|
Thơ Mỗi Ngày
Shadow
Publishing Company
This couple
strolling arm in arm
Must be
figments of someone's revery.
They stop often to linger over a kiss,
But when
people look their way,
It's as if
they do not see them.
It's the
heat, the blue dusk,
The air of enchantment
On the
street of overgrown lilacs
And screened porches
Where a door
is already open for them.
An old woman
waits in the dim entrance
With a pitcher of cold lemonade
And two tall
glasses on a tray.
She wants
them to rest awhile
In her own
wedding bed and they obey.
Her late
husband was an eye doctor.
His surgical
instruments lie in glass cage
Gleaming like cold moonlight
In dark
cuffs, he made the blind see
By removing their bandages.
In a room
shaded against the heat,
With a few slender lines of light
On the high ceiling,
And that
strange sense of taking on the life
Of someone unknown just then,
Lying there,
closing one's eyes in revery,
A figment among figments
Living one
of their blessed moments
Without recognizing the century.
Only the scent of the
lilacs is real.
The World's
Greatest Ventriloquist
Neon at
sundown, early shadows
Going to
meet the one and true darkness.
Avenue where I was a child in a shoe box,
A
soap bubble above the fire escapes,
A few
endazzled windows at the horizon,
The rest shaded, curtained and vacant.
The bearded
old man on the corner,
The one
drinking out of a brown paper bag,
The one who declares himself
The world's
greatest ventriloquist,
We are all
his dummies, he says
When he
chooses to say anything:
Young lovers
carrying tall cages
With frightened song birds ...
Some hoodlum prince waving
A hundred
dollar bill out of a passing car.
The blind doomsayer lifting his board
For all to
read . . .
So, I'm the
eat's paw, I said,
And went off shadowboxing
With my reflection
In a row of
store windows
That already
had that seen-a-ghost look
Charles
Simic
The Paris
Review Winter 1998
Note:
1998. Đây
chắc là số PR đầu tiên của Gấu!
Phỏng vấn
Steiner, Sontag.
The
Invisible
People here
still tell stories
About a blind old man
Who rolled
dice on the sidewalk
And paid children
In the
neighborhood
To tell him
what number came up.
When they
were away in school,
He'd ask anyone
Whose steps
he heard,
The mailman
making his rounds,
The
undertakers loading a coffin in their black wagon,
And you, too, mister,
Should you
happen to come along.
Kẻ Vô Hình
Người ở đó vẫn
truyền tụng
Về một ông
già mù
Thẩy xúc xắc
bên lề đường
Và giúi tiền
cho mấy đứa con nít
Để chúng cho
ông biết
Con lục, hay
con nhất.
Khi chúng ở
lớp học
Ông hỏi bất
cứ một người
Khi nghe tiếng
chân
Anh đưa thư
đi lòng dzòng
Đám nhà hòm
đưa hòm lên xe tang
Hay chính
ông, Thưa Ngài
Nếu ông lớ ngớ mò tới đó
Note: Bài thơ dài
này, của Charles Simic, GNV cảm thấy có 1 cái gì đó, như là 1 ẩn dụ,
móc tới "người
vô hình" đột nhiên biến thành hữu hình, là Bùi Chát, “khăn đóng áo dài,
đứng trên
đài cao, nhận giải Tự Do Xuất Bản".
Vinh danh thêm bạn, bằng những dòng
viết về
Brodsky
của David Remnick
Khi được hỏi
ông nghĩ gì về những năm tháng tù đầy, Brodsky nói cuối cùng ông đã vui
với nó.
Ông vui với việc đi giầy ủng và làm việc trong một nông trại tập thể,
vui với
chuyện đào xới. Biết rằng mọi người suốt nước Nga hiện cũng đang đào
xới
"cứt đái", ông cảm thấy cái gọi là tình tự dân tộc, tình máu mủ. Ông
không nói giỡn. Buổi chiều ông có thời giờ ngồi làm những bài thơ "xấu
xa", và tự cho mình bị quyến rũ bởi "chủ nghĩa hình thức trưởng giả"
từ những thần tượng của ông. Hai đoạn thơ sau đây của Auden đã làm ông
"ngộ"
ra:
Time that is
intolerant
Of the brave
and innocent,
And
indifferent in a week
To a
beautiful physique,
Worships
language and forgives
Everyone by
whom it lives;
Pardons
cowardice, conceit,
Lays its
honor at their feet.
Thời gian vốn
không khoan dung
Đối với những
con người can đảm và thơ ngây,
Và dửng dưng
trong vòng một tuần lễ
Trước cõi trần
xinh đẹp,
Thờ phụng
ngôn ngữ và tha thứ
Cho những ai
kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự
hèn nhát và trí trá,
Để vinh
quang của nó dưới chân chúng.
Auden
Ông
bị xúc động không
hẳn bởi cách mà Auden truyền đi sự khôn ngoan - làm bật nó ra như trong
dân ca
- nhưng bởi ngay chính sự khôn ngoan, ý nghĩa này: Ngôn ngữ là trên
hết, xa xưa
lưu tồn dai dẳng hơn tất cả mọi điều khác, ngay cả thời gian cũng phải
cúi mình
trước nó. Brodsky coi đây là đề tài cơ bản, trấn ngự của thi ca của
ông, và là
nguyên lý trung tâm của thơ xuôi và sự giảng dạy của ông. Trong cõi lưu
đầy như
thế đó, ông không thể tưởng tượng hai mươi năm sau, khăn đóng, áo
choàng, ông
bước lên bục cao nơi Hàn lâm viện Thụy-điển nhận giải Nobel văn chương,
nói về
tính độc đáo của văn chương không như một trò giải trí, một dụng cụ, mà
là sự
trang trọng, bề thế xoáy vào tinh thần đạo đức của nhân loại. Nếu tác
phẩm của
ông là một thông điệp đơn giản, đó là điều ông học từ đoạn thơ của
Auden:
"Sự chán chường, mỉa mai, dửng dưng mà văn chương bày tỏ trước nhà
nước, tự
bản chất phải hiểu như là phản ứng của cái thường hằng - cái vô cùng -
chống lại
cái nhất thời, sự hữu hạn. Một cách ngắn gọn, một khi mà nhà nước còn
tự cho
phép can dự vào những công việc của văn chương, khi đó văn chương có
quyền can
thiệp vào những vấn đề của nhà nước. Một hệ thống chính trị, như bất cứ
hệ thống
nào nói chung, do định nghĩa, đều là một hình thức của thời quá khứ
muốn áp đặt
chính nó lên hiện tại, và nhiều khi luôn cả tương lai."
Tôi
hết
còn tin vào nơi chốn ấy
Một bạn văn
vừa cho biết, "lẩn", mới đúng.
Trong bài Biển,
của Gấu, “lẫn” mới đúng.
Biển
Buổi
chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ
Georgian
Cứ nghĩ thềm
bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển
lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng
đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được
con người chở từ đâu tới
Còn ta bị
quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn
thua hạt cát.
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi
nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ còn ta
cô đơn lẫn vào đêm
Như con
hải
âu già
Giấu chút
tình sầu
Vào lời
thì
thầm của biển...
22/01/2010
Tôi được đọc
bài thơ "Biển" của ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng
ông hình của "tôi" bên bờ biển, như một lời chào.
Trong email
trước tôi đã vô lễ gọi ông là "Gấu Nhà Văn", vì đọc Tin Văn liên tiếp
suốt mấy ngày liền, khiến tôi nhập tâm.
Thực tình,
tôi thích cái bút danh đó.
Khi tôi chụp
hình con hải âu, tôi cứ nghĩ nó là hình ảnh của chính mình. Ai ngờ, tôi
lại gặp
một con hải âu khác khi đọc bài thơ Biển
của ông. Khi nhớ quê hương, kẻ thì
"thương nhớ đồng quê", người nhớ Sài Gòn, còn tôi, tôi nhớ biển...
Ui chao mới
đó mà đã hơn một năm.
Please take
care and forgive. NQT
Mấy bài thơ
sau đây, của Charles Simic, trong Master
of Disguises, là để tặng… Gấu, nhân lễ Phục Sinh!
The
Invisible One
You read
today about a child
Kept for
years in a closet
By his crazy
parents
On a street
you walked often.
Busy with
your own troubles,
You saw
little, heard nothing
Of what was
said around you,
As you made your way home
Past loving
young couples
Carrying
flowers and groceries,
Pushing baby
carriages,
Hanging back
to scold a dog.
Kẻ vô hình
Bạn đọc báo
bữa nay về một đứa trẻ
Bị nhốt nhiều
năm trong một tủ áo
Bởi bố mẹ khùng
Ở con phố mà
bạn thường đi bộ qua
Bận bịu với đủ
thứ chuyện của riêng bạn
Bạn ít nhìn,
chẳng nghe gì hết
Về những gì
xẩy ra quanh bạn
Khi bạn trên
đường trở về nhà
Vượt qua những cặp vợ
chồng yêu thương thắm thiết
Ôm hoa, tạp phẩm
Đẩy xe con nít
Chùn bước lại
một tí để la con chó.
Private
Miseries
More than
this crippled veteran playing the banjo,
I have no
right to grumble,
More than
this old woman cracking open her purse
To give him
a quarter,
Lest they
both take offense and beat me
On the head
with one of his crutches.
My own
anguish must remain unspoken,
Hidden
behind a firm stride and a smile.
One day I
knelt down and cursed God
For all the
suffering and injustice he consents to.
Since then,
I have felt even more alone.
Like a
lifelong widower forever unconsoled
I pass the
homeless huddled in doorways
Upon a
winter morning and dare not
Grouse about
my own sleepless night,
And my cold
feet that make me hurry past them.
Những nỗi khốn
khổ mình ên
Hơn cả cái
anh cựu binh VNCH,
già què, đang
từng tưng với cây đàn băng dzô
Tớ đếch có
quyền càu nhàu
Hơn cả cái bà
già đang cố mở bóp
lấy mấy nghìn Cụ Hồ
cho ông lính Ngụy già què
Cứ để cho họ
cảm thấy bị tổn thương và đập vào đầu tớ
Với
một trong những cây nạng
Cái nỗi thống
khổ của riêng tớ phải được nín khe,
Và được giấu
ở bên dưới bước đi mạnh mẽ, và nụ cười.
Một bữa tớ
quỳ xuống và nguyền rủa Thượng Đế
Về bao đau
khổ và bất công mà ông ta cứ nhè tớ mà trút xuống
Kể từ đó, tớ
cảm thấy cô đơn còn hơn bao giờ hết
Như một bà
goá cả đời không hề được an ủi.
Tớ đi qua một
đám người vô gia cư láo nháo ở hành lang
Một buổi sáng mùa đông và không dám
Càu nhàu về
một đêm mất ngủ của riêng tớ
Và đôi chân
lạnh giá của tớ càng khiến tớ vội vã đi qua họ
And Who Are
You, Sir?
I'm just
a
shuffling old man,
Ventriloquizing
For a god
Who hasn't
spoken to me once.
The one with
the eyes of a goat
Grazing
alone
On some high
mountain meadow
In the long
summer dusk.
Nhưng Ngài là
Ai, hử Ngài?
Tớ chỉ là một
tên già lê lết
Nói chuyện bằng
bụng
Về một ông
trời
Chưa từng nói
với tớ một lần
Kẻ có đôi mắt
dê
Thả dê một mình
Trên cánh đồng
cỏ trên núi cao
Vào một hoàng
hôn dài mùa hè
Foreword by
Nadezhda Mandelstam
I think that
the most difficult task in the world is the translation of verses,
particularly
of a true poet, in whose verses there is no discrepancy between the
form and
the content (or meaning) - both of them always new and but a bit
different
(with no great disparity between them) - and where the ego of the poet
is
always strikingly felt. Marina Tsvetayeva said she could write as
Mandelstam
did but that she didn't want to. She was a great poet but she was
greatly
mistaken. She could be influenced by Mayakovsky and Pasternak and
remain
Tsvetayeva because they were
innovators and therefore easily aped. But Mandelstam
composed verses in tradition,
which is far more difficult to imitate.
Mr Robert
Lowell's translations are very free; Mr Paul Celan's into German also
free. But
both are a very far cry from the original text. As far as I know the
translations of Mr Greene are the best I ever saw. I can't give my
opinion
about the Italian translations, as I don't know Italian as well as
English,
French and German. As for Elsa Triolet's, they are as naive and vulgar
as she
was.
Mandelstam
said that the contents are squeezed from the form as water from a
sponge. If
the sponge is dry, there would be no moisture at all. So, to render the
content
- which Mr Greene has succeeded in doing - is to give, in a way, the
form or
harmony, the harmony which can't be rendered in translation, the
harmony which
is quite simple and at the same time mysteriously complicated. Poetry
is a
mystery.
Nadezhda
Mandelshtam, 1976
Tôi nghĩ khó
khăn nhất trên thế gian này là cái chuyện dịch thơ, nhất là của thi sĩ
thực,
trong những câu thơ đó, thì không có phân chia, khác biệt giữa hình
thức và nội
dung (hay là nghĩa thơ] - cả hai luôn luôn mới, nhưng với 1 tí khác
biệt (không
có phân cách lớn giữa chúng) – và đó là nơi mà cái tôi của thi sĩ luôn luôn rung động và làm cho chúng ta cảm thấy
được – Marina Tsvetayeva nói, bà có thể làm thơ được như Mandelstam,
nhưng bà
không muốn làm. Bà là một nhà thơ lớn, nhưng bà lầm lẫn nặng, khi phán
như thế.
Bà có thể bị ảnh hưởng bởi Mayakovsky và Pasternak, nhưng vẫn là bà,
nhà thơ Tsvetayeva,
bởi vì họ là những nhà thơ canh tân, do đó dễ có người
mô phỏng, làm theo; dễ có đệ tử.
Nhưng Mandelstam
làm những bài thơ theo truyền thống, thật khó bắt chước.
Những bài thơ
dịch của Robert Lowell thì theo kiểu thơ tự do; Paul Celan chuyển qua
tiếng Đức
cũng theo kiểu thơ tự do. Nhưng cả hai đều là tiếng kêu la thật xa với
nguyên
tác. Như tôi hiểu được, thì những bản dịch của Greene là số một, mà tôi từng
thấy. Tôi
không dám đưa ra ý kiến về những bản dịch tiếng Ý, vì tôi không biết
tiếng Ý, so với
tiếng Anh, Pháp, và Đức. Về những bàn thơ dịch của Elsa Triolet, chúng
mới khờ
khạo làm sao, và tầm phào, như bà vẫn vậy.
Mandelstam nói,
nội dung thì được vắt ra khỏi hình thức, như vắt 1 cái bọt biển. Nếu
một cái
khăn bằng bọt biển mà khô, thì chẳng có tí ẩm nào được vắt ra. Như thế,
đưa ra
nội dung – như Greene thành công trong việc làm
như thế - là, một cách nào đó, cho nó
một hình thức hay sự hài hòa, một sự hài hòa thật khó có trong dịch
thuật, một
sự hài hoà hoàn toàn giản dị, và cùng lúc, rắc rối thật bí ẩn. Thơ
là một huyền nhiệm.
You took
away my seas and running jumps and sky
And propped
my foot against the violent earth.
Where could
this brilliant calculation get you?
You couldn't
take away my muttering lips.
(307) May
1935
Bản tiếng
Pháp:
En me
privant des mers, de l'élan, de l'envol
Pour donner
à mon pied l'appui forcé du sol:
Quel
brillant résultat avez-vous obtenu?
Vous ne
m'avez pas pris mes lèvres qui remuent!
Mi lấy của
ta Biển -Trời - Nhịp Đời
Cùm chân ta
vào đất:
Làm sao mi cấm
môi ta run?
My country
conversed with me,
Spoiled me,
scolded, didn't listen.
She only
noticed me when,
Grown-up, I became an
eye-witness.
Then
suddenly, like a lens, she set me on fire
With a beam
from the Admiralty spire.
(part 6 of
312) May-June 1935
Xứ sở của ta
nói với ta,
Nuông chiều ta, gắt gỏng với ta, không nghe ta nói.
Nó chỉ để ý đến ta khi,
Trưởng thành, ta trở thành một chứng nhân bằng mắt.
Và thế là bất thình lình, như thấu kính hội tụ
Nó chiếu vào ta, và làm bật cháy
Với ngọn lửa từ Ngọn Đỉnh Trời
I shall not
return my borrowed dust
To the
earth,
Like a white
floury butterfly.
I will this
thinking body
This
charred, bony flesh,
Alive to its
own span -
To turn into
a street, a country.
(from 320)
21 July 1935
Ta không muốn,
như một cánh bướm trắng kia,
Trả lại mặt
đất chút tro than vay mượn.
Ta muốn cái
thân xác này
Biến thành
ngã tư, ngã năm, ngã bẩy,
Thành phố,
thành đường....
[Note: Gửi
Cù Hậu Duệ. NQT]
Mấy dòng thơ
sau đây, của Mandelstam, để tặng con phố mang tên ông.
Như Phố TCS !
What
street's this one?
- 'This is Mandelstam
Street.
His
disposition wasn't "party-line"
Or
"sweet-as-a-flower".
That's why
this street -
Or, rather,
sewer
Or possibly
slum -
Has been
named after Osip Mandelstam.'
Con phố nào
đây?
-Phố
Mandelstam
Sao không có
tí ‘đường lối của Đảng’
Hay ‘đẹp như
thơ, ngọt như hoa’
Chắc vì thế
mà có con phố như thế này –
Hay, tốt
hơn, thì là một cái cống rãnh
Hay, có thể,
phố ổ chuột-
được đặt tên
theo nhà thơ Mandelstam
Sau khi
Stalin chết, Mandelstam được ‘phục hồi’, nhưng vẫn chưa có con phố nào
được đặt
tên nhà thơ, ở toàn xứ Liên Xô
Bắc Kít, mê
tiếng Nga, mê Cách Mạng Nga, mê kít Nga, thành thử Gấu phải chọn 1 nhà
thơ Nga vinh
danh Cù Hậu Duệ, để cho chúng biết Nga đâu phải chỉ có thứ thơ xúi
người ta giết
người, và phải chọn đúng cái ông làm thơ chửi Stalin, và chết ở trong
tù, làm
gì có thứ thi sĩ ngồi viết tự kiểm, xin tha, về nhà, để… làm thơ!
Trong bài Tựa
cho tập thơ của chồng, bà vợ chỉ ra sự khác biệt giữa thơ canh tân, và thơ truyền
thống, đúng vấn đề chúng ta đang đụng phải, khi nghĩ tới thơ lục
bát của xứ
Mít.
Có gì dễ
bằng làm thơ lục bát, và có gì cực khó, làm thơ lục bát?
Gấu thấy
nhan nhản thơ lục bát ở trên lưới, sợ quá đến hết dám đọc!
Một bạn văn
vừa cho biết, "lẩn", mới đúng.
Trong bài Biển,
của Gấu, “lẫn” mới đúng.
Biển
Buổi
chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ
Georgian
Cứ nghĩ thềm
bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển
lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng
đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được
con người chở từ đâu tới
Còn ta bị
quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn
thua hạt cát.
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi
nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ còn ta
cô đơn lẫn vào đêm
Như con
hải
âu già
Giấu chút
tình sầu
Vào lời
thì
thầm của biển...
22/01/2010
Tôi được đọc
bài thơ "Biển" của ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng
ông hình của "tôi" bên bờ biển, như một lời chào.
Trong email
trước tôi đã vô lễ gọi ông là "Gấu Nhà Văn", vì đọc Tin Văn liên tiếp
suốt mấy ngày liền, khiến tôi nhập tâm.
Thực tình,
tôi thích cái bút danh đó.
Khi tôi chụp
hình con hải âu, tôi cứ nghĩ nó là hình ảnh của chính mình. Ai ngờ, tôi
lại gặp
một con hải âu khác khi đọc bài thơ Biển
của ông. Khi nhớ quê hương, kẻ thì
"thương nhớ đồng quê", người nhớ Sài Gòn, còn tôi, tôi nhớ biển...
Mấy bài thơ
sau đây, của Charles Simic, trong Master
of Disguises, là để tặng… Gấu!
The
Invisible One
You read
today about a child
Kept for
years in a closet
By his crazy
parents
On a street
you walked often.
Busy with
your own troubles,
You saw
little, heard nothing
Of what was
said around you,
As you made your way home
Past loving
young couples
Carrying
flowers and groceries,
Pushing baby
carriages,
Hanging back
to scold a dog.
Kẻ vô hình
Bạn đọc báo
bữa nay về một đứa trẻ
Bị nhốt nhiều
năm trong một tủ áo
Bởi bố mẹ khùng
Ở con phố mà
bạn thường đi bộ qua
Bận bịu với đủ
thứ chuyện của riêng bạn
Bạn ít nhìn,
chẳng nghe gì hết
Về những gì
xẩy ra quanh bạn
Khi bạn trên
đường trở về nhà
Vượt qua những cặp vợ
chồng yêu thương thắm thiết
Ôm hoa, tạp phẩm
Đẩy xe con nít
Chùn bước lại
một tí để la con chó.
Private
Miseries
More than
this crippled veteran playing the banjo,
I have no
right to grumble,
More than
this old woman cracking open her purse
To give him
a quarter,
Lest they
both take offense and beat me
On the head
with one of his crutches.
My own
anguish must remain unspoken,
Hidden
behind a firm stride and a smile.
One day I
knelt down and cursed God
For all the
suffering and injustice he consents to.
Since then,
I have felt even more alone.
Like a
lifelong widower forever unconsoled
I pass the
homeless huddled in doorways
Upon a
winter morning and dare not
Grouse about
my own sleepless night,
And my cold
feet that make me hurry past them.
Những nỗi khốn
khổ mình ên
Hơn cả cái
anh cựu binh VNCH,
già què, đang
từng tưng với cây đàn băng dzô
Tớ đếch có
quyền càu nhàu
Hơn cả cái bà
già đang cố mở bóp
lấy mấy nghìn Cụ Hồ
cho ông lính Ngụy già què
Cứ để cho họ
cảm thấy bị tổn thương và đập vào đầu tớ
Với
một trong những cây nạng
Cái nỗi thống
khổ của riêng tớ phải được nín khe,
Và được giấu
ở bên dưới bước đi mạnh mẽ, và nụ cười.
Một bữa tớ
quỳ xuống và nguyền rủa Thượng Đế
Về bao đau
khổ và bất công mà ông ta cứ nhè tớ mà trút xuống
Kể từ đó, tớ
cảm thấy cô đơn còn hơn bao giờ hết
Như một bà
goá cả đời không hề được an ủi.
Tớ đi qua một
đám người vô gia cư láo nháo ở hành lang
Một buổi sáng mùa đông và không dám
Càu nhàu về
một đêm mất ngủ của riêng tớ
Và đôi chân
lạnh giá của tớ càng khiến tớ vội vã đi qua họ
And Who Are
You, Sir?
I'm just
a
shuffling old man,
Ventriloquizing
For a god
Who hasn't
spoken to me once.
The one with
the eyes of a goat
Grazing
alone
On some high
mountain meadow
In the long
summer dusk.
Nhưng Ngài là
Ai, hử Ngài?
Tớ chỉ là một
tên già lê lết
Nói chuyện bằng
bụng
Về một ông
trời
Chưa từng nói
với tớ một lần
Kẻ có đôi mắt
dê
Thả dê một mình
Trên cánh đồng
cỏ trên núi cao
Vào một hoàng
hôn dài mùa hè
Among the
Exiles
One met
former cabinet ministers,
University
professors, defrocked priests and officers,
Feeding pigeons from a park bench,
Squinting
into foreign newspapers
And telling
anyone who happened to ask
Not to
bother their heads about the truth.
On the use
of murder to improve the world
They had
many vivid memories
As they
huddled in their dim kitchens,
Clipping
supermarket coupons,
Shifting the
loose dentures in their mouths
While
waiting for the teakettle to boil.
They ate in
restaurants with waiters older than themselves,
Musicians
whose fingers bled
As they
picked at their instruments
Making some
tipsy widow burst into sobs
On hearing a
tune her husband the general loved,
The one who
sent thousands to their deaths.
Giữa những Lưu
Vong
Người ta gặp
những cựu bộ trưởng
Giáo sư đại
học, tu sĩ mất áo tu, sĩ quan mất quân phục,
Cho bồ câu ăn
ở băng ghế công viên,
Liếc tờ báo
chợ
Và biểu người
nào tính hỏi,
Này, đừng có
bực mình, lúc lắc cái đầu, khi biết sự thực
Về cái việc
sử dụng sát nhân để cải thiện thế giới
Họ có nhiều
kỷ niệm sống động
Khi quay mòng
mòng trong căn bếp tối thui
Cắt cắt mấy
cái phiếu siêu thị
Xốc xốc bộ răng
giả trong miệng
Trong khi chờ
ấm nước pha trà sôi
Họ ăn trong
những tiệm bồi bàn già hơn họ
Nhạc sĩ bấm đàn bằng những ngón tay rướm máu (1)
Làm một bà góa
ngà ngà say, khóc nức nở
Khi chơi một
điệu nhạc mà ông chồng đại tướng ngày nào của bà thích nghe
Ông tướng này
đã từng ra lệnh làm thịt hàng ngàn người
Charles
Simic: Master of Disguises
(1)
Charles Simic
chắc là có đọc Kiều rồi, nên thuổng, như đám mũi lõ thuổng nhạc Trịnh,
“nghi án”
đang gây chấn động trong giới giang hồ Mít ở trong nước: "bốn dây nhỏ
máu
năm đầu ngón tay" !!!
Ui chao, Gấu
lại nhớ đến cảnh nàng Kiều họ Trịnh hầu đàn Hồ Tôn Hiến!
The Empress
My beloved,
you who spend your nights
Torturing me
By holding
up one mirror after another
To me in the
dark,
If there's
anything I know to say or do today,
I merit no
praise for it,
But owe it
to the subtlety of your torments,
And your
perseverance in keeping me awake.
All the
same, who gave you the right
To judge me
in my wretchedness?
What soul
white as snow
Compiled
this endless list of misdeeds
You read to
me every night?
The airs you
put on when I tell you to stop
Would make
one believe
You were
once a bedmate of a Chinese emperor.
I like it
best when we do not say a word.
When we lie
side by side
Like two
lovers after their passion is spent.
Once again,
day is breaking.
A small bird
in the trees is pouring her heart out
At the
miracle of the coming light.
It hurts.
The beauty
of a night spent sleepless.
Nữ Hoàng
Người yêu ơi, hằng đêm
Tra tấn anh
Bằng cách cầm
hết gương này tới gương khác
Cho anh soi
trong bóng tối,
Nếu có điều
gì anh biết và nói ra, hay thực hiện, bây giờ
Anh thật chẳng
đáng để mà ngợi khen
Nhưng anh nợ
em ở cái trò tra tấn thật là tinh vi thật là ly kỳ thật là tinh tế đó!
Và ở cái sự
lì lợm của em, làm sao giữ cho anh lúc nào cũng tỉnh thức.
Thì cũng vậy
thôi, ai cho phép em cái quyền phán đoán anh,
Trong tình trạng khốn khổ khốn nạn
như thế?
Linh hồn nào
trắng như tuyết
Chứa trong nó
cái danh sách thật dài toàn những điều xấu xa, đê tiện
Em đọc cho anh nghe hằng
đêm?
Cái dáng điệu
của em khi anh năn nỉ, hãy xì tốp,
Làm cho anh
nghĩ rằng,
Em có thời là bạn giường của hoàng đế Trung Hoa.
Anh mê nhất
khi chúng ta chẳng ai nói một lời
Khi nằm bên
nhau
Như hai người
yêu cạn sạch đam mê
Ngày lại tới
Một cô chim
nhỏ, trên cành cây, hót đến bật trái tim ra khỏi lồng ngực.
Khi chứng kiến
phép lạ ánh sáng lại xuất hiện
Nó làm đau.
Cái đẹp của
một đêm ‘mật ngữ” (1)
Charles
Simic: Master of Disguises
“Dem Mat Ngu”,
tên một bài viết của HPNT, về Trần Dần,
*
Trần Anh
Thái: Trong tập "Lửa Thiêng" chỉ có tám bài thơ lục bát, bài nào cũng
toàn bích, nhà thơ có bí quyết gì?
Huy Cận: Ấy
là bản năng thơ, tôi không có bí quyết gì, không có lý luận gì, thơ là
thiên bẩm.
Source
đẹp xưa
Ngập ngừng
mép núi quanh co,
Lưng đèo
quán dựng, mưa lò mái ngang…
Vi vu gió
hút nẻo vàng;
Một trời thu
rộng mấy hàng cây cao.
Dừng cương
nghỉ ngựa non cao,
Dặm xa lữ thứ
kẻ nào héo hon...
Đi rồi, khuất
ngựa sau non;
Nhỏ thưa
tràng đạc tiếng còn tịch liêu...
Trơ vơ buồn
lọt quán chiều,
Mái nghiêng
nghiêng gửi buồn theo hút người
Note: Bài
thơ này, sử dụng hệ thống tọa độ ba trục.
Trục
hoành,
thí dụ, thu rộng.
Trục
tung: non cao
Trục thứ
ba,
là trục thời gian, và thời gian, như Brodsky phán:
Bao thơ tôi ít nhiều chi là
về thời gian, về thời gian làm gì con người.
Những héo
hon, lữ thứ, buồn theo hút người... là nói về "thời gian làm gì
con người".
Cái
tít "đẹp xưa" [đẹp cổ điển] là theo nghĩa đó.
NQT
Bài thơ trên
Gấu chép lại từ tập Lửa Thiêng
của nhà sách Sống Mới. Nhưng một độc giả TV cho
biết mây nao mới đúng.
Trần Mạnh Hảo, trong bài viết về
HC, ghi là mây nao.
Tks. NQT
Cách giải thích
bài thơ, như trên, là Gấu phịa ra, mượn ý niệm trục tọa độ, trong toán.
TMH viết:
Trong 50 bài "Lửa thiêng",
chỉ có 8 bài thơ lục bát :" Buồn đêm
mưa", " Trông lên", "Chiều xưa", "Đẹp xưa",
" Thuyền đi", "Xuân ý ", "Thu rừng" và "Ngậm
ngùi". Nhưng nếu không có 8 bài thơ lục bát này, "Lửa thiêng "
dù có nhiều bài thất ngôn hay ví như "Tràng giang" thì cũng chưa thể
làm nên một Huy Cận vượt thời gian như đã có. Nguyễn Du đại thiên tài
lục bát,
đã đưa nhịp sáu tám Việt Nam lên tới đỉnh mây trời nhân loại. Nguyễn Du
từng ít
nhiều ảnh hưởng lục bát ca dao, ảnh hưởng lục bát của Đoàn Thị Điểm,
Nguyễn Gia
Thiều để làm ra hàng nghìn câu thiên thu tuyệt diệu riêng mình. Thấm
đẫm hồn
thơ cha ông, Huy Cận đã hiện đại hóa câu thơ sáu tám Việt Nam. Ông như
người kế
thừa trung thành của phả hệ lục bát Nguyễn Du rồi phát triển nó về u
tịch. Đọc
thơ lục bát Huy Cận, cơ hồ như hồn Nguyễn Du phảng phất đâu đây, như
thể bút thần
xưa được hậu thế cầm lên viết tiếp, như bài " Đẹp xưa":
"Ngập
ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo
quán dựng, mưa lò mái ngang...
Vi vu gió
hút nẻo vàng
Một trời thu
rộng mấy hàng mây nao
Dừng cương
nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ
kẻ nào héo hon
Đi rồi khuất
ngựa sau non
Nhỏ thưa
tràng đạc tiếng còn tịch liêu
Trơ vơ buồn
lọt quán chiều
Mái nghiêng
nghiêng gửi buồn theo hút người..."
Câu thơ
"Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang" trên của Huy Cận làm ta nhớ đến
"Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia "của Tố Như xưa. Huy Cận lấy hồn
muôn năm trước mà hiện đại hóa câu thơ lục bát bây giờ, như gió xưa
vàng đẫm lá
thu nay :" Vi vu gió hút nẻo vàng ". Ngọn gió Huy Cận mặc áo vàng
nghìn thu mà hun hút, mà nghiêng nghiêng mái chữ, mái-hiên-người, cũng
là mái
thơ :" Mái nghiêng nghiêng gởi buồn theo hút người". Cũng như bài
"Đẹp xưa", bài lục bát "Buồn đêm mưa" và bài "Chiều
xưa" hay đến từng câu từng chữ. Cái buồn Huy Cận nơi đây đẹp đến rụng
rời,
đẹp đến ngơ ngác, hoang vu.
*
Trần Mạnh Hảo
là một nhà thơ, nhưng khi ông viết phê bình, qua những dòng trên, về
Huy Cận,
thì có vẻ cũng 1 thứ phê bình tán phó mát, rông rài với mớ chữ.
Thí dụ nhận
xét này của ông: Thấm đẫm hồn thơ cha ông,
Huy Cận đã
hiện đại hóa câu thơ sáu tám Việt Nam.
Hiện
đại hóa, như thế nào, ông không giải thích.
Lấy
thí dụ, với Cung Trầm Tưởng, và dòng lục bát, mà Gấu nhớ lõm bõm:
Tháng
Giêng buốt sẻ đôi đằng
nửa
chì mưa đục, nửa băng giá hồn
Tuyệt
cú!
Trước,
đâu có ai làm lục bát như thế?
Bảo
Huy Cận “hiện đại hóa lục bát”, Gấu sợ nói ngược, HC làm cho nó cổ mãi
ra, trở
thành sầu thiên cổ, sầu vạn cổ, thí dụ hình ảnh sau đây, mà chẳng là
đẩy cái hiện
tại về tới ngàn xưa:
Đồn xa quằn
quại bóng cờ,
Phất phơ buồn
tự thuở xưa thổi về.
Bởi vậy mà
Hoài Thanh – Hoài Chân, từ Mars, 1941, đã phán về ông:
Có người sẽ
bảo thơ Huy Cận già… Tôi thấy thơ Huy Cận trẻ lắm.
Chỉ hai từ
trẻ/già này đủ nói lên cõi thơ HC, nhất là với những bài lục bát của
ông.
Gấu sẽ lèm thêm,
về cặp già/trẻ, hay, hiện đại/cổ điển.
Cẩn. NQT
Note: Cái
này là vinh danh ông bố, chờ VC làm thịt ông con! NQT
Huy Cận
Chiều Xưa
Buồn gieo
theo gió veo hồ,
Đèo cao quán
chật, bến đò lau thưa.
Đồn xa quằn
quại bóng cờ,
Phất phơ buồn
tự thuở xưa thổi về.
Ngàn năm sực
tỉnh, lê thê
Trên thành
son nhạt - Chiều tê cúi đầu...
Bờ tre rung
động trống chầu,
Tưởng chừng
còn vọng trên lầu ải quan,
Đêm mơ lay
ánh trăng tàn,
Hồn xưa gửi
tiếng thời gian, trống dồn.
Bản in trong
tập thơ Lửa Thiêng, nhà sách Sống Mới,
tái bản tại Huê Kỳ
Thursday,
April 21, 2011 1:18 AM
Thưa bác Gấu:
Câu thứ tư khổ đầu bài Đẹp xưa,
nếu tôi nhớ
không nhầm, phải là:
Một trời
thu rộng mấy hàng mây nao
Vả lại, tác
giả Lửa thiêng không phải là nhà thơ
mới vào nghề, đến nỗi phải mắc lỗi lặp lại âm tiết “cao” trong câu thơ
kế tiếp
Kính
DV
Note: Bài
thơ Ðẹp Xưa, khi đánh máy,
post lên, là Gấu đã biết sai rồi. Tính để sáng coi
lại, và, kể như suốt đêm băn khoăn với vấn nạn, “không phải cây
cao, chắc chắn rồi, nhưng thế thì nó
là cái gì?”
Tới 4 giờ
sáng thì thức giấc, thấy cái mail của độc giả DV, mới ơ rơ
ka 1 tiếng, hoá ra là như vậy!
Tks again. NQT
Nothing reveals a poet's
weakness like classic
verse and that why it's so universally dodged
Brodsky [Intro to Anna Akhmatova's Poems, selected
and edited by Lyn
Coffin.
Norton]
Không gì tố cáo cái yếu kém của
một nhà thơ cho bằng thơ cổ điển,
và chính vì thế mà mấy nhà thơ Mít dởm của chúng ta tránh nó như
tránh... hủi!
Thơ lục bát: Một
duyên phận long đong
TYT
Note: Tay này đặt ngược vấn đề!
Thơ lục bát không long đong, nhưng nhà thơ long đong, nếu đụng vô nó,
mà không
đủ nội lực.
Đây là nhận định của hơn 1 nhà
văn, nhà thơ, trên thế giới, khi
cho rằng, ‘truyền thống’, trong có lục bát, tất nhiên, là một thách đố,
đối với
những nhà thơ dởm, và chính vì nó, truyền thống [ở đây, là lục bát], mà
đẻ ra
ba thứ thơ nhảm nhí, như tự do, không vần, tân hình thức, những nhà thơ
cách
tân, canh tân, hậu vệ, mở miệng....!
Trong quá khứ, cũng có hơn 1
nhà thơ Mít, đụng vô lục bát, mà
thành công, thí dụ, Cung Trầm Tưởng, [Bùi Giáng nữa, ở 1 số bài, thí dụ
như khi
ông dịch Apollinaire], Đồng Đức Bốn, Viên Linh, [nhớ đại khái vài cái
tên]
TTT phải đến khi vô tù mới trở
lại được với truyền thống, một phần
là vì hoàn cảnh, cái khó nó bó cái khôn, nhưng theo Gấu, chính ở trong
tù ông
mới ngộ ra được truyền thống, một phần là do, cái gọi là bạo lực trong
thơ của
ông tới được cõi viên mãn của nó: thiền.
Source
|
|