|
Trong cuốn của
Robert Hass, Gấu mới dinh về, có bài "Cơn giận dữ của Chekhov", Chekhov's anger, thật là
tuyệt, và lại có tí tính thời sự, vì liên quan đến truyện ngắn, và
truyện ngắn mới
được Nobel.
Gấu chép lại ở đây, mấy câu thật thú, đọc khi ở tiệm sách, và vì thế
mà dinh về dinh [đưa nàng về dinh!]:
Chúng ta được
dạy từ những người viết giả tưởng của thế kỷ 19, là đọc tác phẩm, vì
cái nhìn của
nó, không chỉ về những cuộc đời riêng tư, mà về trọn xã hội.
We have been
taught by the fiction writers of the nineteenth century to read work
for its
view not just of individual lives but of a whole society.
Chekho tính làm cú này,
không phải viết rộng và mang tính biểu tượng, largely and symbolically,
nhưng choàng lên một khối lượng khổng lồ những cuộc đời Nga, but by
covering
immense amounts of Russian life.
Cẩm như Trò
Đời, Comédie humaine, của Balzac, của Tẩy.
Nhưng câu kết
bài viết mới cực thú:
Nếu Chekhov không
phải là một trong những nhà tiểu thuyết gia vĩ đại nhất, thì ông là 1
trong những
nhà thi sĩ lớn lao nhất.
Robert
Hass,
1986.
Robert Hass
MARCH I [1998]
Marie Howe
Marie Howe's
new book, her second book of poems, is called What the Living Do (Norton). Many
of the poems deal with a beloved brother's death from AIDS, but the
book begins
with poems of childhood and adolescence. The boys' fort that the girls
couldn't
go into. The initiation where boys tie up girls, and things start to
get out of
hand, and the one boy the girls might trust is afraid to say, "Stop
it." The pajama parties where girls talk about boys and practice
kissing.
They're delicious poems, and they
have the effect of making you understand how powerful the love between
a
brother and sister can be, and what it might mean to have your older
brother and protector die before your eyes.
Howe's way
with language is very spare. Many of the poems have a stripped-down,
point-blank quality that gives them a certain radiance.
Here's one:
The Last Time
The last
time we had dinner together in a restaurant
with white
tablecloths, he leaned forward
and took my
two hands in his hands and said,
I'm going to
die soon. I want you to know that.
And I said,
I think I do know.
And he said,
What surprises me is that you don't.
And I said,
I do. And he said, What?
And I said,
Know that you're going to die.
And he said,
No, I mean know that you are.
Ui chao GCC đọc
bài thơ này, thì lại nhớ đến Sad Seagull, và cái lần ngồi với em, buổi
sáng, tại
1 quán Starbucks ở Little Saigon, và có thể, “anh đang chết, ở khu
Phước Lộc Thọ”, là đã
được tiên tri từ những dòng thơ trên.
Tks. NQT
NOVEMBER 21 [1999]
Thanksgiving:
Daniel Halpern
Anyone who
has had a newborn arrive in their life knows how powerful and hard to
describe
the emotions are. Twentieth-century poets have mostly stayed away from
them.
They are too frail. They are not mammal grief and rage, even though
they can
turn into grief and rage. (That's what King Lear is about.) And the
example of
the tradition of domestic and familial poetry in Victorian America has
not
encouraged us. It made the subject seem impossible to approach without
sentimentality. Language makes the distinction: we speak of anger and
desire as
"feeling," the tender and uneasy stuff around the helplessness of
infants, and the impulse to protect children we call "sentiment." And
it's probably well that we do. Because they are frail emotions, and
they are
capable of turning into something quite savage. Nevertheless it is a
deep
thing, the wonder (and fear) at the arrival of a newborn child, and the
process
of-hard to know how else to say it-falling in love that parents go
through with
this creature given into their care. How do you talk about it?
Daniel Halpern, in his new book Something Shining (Knopf),
takes the subject on. He's my editor, and an old friend, and a poet
I've been
reading for twenty years or more. I've always thought of him as a poet
on the model
of the Roman poet Horace, with a poised and immensely civilized mind
for the
life we live, its large and small panics and decorums, and a civilized
balance
in his verse, in which orderliness can sometimes seem sinister and wry,
and
sometimes seem a gift, the kind of gift social being can give to one
another,
like a well-set table. Reading him has, over the years, made for very
good
company, this intelligence that is reasonably disenchanted, keeps an
eye on the
decades as they pass, the telling particulars in the social habits of a
generation, its ardors, suavities, and defeats.
And now this book that requires another kind of
poise. How do
you write about the whole business of becoming a parent, and about the
way this
attachment, this profound and life-defining tenderness and wonder,
grows in us.
He goes straight to it, and succeeds, I think. Have a look:
After the
Vigil
They turn
up, no longer nameless,
their bodies
clear, so nearly pure
they appear
in morning light transparent.
They turn up
and one day look at you
for the
first time, their eyes sure now
you are one
of theirs, surely here to stay.
They turn up
wearing an expression of yours,
imitating
your mouth, the smile perfected
over years
of enduring amusing moments.
They turn up
without a past, their fingers,
inexact
instruments that examine what carpets
their turf,
what they inherit through blood.
They turn up
with your future, if not in mind
very much in
the explosive story of their genes,
in gesture
foreshadowing the what's-to-come.
They turn up
with your hair-albeit not much
of
it-something in the color, the curl of it
after the
bath, its bearing after sleep.
They turn up
already on their own, ideas
of their
own, settling on their own limits,
their
particular sense of things.
They turn up
and we have been waiting,
as they have
without knowing. They turn
into this
world, keeping their own counsel.
NOVEMBER 21 [1999]
Thanksgiving:
Daniel Halpern
Anyone who
has had a newborn arrive in their life knows how powerful and hard to
describe
the emotions are. Twentieth-century poets have mostly stayed away from
them.
They are too frail. They are not mammal grief and rage, even though
they can
turn into grief and rage. (That's what King Lear is about.) And the
example of
the tradition of domestic and familial poetry in Victorian America has
not
encouraged us. It made the subject seem impossible to approach without
sentimentality. Language makes the distinction: we speak of anger and
desire as
"feeling," the tender and uneasy stuff around the helplessness of
infants, and the impulse to protect children we call "sentiment." And
it's probably well that we do. Because they are frail emotions, and
they are
capable of turning into something quite savage. Nevertheless it is a
deep
thing, the wonder (and fear) at the arrival of a newborn child, and the
process
of-hard to know how else to say it-falling in love that parents go
through with
this creature given into their care. How do you talk about it?
Daniel Halpern, in his new book Something Shining (Knopf),
takes the subject on. He's my editor, and an old friend, and a poet
I've been
reading for twenty years or more. I've always thought of him as a poet
on the model
of the Roman poet Horace, with a poised and immensely civilized mind
for the
life we live, its large and small panics and decorums, and a civilized
balance
in his verse, in which orderliness can sometimes seem sinister and wry,
and
sometimes seem a gift, the kind of gift social being can give to one
another,
like a well-set table. Reading him has, over the years, made for very
good
company, this intelligence that is reasonably disenchanted, keeps an
eye on the
decades as they pass, the telling particulars in the social habits of a
generation, its ardors, suavities, and defeats.
And now this book that requires another kind of
poise. How do
you write about the whole business of becoming a parent, and about the
way this
attachment, this profound and life-defining tenderness and wonder,
grows in us.
He goes straight to it, and succeeds, I think. Have a look:
After the
Vigil
They turn
up, no longer nameless,
their bodies
clear, so nearly pure
they appear
in morning light transparent.
They turn up
and one day look at you
for the
first time, their eyes sure now
you are one
of theirs, surely here to stay.
They turn up
wearing an expression of yours,
imitating
your mouth, the smile perfected
over years
of enduring amusing moments.
They turn up
without a past, their fingers,
inexact
instruments that examine what carpets
their turf,
what they inherit through blood.
They turn up
with your future, if not in mind
very much in
the explosive story of their genes,
in gesture
foreshadowing the what's-to-come.
They turn up
with your hair-albeit not much
of
it-something in the color, the curl of it
after the
bath, its bearing after sleep.
They turn up
already on their own, ideas
of their
own, settling on their own limits,
their
particular sense of things.
They turn up
and we have been waiting,
as they have
without knowing. They turn
into this
world, keeping their own counsel.
FEBRUARY I [1998]
Một
nhà thơ Ba Lan: Adam
Zagajewski
Một trong những thơ đương thời
mà tôi mê, là Adam Zagajewski, một
nhà thơ Ba Lan, sống ở Paris, thành viên của thế hệ "Solidarity". Hai
tập thơ, và hai tập tiểu luận của ông, là những tác phẩm [đầy tính]
tưởng
tượng, và ngạc nhiên, về chính trị, và nghệ thuật. Mới đây, ông có nửa
năm làm
thầy ở Houston. Và ở đây, 1 bài thơ, từ cuốn mới ra lò của ông, Chủ
nghĩa
thần bí cho những người mới bắt đầu, là từ kinh nghiệm này. Một bài
thơ về
1 cái đầu lừ khừ, vào cái giờ chạng vạng, khi ý thức lập loè như ánh
đèn của
viên phi công:
Houston, 6
P.M.
Âu Châu đã
ngủ rồi, ở bên dưới cái khăn choàng xộc xệch, thô kệch
Của những
biên giới,
Và những hận
thù cũ, xưa: Pháp làm ổ tới Đức,
Bosnia trong
vòng tay của Serbia.
Lobely
Sicily trong biển xanh da trời
Mới đầu buổi
chiều, ở đây, đèn đã thắp,
Và mặt trời
u tối nhạt nhòa dần.
Tôi một
mình. Đọc tí tí, nghĩ tí ti.
Nghe ti ti
tí âm nhạc.
Tôi ở nơi,
có tình bạn,
Nhưng không
có một người bạn, nơi say mê,
Nở rộ không
cần sự thần kỳ
Nơi người chết
cười ha hả.
Tôi một mình
là bởi vì Âu Châu đang ngủ.
Tình yêu của
tôi ngủ trong một căn nhà cao ở ngoại vi Paris.
Ở Krakow và ở
Paris bạn bè của tôi,
Lội qua cùng
con sông lú, lấp, quên lãng.
Tôi đọc và
nghĩ; trong một bài thơ tôi thấy câu này,
“Có những cú
đánh thật khủng khiếp… Đừng hỏi!”
Tôi đếch hỏi,
tất nhiên.
Một chiếc trực
thăng làm vỡ mẹ buổi chiều êm ả.
Ở đây không
có những loài chim “nightingales” hay “blackbirds”.
Với tiếng
hót buồn, ngọt của chúng
Và bắt chước
mọi tiếng người.
Thơ vời
chúng ta tới với cuộc sống, với sự can đảm
Đối diện cái
bóng lớn mãi ra.
Bạn có thể
đưa mắt nhìn một cách bình thản Trái Đất
Như một phi
hành gia tuyệt hảo?
Dưng không,
Từ biếng
nhác vô hại,
Từ Hy Lạp của
những cuốn sách
Từ Jerusalem
của hồi tưởng;
Bất thình
lình xuất hiện
Một hòn đảo
của một bài thơ, không có người ở;
Một tên
[thuyền trưởng] Cook mới
Sẽ có một
ngày, khám phá ra nó.
Âu Châu thì
đã ngủ rồi.
Những con
thú của ban đêm,
Ảm đạm, và
tham lam
Dọn vô, mở
cuộc giết
Chẳng mấy chốc
Mẽo cũng ngủ.
Người dịch là
Clare Cavanagh. Một bài thơ không đơn giản. Rắc rối, phải nói thế - lưu
vong, mất
mát, ở 1 nơi mà anh ta chẳng cảm thấy chân của mình dính vào đất, hay,
như một mầm hạt, loay hoay tìm cách trổ rễ; cảm quan sắc bén về bạo
động của lịch sử, cái lừ đừ của nhịp sống của chúng ta, như 1 đáp ứng
[tương quan], với bạo
lực đó, "chuyện thường ngày ở huyện" liên quan đến “ngũ khoái” của
chúng
ta (ăn ngủ, đi đứng…). Cảm quan của
Zagajewski về quyền năng nghệ thuật - của những cuốn sách, âm nhạc,
thơ ca –
thì chẳng hề tiếu lâm khôi hài, hay mỉa mai châm biếm. Trong tác phẩm
của ông, Trái
đất thuộc về cái bóng, thơ, về can đảm và ánh sáng. Nhưng trong bài thơ
này,
thơ là 1 hòn đảo, không người ở, chờ được khám phá, và trong khúc thơ
chót, những
con vật của đêm bèn tiến vô. Quả là 1 bài “Ru mãi ngàn năm" khá khủng
khiếp!
“Có những cú
khủng khiếp… Đừng hỏi”, là dòng thơ thứ nhất, dùng làm tựa đề cho bài
thơ, từ tập
thơ đầu tiên của nhà thơ lớn, người Peru, César
Vallejo, mất năm 1938, nhan đề “Los
Heraldos Negros”, “Những
thiên sứ đen”. Cuốn thơ và bài thơ đều rất đáng tìm đọc. Còn chi tiết
này: Có
loài chim hét, blackbird, ở Texas, nhưng không phải Turdus
merula, the European blackbird, một loài chim hét
Âu Châu,
hót rất hay.
Tiểu luận
và
thơ của Zagajewski thì thật đáng đọc. Cả hai thì đều sáng ngời, thông
minh một
cách sắc sảo, chất khôi hài ở trong đó thì được chắt ra từ cuộc gặp gỡ
của Đông
Âu với lịch sử, và cũng đầy niềm vui bất ngờ. “Chủ nghĩa thần bí dành
cho những
kẻ mới bắt đầu” có những phẩm chất đó, và, cũng còn có, một nỗi buồn
rầu liên lỉ,
như thể, khi lịch sử, qua một bước ngoặt đáng khuyến khích của nó, như
ở Ba
Lan, những cảnh sắc chán chường mà chúng ta cưu mang ở trong chúng ta,
và của
thế giới, tiếp tục “u u”, những âm vang, với bạo lực và nỗi khốn cùng,
ở đâu đó,
được làm mới, và trở nên sáng sủa hơn.
FEBRUARY I [1998]
A Polish Poet: Adam
Zagajewski
One of my favorite contemporary
poets is Adam Zagajewski, a Polish
poet who lives in Paris. Zagajewski was a member of the generation of
Polish writers who came of age during the Solidarity years. Two volumes
of
translations of his poems have been published in English, Tremor
and Canvas,
both from Farrar, Straus & Giroux, and two volumes of his essays, Solidarity,
Solitude (Ecco Press) and Two Cities (Farrar, Straus &
Giroux),
imaginative and surprising books about politics and art. Lately, he has
been
teaching half the year in Houston. And here, from his new book, Mysticism
for Beginners (Farrar, Straus & Giroux), is a poem that comes
out of
that experience. It's a poem of the idling mind in that hour of dusk
when
consciousness flickers like a pilot light:
Một trong những thơ đương thời
mà tôi mê, là Adam Zagajewski, một
nhà thơ Ba Lan, sống ở Paris, thành viên của thế hệ "Solidarity". Hai
tập thơ, và hai tập tiểu luận của ông, là những tác phẩm [đầy tính]
tưởng
tượng, và ngạc nhiên, về chính trị, và nghệ thuật. Mới đây, ông có nửa
năm làm
thầy ở Houston. Và ở đây, 1 bài thơ, từ cuốn mới ra lò của ông, Chủ
nghĩa
thần bí cho những người mới bắt đầu, là từ kinh nghiệm này. Một bài
thơ về
1 cái đầu lừ khừ, vào cái giờ chạng vạng, khi ý thức lập loè như ánh
đèn của
viên phi công:
Houston, 6
P.M.
Europe already sleeps beneath a
coarse plaid of borders
and ancient hatreds: France nestled
up to Germany, Bosnia in Serbia's arms,
Lobely Sicily in azure seas.
It's early evening here, the
lamp is lit
and the dark sun swiftly fades.
I'm alone. I read a little, think a little,
listen to a little music.
I'm where there's friendship,
but no friends, where enchantment
grows without magic,
where the dead laugh.
Tôi ở nơi có tình bạn,
Nhưng không có một người bạn, nơi sự thích say mê, thích thú
Nở rộ không cần sự thần kỳ
Nơi người chết cười.
I'm alone because Europe is
sleeping. My love
sleeps in a tall house on the outskirts of Paris.
In Krakow and Paris my friends
wade in the same river of oblivion.
I read and think; in one poem
I found the phrase "There are blows so terrible ...
Don't ask!" I don't. A helicopter
breaks the evening quiet.
Poetry calls us to a higher
life,
but what's low is just as eloquent,
more plangent than Indo-European,
stronger than my books and records.
There are no nightingales or
blackbirds here
with their sad, sweet cantilenas,
and mimics every living voice.
Poetry summons us to life, to
courage
in the face of the growing shadow.
Can you gaze calmly at the Earth
like the perfect astronaut?
Out of harmless indolence, the
Greece of books,
and the Jerusalem of memory there suddenly appears
the island of a poem, unpeopled;
some new Cook will discover it one day.
Europe is already sleeping.
Night's animals,
mournful and rapacious,
move in for the kill.
Soon America will be sleeping, too.
Houston, 6
P.M.
Âu Châu đã
ngủ rồi, ở bên dưới cái khăn choàng xộc xệch, thô kệch
Của những
biên giới,
Và những hận
thù cũ, xưa: Pháp làm ổ tới Đức,
Bosnia trong
vòng tay của Serbia.
Lobely
Sicily trong biển xanh da trời
Mới đầu buổi
chiều, ở đây, đèn đã thắp,
Và mặt trời
u tối nhạt nhòa dần.
Tôi một
mình. Đọc tí tí, nghĩ tí ti.
Nghe ti ti
tí âm nhạc.
Tôi ở nơi,
có tình bạn,
Nhưng không
có một người bạn, nơi say mê,
Nở rộ không
cần sự thần kỳ
Nơi người chết
cười ha hả.
Tôi một mình
là bởi vì Âu Châu đang ngủ.
Tình yêu của
tôi ngủ trong một căn nhà cao ở ngoại vi Paris.
Ở Krakow và ở
Paris bạn bè của tôi,
Lội qua cùng
con sông lú, lấp, quên lãng.
Tôi đọc và
nghĩ; trong một bài thơ tôi thấy câu này,
“Có những cú
đánh thật khủng khiếp… Đừng hỏi!”
Tôi đếch hỏi,
tất nhiên.
Một chiếc trực
thăng làm vỡ mẹ buổi chiều êm ả.
Ở đây không
có những loài chim “nightingales” hay “blackbirds”.
Với tiếng
hót buồn, ngọt của chúng
Và bắt chước
mọi tiếng người.
Thơ vời
chúng ta tới với cuộc sống, với sự can đảm
Đối diện cái
bóng lớn mãi ra.
Bạn có thể
đưa mắt nhìn một cách bình thản Trái Đất
Như một phi
hành gia tuyệt hảo?
Dưng không,
Từ biếng
nhác vô hại,
Từ Hy Lạp của
những cuốn sách
Từ Jerusalem
của hồi tưởng;
Bất thình
lình xuất hiện
Một hòn đảo
của một bài thơ, không có người ở;
Một tên
[thuyền trưởng] Cook mới
Sẽ có một
ngày, khám phá ra nó.
Âu Châu thì
đã ngủ rồi.
Những con
thú của ban đêm,
Ảm đạm, và
tham lam
Dọn vô, mở
cuộc giết
Chẳng mấy chốc
Mẽo cũng ngủ.
The
translator is Clare Cavanagh. It's a complicated poem-the exile at a
loss in a
place where he cannot feel roots, or rather like some seed beginning
tentatively to send out roots; the acute sense of the violence of
history, the
oddness of the circadian rhythms of our lives in relation to that
violence, the
ordinariness of sleeping and waking. Zagajewski's sense of the power of
art-of
books, music, poetry-is never ironic. In his work Earth belongs to the
shadow,
poetry to courage and the light. But in this poem, anyway, poetry is an
island,
unpeopled, waiting to be discovered, and in the last stanza the night
animals
are moving in. A rather terrible lullaby.
There are perhaps a couple of details to
gloss. The line "There are blows so terrible ... Don't ask" comes
from the great Peruvian poet César Vallejo who died in 1938. This comes
from
the first line of the title poem of his first book, Los Heraldos Negros
(The
Black Messengers). It is a book and a
poem very much worth looking up. And another detail: there are, of
course,
blackbirds in Texas, but not Turdus merula, the European blackbird,
which is a
species of thrush and has a very rich song.
Zagajewski's essays and poems are worth
getting to know. Both can be radiant, sharply intelligent, suffused
with an
irony bred of Eastern Europe’s encounter with history, but full also of
unexpected joy. Mysticism for Beginners has these qualities, also a
restless
melancholy, as if, when history takes an encouraging turn, as it has in
Poland,
the despairing landscapes that we carry inside us and that the world
keeps
echoing with renewed violence and misery elsewhere become more clear.
Người dịch là
Clare Cavanagh. Một bài thơ không đơn giản. Rắc rối, phải nói thế - lưu
vong, mất
mát, ở 1 nơi mà anh ta chẳng cảm thấy chân của mình dính vào đất, hay,
như một mầm hạt, loay hoay tìm cách trổ rễ; cảm quan sắc bén về bạo
động của lịch sử, cái sự
lừ đừ của nhịp sống của chúng ta, như 1 đáp ứng [tương quan], với bạo
lực đó, "chuyện thường này ở huyện" liên quan đến “ngũ khoái” của chúng
ta (ăn ngủ, đi đứng…). Cảm quan của
Zagajewski về quyền năng của nghệ thuật - của những cuốn sách, âm nhạc,
thơ ca –
thì chẳng hề tiếu lâm khôi hài, hay mỉa mai châm biếm. Trong tác phẩm
của ông, Trái
đất thuộc về cái bóng, thơ, về can đảm và ánh sáng. Nhưng trong bài thơ
này,
thơ là 1 hòn đảo, không người ở, chờ được khám phá, và trong khúc thơ
chót, những
con vật của đêm bèn tiến vô. Quả là 1 bài “Ru mãi ngàn năm" khá khủng
khiếp!
MAY 3 [1998]
In Memoriam:
Octavia Paz
I was in San
Miguel Allende in January when I heard that Octavio Paz was gravely
ill. My
hotel room had a rooftop patio. When I walked out onto it at dawn, six
thousand
feet up in the Sierra Madre, I looked out at a late Renaissance dome,
eighteenth-century church spires, laundry lines, utility lines, black
rooftop
cats gazing with what seemed religious reverence at the pigeons they
could not
quite reach, and in the distance at the lines of low bare hills that
formed the
high shallow valley of San Miguel. Overhead
there was a flock of what must have been two hundred cormorants flying
silently
and swiftly north. In the dawn light it looked as if the white sky were
full of
broken black crosses, a kind of aerial, fast-moving cemetery. It could
have
been an image from one of his poems.
He was not
only Mexico's greatest poet. He was one of the most remarkable literary
figures
of this half century. His essays are at least as compelling as his
poems and a
good way for English readers to get to know him. Paz's great prose book
is
probably his stunning meditation on the nature of poetry, The Bow and the Lyre, and there
are others: his book-length essay on
Mexico and Mexican culture, The
Labyrinth of Solitude,
and his biographical study of Mexico's great poet of the
Colonial Period, Sor Juana de la Cruz, and his essays on history and
politics, One Earth, Four or Five
Worlds, and his essays on Mexican art. Only Czeslaw
Milosz among the poets of his generation has had the same depth and
range.
But he was a
poet first of all. The best volumes of his work in English are Selected Poems
and A Tree Within, both
published by New Directions. Here is one
of his poems, gorgeous in Spanish, and you can almost hear the original
in this
translation from Selected Poems:
Tưởng niệm
Octavio Paz
Tôi ở San
Miguel Allende, vào tháng
Giêng, thì nghe tin ông bịnh nặng. Căn phòng khách sạn của tôi có cái
terrace.
Buổi sáng sớm, tôi ra terrace, từ trên đỉnh cồn nhìn xuống thành phố,
những vòm thời
kỳ Phục Hưng muộn, những đuờng xoắn nhà thờ thế kỷ 18, những đường giặt
ủi, tiện
ích, những con mèo đen trên mái nhà, với cái nhìn có vẻ kính cẩn, và
nhuốm tí mùi
tôn giáo, gửi tới những con bồ câu, chúng không làm sao sơ múi, vì
ngoài tầm nhảy, và
xa hơn tí nữa, là những đường viền của những ngọn đồi trần trụi, thấp,
tạo thành
cái dáng của thung lũng San Miguel. Trên đầu tôi, cả 1 đàn chim cốc,
chừng hai
trăm con, lặng lẽ, lầm lũi di chuyển về phương bắc. Trong ánh sáng lờ
mờ của buổi
sáng tinh sương, cả bầu trời màu trắng thì đầy những cây thập tự
đen, gãy, bể, chắng khác chi một nghĩa địa đang lặng lẽ, nhanh lẹ di
động. Hẳn
là hình ảnh này, là từ trong thơ của ông, được thiên nhiên lập lại.
Ông không chỉ là nhà thơ Mexico lớn lao nhất. Ông là
1 trong những
khuôn mặt văn học đáng kể nhất của nửa thế kỷ này. Những bài tiểu luận
của ông
thì cũng dữ dằn, hiếp đáp chúng ta, chẳng thua gì thơ của ông, và là 1
cách thật
tốt, cho độc giả tiếng Anh biết tới ông. Cuốn thơ xuôi lớn của ông có
lẽ là trầm
tư ngỡ ngàng về thơ, The Bow and the Lyre,
và còn những cuốn khác nữa: tiểu luận dài, là cả 1 cuốn sách, về Mexico
và văn
hóa của nó, Mê Cung của Cô Đơn, và
nghiên cứu có tính tiểu sử của nhà thơ lớn
Mexico, thời kỳ thuộc địa, Sor Juana de la Cruz, và tiểu luận của ông
về
lịch sử
và chính trị, One Earth, Four or Five Worlds, và những tiểu
luận
về nghệ
thuật Mexico. Trong thế hệ thi sĩ cùng thời, chỉ Czeslaw Milosz, tầm
vóc và chiều sâu, ngang ông.
Nhưng trước tiên, và trong tất cả, thì vẫn là thi sĩ Octavio Paz,
[“ông số 1” như Mít có thể gọi, dù "Ông số 1" này thì cũng viết đủ thứ,
khiến ông
tiên chỉ VP mà còn nhầm, và coi là tiểu thuyết gia!] Những
cuốn dịch qua tiếng Anh bảnh nhất, là Tuyển
Tập Thơ, và
A Tree Within. Ở đây, là 1 bài thơ thần sầu,
mà qua bản
tiếng Anh, bạn có thể ngửi ra mùi vị gốc Tây Bán Nhà của nó:
Wind and Water
and Stone
The water
hollowed the stone,
the wind
dispersed the water,
the stone
stopped the wind.
Water and
wind and stone.
The wind
sculpted the stone,
the stone is
a cup of water,
the water
runs off and is wind.
Stone and
wind and water.
The wind
sings in its turnings,
the water
murmurs as it goes,
the
motionless stone is quiet.
Wind and
water and stone.
One is the
other, and is neither:
among their
empty names
they pass
and disappear,
water and
stone and wind.
Gió và Nước và Đá
Nước làm rỗng đá
Gió làm nước tung toé
Đá chặn gió
Nước và gió và đá.
Gió tạc đá
Đá là ly nước
Nước chạy/chảy và là gió
Đá và gió và nước
Gió hát theo từng khúc quanh
của nó
Nước thầm thì khi chảy
Đám bất động lặng câm
Gió và nước và đá
Kẻ này là kẻ kia và chẳng là kẻ
nào:
Giữa những cái tên trống rỗng
Chúng qua đi và biến mất
Nước và đá và gió
Robert Hass: Now & Then
Octavio
Paz
Autumn
The wind wakes,
sweeps the thoughts from my mind
and hangs me
in a light that smiles for no one:
what random beauty!
Autumn: between your cold hands
the world flames.
1933
Octavio Paz: First Poems (1931-1940)
Mùa Thu
Gió thức dậy
Quét những ý nghĩ ra khỏi cái đầu của anh
Và treo anh
Trong ánh sáng mỉm cười cho chẳng ai
Cái đẹp mới dưng không, tình cờ làm sao?
Mùa thu: giữa lòng bàn tay lạnh của em
Tình anh sưởi ấm
[nguyên văn, thế giới bập bùng ngọn lửa]
Here
My footsteps in this street
echo
in another street
where
I hear my footsteps
passing in this street
where
Only the mist is real
[1958-1961]
Đây
Tiếng bước chân của tôi
trong con phố này
vọng lên
trong một con phố khác
nơi
tôi nghe những bước chân của mình
qua con phố này
nơi
Chỉ sương mù là có thực
Robert Hass,
nhà thơ với vòng nguyệt quế Mẽo, U.S. Poet Laureate, còn là nhà dịch
thơ số 1,
như những bạn thơ, cũng "U.S. Laureate" như Charles Simic, thí
dụ.
Tin
Văn sẽ đi những bài viết trong này, vì đọc chúng, cũng là đọc thơ toàn
thế giới!
Hà, hà!
Khi GCC phịa
ra mục “thơ mỗi ngày” và được 1 độc giả đi 1 cái mail cám ơn, đã
thấy sướng
mê tơi.
Nhưng mục nhà thơ Robert Hass phịa ra mới khủng, như chính ông thú
nhận,
chưa từng có trên đời:
The
Poet’s Choice Columns.
A Note to
Readers
THIS IS A
BOOK of poems and small essays about them written over a period of
about two
years. It came about because Nina King, then literary editor of the Washington
Post, invited me to write a weekly column for the Post's Book World.
The idea
was that I would, each week, select a poem and comment on it. The aim
was to
introduce poetry to people who had never read it at all; to reintroduce
it to
people who had read it in school but had gotten out of the habit and,
having an
impulse to find their way back to it, didn't know where to start; and
to give
people who did read poetry some poems and ideas about poems to think
about.
The column
was a novelty. Nothing quite like it had been done in an
American
newspaper in
many decades, if ever, and it was immediately popular with readers of
Book
World….
Để ăn mừng tập
thơ, GCC xin giới thiệu tới độc giả TV, bài tưởng niệm Zbigniew
Herbert, Robert
Hass viết, đúng
SN/GCC.
AUGUST 16 [1998]
In Memoriam: Zbigniew
Herbert
Zbigniew
Herbert died a few weeks ago in Warsaw at the age of seventy-three. He
is one
of the most influential European poets of the last half century, and
perhaps-even more than his great contemporaries Czeslaw Milosz and
Wladislawa
Symborska-the defining Polish poet of the post-war years.
It's hard to
know how to talk about him, because he requires superlatives and he
despised
superlatives. He was born in Lvov in 1924. At fifteen, after the German
invasion
of Poland, he joined an underground military unit. For the ten years
after the
war when control of literature in the Polish Stalinist regime was most
intense,
he wrote his poems, as he said, "for the drawer." His first book
appeared in 1956. His tactic, as Joseph Brodsky has said, was to turn
down the
temperature of language until it burned like an iron fence in winter.
His verse
is spare, supple, clear, ironic. At a time when the imagination was, as
he
wrote, "like stretcher bearers lost in the fog," this voice seemed
especially
sane, skeptical, and adamant. He was also a master of the prose poem.
Here are
some samples:
The Wind and the Rose
Once in a
garden there grew a rose. A wind fell in love with her. They were
completely different,
he-light and fair; she immobile and heavy as blood.
There came a
man in wooden clogs and with his thick hands he plucked the rose. The
wind
leapt after him, but the man slammed the door in his face.
-O that I
might turn to stone-wept the unlucky one-I was
able to go round the whole world, I was
able to stay away for years at a time, but I knew that she was always
there
waiting.
The wind
understood that, in order really to suffer, one has to be faithful.
Mưa
Khi ông anh của tớ từ mặt
trận trở về
Trán của anh có 1 ngôi sao bạc nho nhỏ
Và bên dưới ngôi sao
Một vực thẳm
Một mảnh bom
Đụng anh ở Plê Ku
Hay, có lẽ, ở Củ Chi
(Anh quên những chi tiết)
Anh trở thành nói nhiều
Trong nhiều ngôn ngữ
Nhưng anh thích nhất trong tất cả
Ngôn ngữ lịch sử
Đến hụt hơi,
Anh ra lệnh đồng ngũ đã chết, chạy
Nào anh Núp,
Nào anh Trỗi.
Anh la lớn
Trận đánh này sẽ là trận chiến thần thánh chót
[Mỹ Kút, Ngụy Nhào, còn kẻ thù nào nữa đâu?]
Rằng Xề Gòn sẽ vấp ngã,
Sẽ biến thành Biển Máu
Và rồi, xụt xùi, anh thú nhận
Bác Hồ, lũ VC Bắc Kít đếch ưa anh.
[Hà, hà!]
Chúng tôi nhìn anh
Ngày càng xanh mướt, tái nhợt
Cảm giác bỏ chạy anh
Và anh lần lần trở thành 1 đài tưởng niệm liệt sĩ
Trở thành những cái vỏ sò
âm nhạc của những cái tai
Đi vô khu rừng đá
Và da mặt anh
Thì được bảo đảm bằng những cái núm mắt khô, mù
Anh chẳng còn gì
Ngoại trừ xúc giác
Những câu chuyện gì, anh kể
Với những bàn tay của mình.
Bên phải, những câu chuyện tình
Bên trái, hồi ức Anh Phỏng Giái
Chúng mang ông anh của tớ
đi
Đưa ra khỏi thành phố
Mỗi mùa thu anh trở về
Ngày càng ốm nhom, mỏng dính
Anh không muốn vô nhà
Và đến cửa sổ phòng tớ gõ
Hai anh
em đi bộ trong
những con phố Xề Gòn
Và anh kể
cho tớ nghe
Những câu
chuyện chẳng đâu vào đâu
Và sờ mặt
thằng em trai của anh
Với những
ngón tay mù,
Của mưa.
Zbigniew
Herbert
AUGUST 16 [1998]
In Memoriam: Zbigniew
Herbert
Zbigniew
Herbert mất vài tuần trước đây, ở Warsaw thọ 73 tuổi. Ông là 1 trong
những nhà
thơ Âu Châu, ảnh hưởng nhất trong nửa thế kỷ, và có lẽ - bảnh hơn
nhiều, so với ngay cả hai người vĩ đại, đã từng được Nobel, đồng thời,
đồng hương với ông, là Czeslaw Milosz và
Wladislawa
Symborska - nhà thơ định nghĩa thơ Ba Lan hậu chiến.
Thật khó mà
biết làm thế nào nói về ông, bởi là vì ông đòi hỏi sự thần sầu, trong
khi lại
ghét sự thần sầu. Ông sinh tại Lvov năm 1924. Mười lăm tuổi, khi Đức
xâm lăng
Ba Lan, ông gia nhập đạo quân kháng chiến. Trong 10 năm, sau chiến
tranh,
khi chế độ
Xì Ta Lin Ba Lan kìm kẹp văn chương tới chỉ, ông làm thơ, thứ thơ mà
ông nói, “để
trong ngăn kéo”.
*
Zbigniew Herbert, “Ba Lan Tam
Kiệt” [hai “kiệt” còn lại là,
Milosz, Szymborska đều đợp Nobel văn chương], như "Đồng Nai Tam Kiệt"
của xứ Mít Nam: Bùi Giáng, Tô Thuỳ Yên, Thanh Tâm Tuyền, như NTV đã
từng gọi.
Gấu biết tới Herbert, là qua 1 bài viết của Coetzee, "Thế nào là cổ
điển?" (1)
Nhưng để đọc được ông, thì cũng mới đây thôi, một phần vì cuốn nào của
ông thì
cũng dày cộm, và vì ông là thi sĩ, mà cái món thi sĩ, thì Gấu cũng mới
đọc
được, mới đây thôi!
Đọc 1 phát, là dịch ào ào, điếc không sợ súng!
(1)
Nhà văn Nam Phi [Coetzee]
nhắc tới một bài diễn thuyết -
cùng tên với bài viết của ông, của T.S. Elliot - vào tháng Mười 1944,
tại
London, khi Đồng Minh đang quần nhau với Nazi tại đất liền (Âu Châu).
Về cuộc chiến, Eliot chỉ nhắc tới nó, bằng cách xin lỗi thính giả, rằng
chỉ là
tai nạn của hiện tại (accidents of the present time), một cái hắt hơi,
xỉ mũi,
đối với cuộc sống của Âu Châu, và nó làm ông không thể sửa soạn chu đáo
cho bài
nói chuyện.
"Nhà là nơi một người bắt đầu"
[Home is where one starts
from], "Trong cái bắt đầu là cái chấm dứt của tôi" [In my beginning
is my end], nhà thơ [Eliot] cho rằng, để trả lời cho câu hỏi này, chúng
ta phải
trở lại với nhà thơ lớn lao nhất, "cổ điển của chính thời đại của chúng
ta" (the great poet of the classic of our own times), tức nhà thơ Ba
Lan,
Zbigniew Herbert.
Với Herbert, đối nghịch Cổ Điển
không phải Lãng Mạn, mà là Man Rợ.
Với nhà thơ Ba Lan, viết từ mảnh đất văn hóa Tây Phương không ngừng
quần thảo
với những láng giềng man rợ, không phải cứ có được một vài tính cách
quí báu
nào đó, là làm cho cổ điển sống sót man rợ. Nhưng đúng hơn là như thế
này: Cái
sống sót những xấu xa tồi tệ nhất của chủ nghĩa man rợ, và cứ thế sống
sót, đời
này qua đời khác, bởi những con người nhất quyết không chịu buông xuôi,
nhất
quyết bám chặt lấy, với bất cứ mọi tổn thất, (at all costs), cái mà con
người
quyết giữ đó, được gọi là Cổ Điển.
Như vậy, với
chúng ta, cuộc chiến vừa qua, cũng
chỉ là một cái hắt hơi của lịch sử. Không phải viết từ những đối nghịch
chính
trị, như một hậu quả của cuộc chiến đó, mà trở nên bền. Muốn bền, là
phải lần
tìm cho được, cái gọi là nhà, liệu có đúng như Eliot nói đó không: Nhà
là nơi
một người bắt đầu.
Hay nhà là
nơi cứ thế sống sót những xấu xa của
chủ nghĩa Man Rợ, đời này qua đời khác, bởi những con người nhất quyết
không
chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với bất cứ mọi tổn thất...
Câu trên, Nhà là nơi một người bắt đầu, có vẻ như áp dụng cho một nhà
văn Việt
nam ở hải ngoại.
Câu dưới, có
vẻ như dành cho nhà văn trong nước.
|
|