|
Thơ Tháng Tư
WHAT
IS THE BEST SMELL?
Viết
[Thông báo: Đây là truyện ngắn, hư cấu hoàn toàn,
cô này không phải cô Mai nha nha nha :))))]
Càng ngày cô càng cảm thấy những cơn mưa ở thành
phố này quả thực không thể chịu đựng nổi. Cô tự nhủ, thêm một cơn
mưa nữa thôi cô nhất định sẽ bỏ lại hết mọi thứ ở đây, sẽ lập tức quay
về. Nói là bỏ hết, nhưng thực ra cũng c...
Continue
Reading
- Have U Ever
Seen The Rain?
-
SG
mùa này
thì cứ
triền miên buổi chiều và rả rích đêm khuya...
Mưa.
Những hàng cây run rẩy rất khẽ, bóng của chúng
dường như tăm tối hơn
thì phải. Em nhớ người, và nhớ mưa. Mỗi ngày đều mưa, nhưng mưa mỗi
ngày mỗi khác. Và mưa của một lần khác thì rất khác.
Người em yêu, ngoài đôi tay to và ấm hay nắm
lấy tay
em những khi cùng lang thang và chỉ lái xe bằng 1 tay mặc kệ đường đông
còn có 1 bờ vai vững vàng để em tì cằm vào những khi muốn rủ rỉ rù rì
gì đó. Rồi những khi trời mưa, em thỉnh thoảng kéo áo honey để lộ 1
khoảng vai trần, đặt lên làn da mát lạnh ướt đẫm ấy một nụ hôn vội
vàng. Em biết, tiếng cười của cả hai khi đó đều rất trong, như mưa.
Ngay cả mưa rơi giữa vùng tối của đêm cũng vẫn long lanh. Và, có phải
môi em rất ấm?
"Vai em tròn dưới mưa
Ướt bao nhiêu cũng vừa"
Em hay lẩm nhẩm hát bài này khi bất chợt gặp mưa.
*
Ui chao sến ơi là sến, nhưng càng sến bao nhiêu
càng
người, càng Sài Gòn bấy nhiêu.
Gấu này chẳng đã từng phán, cái hồn của văn
chương
Miền Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến sao?
*
Have you ever seen the rain?
Em có bao giờ nhìn thấy mưa rơi?
Lần đầu nghe câu hát này, Hai Lúa giật mình tự
hỏi, tại sao lại có một
lời ca lạ kỳ như vậy.
Rồi chẳng bao giờ Hai Lúa tìm hiểu những lời tiếp theo.
Bởi vì câu hát đó, đến đó, là trọn vẹn đối với Hai Lúa.
Note: Have U ever
seen the rain, gõ Google, cho biết, đây là 1 bản nhạc
thời kỳ phản chiến [cuộc chiến Mít]
"Ðâu
phải mưa ô buy vào thành phố"...
1954,
vào Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền có lẽ là một trong những người đầu tiên
có những dòng thơ văn về Hà Nội, bên cạnh những dòng nhạc của một "Mưa
Sài Gòn, Mưa Hà Nội", hay "Hướng Về Hà Nội". Câu thơ trên, tôi chỉ nhớ
loáng thoáng, trong tập "Tôi không còn cô độc", đã một thời làm ngơ
ngẩn cả đám bạn bè hồi cùng học trung học. Ngớ ngẩn, đúng hơn.
Số
là Phạm Năng Cẩn rất mê câu thơ đó. Anh cứ ngâm đi ngâm lại khiến
Nguyễn Quốc Sủng đâm ra thắc mắc, hỏi, mưa ô buy là mưa gì? Tôi nhớ là,
bạn Cẩn ngớ ra, và... cương đại: mưa ô buy là một thứ mưa bụi (buy biến
thành bụi), hạt lấm tấm như nhũ kim cương trên những chiếc áo Mùa Thu,
Hà Nội!
Sủng
coi bộ không hài lòng với một lời giải thích rất thơ như vậy. Một bữa,
trong lúc cả đám vây quanh nhà thơ, anh hỏi. Thi sĩ trả lời: ô buy là
một từ tiếng Pháp, obus. Mưa ô buy là mưa đại bác, mưa trái phá!
Sau
này tôi được biết, người miền nam gọi trái phá là trái ô buy. Họ gọi
phạm nhe là người y tá, và hồi mới vào Sài Gòn, tôi đã từng khổ sở vì
không hiểu nghĩa của nó, sau cùng truy ra, là do từ tiếng Pháp,
infirmier.
Nước
Pháp, “hóa thân” vào miền nam, qua từ obus; rồi miền nam “hóa thân” vào
từ ô buy, và được một nhà thơ miền bắc âu yếm sử dụng cho... Hà Nội, ôi
chao số phận của “trái đại bác” Tây, nhờ một miền đất, rồi nhờ một nhà
thơ, biến thành cơn mưa bụi ở một miền đất khác, trong cùng một quê
nhà, sao mà may mắn hơn cái từ chiên hẩm hiu thế!
Bởi
vì không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ sử dụng từ “mưa ô-buy”: ông vẫn bị
những cơn mưa từ cái thành phố mà ông từ bỏ ám ảnh, cũng như không phải
ngẫu nhiên mà ông bạn ngày xưa của tôi tán ẩu, ông cũng bị ám ảnh....
Nhân
chữ chuẩn hóa lâu đời tôi lại nhớ đến Lévi-Strauss; ông cho rằng từ ngữ
vốn không phải là của chung, mà là của riêng, giống như ngày xưa, khi
đi thi, mà dùng một chữ của vua dùng, là phạm húy, có khi mất luôn cái
chỗ đội nón; nhưng, như một vòng tròn luẩn quẩn, khi những chữ được
những nhà quyền quí dùng chán chê, vứt bỏ, lúc đó thứ dân lại mang ra
xài, và ngược lại.
Chiên
được người dân cả hai miền sử dụng, biết đâu đấy, chính nó đang mang
thông điệp thống nhất, và người dân miền bắc có vẻ đã đến lúc quá chán
cái gọi là chuẩn hóa lâu đời rồi cũng nên...
THE RAIN
When my
older brother
came back
from war
he had on
his forehead a little silver star
and under
the star
an abyss
a splinter
of shrapnel
hit him at
Verdun
or perhaps
at Grunwald
(he'd
forgotten the details)
He used to
talk much
In many
languages
But he liked
most of all
The language
of history
until losing
breath
he commanded
his dead pals to run
Roland
Kowalski Hannibal
he shouted
that this
was the last crusade
that
Carthage soon would fall
and then
sobbing confessed
that
Napoleon did not like him
we looked at
him
getting
paler and paler
abandoned by
his senses
he turned
slowly into a monument
into musical
shells of ears
entered a
stone forest
and the skin
of his face
was secured
with the
blind dry
buttons of
eyes
nothing was
left him
but touch
what stories
he told with
his hands
in the right
he had romances
in the left
soldier's memories
they took my
brother
and carried
him out of town
he returns
every fall
slim and
very quiet
he does not
want to come in
he knocks at
the window for me
we walk
together in the streets
and he
recites to me
improbable
tales
touching my
face
with blind
fingers of rain
Zbigniew
Herbert: The Collected Poems
1956-1998
Mưa
Khi ông anh
của tớ từ mặt trận trở về
Trán của anh
có 1 ngôi sao bạc nho nhỏ
Và bên dưới ngôi
sao
Một vực
thẳm
Một mảnh bom
Đụng anh ở Plê Ku
Hay, có lẽ, ở Củ Chi
(Anh quên những
chi tiết)
Anh trở
thành nói nhiều
Trong nhiều
ngôn ngữ
Nhưng anh
thích nhất trong tất cả
Ngôn ngữ lịch
sử
Đến
hụt hơi,
Anh ra lệnh đồng ngũ đã chết, chạy
Nào anh Núp,
Nào anh Trỗi.
Anh la lớn
Trận đánh
này sẽ là trận chiến thần thánh chót
[Mỹ Kút, Ngụy
Nhào, còn kẻ thù nào nữa đâu?]
Rằng Xề Gòn
sẽ vấp ngã,
Sẽ biến thành Biển Máu
Và rồi, xụt xùi,
anh thú nhận
Bác Hồ, lũ VC Bắc Kít đếch
ưa anh.
[Hà, hà!]
Chúng tôi
nhìn anh
Ngày càng
xanh mướt, tái nhợt
Cảm giác bỏ
chạy anh
Và anh lần lần
trở thành 1 đài tưởng niệm liệt sĩ
Trở thành những
cái vỏ sò âm nhạc của những cái tai
Đi vô khu rừng
đá
Và da mặt
anh
Thì được bảo
đảm bằng những cái núm mắt khô, mù
Anh chẳng
còn gì
Ngoại trừ
xúc giác
Những câu
chuyện gì, anh kể
Với những
bàn tay của mình.
Bên phải, những câu chuyện tình
Bên trái, hồi ức Anh Phỏng Giái
Chúng mang
ông anh của tớ đi
Đưa ra khỏi
thành phố
Mỗi mùa thu anh trở về
Ngày càng ốm
nhom, mỏng dính
Anh không muốn
vô nhà
Và đến cửa sổ
phòng tớ gõ
Hai anh em
đi bộ trong những con phố Xề Gòn
Và anh kể
cho tớ nghe
Những câu
chuyện chẳng đâu vào đâu
Và sờ mặt thằng em trai của anh
Với những
ngón tay mù,
Của mưa
Why The Classics
Tại sao
những
nhà cổ điển
Note:
Zbigniew Hertbert, trong tuyển tập văn xuôi, có đi đường về bài thơ này.
The Romantic
view of the poet who bares his wounds, relates his misfortunes, still
has many
supporters today, despite changes in style and literary taste.
Cái trò cào
cấu vết thương, than thân trách phận, của đám nhà văn nhà thơ Lãng Mạn,
đến nay
vưỡn còn nhiều fan, mặc dù thay đổi văn phong và khẩu vị.
Poetry as
the art of the word made me yawn
Thơ ca như
là 1 nghệ thuật của từ ngữ làm tôi ngáp.
WHAT
IS THE BEST SMELL?
Mùi gì
tuyệt nhất?
Đề tài của số Intel mới.
Gấu
giới thiệu hai bài, đều cùng 1 mùi, mùi mưa.
Một trong số báo Intel, và
một, của CM, bạn Gấu.
"Vai em tròn dưới mưa
Ướt bao nhiêu cũng vừa" (1)
THE RAIN
by Robin
Robertson
I lost my
sense of smell when I left home. It only returns to me now when one of
those
breaths of boyhood drifts back like some half-forgotten face.
I grew up on
the east coast of Scotland, where the smell of the North Sea permeates
everything. When it wasn't
the sea it was the sea haar, rolling in off the water and
through the cobbled streets and wynds, or the sharp
tang of the catch being landed in the harbor. Herring rolled in oatmeal
and
fried; mackerel fished and gutted on the cliff's verge, eaten straight;
the occasional
luck of a lobster boiled and laid out in butter.
Everything
we are as adults is formed in our first ten years,
and mine were spent haunting the shore, or the streets, of Aberdeen:
turning
over scallop shells or the bodies of birds , or testing the washed -up
crabs
and jellyfish for movement: some kind of peril. I would walk to school
past the
abattoir with its ferrous whiff of spilt blood, the dull thuck of
cleaver into
flesh, the great headless bodies turning on their hooks; past the
barber's
oils, astringents and lotions, his whetted razors; past the joinery
with that
lovely sweet scent of wood-shavings and - best of all- past Mitchell
and Muill's,
the baker, their steamed-up window stacked full of freshly baked rowies
and hot
mutton pies.
Autumn air was leaf-mould and woodsmoke, truffling
for spent
fireworks and their mysterious, bright, damp canisters reeking of
gunpowder;
spring was turned earth and hawthorn; summer, the coconut flowers of
the gorse,
and its seed-pods detonating, the urinous jasmine, a newly tarred road.
All
year, the doors of the bars swinging open to a dense, secret sweat of
beer and
cigarettes, wet tweed and whisky. And all
year, every year of my childhood, and in the later years
of shape-changing into something else entirely:
always there - overlaying the intimate comforts of an
oiled penknife blade, the inside of my leather watch-strap, or the new
fumes of
sex and blood - was the rain, and the smell of the rain which is no
smell at
all but only a washing-away, a cleanness, and yet another chance to
start again
.•
Cháu đọc
entry của bác từ lúc nó chưa đổi tên cơ, khi còn là "SG mùa này thì cứ
triền
miên buổi chiều và rả rích đêm khuya" ấy. Nhưng mà quả thực là không
biết
nói gì thêm, hihi :D.
Hôm nào cháu
viết tặng bác 1 entry nhé, vì cháu rất thích cái nhận xét của bác "cái
hồn
của văn chương Miền Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến".
Tks.
Cái hồn
của
văn chương Việt Nam... D.H Lawrence diễn tả bảnh hơn Gấu nhiều. Ông gọi
là
"Nỗi Nhớ Bùn" [La nostalgie de la boue]. Gấu thuổng chữ của ông, viết
được một đoạn thật là tuyệt vời về Sài Gòn….
|
|