Jabès, không phải như vậy.

Cái sự thách đố lũ VC Đức Nazi này, thì nằm ở chỗ khác. Nó nằm ngay trong chính cái gọi là thơ, chính thơ.
The challenge to the executioner lies elsewhere. It resides in the very language of the poetry.

Tuyệt!

Tin Văn sẽ đi hết mấy bài viết về Celan, trong ENCOUNTERS WITH PAUL CELAN, bài nào cũng ngắn.
Bởi là vì có thể, đây cũng chính là vấn nạn của thơ Mit, ngôn ngữ Mít.
Cũng chính là vết thương hình chữ S.


*

Tomas Transtromer

NIGHTBOOK PAGE

I stepped ashore one May night
into a chilly moonlight
where grass and flowers were gray
but their scent green.

I drifted up a slope
in the colorblind dark
while white stones
signaled back to the moon.

A time span
several minutes long
fifty-eight years wide.

And behind me
beyond the lead-shimmering waters
was the other coast
and those in command.

People with a future
instead of faces.

Trang sách đêm

Tôi bước lên bờ, một đêm tháng Năm,
Vào một đêm trăng lạnh
Nơi cỏ và hoa thì màu xám
Nhưng mùi của chúng, xanh

Tôi giạt lên một triền dốc
Vào một màu tối mù lòa
Trong khi những khối đá, trắng
Dội ngược về con trăng

Một mẩu thời gian
Mươi phút trải, dài
Tám mươi tám năm, rộng

Và đằng sau tôi
Quá những vùng nước trộn trạo màu chì
Là một bờ biển khác
Và những gì mà nó chủ trì, điều khiển

Những con người với tương lai
Thay vì những bộ mặt.

KYRIE
Sometimes my life opened its eyes in the dark.
A feeling as if crowds moved through the streets
in blindness and angst on the way to a miracle,
while I, invisible, remain standing still.

Like the child who falls asleep afraid
listening to his heart's heavy steps.
Long, long, until morning slips its rays in the locks
and the doors of darkness open.
Kyrie
Đôi khi đời tôi mở những con mắt của nó, vào bóng tối
Một cảm nghĩ, như thể những đám đông di chuyển trên đường phố
Trong mù lòa, và sợ hãi, trên đường tới phép lạ
Trong khi tôi, vô hình, đứng một cục, mình ên

Như đứa trẻ thiu thiu ngủ sợ
Nghe những bước chân nặng nề của trái tim của nó
Dài, dài, cho tới khi buổi sáng chiếu những tia qua lỗ khóa
Và những cánh cửa của bóng tối mở ra

Madrigal

I inherited a dark forest where I seldom walk. But there will come a day when the dead and the living change places. Then the forest will be set into motion. We aren't without hope. The most difficult crimes remain unsolved despite the efforts of many police. In the same way that somewhere in our lives there's a great unsolved love. I inherited a dark forest but today I walk in another forest, the light one. Every living thing that sings wriggles sways and crawls! It's spring and the air is intense. I have a degree from the university of oblivion and I'm as empty-handed as the shirt on the clothesline.

*

Wallace Stevens

FLYER'S FALL

This man escaped the dirty fates,
Knowing that he did nobly, as he died.

Darkness, nothingness of human after-death,
Receive and keep him in the deepnesses of space-
Profundum, physical thunder, dimension in which

We believe without belief, beyond belief.

DEBRIS OF LIFE AND MIND
There is so little that is close and warm.
It is as if we were never children.

Sit in the room. It is true in the moonlight
That it is as if we had never been young.

We ought not to be awake. It is from this
That a bright red woman will be rising

And, standing in violent golds, will brush her hair.
She will speak thoughtfully the words of a line.

She will think about them not quite able to sing.
Besides, when the sky is so blue, things sing themselves.

Even for her, already for her. She will listen
And feel that her color is a meditation,

The most gay and yet not so gay as it was.
Stay here. Speak of familiar things a while.

Wallace Stevens The Collected Poems

*


*

I had forgotten

I had forgotten in my heart
How to weep, how to suffer pain,
How, through poetry, to impart
In all its rapture, love, again!
But then-in the wine-dark sea
Of ecstasy, I revive ...
Tormented, tearful, I thrive,
Words rhyme, come alive in me.

Pushkin

WISLAWA SZYMBORSKA
1923-

We were taught that only man has an immortal soul. If today we speak differently of a line separating us from the rest of living beings, does it mean that this line, for us, doesn't exist? We feel it exists, and, using an old-fashioned expression, it is due to the consciousness and free will of man. In other words, only we know guilt, amidst the universal innocence of nature. And this is the subject of Wislawa Szymborska's poem.

IN PRAISE OF SELF-DEPRECATION
Ngợi Ca Cái Chuyện Coi Thường Chính Mình


The buzzard has nothing to fault himself with.
Scruples are alien to the black panther.
Piranhas do not doubt the rightness of their actions.
The rattlesnake approves of himself without reservations.
The self-critical jackal does not exist.
The locust, alligator, trichina, horsefly
live as they live and are glad of it.
The killer-whale's heart weighs one hundred kilos
but in other respects it is light.
There is nothing more animal-like
than a clear conscience
on the third planet of the Sun:

Translated from the Polish by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire

A similar theme is treated in this poem: the self-torment afflicting us in the early morning.

FOUR IN THE MORNING

The hour from night to day.
The hour from side to side.
The hour for those past thirty.
The hour swept clean to the crowing of cocks.
The hour when earth betrays us.
The hour when wind blows from extinguished stars.
The hour of and-what-if-nothing-remains-after-us.
The hollow hour.
Blank, empty.
The very pit of all other hours.
No one feels good at four in the morning.
If ants feel good at four in the morning
-three cheers for the ants. And let five o'clock come
if we're to go on living.

Translated from the Polish by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire

Czeslaw Milosz: A Book of Luminous Things

Wislawa Szymborska (2 July 1923 – 1 February 2012)

-Anh coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình.


TTT: MCNK
*

https://www.washingtonpost.com/entertainment/books/wislawa-szymborska-a-nobel-prize-winning-polish-poet-dies-at-88/2012/02/02/gIQAlAfnnQ_story.html

Wislawa Szymborska, a Nobel Prize-winning poet who used the imagery of everyday objects and a mordant style to explore dramatic themes of human experience including love, war and death, died Feb. 1 at her home in Krakow, Poland. She was 88. (Janek Skarzynski/AFP/Getty Images)

Ms. Szymborska shunned the idea of being a political poet, though she recognized the personal could bleed into the political while living under a communist regime.
“When I was young, I had a moment of believing in the communist doctrine,” she told Hirsch in 1996. “I wanted to save the world through communism. Quite soon, I understood that it doesn’t work, but I’ve never pretended it didn’t happen to me.
“At the very beginning of my creative life, I loved humanity,” she continued. “I wanted to do something good for mankind. Soon, I understood that it isn’t possible to save mankind. There’s no need to love humanity, but there is a need to like people. Not love, just like. This is the lesson I draw from the difficult experiences of my youth.”
* *

Biểu lũ Gấu Đực đang lột truồng ta ra
Bằng những cặp mắt cú vọ của chúng
Ta chẳng có gì để mà giấu

ZAFFAR KUNIAL

From "Empty Words"

Meaning "homeland" -mulk
(in Kashmir) - exactly how
my son demands milk.

Full-rhyme with Jhelum,
the river nearest his home-
my father's "realm."

You can't put a leaf
between written and oral;
that first A, or alif.

Letters. West to east
Mum's hand would write; Dad's script goes
east to west. Received.

Invader, to some-
neither here, nor there, with me-
our rhododendron.

Where migrating geese
pause to sleep - somewhere, halfway
is this pillow's crease.

Now we separate
for the first time, on our walk,
at the kissing gate.

Old English "Deor"-
an exile's lament, the past's
dark, half-opened door.

Yes, I know. Empty.
But there's just something between
the p and the t.

At home in Grasmere -
thin mountain paths have me back,
a boy in Kashmir.

ZAFFAR KUNIAL was born in Birmingham, England. He spent 2014 in Grasmere as the Wordsworth Trust Poet-in-Residence.
His poem in this issue was first published in Faber New Poets 11 by Zaffar Kunial (Faber & Faber, 2014).



*

PAGES FROM A DIARY
The Hut

I WAS BORN IN THE same year as Charlie Chaplin, Tolstoy's Kreutzer Sonata, the Eiffel Tower, and, it seems, T. S. Eliot.' That summer Paris celebrated the one-hundredth anniversary of the fall of the Bastille-1889. The ancient festival of St. John's Eve (Midsummer Night) was-and is still-celebrated on the night of my birth, June 23rd. I was named Anna in honor of my grandmother, Anna Yegorovna Motovilova.' Her mother, a descendant of Genghis Khan, was the Tatar princess Akhmatova, whose name I took for my literary name, not realizing that I was about to become a Russian poet. I was born in Sarakina's dacha (Bolshoi Fontan, the 11th railroad stop) near Odessa. This little dacha (more like a hut) was situated at the bottom of a very narrow and steep tract of land next to the post office. The seashore there is steep and the railroad tracks went along the very brink. When I was fifteen years old and we were living in the dacha at Lustdorf, we were traveling through this area for some reason, and my mother suggested that we go and see Sarakina's dacha, which I had never seen. At the hut's entrance I said, "Some day they'll put up a memorial plaque here." I wasn't being vain. It was just a silly joke. My mother was distressed. "My God," she said, "how badly I've brought you up."

1957
... I Know How to Love
    I know how to love.
    I know how to be submissive and tender.
I know how to gaze into one's eyes with a smile,
Beckoning, inviting, vacillating.
And my supple figure is so airy and graceful
And the fragrance of my curls caresses.
0, he who is with me is uneasy in his soul
And embraced by sweet bliss ...
I know how to love. I am deceptively shy.
I am so timidly tender and always quiet,
Only my eyes speak.

    They are clear and pure,
    So translucently radiant,
    They promise happiness.
If you believe them, they will deceive you.
They will only become bluer,
They are both tenderer and brighter
Than the pale blue gleam of a fire.
And on my lips is scarlet bliss,
My breast is whiter than mountain snow,
    My voice murmurs of azure streams.
    I know how to love. A kiss awaits you.

Yevpatoriya, 1906
[Trong thư gửi Sergei Vladimirovich]
Ta biết yêu
Ta biết làm ra vẻ phục tùng, dịu dàng
Như thế nào, khi nhìn vào mắt với nụ cười
Gật gật cái đầu, mời mọc, run lẩy bẩy
Và khuôn mặt của ta ư, làm ra vẻ chịu đựng, luồn cúi, làm ra vẻ xa vắng, làm ra vẻ khả ái như thế nào
Và những nét cong mềm mại vuốt ve
Ôi chao, chàng là ai mà vào lúc này hồn dưng không quằn quại
Bên… tui
Ngọt ngào ân sủng
Tôi biết yêu là như thế nào
Và tôi mới ngượng ngùng làm sao
Cái gì gì, đừng như tôi như thế làm tôi phát ngượng!
Ôi, em mới bẽn lẽn rụt rè làm sao, và luôn luôn, đời đời trầm lặng
Chỉ đôi mắt em, nói.
   
   
*

A WORD ABOUT DANTE

Sopra candido vel cinta d'uliva
Donna m'apparve, sotto verde manto
Vestita di color di fiamma viva

I AM HAPPY THAT at today’s celebration I am able to attest that my entire conscious life has passed in the radiance of this great name, that together with the name of this great genius of mankind-Shakespeare-this name was inscribed on the banner under which my path began. And the question that I dared to ask the Muse also contains this name-Dante.

. . . And here she was. She gazed at me and waited
Attentively, her veil tossed overhead.
I ask her: "Was it you then who dictated
The script of Hell to Dante?" "I," she said. (1)

For my friends and contemporaries the greatest, unattainable teacher was always the stern Alighieri. And between two Florentine bonfires Gumilyov sees how

The poor exiled Alighieri
With an unhurried step descends to Hell.

And Osip Mandelstam dedicated years of his life to the study of Dante's work and wrote an entire treatise, A Conversation with Dante, and often refers to the great Florentine in his poetry:

From rough stairways, from squares,
from angular palaces
Alighieri sang the circle
of his Florence more mightily
with wearied lips

Mikhail Lozinsky triumphantly carried out the heroic feat of translating The Divine Comedy's immortal terza rima into Russian.
The critics and readers in my country regarded this work highly.
    I have brought together all my thoughts on art in lines graced by that same great name:

Even after his death he did not return
To his ancient Florence.
To the one who, leaving, did not look back,
To him I sing this song.
A torch, the night, the last embrace,
Beyond the threshold, the wild wail of fate.
From hell he sent her curses
And in paradise he could not forget her-
But barefoot, in a hairshirt,
With a lighted candle he did not walk
Through his Florence-his beloved,
Perfidious, base, longed for ...

Translated by Ronald Meyer

(1)

THE MUSE

When at night I await the beloved guest,
Life seems to hang by a thread. "What is youth?" I
demand
Of the room. "What is honor, freedom, the rest,
In the presence of her who holds the flute in her hand?"

But now she is here. Tossing aside her veil,
She considers me. "Are you the one who came
To Dante, who dictated the pages of Hell
To him?" I ask her. She replies, "I am." 

1924

Nữ Thần Thi Ca

Ðêm, ta đợi vị khách quí
Ðời như treo sợi chỉ
"Tuổi trẻ là cái chi chi"?",
Ta hỏi căn phòng
“Danh dự, tự do, cái còn lại,
Thì là cái gì, trước nàng, người cầm cây sáo ở trong tay? 

Nhưng bây giờ, nàng ở đây. Kéo cái mạng che mặt qua một bên,
nàng nhìn ta ra ý dò hỏi. “Bà có phải là người đọc từng trang Ðịa Ngục
cho Dante chép, phải không?” Ta hỏi nàng.
“Không phải ta, thì là ai?”

*

Dante

Chàng đếch thèm trở lại
Ngay cả sau khi mất
Thành phố Hà Lội của chàng
Rời bỏ, chàng đi thẳng một mách
Vì chàng mà tôi hát bài hát này
Đêm. Một bó đuốc. Nụ hôn sau cùng.
Bên ngoài, âm thanh số mệnh – Như gió hú
Từ Địa Ngục, chàng gửi cho nàng một lời trù ẻo.
Ở Thiên Đàng, nàng vẫn giữ chàng ở trong đầu
Chàng không bước chân trần, muộn trong đêm
Bị quyến rũ, như 1 tên tội đồ
Qua Hà Lội - phản bội, đầy hờn oán
Thành phố chàng chân thành ao ước.

Bài thơ trên, kỳ cục thay - tuyệt vời thay - làm liên tưởng tới nhà thơ tội đồ gốc Bắc Kít, trong bài thơ nhớ vợ; cũng cái giọng ngôi thứ nhất, cũng chỉ là riêng tư, mà trở thành “sử thi” của lũ Ngụy.

Bài thơ thần sầu nhất của Thơ Ở Đâu Xa: Bài Nhớ Thi Sĩ

Đâu có phải tự nhiên mà đám sĩ quan VNCH lại phổ thơ, và đi đường tụng ca, khi còn ở trong tù VC.

Mỗi ông thì đều có 1 bà vợ như vậy.

The Keening Muse ["Nữ thần thơ than van", tên bài viết của Brodsky về Akhmatova]

Nhớ Già Ung * 

Gửi MT 

Sáng nay thức giấc trong nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ
 Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình đầu

Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức rừng núi biên giới

Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi theo vào đêm
hành hạ anh đớn đau 

Từ bao giờ anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn qua song tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút

(Bình minh bình minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)

Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn 

Em, soi bóng em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm. 

Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79

Thanh Tâm Tuyền