Thư Gửi Bạn Ta
3
[Gửi bác
sĩ BXN. NQT]
"Nhà văn nào nổi bật nhờ sự khác biệt của chế độ chính trị thì thường
không bền...".
Nguyễn Mộng Giác
[trích bài viết Tản mạn, của Nguyễn Khắc Phê, trên talawas]
Bền, chịu được sự sàng lọc khắc nghiệt của thời gian, theo một nghĩa
nào đó, có
nghĩa là trở thành cổ điển.
Nhưng thế nào là đương thời, thế nào là cổ điển?
-Là một
nhà văn đương
thời, có
nghĩa là, sẽ có hai nhà phê bình, nếu ngồi cùng bàn, một khen hết lời,
một chê
chẳng kém, cuốn sách bạn vừa mới xuất bản, trong khi cả hai đều mê
Truyện Kiều
của Nguyễn Du, hay gần hơn, tuỳ bút Nguyễn Tuân.
Tôi không dám nghĩ tới trường hợp, cả hai ông đều chửi um lên!]
- Cổ điển, có nghĩa là sống sót được cả hai thằng cha phê bình đó!
Ý trên, mô
phỏng Virginia Woolf, trong How it strikes a contemporary.
Riêng về
cụm từ "chê chẳng kém", bà nữ sĩ Anh này cay độc hơn nhiều: cái thứ
đó chỉ đáng giấy chùi đít (waste paper), và nếu lửa đốt không cháy, thì
phải dí
vào tận đáy lò.
Ý
dưới, từ Coetzee, trong What is a Classic?
Nhà văn Nam Phi này nhắc tới một bài diễn thuyết cùng tên, của T.S.
Elliot, vào
tháng Mười 1944, tại London, khi Đồng Minh đang quần nhau với Nazi tại
đất liền
(Âu Châu). Về cuộc chiến, ông chỉ nhắc tới, bằng cách xin lỗi thính
giả, rằng
chỉ là tai nạn của hiện tại (accidents of the present time), một cái
hắt hơi, xỉ
mũi, đối với cuộc sống của Âu Châu, và nó làm ông không thể sửa soạn
chu đáo
cho bài nói chuyện.
"Nhà là
nơi một người bắt đầu" [Home is where one starts
from], "Trong cái bắt đầu là cái chấm dứt của tôi" [In my beginning
is my end], nhà thơ [Eliot] cho rằng, để trả lời cho câu hỏi này, chúng
ta phải
trở lại với nhà thơ lớn lao nhất, "cổ điển của chính thời đại của chúng
ta" (the great poet of the classic of our own times), tức nhà thơ Ba
Lan,
Zbigniew Herbert.
Với
Herbert, đối nghịch Cổ Điển không phải Lãng Mạn, mà là Man Rợ.
Với nhà thơ Ba Lan, viết từ mảnh đất văn hóa Tây Phương không ngừng
quần thảo với
những láng giềng man rợ, không phải cứ có được một vài tính cách quí
báu nào
đó, là làm cho cổ điển sống sót man rợ.
Nhưng đúng
hơn là như thế này: Cái sống sót những xấu xa tồi tệ nhất
của chủ nghĩa man rợ, và cứ thế sống sót, đời này qua đời khác, bởi
những con
người nhất quyết không chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với
bất cứ mọi
tổn thất, (at all costs), cái mà con người quyết giữ đó, được gọi là Cổ
Điển.
Như vậy, với chúng ta, cuộc chiến vừa qua, cũng chỉ là một cái hắt hơi
của lịch
sử. Không phải viết từ những đối nghịch chính trị, như một hậu quả của
cuộc chiến
đó, mà trở nên bền. Muốn bền, là phải lần tìm cho được, cái gọi là nhà,
liệu có
đúng như Eliot nói đó không: Nhà là nơi một người bắt đầu.
Hay nhà là nơi cứ thế sống sót những xấu xa của chủ nghĩa Man Rợ, đời
này qua đời
khác, bởi những con người nhất quyết không chịu buông xuôi, nhất quyết
bám chặt
lấy, với bất cứ mọi tổn thất...
Câu trên, Nhà là nơi một người bắt đầu, có vẻ như áp dụng cho một nhà
văn Việt
nam ở hải ngoại.
Câu dưới, có vẻ như dành cho nhà văn trong nước.
Xa
quê, nhớ nhà.
Christine
Brooke-Rose, trong bài viết Exsul, được in trong
cuốn Lưu Vong và Sáng Tạo [Exile and Creativity, nhà xb Duke University, 1998], kể về thời thơ ấu của bà, tại Brussels. Được nuôi dưỡng trong khí hậu nhị-ngôn,
Pháp-Anh, bà cứ
nghĩ, exile là ex-ile, nghĩa là do chữ “đảo”, ile, tiếng Pháp, mà
ra. Bà
chắc chắn như vậy, không phải vì Quần Đảo Anh, là chốn bà con họ hàng
nơi
thường xuyên lui tới của bà, nhưng còn vì, đối với một đứa trẻ, những
hòn đảo
thật diệu kỳ: nào là Đảo Kho Tàng, Đảo Lỗ-bình-sơn, miền đất không bao
giờ-không
bao giờ của Peter Pan (Peter Pan’s never-never land)... Lưu vong như
thế có
nghĩa là một ốc đảo cô đơn, một nơi chốn mà đứa trẻ, với cuốn sách, tập
làm
quen với nỗi cô đơn, thèm được ở mãi trong đó, và sẽ hết sức bực dọc
nếu bị
đuổi ra...
Nhưng
không phải vậy.
Exile
(La-tinh exilium, trước đó exsilium; exul,
exsul, một người bị bỏ, bị biếm), từ lâu vốn được coi như liên hệ với
solum,
đất (soil), nhưng bây giờ (coi tự điển La-tinh, E.A. Andrews biên soạn,
nhà xb
Harper, 1987), gốc rễ của nó là sal, tiếng Sankrit sar (đi, to go), L.
saline/saltare; và L. exsilio có nghĩa là ‘nhẩy lên’ (spring
from). Nhưng
sau đó, trong tiếng Pháp Cổ, exilier hay essilier có nghĩa là ‘to
ravage’, ‘to devastate’, dây mơ rễ má của nó còn nhận thấy qua từ
exterminate,
nghĩa đen là ‘vượt quá biên cương, bờ luỹ’.
Thành
thử ngoài nỗi đau khổ vì bị biếm, còn chuyện lao tới
một cuộc đời mới, vượt ra khỏi những lũy tre làng thân quen (vượt ra
khỏi những
biên cương của một cái đảo tự mình tạo ra cho chính mình). Thí dụ như,
“Ý đại
lợi, thiên đàng của lưu đầy”, Shelly viết, năm 1818.
Đây
là nghĩa “đẹp” của nó.
Còn
nghĩa ‘đau thương’ thê thảm của nó, thì có, thí
dụ như, lời nói chót của Đức Giáo Hoàng Gregory VII: “Tôi yêu sự chính
trực,
điều phải, thù ghét sự bất công, cho nên tôi phải chết trong lưu đầy.”
Vẫn
theo tác giả, ngày nay, không một nhà văn nào thực
sự xứng đáng là một lưu đầy xứ người, so với những chính trị gia. Nhưng
bởi
vì là nhà văn, nên họ thường đưa ra được nhiều vấn nạn hơn là những
khuôn mặt
chính trị. Và được kể là những khuôn mặt chính trị, theo tác giả,
có những
thường nhân, thí dụ như một người nướng bánh, một ông thợ mộc...
Như đoạn
viết trên cho thấy, ngày
nay, nhà văn thua nhà chính trị, nếu nói về lưu vong. Những nhà văn đi
về cùng
một nghĩa như nhau, lại càng thua những nhà chính trị, nhất là những
ông, sau
khi cho in sách một cách rất ư là tự do, bèn đưa sách về nhà để xin
được kiểm
duyệt.
Thành thử, nhà văn thua thường dân xa, bởi vì thường dân, vẫn còn coi
họ là lưu
vong, hơn cả nhà văn, như trong bài viết trên cho thấy.
Tôi đã hân hạnh được quen một ông, một vị bác sĩ. Ông già của ông, ở
Việt Nam,
nằm hấp hối ở bệnh viện. Ông về, suốt thời gian, ở bên giường bệnh của
ông cụ,
ở bệnh viện, sau đó, ở bên quan tài của ông cụ, khi ông cụ mất. Đưa ông
cụ về
với đất, là ông đi trở ra ngoài này liền. Ông nói, tôi muốn làm khác
đi, cũng
không được.
Theo tôi, ông bạn của tôi được hưởng cả hai cái sướng, của cả hai câu ở
trên,
một, “Ý đại lợi, thiên đàng của lưu đầy”, của Shelly viết, năm 1818, và
một,
“Tôi yêu sự chính trực, điều phải, thù ghét sự bất công, cho nên tôi
phải chết
trong lưu đầy”, của Đức Giáo Hoàng Gregory VII.
NQT