|
Thơ
Mỗi Ngày
Đối Diện Dòng Sông, Facing
the River:
Đây là tập thơ Milosz viết về “Cõi
Quê”, [tên 1 tác phẩm của ông, Native Realm], khi được trở về vào
năm 1989,
đúng 50 năm sau khi ông rời bỏ.
It is good
to be born in a small country where nature is on a human scale, where
various
languages and religions have coexisted for centuries. I am thinking
here of
Lithuania, a land of myth and poetry.
Thật lốt
lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le với con
người, nơi
ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời. Tôi đang
nghĩ về
Lithuania, miền đất của huyền thoại và thi ca.
Milosz, Diễn
văn Nobel văn chương.
Rất nhiều
bài thơ trong Facing the River
ghi lại kinh nghiệm của ông, khi còn trẻ, con
sông ở thung lũng Issa biểu tượng con sông thời gian, và con sông huyền
thoại, con
người không thể tắm hai lần
Đầu
tháng, gặp Bác sĩ gia đình, lấy đơn, ghé tiệm thuốc, kế ngay bên, lấy
thuốc,
ghé tiệm sách cũ, cũng khu dowtown, gần shelter đầu tiên khi tới
Toronto, tậu hai cuốn, đều quá tuyệt, hà hà!
GCC
đâu ngờ Bei
Dao viết
tiểu luận thần sầu. Sẽ đi liền bài “Kafka’s Prague”.
Kafka's
Prague
Prague của
Kafka
Prague isn't willing to
leave nor
will it let us leave. This girl has claws and people must line up or we
will
have to light a fire at Vysehrad and the Old Town Square before we can
possibly
depart.
-Excerpt
from a letter from Kafka to Oskar Pollak
Xề Gòn đếch
muốn bỏ đi, mà cũng đếch muốn GCC bỏ đi.
Ẻn có răng, có móng, có vuốt, sắc lắm!
Củi một cành khô lạc mấy giòng
Huy Cận: Trường Giang, trong tập Lửa Thiêng
Câu thơ trên, nghe qua giai thoại, chính Huy Cận kể,
nguyên văn của nó là:
Củi một cành khô lạc giữa dòng
Anh thợ sắp chữ, đọc, phán, "lạc giữa dòng thì có ghê gớm chi đâu",
và bèn sửa, như trên.
*
Nai cao gót lẫn trong mù
Huy Cận: Thu rừng, cũng trong Lửa Thiêng
[Theo
bản in của nhà xb Sống Mới, tái bản tại hải ngoại].
Theo bạn lẫn hay lẩn? Chữ nào hay hơn chữ nào?
Huy Cận, khi làm, ông dùng từ lẫn, hay lẩn?
*
Gấu nhớ đến chữ lẫn, hay lẩn này, của Huy Cận, khi làm
dòng thơ
sau đây, trong bài Biển:
Chỉ còn ta cô đơn lẫn
vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...
Tuy nhiên, sau cùng Gấu
chọn chữ lẫn, ấy là vì từ giấu sau đó.
Bởi vì đã giấu, lại thêm lẩn nữa, thì gian quá!
*
Trần Anh
Thái: Trong tập "Lửa Thiêng" chỉ có tám bài thơ lục bát, bài nào cũng
toàn bích, nhà thơ có bí quyết gì?
Huy Cận: Ấy
là bản năng thơ, tôi không có bí quyết gì, không có lý luận gì, thơ là
thiên bẩm.
Source
đẹp xưa
Ngập ngừng
mép núi quanh co,
Lưng đèo
quán dựng, mưa lò mái ngang…
Vi vu gió
hút nẻo vàng;
Một trời thu
rộng mấy hàng cây cao.
Dừng cương
nghỉ ngựa non cao,
Dặm xa lữ thứ
kẻ nào héo hon...
Đi rồi, khuất
ngựa sau non;
Nhỏ thưa
tràng đạc tiếng còn tịch liêu...
Trơ vơ buồn
lọt quán chiều,
Mái nghiêng
nghiêng gửi buồn theo hút người
Note: Bài
thơ này, sử dụng hệ thống tọa độ ba trục.
Trục
hoành,
thí dụ, thu rộng.
Trục
tung: non cao
Trục thứ
ba,
là trục thời gian, và thời gian, như Brodsky phán:
Bao thơ tôi ít nhiều chi là
về thời gian, về thời gian làm gì con người.
Những héo
hon, lữ thứ, buồn theo hút người... là nói về "thời gian làm gì
con người".
Cái
tít "đẹp xưa" [đẹp cổ điển] là theo nghĩa đó.
NQT
Bài thơ trên
Gấu chép lại từ tập Lửa Thiêng
của nhà sách Sống Mới. Nhưng một độc giả TV cho
biết mây nao mới đúng.
Trần Mạnh Hảo, trong bài viết về
HC, ghi là mây nao.
Tks. NQT
Cách giải thích
bài thơ, như trên, là Gấu phịa ra, mượn ý niệm trục tọa độ, trong toán.
TMH viết:
Trong 50 bài "Lửa thiêng",
chỉ có 8 bài thơ lục bát :" Buồn đêm
mưa", " Trông lên", "Chiều xưa", "Đẹp xưa",
" Thuyền đi", "Xuân ý ", "Thu rừng" và "Ngậm
ngùi". Nhưng nếu không có 8 bài thơ lục bát này, "Lửa thiêng "
dù có nhiều bài thất ngôn hay ví như "Tràng giang" thì cũng chưa thể
làm nên một Huy Cận vượt thời gian như đã có. Nguyễn Du đại thiên tài
lục bát,
đã đưa nhịp sáu tám Việt Nam lên tới đỉnh mây trời nhân loại. Nguyễn Du
từng ít
nhiều ảnh hưởng lục bát ca dao, ảnh hưởng lục bát của Đoàn Thị Điểm,
Nguyễn Gia
Thiều để làm ra hàng nghìn câu thiên thu tuyệt diệu riêng mình. Thấm
đẫm hồn
thơ cha ông, Huy Cận đã hiện đại hóa câu thơ sáu tám Việt Nam. Ông như
người kế
thừa trung thành của phả hệ lục bát Nguyễn Du rồi phát triển nó về u
tịch. Đọc
thơ lục bát Huy Cận, cơ hồ như hồn Nguyễn Du phảng phất đâu đây, như
thể bút thần
xưa được hậu thế cầm lên viết tiếp, như bài " Đẹp xưa":
"Ngập
ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo
quán dựng, mưa lò mái ngang...
Vi vu gió
hút nẻo vàng
Một trời thu
rộng mấy hàng mây nao
Dừng cương
nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ
kẻ nào héo hon
Đi rồi khuất
ngựa sau non
Nhỏ thưa
tràng đạc tiếng còn tịch liêu
Trơ vơ buồn
lọt quán chiều
Mái nghiêng
nghiêng gửi buồn theo hút người..."
Câu thơ
"Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang" trên của Huy Cận làm ta nhớ đến
"Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia "của Tố Như xưa. Huy Cận lấy hồn
muôn năm trước mà hiện đại hóa câu thơ lục bát bây giờ, như gió xưa
vàng đẫm lá
thu nay :" Vi vu gió hút nẻo vàng ". Ngọn gió Huy Cận mặc áo vàng
nghìn thu mà hun hút, mà nghiêng nghiêng mái chữ, mái-hiên-người, cũng
là mái
thơ :" Mái nghiêng nghiêng gởi buồn theo hút người". Cũng như bài
"Đẹp xưa", bài lục bát "Buồn đêm mưa" và bài "Chiều
xưa" hay đến từng câu từng chữ. Cái buồn Huy Cận nơi đây đẹp đến rụng
rời,
đẹp đến ngơ ngác, hoang vu.
*
Trần Mạnh Hảo
là một nhà thơ, nhưng khi ông viết phê bình, qua những dòng trên, về
Huy Cận,
thì có vẻ cũng 1 thứ phê bình tán phó mát, rông rài với mớ chữ.
Thí dụ nhận
xét này của ông: Thấm đẫm hồn thơ cha ông,
Huy Cận đã
hiện đại hóa câu thơ sáu tám Việt Nam.
Hiện
đại hóa, như thế nào, ông không giải thích.
Lấy
thí dụ, với Cung Trầm Tưởng, và dòng lục bát, mà Gấu nhớ lõm bõm:
Tháng
Giêng buốt sẻ đôi đằng
nửa
chì mưa đục, nửa băng giá hồn
Tuyệt
cú!
Trước,
đâu có ai làm lục bát như thế?
Bảo
Huy Cận “hiện đại hóa lục bát”, Gấu sợ nói ngược, HC làm cho nó cổ mãi
ra, trở
thành sầu thiên cổ, sầu vạn cổ, thí dụ hình ảnh sau đây, mà chẳng là
đẩy cái hiện
tại về tới ngàn xưa:
Đồn xa quằn
quại bóng cờ,
Phất phơ buồn
tự thuở xưa thổi về.
Bởi vậy mà
Hoài Thanh – Hoài Chân, từ Mars, 1941, đã phán về ông:
Có người sẽ
bảo thơ Huy Cận già… Tôi thấy thơ Huy Cận trẻ lắm.
Chỉ hai từ
trẻ/già này đủ nói lên cõi thơ HC, nhất là với những bài lục bát của
ông.
Gấu sẽ lèm thêm,
về cặp già/trẻ, hay, hiện đại/cổ điển.
Cẩn.
NQT
Note: Cái
này là vinh danh ông bố, chờ VC làm thịt ông con! NQT
Huy Cận
Chiều Xưa
Buồn gieo
theo gió veo hồ,
Đèo cao quán
chật, bến đò lau thưa.
Đồn xa quằn
quại bóng cờ,
Phất phơ buồn
tự thuở xưa thổi về.
Ngàn năm sực
tỉnh, lê thê
Trên thành
son nhạt - Chiều tê cúi đầu...
Bờ tre rung
động trống chầu,
Tưởng chừng
còn vọng trên lầu ải quan,
Đêm mơ lay
ánh trăng tàn,
Hồn xưa gửi
tiếng thời gian, trống dồn.
Bản in trong
tập thơ Lửa Thiêng, nhà sách Sống Mới,
tái bản tại Huê Kỳ
Thursday,
April 21, 2011 1:18 AM
Thưa bác Gấu:
Câu thứ tư khổ đầu bài Đẹp xưa,
nếu tôi nhớ
không nhầm, phải là:
Một trời
thu rộng mấy hàng mây nao
Vả lại, tác
giả Lửa thiêng không phải là nhà thơ
mới vào nghề, đến nỗi phải mắc lỗi lặp lại âm tiết “cao” trong câu thơ
kế tiếp
Kính
DV
Note: Bài
thơ Ðẹp Xưa, khi đánh máy,
post lên, là Gấu đã biết sai rồi. Tính để sáng coi
lại, và, kể như suốt đêm băn khoăn với vấn nạn, “không phải cây
cao, chắc chắn rồi, nhưng thế thì nó
là cái gì?”
Tới 4 giờ
sáng thì thức giấc, thấy cái mail của độc giả DV, mới ơ rơ
ka 1 tiếng, hoá ra là như vậy!
Tks
again. NQT (a)
The Invisible
Những Kẻ Vô Hình
Trong vương quốc của những
người đã chết
Tôi vẫn thường thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu
đâu...
1
It was always here.
Its vast terrors concealed
By this costume party
Of flowers and birds
And children playing in the garden.
Only the leaves tell the
truth.
They rustle darkly,
Then fall silent as if listening
To a dragonfly
Who may know a lot more of the invisible,
Or why else would its
wings be
So translucent in the light,
So swift to take flight,
One barely notices
It's been here and gone.
2
Don't the shadows know
something about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.
Just today I was admiring
the one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly.
Shadow, I said, what
message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday sun?
Charles Simic
1
Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của nó thì được giấu kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công viên Lê Văn Tám
Chỉ những chiếc lá nói sự
thực
Chúng rì rào âm u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều về những kẻ vô hình,
Hay là tại sao cánh của nó
lại trong mờ như thế, dưới ánh
sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã bay đi mất rồi:
Chuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng VC đang rình mày đây nè!
2
Liệu những bóng đen
biết gì về nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta
Đúng ngày hôm nay Gấu trầm
trồ chiêm ngưỡng
một cái bóng đen mà Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu
BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?
CITY OF MY YOUTH
It would be
more decorous not to live. To live is not decorous,
Says he who
after many years
Returned to
the city of his youth. There was no one left
Of those who
once walked these streets.
And now they
had nothing, except his eyes.
Stumbling,
he walked and looked, instead of them,
On the light
they had loved, on the lilacs again in bloom.
His legs
were, after all, more perfect
Than
nonexistent legs. His lungs breathed in air
As is usual
with the living. His heart was beating,
Surprising
him with its beating, in his body
Their blood
flowed, his arteries fed them with oxygen.
He felt,
inside, their livers, spleens, intestines.
Masculinity
and femininity, elapsed, met in him
And every
shame, every grief, every love.
If ever we accede
to enlightenment,
He thought,
it is in one compassionate moment
When what
separated them from me vanishes
And a shower
of drops from a bunch of lilacs
Pours on my
face, and hers, and his, at the same time.
BIOGRAPHY OF
AN ARTIST
So much
guilt behind them and such beauty!
These
landscapes, in the quiet splendor
Of early
summer, toward evening, these coves
Of lakes
amid lush green, when, for welcome,
Messengers
come running, in saffron robes,
And bring
gifts, huge balls made of light.
Or his
portraits. Is not tenderness
Needed to
drive a brush with such attention
Along the
eyelids of a sorrowing eye
Through the
furrow at lips closed by grief?
And how
could he do it? Knowing what we know
About his
life, every day aware
Of harm he
did to others. I think he was aware.
Just not
concerned, he promised his soul to Hell,
Provided
that his work remained clear and pure.
Czeslaw Milosz: Facing the River
Mặt Trời Lặn
ở Fossoli
Tôi biết, nghĩa là gì,
không trở về.
Qua những
hàng rào kẽm gai
tôi nhìn
thấy
mặt trời xuống và chết
Và da
thịt tôi như bị xé ra
Bởi những
dòng thơ của một thi sĩ già:
“Mặt trời
thì có thể lặn và mọc
Nhưng
chúng tôi, ngược hẳn lại
Ngủ, sau
1 tí ánh sáng ngắn ngủi,
Một đêm
dài ơi là dài”
Tháng Hai,
7, 1946
Primo Levi
Romania
Herodotus
once said that
Our
ancestors, the Tracs
Might have
become all-powerful
If each did
not against the other fight.
But for
them, there was never
a desire for
unity.
Gods in vain
have told them to relent.
They have
fought, and fight again.
We,
descendants of their blood,
Have walked
their roads for centuries.
But never,
and nowhere
Have we
found the healing flowers.
To argue is
our way
as their
cursed schemes remain.
We are
wedded to the conflicts
That
Herodotus knew well.
ALEXANDRU
CETATEANU
Asia Literary Review. Winter 2009
ALEXANDRU
CETATEANU was
born in Romania, which he escaped during the Ceausescu regime to
Canada where he now lives.
He edits Destine Literare and runs Scricorii
Romani, an association of expatriate Romanian writers. Cerateanus
published
works include A Romanian in Canada
(Helios, 1995), Canada- Country of Hyperboreans (Amim
Ivireanul/Edition Langues et Cultures
Européennes, 2004), and A Foreigner in America
(Junimea, 2007).
ALEXANDRU
CETATEANU gốc Romania, bỏ chạy quê hương, chuồn qua Canada.
Xứ Mít
Sử gia Ngô
Sĩ Liên có lần phán
Giống Mít
đúng ra là
Đả Biến
Thiên Hạ Vô Địch Thủ
Nếu chúng đừng
đâm chém lẫn nhau
Nhưng với lũ
Mít
Chẳng hề có
chuyện kết hợp thành 1 khối
Thần Thánh
năn nỉ chúng hoài
Hãy tha thứ
cho nhau, hãy thư thả,
Đừng giết
nhau dữ quá,
Ít ít thì
còn được!
Chúng đâu có
chịu nghe.
Chúng ta, lũ
hậu duệ của Con Rồng Cháu Tiên,
Không thể ở
với nhau đời đời được
Có cái máu
làm thịt lẫn nhau từ thời dựng nước
Và cứ tiếp tục
con đường máu của tổ tiên để lại hoài
Tìm hoài,
tìm hoài,
Chẳng bao giờ,
và chẳng nơi đâu,
Những bông
hoa chữa lành
Vết thương
hình chữ S
Cái Xứ mình
nó thế
Sử gia họ
Ngô biết rất rành điều này
Hà, hà!
One Art
The art
of losing isn't hard to master;
so many
things seem filled with the intent
to be lost
that their loss is no disaster.
Lose
something every day. Accept the fluster
Of lost door
keys, the hour badly spent.
The art of losing
isn't hard to master.
Then
practice losing farther, losing faster:
places, and
names, and where it was you meant
to travel.
None of these will bring disaster.
I lost my
mother's watch. And look! my last, or
next-to-last,
of three loved houses went.
The art of losing
isn't hard to master.
I lost two
cities, lovely ones. And, vaster,
some realms
I owned, two rivers, a continent.
I miss them,
but it wasn't a disaster.
-Even losing
you (the joking voice, a gesture
I love) I
shan't have lied. It's evident
the art of losing's
not too hard to master
though it
may look like (Write it!) like
disaster.
-Elizabeth
Bishop, The Complete Poems, 1927-1979,
Farrar,
Straus & Giroux
[Robert
Hass: Now & Then]
Một Nghệ Thuật
Nghệ thuật mất
thì không khó để trở thành một “sư”;
Rất nhiều thứ,
có mặt trên cõi đời này, là để mất đi, 1 cách hăm hở,
Ra ý, ta có
ra khỏi đời mi, thì đâu có phải là 1 thảm họa,
Vả chăng, mi
cũng đâu có thương yêu gì ta, hử, GCC?
Mất 1 cái gì
đó, mỗi ngày, mọi ngày.
Chấp nhận vô
thường, mất nhộn nhịp
Nào chùm chìa
khóa,
Nào những giờ
phút qua đi một cách đếch ra cái chó gì!
Nghệ thuật mất
đâu có khó để mà làm 1 bậc đại sư phụ.
Rồi thực tập
nó, làm sao mất mau lẹ hơn, xa mãi hơn: nơi chốn, tên tuổi,
những thánh địa mà
bạn hằng mong thăm viếng [căn nhà ở đường PDP ư?]
Chẳng có cái
chi trong ba thứ làm xàm đó sẽ mang đến thảm họa
Tớ mất cái đồng
hồ của mẹ tớ.
Mà nhìn kìa, căn nhà sau cùng, kế cái sau cùng, của ba căn nhà thân
thương, thì đều đi đong!
Nghệ thuật mất,
dễ ợt, không học cũng thành bậc sư
Gấu mất một thành
phố, rồi hai thành phố, toàn những thành phố cực thân thương.
Rồi rộng rãi
hơn, thoáng hơn, Gấu mất mẹ một đất nước.
Vài cõi Gấu
sở hữu, hai con sông, một đại lục
Gấu nhớ quá,
làm sao không, nhưng đếch phải 1 thảm họa
Ngay cả mất
Em (một giọng nói tếu tếu, một cử chỉ mà Gấu cực mê),
Gấu không nói dối. Thì hiển
nhiên rồi, nghệ thuật mất thì không khó làm chủ
Tuy rằng, nó
cẩm như (Này, viết ra liền nhe!), một
thảm họa.
Whoever
wishes to remember must trust to oblivion, to the risk entailed in
forgetting
absolutely, and to this wonderful accident that memory then becomes.
-Maurice
Blanchot
Người nào
mong mỏi hoài nhớ chắc hẳn đã tin rằng có lãng quên, tin rằng có sự rủi
ro tiếp
đó là sẽ quên tuốt tuột, và chính từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này mà kỷ
niệm được
hình thành.
Người ta biết
rằng sẽ quên, không chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng nhớ thành
ký ức, để
sau này khỏi quên đó mà .
K
I seek
the
crucial region of the soul where absolute Evil and fraternity clash.
-Andre
Malraux
Tôi tìm vùng
chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và tình anh em đụng độ (1)
Đọc cái tuyên ngôn của băng đảng NN này, (2) Gấu
buồn cười quá, nhất là cái đoạn mở, quy trách nhiệm cho nhà văn Mít
[VC, tất
nhiên], cái gì gì thờ ơ, vô cảm…
Quả là có “cái gì gì” gọi là thờ ơ vô cảm,
nhưng
khi quy trách nhiệm như thế, là đặt con trâu trước cái cày.
Nên nhớ là đã có thời dân Mít, VC Bắc Kít đúng
hơn, được, đến cả Ông Giời, mơ, ngủ dậy biến thành giống dân thần sầu
này.
Thành ra bây giờ, chúng tởm đến mức như thế,
thì phải có lý do.
Lý do gì, băng đảng này biết, nhưng không đủ
dũng cảm nói ra.
Ông Trùm băng đảng này, fondateur, có lần tuyên
bố, tui sợ “anh hùng” quá rồi. Ông chẳng đã đẻ ra cả 1 cục anh hùng.
Cục này là
1 trong những lý do đưa đến 1 nước Mít tởm như hiện nay.
Sợ thì sợ, nhưng đâu dám
từ bỏ. Từ bỏ thì còn cái chó gì nữa.
Dick
Halstead, Sếp UPI của GCC, trên trang net của ảnh, than thở, cuộc chiến
Mít làm
mất tiêu tuổi trẻ của anh và những tên Yankee mũi lõ cùng lứa tuổi.
[Với riêng
anh, không chỉ thế, anh còn mất tiêu cô vợ trẻ!]
Câu này, bất
cứ 1 tên nhà văn VC, Bắc Kít nào, như NN, thí dụ cũng có thể nói, với… hãnh diện, với đỉnh cao thời đại, với bước
ngoặt lịch sử: Chúng ông đã làm nên Địa Ngục Mít!
Cái cú đưa cả
lò Ngụy vô Trại Tù, đừng nghĩ là Gấu bịa đặt, hoang tưởng ra. [Giả như
đúng như
thế, thì Gấu đã là Kafka mũi tẹt rồi!] Nó là sự thực, nếu chỉ nhìn
những năm tù
đằng đẵng của 1 Thảo Trường, 17 năm, thí dụ.
Tù gì mà khủng
khiếp như thế: Để chờ đưa vợ con họ hàng tên sĩ quan Ngụy vô Trại Tù
cùng xum họp!
Giả như tụi Tẫu không gây cuộc chiến biên giới, giấc mộng đoàn tụ này
đã được
hoàn tất,
đâu cần ODP, đâu cần Yankee mũi lõ, đâu cần cả nhân loại với chương
trình
tái định cư lũ Ngụy rải rác khắp thế giới, tạo ra 1 giống dân mới:
Thuyền Nhân,
Boat People.
Nhìn cái
danh sách băng đảng NN mới hỡi ơi, toàn 1 lũ Bắc Kít, cùng mấy tên tinh
anh Miền Nam bỏ chạy cuộc chiến bợ đít VC, rơi rớt một hai
người Gấu
quen, thí dụ thiền sư PTH.
Cũng được thôi, nhưng thiền sư già rồi, đâu
có còn
viết lách gì được nữa:
Ý của GCC là, đám nhà văn trẻ ở trong nước, có
rất nhiều
người sáng giá, đếch thèm rỏ máu ngón tay cùng sư phụ NN, chán thế!
Họ không bị lừa nữa. Hẳn thế.
Cả đất nước, đúng hơn, cả
xứ Bắc Kít, đếch đêm nào ngủ được, thời gian cuộc chiến Mít. Bạn
không
tin ư? Thì cứ nghe lại những bản nhạc đỏ của thời kỳ đó, hoặc đọc anh
hùng Núp
của NN, hay, hay…
Làm sao lại có chuyện quái đản, bây giờ cả 1 lũ nhà văn Mít Bắc
Kít đó, bị kết tội “ơ thờ, vô cảm”?
Cái gì làm cho họ, cho cả xứ Mít, trở nên vô
cảm?
Hỏi tức là
trả lời vậy
Thờ ơ, vô cảm
là hậu quả của bịa đặt ra những cú như đầu độc tù Phú Lợi, đẻ ra những
quái vật
như anh hùng Núp, sáng tác những câu thơ xúi cả 1 miền đất đi vô
chỗ chết…
ANTENNAS IN THE RAIN
The
salesgirl in a shoe store on the rue du Commerce, Vietnamese,
she tells
you kneeling, I come from boat people.
I switched
on the shortwave radio: someone sobbing in Bolivia.
Christ's
face in S. Luigi dei Francesi.
One thing is
sure: the world is alive and burns.
He read
Holderlin in a dingy waiting room.
Boat people-the
only nation free of nationalism.
Bài thơ thần
sầu này, GCC cứ lần lữa hoài, không dám dịch. Cứ sờ sợ, Cứ hồi hộp.
Không hiểu
tại sao.
Lại nhớ hồi
còn con nít, ở xứ Bắc Kít, mỗi lần ăn cơm, được người lớn ban cho cục
thịt,
không dám ăn, cứ phải giấu xuống đáy bát, chờ đến giờ chót, thì mới đem
ra ăn,
và ăn thì cũng rất ư là dón dén, dè xẻn, chỉ sợ hết!
Ui chao, cái
bài thơ hay quá làm nhớ đến cục thịt hồi còn nhỏ!
Hà, hà!
To K:
Không
phải anh Gấu bad, nhưng anh sống thật với lòng mình quá, nghĩ gì là nói
liền .
Và cái tài liên tưởng thì khỏi nói .
Tks
NQT
Thơ
Mỗi Ngày
March 20,
2014 Issue
The
Secret
Auden
Edward
Mendelson
Epitaph on a
Tyrant
Perfection,
of a kind, was what he was after,
And the
poetry he invented was easy to understand;
He knew
human folly like the back of his hand,
And was
greatly interested in armies and fleets;
When he
laughed, respectable senators burst with laughter,
And when he
cried the little children died in the streets.
January 1939
W.H. Auden
Bia mộ Bác Hát
Bảnh, thật bảnh
- kiểu đó - đó là cái mà Hắn tìm
Và thơ
Hắn phịa
ra - hoặc chôm của Tẫu – thì thật dễ hiểu
Hắn rành
sự
khùng điên của con người như lưng bàn tay
Hắn rất
quan
tâm tới những binh đoàn kéo nhau ra tiền tuyến
Khi Hắn
cười, cả bộ sậu Bắc Bộ Phủ bò ra cười
Và khi
Hắn
khóc những đứa trẻ chết như rạ ở đường phố Xề Gòn
Cũng trong cùng
bài essay, ông nói về sự quan trọng đối với mọi độc giả là có ít nhất 1
nhà thơ để
mà lận lưng. Với ông, hẳn là Auden. Nhưng
ngoài Auden ra, liệu Eugenio Montale có xứng đáng…
Xứng đáng quá
đi chứ. Tôi nghĩ phải thêm vô Thomas Hardy, Robert Frost… Tôi thấy mình
gần Frost
hơn so với Auden. Bạn có nhớ không Lionel Trilling đã từng gọi Frost là
1 nhà
thơ khủng khiếp. Còn Eliot.... Bishop, bà này Canada chính gốc. Trong
số ngoại nhân,
làm sao bỏ qua Milosz. Wislawa Szymborska mà không bảnh sao, a
wonderful lady…
Adieu
& Bon Voyage, Nguyễn Quang Sáng!
Khi Mẽo vãi đô la, làm
chương trình WJC, không lẽ chúng chỉ
mong gặt hái được kít đái?
Theo GCC, giống Bi Bì Xèo,
sau 30 Tháng Tư 1975, chúng đuổi
hết đám Ngụy, mời đám Bắc Kít Đông Âu vô, đám này, nhờ ăn cướp được
Miền Nam,
có tí chiến lợi phẩm, bèn bỏ nước ra đi, ra khỏi cái hang Plato, hang
Pác Bó,
lần đầu tiên nhìn thấy con người, phải chết thôi. Thành ra khi Solz
mất, chúng
đi 1 “bản tin”, dịch, “Quần Đảo Gulag” thành “Bán Đảo Cu Lắc”. Có người
chỉ cho
[GCC chứ ai nữa], bèn lẳng lặng sửa, đếch biết “kám ơn” là cái đéo
gì hết.
Đây là cái lịch sự bắt buộc, làm sao vờ?
GCC bị chửi
hoài, sao hơi tí là… xin lỗi, là… cám ơn, Gấu được cái xứ Miền Nam Sâu
Thẳm dạy như thế, làm sao làm khác?
Với WJC, có tí khác, chúng sử dụng đám Ngụy bỏ chạy cuộc
chiến, thay vì qua Tây làm “người của chúng ta ở Paris”, thì qua Mẽo,
thành bồi
Mẽo cả thảy, làm ra vẻ ngựa Hồ hí gió Bắc, thực sự, là mong VC trong
nước đoái
hoài đến chúng, thí cho chúng 1 cái gì đó, hà hà!
Tên NBC, học hành dốt nát, bỏ tiền ra mua cái bằng, nhờ vậy
được đi du học, trốn thoát cuộc chiến, không cám ơn Ngụy, mà lại quay
ra chửi,
vì… tiếc tiền mua bằng Tú Tài, như hắn có lần than.
Câu phán của
nhà sư già lo quét dọn Tàng Kinh Các, Thiếu Lâm Tự - Phật Pháp tới đâu
thì Võ Công
tới đó, cả hai rong ruổi bên nhau, kiềm chế lẫn nhau, khi tới cõi vô
cảnh, cả
hai triệt tiêu lẫn nhau, chúng ta có con người hoàn toàn, theo ý niệm
của Marx
- cũng là ý của Brodsky, khi ông cho rằng Mỹ mới là mẹ của Đạo Hạnh,
như Coetzee
giải thích, “Trong diễn từ Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic
credo]
mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó.
Mỹ học
như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới
đâu thì
sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về
phía của
cái tốt. [Good art is thus on the side of the good]. Cái ác, cái tà ma,
về mặt
còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong
tồi tệ”
[Evil, on the other hand, ‘especillay political evil, is always a bad
stylist”.
On Grief… trang 49].”
Sở dĩ những
bản văn của đám VC viết cho WJC, để có tí đô, quá bửn, chính là do tâm
hồn của
chúng quá bửn, trong khi, có thể nói, đó là cơ may để chúng viết được 1
cái gì đó
ra hồn, Gấu đâu có thù hằn gì tụi nó, nhưng không viết ra thì… ai viết?
Thơ Tháng Tư
ON ETERNITY
beneath a
radiance rented from the stars
long-distance
runners transit death's city
chatting
heart-to-heart with sheep
we share a
lovely wine
and
under-the-table crime
fog's lured
into night-song
and
stove-fire like mighty rumor
greets the
wind
if deaths
the reason for love
we love
unfaithful passion
love the
defeated
those eyes
gazing into time
Bei Dao: The
Rose of Time, ed by Eliot Weinberger
Về vĩnh cửu
Dưới ánh
sáng mướn từ những vì sao
Người chạy
đường dài băng qua phố chết
Tỉ tê với bầy
cừu
Chúng ta
cùng chia sẻ rượu ngon
Và tội ác dưới
gầm bàn
Sương mù ùa
vô bài ca đêm
Lửa lò như
thể lời đồn vĩ đại
Chào đón gió
Nếu chết là
lý do của yêu
Chúng ta yêu
mối tình không chung thuỷ
Yêu kẻ thất
bại
Mắt nhìn dò
xét thời gian
Dã Viên
LIFE
SENTENCE
Those
sufferings are over.
No crying
anymore. In an old album
you look at
the face of a Jewish child
fifteen
minutes before it dies.
Your eyes
are dry. You put the kettle on,
drink tea,
eat an apple.
You'll live.
Án Chung
Thân
Những nỗi
đau khổ đó thì xong rồi
Không khóc
lóc nữa. Trong một cuốn album cũ
bạn nhìn vô
mặt một đứa bé Do Thái
15 phút trước
khi nó chết
Mắt bạn khô
queo. Bạn đặt cái ấm nước lên,
uống trà, ăn
1 trái táo
Bạn sẽ sống.
Zagajewski: Without End
Người
về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày
Người về từ
cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt
Người về từ
cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy
Một năm sau
còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi
Ba năm còn
nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một hôm có kẻ
nhìn trân trối
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi
Giật mình,
một cái vỗ vai
Hoàng Hưng
Thơ Tháng Tư
Dante
Chàng đếch thèm trở lại
Ngay cả sau khi mất
Thành phố Hà Lội của chàng
Rời bỏ, chàng đi thẳng một mách
Vì chàng mà tôi hát bài hát này
Đêm. Một bó đuốc. Nụ hôn sau cùng.
Bên ngoài, âm thanh số mệnh – Như gió hú
Từ Địa Ngục, chàng gửi cho nàng một lời trù ẻo.
Ở Thiên Đàng, nàng vẫn giữ chàng ở trong đầu
Chàng không bước chân trần, muộn trong đêm
Bị quyến rũ, như 1 tên tội đồ
Qua Hà Lội - phản bội, đầy hờn oán
Thành phố chàng chân thành ao ước.
Bài thơ trên, kỳ cục thay
- tuyệt vời thay - làm liên tưởng tới nhà thơ tội đồ gốc Bắc Kít, trong
bài thơ nhớ vợ; cũng cái giọng ngôi thứ nhất, cũng chỉ là riêng tư, mà
trở thành “sử thi” của lũ Ngụy.
Bài thơ thần sầu nhất của Thơ Ở Đâu
Xa: Bài Nhớ Thi Sĩ
Đâu có phải tự nhiên mà
đám sĩ quan VNCH lại phổ thơ, và đi đường tụng ca, khi còn ở trong tù
VC.
Mỗi ông
thì đều có 1 bà vợ
như vậy. (1)
THE ROSE OF
TIME
when the
watchman falls asleep
you turn
back with the storm
to grow old
embracing is
the rose of
time
when bird
roads define the sky
you look
behind at the sunset
to emerge in
disappearance is
the rose of
time
when the
knife is bent in water
you cross
the bridge stepping on flute-songs
to cry in
the conspiracy is
the rose of
time
when a pen
draws the horizon
you're
awakened by a gong from the East
to bloom in
the echoes is
the rose of
time
in the
mirror there is always this moment
this moment
leads to the door of rebirth
the door
opens to the sea
the rose of
time
Today at
5:30 AM
Hi bác Gấu:
D.V mới dịch
bài thơ của Bei Dao, để dành tặng bác và Tin Văn
Kính mời bác
đọc.
D.V
Bông hồng của
Thời gian
Khi người
gác cửa lịm giấc ngủ sâu
Bạn trở mình
cùng gió bão
Già đi trong
vòng tay ôm là
Bông hồng của
Thời gian
Khi đường
chim bay phân định bầu trời
Bạn ngoảnh
trông mặt trời lặn
Hiện lên
trong hư mất là
Bông hồng của
Thời gian
Khi ngọn dao
uốn cong trong nước
Bạn dẫm tiếng
sáo bước qua cầu
Nức nở khóc
trong âm mưu là
Bông hồng của
Thời gian
Khi bút vạch
ra đường chân trời
Bạn bị tiếng
chiêng phương đông khua tỉnh
Bừng nở
trong vang vọng là
Bông hồng của
Thời gian
Trong gương
mãi là khoảnh khắc này
Khoảnh khắc
thông ra cánh cửa tái sinh
Cửa tái sinh
mở ra biển lớn
Bông hồng của
Thời gian.
Tks. Many
Tks.
Bạn dẫm tiếng
sáo bước qua cầu
Khi bút vạch
đường chân trời
Trở mình
cùng dông bão....
So với bản
tiếng Anh, không khác mấy, về nghĩa, nhưng bản tiếng Việt “cực” hung
bạo.
Đúng
air thơ TTT.
Thần tình thật.
Đúng dịp kỷ niệm 30 Tháng Tư năm nay.
NQT/TV
DECLARATION
for Yu Luoke
Perhaps the
final hour is come
I have left
no testament
Only a pen,
for my mother
I am no hero
In an age
without heroes
I just want
to be a man
The still
horizon
Divides the
ranks of the living and the dead
I can only
choose the sky
I will not
kneel on the ground
Allowing the
executioners to look tall
The better
to obstruct the wind of freedom
From
star-like bullet holes shall flow
A blood-red
dawn
Bei Dao
Tuyên ngôn
Có lẽ giờ cuối
đã tới
Tôi không để
lại di chúc
Chỉ cây viết,
cho mẹ tôi
Tôi không là
anh hùng
Trong thời
không anh hùng
Tôi chỉ muốn
là một người
Chân trời sững
Chia sống và chết
Tôi chỉ có
thể chọn bầu trời
Tôi sẽ không
quỳ
Để cho tên đao
phủ đứng, cao hơn tôi
Che ngọn gió
tự do
Từ những lỗ đạn
hình ngôi sao
Bình minh đỏ
như máu chảy ra
I GOT OFF THE TRAIN
I got off the train
And said goodbye to the man I'd met.
We'd been together for eighteen hours
And had a pleasant conversation,
Fellowship in the journey,
And I was sorry to get off, sorry to leave
This chance friend whose name I never learned.
I felt my eyes water with tears ...
Every farewell is a death.
Yes, every farewell is a death.
In the train that we call life
We are all chance events in one another's lives,
And we all feel sorry when it's time to get off.
All that is human moves
me, because I'm a man.
All that is human moves me, not because I have an affinity
With human ideas or human doctrines
But because of my infinite fellowship with humanity itself.
The maid who hated to go,
Crying with nostalgia
For the house where she'd been mistreated...
All of this, inside my heart, is death and the world's sadness.
All of this lives, because it dies, inside my heart.
And my heart is a little larger than the entire universe.
4 JULY 1934
FERNANDO
PESSOA:
A LITTLE LARGER THAN THE ENTIRE UNIVERSE
Gấu Cà Chớn Xuống Tàu
Gấu xuống tàu
Và bye bye một ông bạn
Hai đứa cùng đi tàu 18 giờ đồng hồ
Và có 1 cuộc tán gẫu thật là dễ chịu
Và Gấu thật buồn khi xuống tàu
Từ giã người bạn may mắn gặp
Mắt ướt vãi
Mọi giã biệt thì đều là cái chết
Đúng thế, mọi giã biệt là chết
Trên con tàu mà chúng ta gọi là đời người
Chúng ta luôn có cơ may trong cuộc đời một người khác, và ngược lại.
Và chúng ta đều cảm thấy buồn khi tới giờ xuống tàu.
Tất cả những gì có mùi
người đều làm Gấu Cà Chớn cảm động
Bởi là vì Gấu là 1 con người
Tất cả những gì có mùi người đều làm Gấu ướt vãi
Không phải là vì Gấu có tí lân la với những ý tưởng hay lý thuyết về
con người
[Gấu đếch phải nhà phê bình, và chưa hề bao giờ vỗ ngực xưng tên
là nhà phê bình, là Thầy này, Thầy nọ,
hà, hà]
Nhưng bởi là vì Gấu ‘nhân hậu và cảm động’!
Bởi cái tình bạn vô cùng của Gấu với nhân loại, chính nó!
Cô người làm ghét rời bỏ
Khóc vì nhớ
Căn nhà, ở đó cô bị đối xử chẳng ra gì….
Tất cả những điều đó, ở
trong tim Gấu, thì là cái chết, và là nỗi sầu não của thế gian này
Tất cả những điều đó sống, bởi vì nó chết, ở trong trái tim của Gấu.
Và trái tim của Gấu thì nhỉnh hơn cả vũ trụ,
Một tí!
De vent et de Fumée
III
Ces pages sont traduites.
D'une langue
Qui hante la mémoire que je suis.
Les phrases de cette langue sont incertaines
Comme les tout premiers de nos souvenirs.
J'ai restitue le texte mot après mot,
Mais le mien n'en sera qu'une ombre, c'est à croire
Que l'origine est une Troie qui brule,
La beaut é un regret, l' oeuvre ne prendre
À pleines mains qu'une eau qui se refuse.
Yves Bonnefoy
III
These pages are
translations. From a tongue
That haunts the memory I have become.
Its phrases falter, like what we recollect
From early childhood, long ago.
I built the text again, word for word:
But mine is only shadow. As though we know
All origin is a Troy that burns,
All beauty but regret, and all our work
Runs like water through our hands.
Translated by Hoyt Rogers
Của Gió và Khói
III
Những trang này đã được
dịch
Từ một ngôn ngữ quần nát bấy hồi nhớ
Là thằng Gấu Cà Chớn vào lúc bi giờ
Những câu kệ thì chẳng ra làm sao cả
Như là những gì mà chúng ta nhặt nhạnh được, từ thời ấu thơ, thuở nảo
thuở nào
Gấu cố gầy dựng lại bản văn, từng từ từng từ
Nhưng của Gấu thì chỉ là 1 bóng mờ
Mà nguyên bản thì là một thành phố Xề Gòn bị VC thiêu huỷ
[Bạn hẳn vưỡn còn nhớ cuộc phần thư năm đó?]
Cái đẹp ngày nào nếu còn chăng, thì là 1 niềm ân hận
Tác phẩm, cái gọi là văn học Miền Nam trước 1975, ư?
Như nước lọt qua kẽ tay của bạn.
Cors de chasse
Notre
histoire est noble et tragique
Comme le masque d'un tyran
Nul drame hasardeux ou magique
Aucun detail indifferent
Ne rend notre amour pathétique
Et Thomas de Quincey buvant
L'opium poison doux et chaste
A sa pauvre Anne allait revant
Passons passons puisque tout passe
Je me retournerai souvent
Les souvenirs sont cors de chasse
Dont meurt le bruit parmi le vent
Apollinaire: Alcools
CORS DE CHASSE
Our
story is noble and tragic
As the face of a tyrant not fun not for everyone
No drama or magic
No detail of what we've done
Can make our love pathetic
And Thomas De Quincey drinking
Opium poison sweet and chaste
Went dreaming to his poor Ann and listened to his own eyelids blinking
Let it pass let it pass because everything will pass and be effaced
I will be back not yet erased
Memories
Are hunting horns whose sound dies in the breeze
Ban
biên tập The Paris Review dịch, số Mùa Thu 2012
HUNTING HORNS
Cors de chasse
Our
history is exalted tragic
Like the masque of some despot
No drama of high exploit or magic
No detail that matters or does not
Can make this love of ours pathetic
Thomas De Quincey drinking down
His opium sweet poison demure
Went in a dream to his poor Anne
Pass by pass by since nothing's sure
Often I'll come back again
Memory is a hunting horn
Its tone dies out along the wind
DUDLEY
FITTS
[trong French
Poetry, edited by Angel
Flores, Anchor Books]
Tù và săn
Chuyện
chúng mình thì phong nhã và bi thương
Như cái mặt nạ của tên bạo chúa
Chẳng bi kịch, phiêu lưu hay thần kỳ
Chẳng chi tiết, dửng dưng
Có thể làm cho cuộc tình của chúng ta thống thiết
Gấu chơi xì ke,
Dịu dàng và trong trắng
Mơ màng nhớ BHD
Thôi bỏ
đi, bỏ đi Tám
Mọi chuyện đều qua đi
Gấu sẽ thường quay trở lại
Kỷ niệm
thì giống như tiếng tù và săn
Lặng dần trong gió
Valentine's Day
It
is the most beautiful law of our species that that which is not admired
is
forgotten.
[Luật đẹp nhất của con người là, đàn bà thì là đẹp, và đẹp, thì là để
chiêm ngưỡng,
và chẳng hề bị lãng quên].
Alain
[Note: Dịch nhảm quá, nhưng tuyệt quá!]
Love Song
If you were
drowning, I'd come to the rescue,
wrap you in
my blanket and pour hot tea.
If I were a
sheriff, I'd arrest you
and keep you
in a cell under lock and key.
If you were
a bird, I'd cut a record
and listen
all night long to your high-pitched trill.
If I were a
sergeant, you'd be my recruit,
and boy, I
can assure you, you'd love the drill.
If you were
Chinese, I'd learn the language,
burn a lot
of incense, wear funny clothes.
If you were
a mirror, I'd storm the Ladies',
give you my
red lipstick, and puff your nose.
If you loved
volcanoes, I'd be lava,
relentlessly
erupting from my hidden source.
And if you
were my wife, I'd be your lover,
because the
Church is firmly against divorce.
1995
Joseph Brodsky
Tình Ca
Nếu em té xuống
nước, anh sẽ cứu em
Cuốn em vô mền,
sưởi ấm em bằng nước trà nóng
Nếu anh là cớm,
anh sẽ bắt em và nhốt em vô xà lim, có cửa khóa.
Nếu em là 1
con chim, anh sẽ đi 1 đường ghi âm
Và suốt đêm
nghe giọng ca thánh thót của em
Nếu anh là tên
đội, thì em là tân binh
Và nghe này,
tôi bảo đảm với em,
em sẽ mê quân trường đổ mồ hôi, sa trường ít đổ máu
Nếu em là 1
em Tẫu, anh sẽ học tiếng Tầu, đốt hàng bó nhang,
mặc quần áo nhố nhăng, tức cuời
Nếu em là
tấm gương,
anh sẽ tấn công tiệm mỹ phẩm,
đem về cho em son môi,
phấn má.
Nếu em
yêu núi
lửa, anh sẽ là nham thạch
Tuôn trào hoài từ nguồn bí ẩn
Và nếu em là
vợ anh, thì anh sẽ người yêu của em,
bởi vì Nhà Thờ cấm ly dị.
Dã Viên
Một đêm mưa
bên sông nhớ bến
Hỡi mưa đêm,
dệt tơ những hồi ức xa xôi
Hỡi bóng
hình, ngồi bên sông nhìn mưa rơi
Mưa rơi mưa
rơi êm đềm như đêm xưa kia thôi
Con đò nào
đã về từ nẻo lạ, đậu bến này
Nhớ mùi than
củi, bếp hồng hơ ấm bàn tay
Bến đây
không mùa, chỉ có một trời mưa lạnh thôi
Mưa rơi mưa
rơi, lạnh tay ai ngồi nhìn mưa rơi
Chỉ một bếp
lửa, nhớn nhác tìm hoài, tìm hoài
Con đò nào
đã về từ nẻo lạ, đậu bến này
Đâu còn bến
nào khác, để đò gieo neo cuộc chơi.
Bản thảo thời
gian
Nhìn coi
(làm sao nhìn) thời gian không hình tướng
Nhưng cái
đuôi vô hình quệt nhẹ lên mọi vật
Làm chúng mờ
đi: cánh cửa gỉ sét kẽo kẹt
Rồi im bặt.
Ngọn đèn lu mờ dần
Rồi tắt
ngúm. Gương mặt xoã tóc soi mặt hồ, run rẩy
Rồi lặng ngắt…
Thời gian dắt
chúng ta đi như những chiếc bóng
(trên bức tường
này in dấu chúng ta tựa lưng nghỉ mệt
không còn ai
nhìn thấy)
Những chiếc
mũi khoằm gật gù, ra chiều thông cảm
Với những
người nửa đêm đốt đuốc đi tìm, lối ra bờ tường bóng tối
Nhưng chỉ
hoài công
Thư cao
nguyên
Cú vọ, nhìn
xuyên đêm đen,
Nhưng chẳng
thấy, những nỗi đau riêng, trơ trọi
Goá phụ ngậm
mật đắng, mớm cho đàn con vị ngọt từ tâm
Tiếng cú rúc
từ cánh rừng lam chướng
Vọng lại mấy
thập niên, nhắc rằng, vận rủi chỉ dài như vệt sao băng
Người goá phụ
gói ghém tay nải rỗng không đời mình, ném vào vực thẳm.
Và làn gió
ma thiêng thổi bay chiếc áo lam lũ về lại đồng bằng.
LAMENTO
He put the
pen down.
It lies
there without moving.
It lies
there without moving in empty space.
He put the
pen down.
So much that
can neither be written nor kept inside!
His body, is
stiffened by something happening far away
though the
curious overnight bag beats like a heart.
Outside, the
late spring.
From the
foliage a whistling-people or birds?
And the
cherry trees in bloom pat the heavy trucks on the way home.
Weeks go by.
Slowly night
comes.
Moths settle
down on the pane:
small pale
telegrams from the world.
Tomas
Transtromer: Selected Poems
[ed by Robert Hass]
Lamento
Anh ta để
cây viết xuống
Nó nằm liệt
Nó nằm liệt
trong không gian trống rỗng
Anh ta để
cây viết xuống.
Quá nhiều điều
không thể viết, mà cũng không thể giữ khư khư trong mình!
Cơ thể của
anh ta cứng ngắc, bởi 1 điều gì xẩy ra ở thật xa
Mặc dù cái
túi qua đêm kỳ cục, đập như 1 trái tim.
Bên ngoài
xuân muộn
Từ tàng lá
có tiếng lào xào - người hay chim?
Và những cây
anh đào đang nở rộ vỗ nhẹ lên những xe tải nặng trên đường trở về nhà.
Những tuần lễ
qua đi
Đêm chầm chậm
tới
Bướm đêm làm
tổ trên ô cửa:
Những thông
điệp nhỏ nhợt nhạt từ thế giới?
Note: Đọc “Bản
thảo thời gian”, bèn dịch bài này.
Thơ của bạn
lạ lắm, có cái air thơ Đường, có cái chất nostalgie, và có, ở trong cái
tít của
bài thơ của Tomas Transtromer: Lamento.
Tks. Take
care. NQT
Web definitions
A lament or
lamentation
is a passionate expression of grief, often in music, poetry, or song
form. The
grief is most often born of regret, or mourning.
http://en.wikipedia.org/wiki/Lamento
Tạm dịch: Lamento là
tiếng than van, thường là trong nhạc, thơ và bài hát, phát sinh từ ân
hận, hay tưởng niệm...
ON THE BANK
He was
sitting by the river, among reeds
that
peasants had been scything for their thatch.
And it was
quiet there, and in his soul
it was
quieter and stiller still.
He kicked
off his boots and put
his feet
into the water, and the water
began
talking to him, not knowing
he didn't
know its language.
He had
thought that water is deaf-mute,
that the
home of sleepy fish is without words,
that blue
dragonflies hover over the water
and catch
mosquitoes or horseflies,
that you
wash if you want to wash, and drink
if you want
to drink, and that's all there is
to water.
But in all truth
the water's
language was a wonder,
a story of
some kind about some thing,
some
unchanging thing that seemed
like
starlight, like the swift flash of mica,
like a
divination of disaster.
And in it
was something from childhood,
from not
being used to counting life in years,
from what is
nameless
and comes at
night before you dream,
from the
terrible, vegetable
sense of
self
of your
first season.
That's how
the water was that day,
and its
speech was without rhyme or reason.
-Arseny
Tarkovsky
(Translated
from the Russian by Robert
Chandler)
NYRB Feb 20,
2014
Nơi bờ sông
Anh ta ngồi
nơi bờ sông, giữa đám lau sậy,
Dân làng
thường cắt để lợp mái nhà.
Nơi đây yên
tịnh, và yên tịnh hơn, là linh hồn anh ta.
Anh ta tháo
giầy, dúng chân xuống nước,
Và nước bắt đầu lèm bèm với anh ta,
Không biết
rằng anh ta làm sao biết ngôn ngữ của nó.
Anh ta nghĩ,
nước thì câm và điếc,
Nhà của cá lơ
tơ mơ ngủ kia thì làm sao có ngôn từ,
Những con
chuồn chuồn la đà trên mặt nước
Săn bắt ruồi
muỗi,
Rằng anh ta
có thể rửa chân, nếu anh ta muốn rửa
Rằng anh ta
có thể uống nước, nếu anh ta muốn uống,
Rằng chuyện
về nước thì là như thế.
Nhưng sự thực, ngôn ngữ của nước là kinh ngạc, bỡ ngỡ,
Một thứ câu
chuyện về 1 điều gì đó
Một điều gì
không thay đổi
Như ánh sao,
Như tia nhoáng
mica,
Như điềm triệu
thảm họa.
Và đó là 1 điều
gì từ thuở còn là con nít
Từ thuở chưa
quen đếm cuộc đời bằng những năm tháng
Từ thuở chưa
có tên
Và đến vào đêm,
trước cơn mộng của bạn
Từ một cảm
quan khủng khiếp, thực vật, về cái ngã,
Của mùa đầu của bạn.
Và nước,
của ngày đó, là như thế đó
Và ngôn ngữ
của nó thì không có vần điệu hay lý lẽ.
NYRB, Feb
20, 2014
VII
The Verdict
The word
landed with a stony thud
Onto my
still-beating breast.
Nevermind, I
was prepared,
I will
manage with the rest.
I have a lot
of work to do today;
I need to
slaughter memory,
Turn my
living soul to stone
Then teach
myself to live again…
But how. The
hot summer rustles
Like a
carnival outside my window;
I have long
had this premonition
Of a bright
day and a deserted house.
~ Anna
Akhmatova
excerpt from Requiem,
taken from The
Complete Poems with
thanks to journal of
a nobody
Bản án
Như 1 cục đá
Rớt xuống ngực
tôi, còn đập
Cũng chẳng
sao. Tôi đã được sửa soạn
Và sẽ xoay sở
với hồi kết cục
Tôi có khá
nhiều việc để làm bữa nay
Tôi cần tàn
sát hồi ức,
Biến hồn
mình thành đá
Và dạy cho
chính mình,
Lại sống….
Nhưng làm
sao.
Mùa hè nóng
xào xạc
Như 1 ngày hội
ở bên ngoài cửa sổ phòng tôi
Tôi dự cảm
điều này lâu rồi
Về một ngày
sáng rỡ và một căn nhà bỏ hoang
~ Anna
Akhmatova
BITTER
LEMONS
In an island
of bitter lemons
Where the
moon's cool fevers burn
From the
dark globes of the fruit,
And the dry
grass underfoot
Tortures
memory and revises
Habits half
a lifetime dead
Better leave
the rest unsaid,
Beauty,
darkness, vehemence
Let the old
sea-nurses keep
Their
memorials of sleep
And the
Greek sea's curly head
Keep its
calms like tears unshed
Keep its
calms like tears unshed.
LAWRENCE
DURRELL
Note: Cuốn
sách & bài thơ trong đó, mua & dịch, những ngày mới tới Xứ Lạnh
[đừng hỏi
tại sao Durrell, thuổng “xì tai” bạn Cà, đừng hỏi tại sao chân anh run]
mới vô
nghề bán bảo hiểm nhân thọ, có tí tiền còm, không phải tiền trợ cấp xã
hội.
Nhờ 1 năm đi làm, sau đó, khi khám phá bịnh đầy mình, nhà nước Canada
bèn cho
ăn chế độ bịnh, bảnh hơn trợ cấp xã hội. Thế là bèn bye bye tờ VH/NMG
ra ở
riêng, làm trang TV, hoành dương Cái Ác Bắc Kít.
Cái bà nhân viên nhà nước còn gật gù, ta biết, mi qua xứ ta không phải
để ăn vạ
nhà nước ta.
Vào cỡ tuổi của mi, ăn vạ cũng chẳng ai nói gì!
Ui chao lại nhớ cái tay Cà Na Điên già, trưởng phái đoàn Canada, ở Trại
Tị Nạn,
khi nhận Gấu. Chương trình nhận người tị nạn của Canada có tên là Nhân
Lực, Man
Power. Nước Canada cần cu li, đếch cần nhà văn. Nhưng nghe mày nói đi
tì VC vì
viết văn, ta bèn phá thông lệ!
Hà, hà!
Bản dịch bài
thơ trên, nhớ là có mấy câu thần sầu, kiếm không ra, cái gì gì
"giữ
những giọt lệ đá xanh, trong tim, trong hồn, đếch cho chẩy ra ngoài,
cho lũ ngu
nhìn thấy".
Chắc là thuổng
ý TTT, lệ không rơi ngoài tim mình, lệ là những viên đá xanh, tim rũ
rượi…
PRIDE OF
PLACE
Past the
gaga experiments
to ginger
high school thriller days
I wheel
fragile issues: a fight on there,
bulbous
antennae, a herald
carved alone
in the archer position-sweet!
We had a few
people over to
celebrate
the monotony of the new place.
Meatless
meat loaf. Roger. Over to
you. I took
a piece of plain foolscap,
my American
University in Baku stationery,
sole thing
to be underestimated here,
and set down
just words that wrote something,
probably as
close as I want to keep to it,
all the
water and stringiness.
It feels
like Sunday today
but it's
Saturday. What does Saturday feel like
on Sunday?
Not that it's that
hard to
remember. I'd always be grinning and opened.
No protocol;
heck, no manners
on flood
watch. She's one of the famed Gowanus sisters.
It hasn't
affected the weather yet.
Do you get a
sense of white table settings,
the
so-called vacant stare that afflicts them
as adults on
a sit-down strike?
Listen up,
tenderfoot. Who says you need to be awake
to
appreciate poetry? The landlady, that's who.
Where are
they now?
-John
Ashbery
NYRB Feb 6, 2014
Two Bodies
Two bodies
face to face
are at times
two waves
and night is
the ocean.
Two bodies
face to face
are at times
two stones
and night
the desert.
Two bodies
face to face
are at times
roots
in the night
entangled.
Two bodies
face to face
are at times
knives
and the
night lightning.
Two bodies
face to face
are two
stars that fall
in an empty
sky.
Hai cái mình
Hai cái mình
nhìn nhau
Thì như hai
đợt sóng
Và đêm là biển
cả
Hai cái mình
đối diện
Thì như hai
cục đá
Và đêm là sa
mạc
Hai cái mình
ngó nhau
Thì như hai
cái rễ
Trong một đêm
chằng chịt
Hai cơ thể
nhìn nhau
Thì như hai
lưỡi dao
Trong một đêm
lấp lánh
Hai cơ thể
nhìn nhau
Thì như hai
ngôi sao
Rơi vào bầu
trời rỗng
Epitaph for
a Poet
He wanted to
sing, to sing
to forget
his true
life of lies
and to
remember
his lying
life of truths.
Bia mộ nhà
thơ
Anh ta muốn
hát, hát
Để quên
Cuộc đời thực toàn dối trá
Và để nhớ
Cuộc đời dối trá toàn sự
thực
Của anh ta
Octavio Paz: Poems [1941-1948]
Cây đa bến
cũ hồn ta
Em ạ, mười
năm xa bến cũ
Lòng ta vẫn ủ
bóng trăng xưa
Nắng mưa
thuyền đã sang dòng khác
Câu hát ngày
thơ trót chạnh sầu
Nắng xế
ngang đầu đôi sợi bạc
Tình ơi tan
tác thuở ngang vai
Thương nhau
nhớ lại lời năm ấy
Mà thấy vầng
trăng cũng nghẹn ngào
Màu áo hoàng
lan hương kiếp trước
Giữa đời ngước
mắt dõi chiêm bao
Muối mặn
chưa trao ngày nhạt nắng
Miếng gừng
cay đắng tới ngàn sau
Gạo sầu đắm
đuối nuôi nhau
Cắn đôi hạt
lệ lòng đau hỡi lòng
Bạn vắng đường
xa chiều đứng bóng
Đôi lòng
chung mộng một đời ai
Cầm tay muốn
hỏi người sơ ngộ
Ngập ngừng
nông nỗi áng mây trôi
Thôi thế
tình sau thương ý trước
Đoạn trường
nước mắt lẫn mưa rơi
Trắc ẩn nụ
cười tan tác lệ
Núi sông
xương máu một câu thề
Người đi đi
mãi chưa về
Cây đa bến
cũ hồn quê đợi chờ
Chút tình tự
thuở ngây thơ
Phất phơ mái
tóc nguyệt mờ trăm năm
1975
Joseph Huỳnh
Văn
Roadkill
I
want to see things as they are
without me. Why, I don’t know.
As a kid I always looked
at roadkill close up, and poked
a stick into it. I want to look at death
with eyes like my own baby eyes,
not yet blinded by knowledge.
I told this to my friend the monk,
and he said, Want, want, want.
Chase
Twichell
The
New Yorker, Jan 6, 2014
Roadkill
Tôi
muốn nhìn sự vật như chúng là,
Đếch có tôi. Tại sao, tôi đếch biết.
Như 1 đứa bé, tôi luôn nhìn 1 con vật bị xe cán chết
thật gần,
Và lấy 1 khúc cây thọc vô nó
Tôi muốn nhìn vào cái chết
Với cặp mắt con nít của chính tôi,
Chưa bị bịt mù bởi tri thức
Tôi nói điều này với người bạn, thiền sư,
Và anh ta nói, Muốn, muốn muốn.
*
Thấy
bài này, trên tờ “The Intel”, bèn bệ về, nhẩn
nha dịch hầu độc giả TV
HIGH-VOLTAGE HEANEY
Thi
sĩ điện
cao thế Heaney
Notes
on a Voice: Christina Patterson tunes into the
poet who made English sing
From
INTELLIGENT LIFE magazine, January/February
2014
In
a poem in "Electric Light", Seamus
Heaney talked of "language that can still knock language sideways".
This is what he did. He took ordinary words like "sod" and
"drain" and "rot" and turned them to gold.
When
he won the Nobel prize, in 1995, he was praised
for "works of lyrical beauty and ethical depths which exalt everyday
miracles and the living past". Heaney, who died in August aged 74,
never
called his poems "miracles", but he did talk about falling in love
with the "voltage" of language. He wanted, he said, to write with
"a musically satisfying order of sounds", and more than almost any
poet of the past 50 years, he made English sing.
Famous
Seamus, as he came to be known, scooped most
of the big prizes for poetry, and sold more books than most of his
peers
combined. But if he seemed to retain the common touch in the way he
wrote and
spoke, this was only because he hid the art.
GOLDEN
RULE
"Don’t
have the veins bulging in
your biro." These words, from Heaney’s poem "Fosterage" (1975),
echo the advice of his mentor, the novelist Michael McLaverty, to whom
it was
dedicated. Don't, in other words, show off. Make it look easy, even if
it never
is.
KEY
DECISIONS
To
keep his poetry largely rooted in
the landscape of his childhood, and to bring it so vividly to life that
you can
almost touch and smell it. Heaney used the sounds and smells and sights
of the
Northern Irish countryside to talk about family, history and myth. Most
famously, in his poem "Digging", in his first collection, "Death
of a Naturalist" (1966), he used them to talk about his vocation. He
describes the "cold smell of potato mould, the squelch and slap" of
the "soggy peat" his father and grandfather would dig, but says that
he'll dig with his "squat pen".
STRONG
POINTS
Heaney
is a storyteller. He takes the
familiar and makes it strange. He does this partly by using verbs as
nouns and
nouns as verbs. He writes of "a sense...of glimpse and dapple" and of
birds that "cuckoo your name across the fields". He also loves to
stick words together—"wheat-straw", "dark-streaked",
"white-pronged"—and to make them up. The word "enemy", he
says in his poem "England's Difficulty", had "the toothed
efficiency of the mowing machine". The poem, like so many of Heaney's,
uses a real childhood memory to touch on politics and history, but it
does so
obliquely. His voice, he once said in a documentary, was given to him
"by
division". It was "a stealthy voice, a voice that spoke in
codes". So you can read a Heaney poem a hundred times, and still find
more
in it.
FAVOURITE
TRICK
To
plunge you straight into the
visceral detail of an early memory, then suddenly take you to a place
that
almost feels—though it's not a word he’d rush to use—transcendent. In
"Personal Helicon", he talks of "the smells/Of waterweed, fungus
and dank moss", "soft mulch" and "slime" and then, in
the last sentence of the last stanza, he pulls us away from that
childhood, to
what it's all about: "I rhyme," he writes, "To see myself, to
set the darkness echoing."
ROLE
MODELS
Heaney
cited Yeats, Wordsworth and
Hopkins as influences, as well as Americans like Lowell and Bishop. His
poetry
is like nobody else's, but you can see shades of Lowell in some of the
stories,
and of Yeats in the singing line.
TYPICAL
SENTENCE "All year the flax-dam festered
in the heart/Of the townland; green and heavy headed/Flax had rotted
there,
weighted down by huge sods." (The opening lines of "Death of a
Naturalist".)
Christina
Patterson has written for the Observer
and
the Spectator and is a former Independent columnist
Illustration
Kathryn Rathke
Trong một bài
thơ, trong “Ánh Điện”, Seamus Heaney nói về “ngôn ngữ vưỡn có thể khện
me mé ngôn
ngữ”. Đó là điều ông đã làm. Ông lấy những từ bình thường như “sod”,
“drain”, và
“rot” và biến chúng thành vàng.
Khi được
Nobel, năm 1995, ông được ca ngợi, “tác phẩm của ông có vẻ đẹp trữ tình
và những
chiều sâu đạo hạnh, chúng tôn vinh những
phép lạ của mọi/mỗi ngày và quá khứ sống động”. Heaney mất tháng Tám,
thọ
74 tuổi, chẳng bao giờ gọi những bài thơ của mình là những “phép lạ”,
nhưng có nói, ông tương tư tính “điện cao thế” của ngôn ngữ. Ông nói,
ông muốn viết,
với “một trật tự từ thỏa mãn như tiếng nhạc”, và bảnh hơn bất cứ một
nhà thơ nào
trong 50 năm qua, ông làm cho tiếng Anh hát.
Ở những ngôi
nhà này
không còn gì
cả
ngoài
những
mảnh vụn ký ức
Những
người
đã từng trò chuyện với tôi
không một
ai
sót lại
Nhưng trong
trái tim tôi
Không một
thánh giá của ai rơi mất
Trái tim tôi
một trú xứ
thống khổ tràn đầy. (*)
Tháng
12/2013
(*) Thơ
Giuseppe Ungaretti (1888-1970), San Martino Del Carso:
Of these
houses /nothing/ but/fragments of memory /Of all who/would talk with
me/ not
one remains.
But in my
heart/no one’s cross is missing/My heart is/the most tormented country
of all.
Bài thơ này,
Gấu Cà Chớn mạn phép dịch giả thêm vô, một…. “phóng
bút":
Về mái
ấm
gia đình
Chẳng còn
Nếu còn chăng,
Thì là những
mảnh vụn
Về những con
người
Đã từng lèm
bèm với GCC
Ai cũng bỏ
GCC cả!
Nhưng trong
trái tim của GCC
Không cây thánh
giá nào
của một ai
bị mất mát, bỏ quên, thiếu nhớ.
Trái tim GCC
là cái xứ sở bị hành hạ khủng nhất trong tất cả!
Hà hà!
Thơ
Mỗi Ngày
OPEN AND
CLOSED SPACES
A man feels
the world with his work like a glove.
He rests for
a while at midday having laid aside
the gloves
on the shelf.
There they
suddenly grow, spread
and black
out the whole house from inside.
The
blacked-out house is away out among the winds of spring.
"Amnesty,"
runs the whisper in the grass: "amnesty."
A boy
sprints with an invisible line slanting up in the sky
where his
wild dream of the future flies like a kite
bigger than
the suburb.
Further
north you can see from a summit the blue endless
carpet of
pine forest
where the
cloud shadows
are standing
still.
No, are
flying.
Tomas
Transtromer: Selected Poems,
ed by Robert Hass
Những không
gian mở và đóng
Người đàn ông cảm
thấy thế giới với tác phẩm của hắn ta như cái bao
tayJennifer_Kimtran@hotmail.com
Hắn nghỉ ngơi
vào lúc trưa và
để cặp bao tay trên giá.
Bất thình lình,
cặp bao tay nở lớn mãi lên, trải dài ra, và
lấy hết mọi ánh sáng trọn căn nhà
từ phía bên trong.
Căn nhà bị
chôm mất điện bèn
"ôi ta buồn ta đi lang thang",
giữa những trận gió mùa xuân.
“Ân xá”, tiếng
thì thào chạy dài giữa đám cỏ: “ân xá”.
Đứa bé chạy một đường dài vô hình
như con dốc nghiêng lên bầu trời
Nơi giấc mộng
hoang dại của nó về tương lai
như một
cánh diều
lớn hơn ngoại ô.
Mãi tít lên
phía bắc bạn có thể nhìn thấy,
từ một đỉnh,
xanh
xanh những mấy ngàn thông
trải dài không dứt, đến tận chân trời,
[Ngàn thông xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý
thiếp ai sầu hơn ai!]
nơi những bóng
mây
đứng sững.
Không. Bay,
bay.
Something Old, Something
New:
Charlotte Mew
New
anthologies of English poetry are not, normally, a reason to get
excited, I
know, even for someone like me who would be apt to pick them up with
some
interest and curiosity. But there is a new anthology of English verse
that I am
actually very excited by. It's the New Penguin Book of English Verse,
edited by
the poetry editor at Faber & Faber (T. S. Eliot's former job) Paul
Keegan,
and it is a book that, if you have any interest in reading poetry, you
are
going to want to own. It's unusual in two ways-first, it is organized
not by
author but by the year in which the poem was published; second, unlike
most of
the anthologies created for use in courses on English literature, this
one
reads through English poetry with a completely fresh eye. There are not
only
delicious poems I hadn't seen before from medieval manuscripts-I am
going to
modernize the spelling in this one from some time between 1300 and 1350-
All night by
the rose, the rose,
All night by
the rose I lay.
Though I
dare not steal the rose,
I bore the
flower away-
Here, from
1916, in the years of American modernism, next to poems by D. H.
Lawrence and
Ezra Pound and H.D., is a piece by Charlotte Mew:
A Quoi Bon Dire
Seventeen
years ago you said
Something
that sounded like Good-bye;
And
everybody thinks that you are dead,
But I.
So I, as I
grow stiff and old,
To this and
that say Good-bye too;
And
everybody sees that I am old
But you.
And one fine
morning in a sunny lane
Some boy and
girl will meet and swear
That nobody
can love their way again
While over
there
You will
have smiled, I shall have tossed your hair.
The next
year T. S. Eliot's "Love Song of J. Alfred Prufrock" would appear and
come in another and more surprising way at the subject of lived and
unlived life. It's fascinating to see, as Keegan allows us to do, the
poems we
know in relation to some of the poems we seem to have forgotten.
Robert Hass: Now & Then
À Quoi Bon
Dire
Lời Nào Em
Không Nói
Mười bảy năm
trước em phán
Có điều gì
nghe như Good-bye
Và mọi người
đều nghĩ, em đi xa
Không phải
em mà là anh.
Và như thế,
anh, ườn mãi ra, già mãi đi.
Uờn như thế,
già như thế, thì cũng là Good-bye.
Và mọi người
thì đều thấy anh già.
Em, vưỡn như ngày nào.
Và một buổi sáng
đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một
cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài
người sẽ chẳng còn ai yêu, như là họ yêu nhau
Trong khi đâu
đó, ở đằng xa kia,
Em sẽ mỉm cười,
và anh sẽ đụng nhẹ lên mái tóc em.
*
Đáng lẽ đầu
năm thì bỏ qua, mà đọc bài thơ dịch "A quoi bon dire" ... thì phải ghẹo
ít chữ .
Bài thơ này,
theo như lời giới thiệu :
Here, from
1916, in the years of American modernism, next to poems by D. H.
Lawrence and
Ezra Pound and H.D., is a piece by Charlotte Mew:
Tức là của
bà Charlotte Mew, vậy thì người xưng I ở đây chắc nên cho là phái nữ .
K nghĩ ý nó
như vậy nè :
Mười bảy năm
trước anh nói
gì gì nghe
như thể vĩnh biệt
Và giờ đây mọi
người đều nghĩ, anh chết rồi
Trừ em
Thế rồi, em
càng ngày càng khô, càng lão
Em giờ cũng
nói vĩnh biệt này nọ.
Và ai cũng
thấy rằng em già thật
Trừ anh
Và một buổi
sáng đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một
cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài
người sẽ chẳng còn ai yêu, như là họ yêu nhau
Trong khi
đâu đó, ở đằng xa kia,
Anh sẽ mỉm
cười, và em sẽ đùa với mái tóc của anh.
Tks.
Nhân tiện,
chúc Tết Tây K & O luôn.
NQT
Robert Hasas: Now & Then
1998
JANUARY 4
A Korean
Poet: Ko Un
Modern
Korean poetry, like the poetry of Eastern Europe, is inextricably
entangled
with the country's history in the twentieth century: Japanese military
occupation from 1905 to 1945, during which time efforts were made to
eradicate
the Korean language; a devastating civil war, made more devastating
because the
war and the peninsula became a pawn in the Cold War; the division of
the
country; a series of military dictatorships in the South, the Republic
of
Korea, accompanied by continued Cold War tensions with the North; a
U.S.
military presence; a remarkable economic recovery; and an intense
grass-roots
democracy movement that often fought the government in the streets.
The conflict
between the protesters and the government culminated in a massacre in
the
southern city of Kwangju in 1979 in which over five hundred people,
mostly
students, were killed. It was the Tiennamen Square of that decade. To
get a
sense of the magnitude of it: there are forty million Koreans, so it
was as if
the U.S. National Guard had shot down 2,500 students at Kent State in
1971
instead of four. After Kwangju, the memory of that event became the
focus of the
pro-democracy movement, which finally bore fruit in 1992 when the
Republic
elected a president, Kim Young Sam, who exposed financial scandals and
prosecuted the perpetrators of the massacre. Last week the leader of
the
movement for decades, Kim Dae Jung, was elected to the presidency. It's
a
remarkable story, it's not only a story about the Korean economy, and
it's not
over. And Americans, who bear some responsibility for the violent turns
in modern
Korean history, know very little about it.
One of the
prominent literary figures in the movement to resist government
suppression of
the Kwangju incident and to bring about democratic reforms was a poet
named Ko
Un. In the 1970S and 1980s he was arrested four times, imprisoned,
tortured-as
a result of which he lost his hearing in one ear-and ultimately
pardoned. He
had been a student in the years of Japanese occupation, a Buddhist monk
when he
began to write, and, after his return to secular life, another of the
twentieth
century's alienated urban poets until he joined the democracy movement
and
became an active dissident. While he was in prison, he conceived one of
his
major projects, to write a poem about every person he had ever known.
Called
Ten Thousand Lives, two volumes of this monumental work have been
published.
Only a handful of the poems have appeared in English
translation, but they are remarkably rich. Anecdotal, demotic, full of
the
details of people's lives, they're not like anything else I've come
across in
Korean poetry. It's to be hoped that a fuller translation of them will
appear.
In the
meantime a book of Ko Un's short Buddhist poems is just out from
Parallax
Press, Beyond Self: 108 Korean Zen Poems, translated by Kim Young Moo
and
Brother Anthony. Here are a few of these brief, tough-minded poems in
the"
crazy wisdom" tradition:
Echo
To mountains
at dusk:
What are
you?
What are you
are you ...
A Drunkard
I've never
been an individual entity.
Sixty
trillion cells!
I'm a living
collection
staggering
zigzag along.
Sixty
trillion cells! All drunk.
A Friend
Hey! With
the clay you dug out
I fashioned
a Buddha.
It rained.
The Buddha
turned back into clay.
Clear skies
after rain are pointless.
Ripples
Look! Do all
the ripples move
because one
ripple started to move?
No.
It's just
that all the ripples move at once.
Everything's
been askew from the start.
A Shooting Star
Wow! You
recognized me.
A Moonless Night
No moon up
yet the two
hundred miles
between you
and me
shine bright
all the night long.
That dog
that'll die tomorrow
doesn't know
it's going to die
It's barking
fiercely.
One hundred
and eight poems because there are 108 beads on a Buddhist
"rosary," and in the old learning 108 karmic bonds of passion
and delusion
.
Note: Several volumes of
Ko Un's work
are now available:
Ten Thousand Lives, translated by Brother
Anthony of Taizé
and Gary Gach (Green Integer); Flower of the
Moment, translated by Brother Anthony of Taizé and Gary Gach (BOA Editions); and The Three-Way Tavern, translated by Claire Yoo and Richard Silverg (University of
California
Press).
Note: TV
có hai bài của Robert Hass, viết về nhà thơ Đại Hàn Ko Un. Bài kia,
trong cuốn
tiểu luận của ông, dài quá. Bài này mở ra năm 1998, và cuốn Now &
Then.
Then, the
Korean war began. "Half of my generation died," Ko Un continued.
"And I survived. So there was a sense of guilt, of culpability, at
being a
survivor. They had all died, and here I was, still alive. So from that
time on
I'm inhabited by a lament for the dead. I have this calling to bring
back to
life all those who have died. Freud says the dead have to be left dead.
Derrida
said the dead are and should be always with us, not abandoned. I'm on
Derrida's
side. I bear the dead within me still, and they write through me.
Sometimes
it's not me writing at all. It's they who are writing, they are there,
ahead, a
live presence in what lies ahead. This world of ours in the end is one
huge
cemetery."
In early
1970 he drank poison, but survived. Ko Un explained more about what
moved him
to the political activism that led to four periods in prison. "In
earlier
times I knew nothing except poetry," he said. "Then, in 1970, I read
of how a young worker had set himself on fire and killed himself in the
struggle for human rights, and for workers' rights. I had long longed
to die,
tried to die, and reading that account I compared the death I had been
dreaming
of with that young man's death, and I began to come in contact with and
encounter the reality which brought about his death: dictatorship, and
all the
horrors related to such authoritarian regimes. So I began to cast away
the kind
of death I had been carrying with me. I began to go out into the
streets, in
demonstrations against the regime, so of course I ended up in prison."
DECEMBER
EVENING 1972
Here I come,
the invisible man, perhaps employed
by a Great Memory to live right now. And I
am driving past
the
locked-up white church-a wooden saint is standing in there
smiling, helpless,
as if they had taken away his glasses.
He is alone.
Everything else is now, now, now. The
law of gravity pressing us
against our
work by day and against our beds by night. The war.
Chiều Tháng
Chạp 1972
Đây, tôi tới,
người vô hình, có lẽ được Hồi Ức Lớn sử dụng, để sống, ngay bây giờ.
Và tôi lái
xe qua ngôi nhà thờ trắng, cửa đóng - một tượng thánh bằng gỗ đứng đó,
mỉm cười,
vô dụng, bất lực
như thể họ lấy mẹ mất cặp kính của ông ta.
Ông ta thì một mình.
Mọi thứ khác thì ngay đây, ngay giờ.
Luật trọng lực
ép chúng ta, trước công việc, ban ngày,
và trước cái giường, ban đêm.
Chiến
tranh
A WINTER
NIGHT
The storm
puts its mouth to the house
and blows to
produce a note.
I sleep
uneasily, turn, with shut eyes
read the
storm's text.
But the
child's eyes are large in the dark
and for the
child the storm howls.
Both are
fond of lamps that swing.
Both are
halfway towards speech.
The storm
has childish hands and wings.
The Caravan
bolts towards Lapland.
And the
house feels its own constellation of nails
holding the
walls together.
The night is
calm over our floor
(where all
expired footsteps
rest like
sunk leaves in a pond)
but outside
the night is wild.
Over the
world goes a graver storm.
It sets its
mouth to our soul
And blows to
produce a note. We dread
that the
storm will blow us empty.
Tomas
Transtromer: Selected Poems,
ed by Robert Hass
Đêm Đông
Bão đưa cái
mõm của nó vô nhà thổi đánh phù 1 tiếng
Tớ khó ngủ,
đập mình đập mẩy, mắt nhắm tít đọc bản văn của bão.
Nhưng mắt của
đứa trẻ thì lại mở lớn trong bóng tối
Và vì đứa bé
mà bão hú.
Cả hai đều mê
quá là mê, những ngọn đèn chao đảo
Cả hai thì đều
ở nửa đoạn đường tới với lời
Bão có tay và
cánh trẻ con
Đoàn lữ hành trốn tới Lapland
Và căn nhà cảm
thấy nó là cả bầu trời với những ngôi sao là những cây đinh
Chúng giữ những
bức tường vào với nhau.
Đêm lặng lẽ trên sàn nhà
(nơi tất cả
những bước chân hết hạn, nghỉ, như những chiếc lá chìm trong ao)
Nhưng bên
ngoài đêm mới hung bạo làm sao.
Phủ lên thế
giới, là 1 trận bão trầm trọng hơn
Nó để cái miệng
của nó vô linh hồn chúng ta
Phù 1 cú, tạo
một âm thanh.
Gấu quá sợ
Biết đâu đấy,
cơn bão sẽ thổi sạch linh hồn Gấu
Để lại một trống
không.
Oysters
Oysters,
like girls, like pearls.
Pearls
like
darkness and moisture.
With
pearls
round her neck or amidst her curls,
my girl
makes my world my oyster.
Hến
Hến như gái,
mê trai
Trai, mê
bóng tối, tèm nhẹp.
Với chuỗi ngọc
trai nơi cổ, giữa những lọn tóc,
Em của tớ, biến
thế giới của tớ, thành hến của tớ.
Epitaph for
a Tyrant 1
He could
have killed more than he could have fed
but he chose
to do neither. By falling dead
he leaves a
vacuum and the black Rolls-Royce
to one of
the boys who will make the choice.
Bia mộ cho
Bác Hồ
Bác có thể giết
nhiều hơn là Bác có thể nuôi
Nhưng Bác
đếch
chọn thứ nào cả.
Ngỏm, Bác
để
lại 1 chỗ trống, và một chiếc xe nhà đòn, màu đen
Một trong
lũ
Cháu Ngoan Bác Hồ sẽ chọn nó.
Epitaph to a
Tyrant 2
He was in
charge of something large.
Some call it
Hell; some Paradise.
Now that
he's gone, let's drop the grudge:
We are still
alive. Surprise! Surprise!
Bia mộ cho
Bác Hồ
Bác Hồ phụ
trách một cái gì to tổ bố
Có người gọi
là Địa Ngục; người khác, Thiên Đàng
Nhưng Bác ngỏm
rồi, thôi kệ cha Bác.
Chúng mình
vưỡn còn sống, Lạ quá!, Ngạc nhiên quá!
Bosnia Tune
As you sip
your brand of scotch,
crush a
roach, or scratch your crotch,
as your hand
adjusts your tie,
people die.
In the towns
with funny names,
hit by
bullets, caught in flames,
by and large
not knowing why,
people die.
In small
places you don't know
of, yet big
for having no
chance to
scream or say goodbye,
people die.
People die
as you elect
brand-new
dudes who preach neglect,
self-restraint,
etc.-whereby
people die.
Too far off
to practice love
for thy
neighbor/brother Slav,
where your
cherubs dread to fly,
people die.
While the
statues disagree,
Cain's
version, history
for its fuel
tends to buy
those who
die.
As you watch
the athletes score,
check your
latest statement, or
sing your
child a lullaby,
people die.
Time, whose
sharp bloodthirsty quill
parts the
killed from those who kill,
will
pronounce the latter band
as your
brand.
[1992]
Joseph
Brodsky: Collected Poems in English
MY WHOLE
LIFE
Here once
again the memorable lips, unique and like yours.
I am this
groping intensity that is a soul.
I have got
near to happiness and have stood in the shadow
of
suffering.
I have
crossed the sea.
I have known
many lands; I have seen one woman and two
or three
men.
I have loved
a girl who was fair and proud, with a Spanish
quietness.
I have seen
the city's edge, an endless sprawl where the sun
goes down
tirelessly, over and over.
I have
relished many words.
I believe
deeply that this is all and that I will neither see
nor
accomplish new things,
I believe
that my days and my nights, in their poverty and
their
riches, are the equal of God's and of all men's.
[W. S.
Merwin]
MA VIE ENTIÈRE
Me voici
encore, les lèvres mémorables, unique et semblable à vous.
J'ai persévéré
dans l'à-peu-près du bonheur et dans l'intimité de la peine.
J'ai traversé
la mer.
J'ai connu
bien des pays; j'ai vu une femme et deux ou
trois
hommes.
J'ai aimé une
enfant altière et blanche et d'une hispanique
quiétude.
J'ai vu
d'infinies banlieues ou s'accomplit sans s'assouvir
une immortalité
de couchants.
J'ai gouté à
de nombreux mots.
Je crois
profondément que c'est tout et que je ne verrai ni
ne ferai de
nouvelles choses.
Je crois que
mes journées et mes nuits
égalent en
pauvreté comme en richesse celles de Dieu et
celles de tous
les hommes.
[Ibarra]
Trọn đời Gấu
Lại là tôi, ở
đây, đôi môi gợi
nhớ, độc nhất và như của em
Đắm đuối nơi “xém một tí” hạnh phúc, và, trong bóng của sự đau khổ
Tôi đi hết biển [đếch thấy xứ
Mít]
Tôi
biết nhiều xứ sở; tôi nhìn thấy 1 người đàn bà, và hai hoặc ba
người đàn ông
Tôi yêu một cô gái kiêu sa, trầm lắng Tây Ban Nha
Tôi đã nhìn thấy mép bờ thành phố,
một cõi bao la trải dài, nơi mặt
trời lặn, lặn hoài,
không mệt mỏi.
Tôi nếm đi nếm lại rất nhiều từ
Tôi nghĩ như vậy là quá đủ, chẳng cần thêm gì nữa.
Tôi tin tưởng, những ngày, những đêm của tôi, trong cái sự khốn cùng
cũng như giầu sang của chúng,
thì chẳng thua gì, của Thượng Đế, và của tất cả mọi
người.
|
|