|
Thơ Tháng Tư
Eternities
A child lifted in his
mother's arms to see a parade
And that old man throwing breadcrumbs
To the pigeons crowding
around his feet in the park,
Could they be the same person?
The blind woman who may
know the answer recalls
Seeing a ship as big as a city block
Glide one night all lit up
past her kitchen window
On its way to the dark and stormy Atlantic.
Granta: Summer 2013: Travel
Vĩnh Cửu
Đứa bé níu tay mẹ, cố
ngước nhìn đám rước ngày 30 Tháng Tư 1975
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay
Vui sao nước mắt lại trào.
Và cái tay già khằn, vừa
lùn vừa lé, đang ném những mẩu bánh mì cho đàn bồ câu
quanh quẩn dưới chân anh già ở 1 công viên Toronto, Canada
Phải chăng là cùng 1 người?
Người đàn
bà mù có thể có câu trả lời
Nhớ lại
Đã có 1
lần nhìn thấy 1 con tầu to bằng cả 1 góc biển Đông,
Chạy suốt
mảnh đất hình chữ S
Đưa bà và
hai đứa con đến bến cảng Xề Gòn
Trong 1
đêm tối thui, bão tố đầy trời.
Thơ Tháng Tư
Live at Club
Revolution
Our nation's
future's coming into view
With a
muffled drumroll
In a slow,
absentminded striptease.
Her
shoulders are already undraped,
And so is
one of her sagging breasts.
The kisses
she blows to us
Are as cold
as prison walls.
Once we were
a large wedding party.
It was a
sunny weekend in June.
Women wore
flowers on their straw hats
And white
gloves over their hands.
Now we run
dodging cars on the highway.
The groom,
someone points out, looks like
President
Lincoln on a death notice.
It's time to
burn witches again,
The minister
shouts to the congregation
Tossing the
Bible to the ceiling.
Are those
Corinna Brown's red panties
We see
flying through the dark winter trees,
Or merely a
lone crow taking home
His portion
of the day's roadkill?
Charles
Simic
Nhạc sống tại
Câu Lạc Bộ Cách Mạng Thành Hồ
Tương lai xứ
Mít đi vô tầm nhìn
Với 1 hồi trống
tắc nghẹn
Trong một
xen thoát y chầm chậm, lơ đãng.
Vai em vũ nữ
để trần
Cũng thế, là
một bên vú, xệ xuống
Nụ hôn em
ban cho chúng ta
Lạnh như tường
nhà tù Phan Đăng Lưu
Một lần tụi
này tham dự tiệc cưới của 1 đại gia
Một weekend
có nắng vào Tháng Sáu
Đờn bà trang
trí hoa trên nón rơm
Đeo găng trắng
Lúc này, tụi
này đang chạy xe lắt léo trên
xa lộ Biên Hòa
Chú rể, một
tay nào chỉ ra,
Sao giống y
chang Víp Va Ka,
aka Sáu Dân, aka Hồ Tôn Hiến,
trên một tờ giấy báo tử.
Đã đến giờ lại
thiêu sống lũ phù thuỷ
Vị mục sư
la
lớn với giáo đoàn
Quăng
cuốn
Thánh Kinh lên trần nhà
Có phải
mấy
cái xịp đỏ lòm của kỳ nữ KC,
Chúng ta
nhìn
thấy bay trên nền trời tối thui mùa đông Thành Hồ?
Hay chỉ
là 1
chú quạ
đem về nhà
phần chia
những
xác chết vì xe cán trong ngày?
Mother
Tongue
That's the
one the butcher
Wraps in a
newspaper
And throws
on the rusty scale
Before you
take it home
Where a
black cat will leap
Off the cold
stove
Licking its
whiskers
At the sound
of her name
Charles
Simic
Tôi êu tiếng
nước tôi
Đó là thứ tiếng
mà tay đồ tể
Gói trong tờ
báo chợ Người Vịt,
Của băng Cờ
Lăng,
Rồi thẩy lên
cái bàn cân gỉ sét
Rồi bạn trả
tiền
Và mang về
Nơi con mèo đen
nhảy qua cái bếp lò lạnh tanh
Liếm liếm mấy
sợi ria mép của nó
Khi nghe bạn kêu “Miu
Miu”
Bữa rượu nhỏ
Nàng không
tin nàng còn xinh
Cười đưa hoa
ấu chồng mình ngắm chơi
Rót ly rượu
nhỏ cùng soi
Chân mày môi
má hồng thôi là hồng (1)
Đặng Lệ
Khánh
Note: Bắc
Kít nói, Hồng ơi là Hồng!
Đen ơi là Đen!
Tks
NQT
Người Huế
cũng nói "hồng ơi là hồng!", nhưng nói như vậy thì hơi "liếng"
.
Để nghiêm chỉnh hơn một tí thì dùng chữ "thôi" !!
Anh Trụ dịch
và viết nhiều quá, K đọc không kịp !!!
Tôi tính chỉ
dịch thơ, và dịch 1 số truyện ngắn, và bỏ hết những mục khác, nhưng
chưa được.
Tôi cũng định
chuyển 1 số bài viết cho a2a, nhưng phải là những bài nhẹ nhàng, và
“hoàn tất”!
Tks agian
NQT
III
Ces pages
sont traduites. D'une langue
Qui hante la
mémoire que je suis.
Les phrases
de cette langue sont incertaines
Comme les
tout premiers de nos souvenirs.
J'ai restitué
le texte mot apres mot,
Mais le mien
n'en sera qu'une ombre, c'est à croire
Que
l'origine est une Troie qui brule,
La beaute un
regret, l'oeuvre ne prendre
A pleines
mains qu'une eau qui se refuse.
Yves
Bonnefoy: La vie errante
III
These pages
are translations. From a tongue
That haunts
the memory I have become.
Its phrases
falter, like what we recollect
From early
childhood, long ago.
I built the
text again, word for word:
But mine is
only shadow. As though we know
All origin
is a Troy that burns,
All beauty
but regret, and all our work
Runs like
water through our hands.
The Wandering Life
YVES
BONNEFOY: SECOND SIMPLICTY:
New poetry and prose,
1991-2011
Những trang
này là dịch.
Từ 1 thứ tiếng
nói hành hạ quá khứ của Gấu bi giờ
Câu kệ không
đáng tin
Như tất cả
những kỷ niệm đầu tiên của chúng ta
Gấu cố lập lại
bản văn bằng cách mò mẫm từng từ từng từ
Nhưng chỉ như
cái bóng
Nguyên gốc, thành
Troie cháy mất tiêu
Cái đẹp ư,
chỉ còn sự hối tiếc
Tác phẩm ư,
Như nước lọt
qua kẽ tay bạn.
Bei Dao: The
Rose of Time
Giọng Bắc Kít
Gấu nói giọng
Bắc Kít với cái gương
Công viên có
riêng mùa đông của nó
Gấu vặn nhạc
Mùa đông thì
làm gì có ruồi
Chậm rãi
làm ly cà phê
Ruồi, Bọ, VC... thì làm sao
hiểu quê hương là [cái đéo] gì,
Hà, hà!
Thêm tí
đường
Quê hương là
1 giọng Bắc Kít,
Nghe nhói 1
phát
Ở bên kia đầu
phôn.
Ui chao,
đúng là nhói 1 phát thật, khi lần đầu gọi phôn, nghe cái giọng Bắc Kít,
đúng giọng
Cô Hồng Con của 1 làng Bắc Kít, ở ven đê sông Hồng.
Đúng giọng BHD….
Ta bận chồng, bận con, làm gì có thì giờ cho
mi…. hà, hà!
Take
Care,
Sorry. NQT
Thơ Tháng Tư
Manly Tears
We recall
the time at school when our treasured anthology of love poetry was
seized by
the class bully. We tried to snatch it back but failed. Dusting
ourselves off,
we shouted into the face of our aggressor: "There is a pleasure in
poetic
pains that only poets know". We then resolved to take up boxing. If
only
we'd been armed with a copy of Poems That
Make Grown Men Cry by Anthony and Ben Holden - proof that verse
isn't just
for sissies. Here, 100 "real men" reveal they too can be reduced to
tears by a tender rondel, a stirring sestina. The book aims to explode
apparent
myths about "gender stereotyping". According to Kate Allen, the
British director of Amnesty International, with whom the publishers
have
collaborated, "we hope that this anthology will encourage boys, in
particular, to know that crying - and poetry - isn't just for girls".
Suitably emboldened, and armed with our best
handkerchief, we
perused the collection. Within its manly pages we found plenty of
Hardy,
Housman, Heaney and Larkin, several of the usual Romantic suspects and
a
predictable selection of First World War poetry. Two tearful
contributors chose
Bertolt Brecht, two Derek Walcott; others picked Craig Raine and Harold
Pinter,
Pablo Neruda and Tony Harrison ("the most important English poet of the
latter half of the twentieth century", according to Daniel Radcliffe).
We
were intrigued to see the poker player James McManus select a passage
from
James Joyce's "prose poem" Finnegans
Wake ("and weary I go back to you my cold father ... "). Gender
stereotypers will be interested to learn that men outnumbered women by
ten to
one. In the end, the gong for sobbing went to W. H. Auden. Auden has
made Simon
Schama, Simon Callow, Salman Rushdie, William Boyd, Alexander McCall
Smith and
Rowan Williams cry. "Lullaby" was the chief culprit (Callow: "I
still find it impossible to utter out loud or even to read to myself
the
opening two lines without breaking down"; Schama: "It is the honesty
embedded amidst sheets and on the pillow that makes the eyes prick and
the
heart knock"). We were relieved that no one - not even Richard Curtis -
chose "Funeral Blues". Curtis selected Heaney's "A Call";
Heaney picked Hardy's "The Voice". "We hope that readers may set
each other off as they read these verses aloud to one another", writes
Ben
Holden in his introduction. His wish may come true on April 29, when
several of
the contributors will read from the collection at the National Theatre.
We
understand that women, too, are welcome. In the meantime, Poems That
Make Grown
Men Cry is available from Simon and Schuster for £16.99.
Some weep at its
poignancy; others at its complexity. All can
be grateful for a handsome new edition of Finnegans
Wake illustrated by John Vernon Lord and now available from the
Folio
Society for £99. Previous projects by the artist include illustrated
versions
of The Nonsense Verse of Edward Lear
and Lewis Carroll's "The Hunting of the Snark". It seems appropriate
that the original TLS review of Finnegans
Wake from May 6,1939 boggles at Joyce's "Jabberwockian form".
The scene
pictured comes from the final section of the novel that caused James
McManus
such distress. The face of Anna Livia Plurabelle I (in this case
represented by
a photograph of Joyce's wife, Nora) merges with the River Liffey. The
strip of
light across her forehead alludes to the line "This baylight's
growing".
TLS April 4,
2014
Thơ làm đàn ông nhỏ lệ. Poems That
Make Grown Men Cry.
Nếu bạn ở
Luân Đôn, có thể tham dự đêm thơ này, 29 Tháng Tư 2014, Nhà Hát Thành
Phố.
Phụ
nữ cũng có thể tham dự.
Có lạc
thú
trong nỗi đau thơ mà chỉ thi sĩ mới hiểu nổi, "There is a pleasure in
poetic pains that only poets know".
Chúng tôi hy vọng tập thơ này sẽ khuyến khích mấy cậu thanh
niên biết,
khóc, và tất nhiên, thơ, không chỉ dành cho mấy em, "we hope that this
anthology will encourage boys, in
particular, to know that crying - and poetry - isn't just for girls".
Bei Dao: The
Rose of Time
Giọng Bắc Kít
Gấu nói giọng
Bắc Kít với cái gương
Công viên có
riêng mùa đông của nó
Gấu vặn nhạc
Mùa đông thì
làm gì có ruồi
Chậm rãi
làm ly cà phê
Ruồi, Bọ, VC... thì làm sao
hiểu quê hương là [cái đéo] gì,
Hà, hà!
Thêm tí
đường
Quê hương là
1 giọng Bắc Kít,
Nghe nhói 1
phát
Ở bên kia đầu
phôn.
Ui chao,
đúng là nhói 1 phát thật, khi lần đầu gọi phôn, nghe cái giọng Bắc Kít,
đúng giọng
Cô Hồng Con của 1 làng Bắc Kít, ở ven đê sông Hồng.
Đúng giọng BHD….
Ta bận chồng, bận con, làm gì có thì giờ cho
mi…. hà, hà!
Take
Care,
Sorry. NQT
Israeli
Poems on War and Peace: Yehuda Amichai
Eyes are on
the Middle East again as we enter the holiday season. I have been
browsing in a
book called After the First Rain: Israeli Poems on War and Peace (Dryad
Press),
edited by Moshe Dor and Barbara Goldberg and translated by a number of
eminent
American poets. It begins with a foreword by Shimon Peres, who recalls
in
movingly spare and evocative language the ideals and the assassination
of his
friend Yitzhak Rabin.
The poems, of course, speak about the tragedy of war and the longing
for peace.
Great poetry
doesn't necessarily get made out of important subjects. But this is
an urgent subject, and the poems address it eloquently. Warweariness,
piercing
sadness, hope. One of the most eloquent is "Seven Laments for the War
Dead"
by Yehuda Amichai. Here is a section of it:
Is all of
this
sorrow? I don't know.
I stood in
the cemetery dressed in
the camouflage
clothes of a living man: brown pants
and a shirt yellow as the sun.
Cemeteries
are cheap; they don't ask for much.
Even the wastebaskets are small, made for holding
tissue paper
that wrapped flowers from the store.
Cemeteries are a polite and disciplined thing.
“I shall never forget you," in French
on a little
ceramic plaque.
I don't know
who it is that won't ever forget:
he's more
anonymous than the one who died.
Is all of
this sorrow? I guess so.
"May ye
find consolation in the building
of the homeland." But how long can you go
on building the homeland and
not fall behind in the terrible
three-sided race
between
consolation and building and death?
Yes, all of
this is sorrow. But leave
a little
love burning always
like the
small bulb in the room of a sleeping baby
that gives
him a bit of security and quiet love
though he
doesn't know what the light is
or where it
comes from.
This
translation from the Hebrew is by Chana Bloch.
Robert Hass: Now & Then
Thơ ca lớn đếch
cần bước ra từ đề tài lớn, nhưng 30 Tháng Tư là một đề tài khẩn, rất
khẩn, càng
lâu càng trở nên khẩn!
Tất cả những
cái điều Gấu vừa lèm bèm đó, là nỗi buồn đó ư?
Gấu cũng đếch
biết nữa!
Gấu đứng ở
nghĩa trang, ăn vận quần áo ngụy trang như là đang còn sống: quần áo
rằn ri của
lũ Ngụy…
Nghĩa trang
thì rẻ mạt: Họ đâu đòi hỏi chi nhiều
Ngay mấy cái
giỏ đựng rác cũng nhỏ xíu
Thì chỉ đựng
ba giấy gói bông, gói hoa, từ cửa tiệm.
Nghĩa trang
mới lịch sự và ngăn nắp làm sao
"Ta sẽ không
bao giờ quên mi đâu", Gấu Cái phán, và khắc lên tấm plaque bằng sành.
Nhưng có đúng
là mộ Gấu không đấy
Hay là mộ một
tên lính Ngụy vô danh nào đó?
EUGENIO DE
ANDRADE (1923-2005)
Brief
September Elegy
I don't know
how you came,
but there
must be a road
leading back
from death.
You are
seated in the garden,
your hands
in your lap, filled with sweetness,
your eyes
resting on the last roses
of these
vast and calm September days.
What music
do you follow so intently
that you
don't even notice me?
What forest,
or river, or sea?
Or is it
within yourself
that
everything still sings?
I would like
to speak to you,
just to tell
you that I'm here,
but I'm
afraid,
afraid the
music all will stop
and you will
cease to see the roses.
Afraid of
breaking the thread
with which
you weave un-remembered days.
With what
words
or kisses or
tears
can one
awake the dead without harming them,
without bringing
them to that black foam
where bodies
and bodies repeat themselves,
parsimoniously,
among shadows?
Stay as you
are then,
filled with
sweetness
seated,
gazing at the roses,
and so very
far away
you don't
even notice me.
Translated from the
Portuguese by
Alexis Levitin
Bi Khúc Ngắn, Tháng Chín
Tôi không biết bằng cách
nào bạn tới
Hẳn là phải có con đường
Dẫn người chết trở lại
Bạn ngồi ở ngoài vườn
Tay đặt trên đùi, ngọt
ngào, êm ái làm sao
Mắt bạn dừng lại ở những
bông hồng cuối cùng
Của những ngày Tháng Chín,
thênh thang và êm ả.
Âm nhạc nào bạn lắng
nghe
Đến chẳng nhận ra sự hiện
diện của tôi?
Rừng nào, hay sông nào,
hay biển nào?
Hay là nó ở trong chính bạn
Mọi ngày xưa, vẫn hát?
Tôi muốn nói với bạn
Chỉ để rằng, có tôi ở đây
Nhưng tôi lại sợ
Âm nhạc sẽ ngưng
Và bạn sẽ ngừng ngắm những
bông hồng
Sợ làm đứt sợi
tơ
Với nó, bạn dệt những ngày
không thể nào tưởng nhớ được
Bằng những lời nào
Những cái hôn nào
Những giọt nước mắt nào
Chúng ta có thể đánh thức
những người đã chết
Mà không làm tổn thương
họ?
Không khiến họ trở lại biển
đen
Nơi xác người, xác người,
tự chúng lập lại chúng,
Một cách dè sẻn, giữa những
cái bóng?
Cứ ở đó nhé
Tràn đầy êm ái, ngọt ngào
Ngắm những bông hồng,
Xa ơi là xa
Chẳng cần bạn để ý gì đến
tôi.
Thơ mừng
ngày 30 Tháng Tư sắp tới
tháng tư tôi
đến rừng chưa khóc
mưa vẫn chờ
tôi ở cuối khuya
có môi chưa
nói lời gian dối
và mắt chưa
buồn như mộ bia
tháng tư nao
nức chiều quên tắt
chim bảo cây
cành hãy lắng nghe
bước chân ai
dưới tàng phong úa
mà tiếng giầy
rơi như suối reo
tháng tư
khao khát, đêm vô tận
tôi với người
riêng một góc trời
làm sao em
biết trăng không lạnh
và cánh chim
nào không bỏ tôi ?
tháng tư
hư ảo
người đâu biết
cảnh tượng hồn
tôi : một khán đài
với bao
chiêng, trống, bao cờ xí
tôi đón em về
tự biển khơi
tháng tư xe
ngựa về ngang phố
đôi mắt nào
treo mỗi góc đường
đêm ai tóc
phủ mềm nhung lụa
tôi với người
chung một bến sông
tháng tư nắng
ủ hoa công chúa
riêng đóa
hoàng lan trong mắt tôi
làm sao em
biết khi xa bạn
tôi cũng như
chiều : tôi mồ côi ?
tháng tư
chăn gối nồng son phấn
đêm với ngày
trong một tấm gương
thịt xương
đã trộn, như sông núi
tôi với người,
ai mang vết thương ?
tháng tư rồi
sẽ không ai nhớ
rừng sẽ vì
tôi nức nở hoài
mắt ai rồi sẽ
như bia mộ
ngựa có về
qua cũng thiếu đôi !
tháng tư người
nhắc làm chi nữa
cảnh tượng hồn
tôi đã miếu thờ
trống,
chiêng, cờ xí như cơn mộng
mưa đã chờ
tôi. mưa...đã...mưa
mai kia sống
với vầng trăng ấy
người có còn
thương một bóng cây ?
góc phố đèn
treo đôi mắt bão
ai nhớ ngàn
năm một ngón tay ? (1)
(DTL)
MY TURN TO CONFESS
A dog trying to write a
poem on why he barks
That's me, dear reader!
They were about to kick me out of the library
But I warned them.
My master is invisible and all-powerful.
Still, they kept dragging me out by the tail.
In the park the birds
spoke feely of their own vexations.
On a bench, I saw an old woman
Cutting her white curly hair with imaginary scissors
While staring into a small pocket mirror.
I didn't say anything then,
But that night I lay slumped on the floor.
Chewing on a pencil,
Sighing from time to time.
Growling, too, at something out there
I could not bring myself to name.
Charles Simic
Đến lượt Gấu thú tội
Một chú chó cố viết một
bài thơ về tại sao nó sủa
Đó là GCC, độc giả TV thân mến
Chúng muốn đá GCC ra khỏi thư viện
Đâu có dễ, Gấu cảnh cáo.
Sư phụ của Gấu thì vô hình, và đầy quyền năng
Tuy nhiên, chúng vẫn kéo tai Gấu lôi ra
Ở công viên lũ chim vô tư
lèm bèm những bực mình của riêng
chúng
Trên băng ghế Gấu thấy một bà già
Cắt mớ tóc trắng bằng kéo tưởng tượng
Trong khi nhìn vô tấm gương nhỏ loại bỏ túi
Gấu
đếch thèm nói gì cả
Nhưng đêm hôm đó, Gấu nằm lăn ra sàn nhà
Cắn mẩu viết chì
Thở dài sườn sượt
Gầm gừ với một điều gì đó
Mà Gấu không làm sao đặt tên
THE BIG WAR
We played war during the
war,
Margaret. Toy soldiers were in big demand,
The kind made from clay.
The lead ones they melted into bullets, I suppose.
You never saw anything as
beautiful
As those clay regiments! I used to lie on the floor
For hours staring them in the eye.
I remember them staring back at me in wonder.
How strange they must have
felt
Standing stiffly at attention
Before a large, incomprehending creature
With a moustache made of milk.
In time they broke, or I
broke them on purpose.
There was wire inside their limbs,
Inside their chests, but nothing in the heads!
Margaret, I made sure.
Nothing at all in the
heads….
Just an arm, now and then, an officer's arm,
Wielding a saber from a crack
In my deaf grandmother's kitchen floor.
Charles Simic
Trận Đại Chiến
Chúng tớ chơi chiến tranh
trong chiến tranh
Margaret. Những tên lính đồ chơi thì rất ăn khách,
Thứ làm bằng đất sét.
Thứ lính bằng chì họ nung chảy để làm đạn, hẳn thế.
Bồ không thể nhìn thấy cái
chi đẹp như thế đâu
Những binh đoàn đất sét! Tớ nằm dài trên sàn nhà
Hàng giờ đồng hồ để nhìn vào mắt chúng
Tớ nhớ, chúng cũng nhìn lại tớ, tò mò, ngạc nhiên
Hẳn là lạ làm sao, chúng
cảm thấy
Đứng cứng đờ nghiêm túc, chú tâm
Trước 1 thứ sinh vật to bự, ngốc nghếc, chẳng hiểu gì cả
Với bộ ria mép bằng sữa.
Thế rồi cũng tới lúc chúng
bể ra,
Hoặc tớ làm bể, vì một mục đích nào đó.
Có dây thép ở trong chân tay của chúng
Ở trong ngực cũng có, nhưng chẳng có gì ở trong đầu!
Margaret, tớ bảo đảm với bồ điều đó.
Chẳng có cái chó gì ở
trong đầu chúng…
Chỉ một cánh tay, lúc này, lúc nọ, cánh tay của 1 tay sĩ quan,
Gắn với 1 cây gươm từ 1 lần bể gãy
Trong sàn bếp của người bà điếc của tớ
EMPIRES
My grandmother prophesied the
end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet.
One of your heroes was giving a
speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.
There was no need to. They were
all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure I understood.
Charles Simic
Đế Quốc [Đỏ]
Bà tôi tiên đoán ngày tàn của
đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.
Một trong những anh hùng, Sáu
Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu của bà.
Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.
War
The trembling finger of a woman
Goes down the list of casualties
On the evening of the first snow.
The house is cold and the list is long.
All our names are included.
Charles Simic
Chiến Tranh
Ngón tay run rẩy của người đàn
bà
Chạy dọc theo, không phải
danh sách chiến lợi phẩm,
mà là những mất mát, tổn hại.
Vào một buổi chiều đầu tuyết.
Căn nhà thì lạnh, và danh sách
thì dài.
Tên của tất cả chúng ta thì đều có trong đó.
Bà mẹ này bảnh hơn bà mẹ huyền
thoại Mít của TCS, bảnh hơn Bà Mẹ
Gio Linh của PD,
ở cái câu:
Tên của chúng ta đều có ở
trong đó.
Không 1 tên Mít nào viết nổi
câu thơ trên
NQT
Thơ
Mỗi Ngày
ON ETERNITY
beneath a
radiance rented from the stars
long-distance
runners transit death's city
chatting
heart-to-heart with sheep
we share a
lovely wine
and
under-the-table crime
fog's lured
into night-song
and
stove-fire like mighty rumor
greets the
wind
if deaths
the reason for love
we love
unfaithful passion
love the
defeated
those eyes
gazing into time
Bei Dao: The
Rose of Time, ed by Eliot Weinberger
Về vĩnh cửu
Dưới ánh
sáng mướn từ những vì sao
Người chạy
đường dài băng qua phố chết
Tỉ tê với bầy
cừu
Chúng ta
cùng chia sẻ rượu ngon
Và tội ác dưới
gầm bàn
Sương mù ùa
vô bài ca đêm
Lửa lò như
thể lời đồn vĩ đại
Chào đón gió
Nếu chết là
lý do của yêu
Chúng ta yêu
mối tình không chung thuỷ
Yêu kẻ thất
bại
Mắt nhìn dò
xét thời gian
Dã Viên
LIFE
SENTENCE
Those
sufferings are over.
No crying
anymore. In an old album
you look at
the face of a Jewish child
fifteen
minutes before it dies.
Your eyes
are dry. You put the kettle on,
drink tea,
eat an apple.
You'll live.
Án Chung
Thân
Những nỗi
đau khổ đó thì xong rồi
Không khóc
lóc nữa. Trong một cuốn album cũ
bạn nhìn vô
mặt một đứa bé Do Thái
15 phút trước
khi nó chết
Mắt bạn khô
queo. Bạn đặt cái ấm nước lên,
uống trà, ăn
1 trái táo
Bạn sẽ sống.
Zagajewski: Without End
Người
về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày
Người về từ
cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt
Người về từ
cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy
Một năm sau
còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi
Ba năm còn
nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một hôm có kẻ
nhìn trân trối
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi
Giật mình,
một cái vỗ vai
Hoàng Hưng
Nhã Tập (tiền
thân của Tập San Văn Chương) và Tập San Văn Chương, do một nhóm thân
hữu chủ
trương: Nguyễn Tường Giang, Phạm Hoán, Nguyễn Tử Lộc, Phạm Kiều Tùng và
Joseph
Huỳnh Văn.
NLV giới thiệu thơ Joseph Huỳnh Văn, Da
Màu
Tôi sợ có
lầm
lẫn ở đây. TSVC không có tiền thân. NQT tôi cộng tác ngay từ số đầu.
Joseph Huỳnh
Văn là tổng thư ký. Nguyễn Tường Giang, bác sĩ, lo trị sự, quảng cáo,
lo tiền
in báo. Nhà in ABC của ông cụ PKT. Mỗi số TSVC có 1 cái tít riêng, và Nhã
Tập có thể là tên của số đầu tiên ra mắt. Có số có tên
tiếng Tây, Soleils
Perdus, Soleils Retrouvés, Mặt Trời Mất Đi, Mặt Trời Tìm Thấy
Lại... Trước
TSVC, chưa ai từng đọc thơ Joseph Huỳnh Văn. Anh xuất hiện lần đầu trên
TSVC.
Những bài Cầm Dương gây chấn động trong giới văn học Sài Gòn
lúc đó. Sau
khi báo chết, anh cũng không đăng thơ ở đâu, theo như tôi còn nhớ được.
Joseph
Huỳnh Văn
Em đẹp như
cách mạng
Vành khăn
tang thắm đỏ giữa chiều vàng
Em đẹp như
nát tan
thuở bình
minh, rạng rỡ xa nhau
ôi vầng
dương vầng sầu
Em đẹp như
hoàng hôn đổ máu
thầm giấu
tên chúng ta
như một chuyến
đi xa
người về dưới
chân sao lặng lẽ
đẹp nghẹn
ngào
tên của người
trong trắng biết bao
ôi vì sao ở
cuối trời ly cách
Em đắm đuối
như chuỗi đời
không gặp gỡ
đẹp bơ vơ
như giấc mơ
vội vàng tảng sáng
đẹp muộn
màng
ôi những người
kiêu hãnh chẳng ngày mai
đẹp tàn phai
vì lòng hoài
cách mạng
1972
Joseph Huỳnh
Văn
Note:
Bài thơ này hách thật.
VC làm sao có thứ cách mạng này ?
ON ETERNITY
beneath a
radiance rented from the stars
long-distance
runners transit death's city
chatting
heart-to-heart with sheep
we share a
lovely wine
and
under-the-table crime
fog's lured
into night-song
and
stove-fire like mighty rumor
greets the
wind
if deaths
the reason for love
we love
unfaithful passion
love the
defeated
those eyes
gazing into time
Bei Dao: The
Rose of Time, ed by Eliot Weinberger
Về Vĩnh Cửu
Bên dưới vẻ rạng
rỡ, chôm từ những ngôi sao
Những tay chạy
đường dài di chuyển thành phố chết
Tâm sự ỉ ôi
với bầy cừu
Chúng ta
chia sẻ rượu chát đáng yêu
Và tội ác dưới
gầm bàn
Sương mù lùa
vô “Phôi Pha” của họ Trịnh
Hay, “Đêm thấy
ta là thác đổ”?
Và lửa lò,
như tiếng rì rầm buôn chuyện
Của lũ Cách
Mạng 30 Tháng Tư,
Chào mừng gió
Nếu cái chết là lý do của
tình yêu
Chúng mình êu
nhau, thứ tình yêu đếch chân thật
Êu lũ Ngụy
thất trận
Những cặp mắt
lõ, chũng, sâu,
Nhìn vô thời
gian
[To DV. Cần
bản dịch của bạn, thay cho bản “chế” này. Tks. NQT]
Về vĩnh cửu
Dưới ánh
sáng mướn từ những vì sao
Người chạy
đường dài băng qua phố chết
Tỉ tê với bầy
cừu
Chúng ta
cùng chia sẻ rượu ngon
Và tội ác dưới
gầm bàn
Sương mù ùa
vô bài ca đêm
Lửa lò như
thể lời đồn vĩ đại
Chào đón gió
Nếu chết là
lý do của yêu
Chúng ta yêu
mối tình không chung thuỷ
Yêu kẻ thất
bại
Mắt nhìn dò
xét thời gian
Dã Viên
MEMORIES
WATCH ME
A morning in
June when it's too early yet
to wake, and
still too late to go back to sleep.
I must go
out through greenery that's crammed
with
memories, that follow me with their eyes.
They are not
visible, wholly dissolve
into
background, perfect chameleons.
They are so
close that I can hear them breathe
although the
singing of birds is deafening.
Tomas
Transtromer, Selected Poems, ed by Robert Hass
Hồi ức căn
me GCC
Một buổi sáng
Tháng Sáu, còn quá sớm để mà bò dậy,
và cũng quá trễ để lại bò lên giường.
Gấu phải đi
qua 1 nhà kính chật ních những hồi ức,
chúng căn me Gấu bằng mắt.
Chúng thì vô
hình, trọn 1 lũ tan vào khoảng sau,
đúng là những con cắc kè tuyệt hảo.
Chúng thì
cận
kề đến nỗi Gấu có thể nghe chúng thở
mặc dù tiếng
chim hót inh ỏi làm điếc cả tai.
Thơ Tháng Tư
FIRE
Probably I
am an ordinary middle-class
believer in
individual rights, the word
"freedom"
is simple to me, it doesn't mean
the freedom
of any class in particular.
Politically
naive, with an average
education
(brief moments of clear vision
are its main
nourishment), I remember
the blazing
appeal of that fire which parches
the lips of
the thirsty crowd and burns
books and
chars the skin of cities. I used to sing
those songs
and I know how great it is
to run with
others; later, by myself,
with the
taste of ashes in my mouth, I heard
the lie's
ironic voice and the choir screaming
and when I
touched my head I could feel
the arched
skull of my country, its hard edge.
Lửa
Có thể tôi
là một tín hữu trung lưu bình thường
về quyền cá
nhân, cái từ “tự do” thì đơn giản đối với tôi,
nó đếch có nghĩa là tự do cho bất
cứ một giai cấp đặc biệt nào.
Ngù ngờ về
chính trị, với học vấn đại khái
(những khoảnh khắc ngắn ngủi của 1 cái nhìn
sáng sủa là thức ăn chính của nó),
tôi nhớ trận lửa làm khô môi đám đông, đốt sách, thiêu thành than bộ
mặt những thành phố.
Tôi thường hát những
bài ca này, và tôi biết,
vĩ đại làm sao khi cùng chạy với những người khác;
sau
đó, chính tôi, với mùi vị của tro than ở trong miệng,
tôi nghe giọng khôi hài của
dối trá, bản đồng ca la thét và
khi tôi đụng vô trái tim của mình, tôi cảm nhận
cái sọ đau nhức của xứ sở,
cái đuôi khắc khổ của nó.
LIFE
SENTENCE
Those
sufferings are over.
No crying
anymore. In an old album
you look at
the face of a Jewish child
fifteen
minutes before it dies.
Your eyes
are dry. You put the kettle on,
drink tea,
eat an apple.
You'll live.
Án Chung
Thân
Những nỗi
đau khổ đó thì xong rồi
Không khóc
lóc nữa. Trong một cuốn album cũ
bạn nhìn vô
mặt một đứa bé Do Thái
15 phút trước
khi nó chết
Mắt bạn khô
queo. Bạn đặt cái ấm nước lên,
uống trà, ăn
1 trái táo
Bạn sẽ sống.
Zagajewski: Without End
Ghé bác sĩ,
ghé pharmacist, rồi, tất nhiên, ghé tiệm sách cũ, vớ được cuốn thơ
tuyệt vời, có
chữ ký của tác giả. Tập thơ này cũng tuyệt lắm. Từ từ Gấu giới thiệu
quí độc giả
TV. (1)
Mua tờ The
New Yorker, May 2, 2011, có bài thơ
mới tinh của Zagajewski.
[Bài thơ sau được in trong Unseen
Hand]
Gấu mết tay
này lắm. Tính dịch hết những bài thơ hiện Gấu có được, của ông, và của
Charles
Simic…
IN VALLEYS
And the
lovely Garonne, which passes
through
drowsy villages each night
like a
priest with the last sacrament.
Dark clouds
grow in the sky.
The
Visigoths live on, in certain faces.
In summer
the empire of insects spreads.
You consider
how not to be yourself:
is it only
on journeys, in valleys,
which open
others' wounds?
In a
bookshop the salesclerk calls
the author
of "To the Lighthouse"
Virginia. As
if she might
turn up at
any minute, on a bicycle,
with her
long, sad face.
But Paul
Valery (of the Academy) thought
history
didn't exist. Perhaps he was right.
Perhaps
we've been taken in. When he was dying,
General de
Gaulle tried to find him
penicillin.
Too late.
-Adam
Zagajewski
(Translated,
from the Polish, by Clare Cavanagh.)
Thơ Tháng Tư
tháng tư. viết.
bài tình yêu
kể. về những
giọt nước. mắt là một
điều. hạnh
phúc. những cái rất. cũ
luôn mang
hơi. hướm của ngày. mai
đôi mắt.
phía sau lưng người. đi xa
môi. hôn là
lời. từ biệt
sóng sánh
nào. trên. vực nỗi nhớ
những ký. ức
cũ tràn. vỡ. từng
miền. da thịt
rung. theo nhịp. thở
có khi. chia
xa. không
phải là. điều
dễ hiểu
ấp. ủ dậy
men. trong mơ
ngày. dậy
thì trong buồng. ngực
thì thầm giọng.
lạc tìm chốn. ảo
khóc.
nhau ấm. trong
giả thuyết.
dĩ vãng mềm. đôi
tay. em ngày
vòng tròn. cạn. mắt
tìm. tên ai.
trong những ngôi sao. vỡ
nhẩm vội điều.
ước cùng cánh hoa. rơi
và. ngày mai
vòng tay. cũ đôi môi. cũ
giọng nói.
cũ tên gọi. có trở về
hay. chỉ là
cổ. tích trong kho
tàng tình
yêu
một. ngày
tháng. tư ở. kennedy center
kennedy
center. ngồi. xệp xuống. viết vội bài. thơ
thứ hai.
tháng tư. ngày 15
áo. vest mũ.
giày. cẩn thận
40% có thể.
mưa. hôm nay dự báo. thời tiết
kennedy
center. có những chiếc xe. bus. dài
có những học
sinh. nhỏ. khắp nơi
nhạc. thính
phòng. giai điệu. tháng tư ủng. nước
tiếng.
trumpet xô. đẩy nhau chật. ngực
*hỏi. đã
làm. gì cho. tổ quốc
để. tháng tư
vong. thân
kennedy
center. những khuôn mặt. ran rỡ
những ngón
tay. nhỏ đẩy. từng khuôn. nhạc
bay. lên dc.
nhà trắng. với kennedy một. thới
tháng. tư
mưa. vỡ
*đừng. hỏi.
đất nước đã. làm. gì
tháng. tư mạng.
nhện
bụi. quá khứ
mờ. đến hôm. qua. cùng mùi. bom đạn
mùi nghèo.
đói
kennedy
center. ngồi. viết bài. thơ cho. em
tháng tư. vất
vả điệu. giao hưởng buồn. da diết
tiếng. cello
vọng. mù ngôi nhà. xơ. xác
đứa bé cười.
nghe hạnh phúc tràn. vai
tháng. tư
lúc nào cũng. đẫm. nước
dòng potomac
rên. xiết vùi. những cánh đào. rơi
kennedy
center. sao. bài thơ cho. em buồn. quá
bài. giao hưởng
nào. làm những cánh. đào tản. tơi
ở. kennedy
center. nghe. bomb nổ
boston. bao
nhiêu người thiệt. mạng
chiến tranh.
tháng tư. tiếng bomb nhạc. rền
kennedy
center. ngày thứ. hai
những. con
người cùng. thời gian đi. vào lịch. sử
tháng tư.
cùng lưu. vong cùng những. cánh anh đào
ở. lại
kennedy center
*"...ask not what your
country
can do for you, ask what you can do for your country” – jfk
Đài Sử
Thơ
Tháng Tư
30.
4. 2013
Thơ Tháng Tư
30.4.2008:
Người xa vắng biết đâu nấm nhà
buồn?
(1)
Người
về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày
Người về từ
cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt
Người về từ
cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy
Một năm sau
còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi
Ba năm còn
nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một hôm có kẻ
nhìn trân trối
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi
Giật mình,
một cái vỗ vai
Hoàng Hưng
Audrey
Hepburn
Thơ
Mỗi Ngày
Requiem
Under the
wide and starry sky
Dig the
grave and let me lie:
Glad did I
live and gladly die,
And I laid
me down with a will.
This be the
verse you grave for me:
Here he lies where he
long'd to be;
Home is the sailor, home from sea,
And the hunter home from the hill.
Robert Louis
Stevenson [1850-1894], in
Best Remembered Poems
Edited
and Annotated by Martin Gardener
Kinh Cầu
Dưới bầu trời
rộng, đầy sao
Đào cái hố
Để Gấu nằm
xuống đó:
Vui Gấu sống,
và vui, Gấu đi
Và Gấu nằm đó,
với lời ước của Gấu.
Nơi đây Gấu
yên nghỉ,
Nơi vừa bò
ra đời, là Gấu đã mong cầu
Nhà của tên
thuỷ thủ, nhà, khi rời biển
Nhà của tên
thợ săn, nhà, khi xa ngọn đồi.
Elegy
I open the
first door.
It's a large
sunlit room.
A heavy car
passes in the street
and makes
the porcelain tremble.
I open door
number two.
Friends! You
drank the darkness
and became
visible. (1)
Door number
three. A narrow hotel room.
Outlook on a
backstreet.
A lamp
sparking on the asphalt.
Beautiful
slag of experiences.
Tomas
Transtromer: the great enigma, new
collected poems
Bi Khúc
Tôi mở cánh
cửa thứ nhất
Một căn phòng
rộng, rạng rỡ ánh mặt trời
Một chiếc xe
hạng nặng chạy ngoài đuờng
Chiếc bình sành
rung rinh
Tôi mở cửa số
hai
Bạn! Bạn uống
bóng đen
Và trở thành nhìn rõ mồn một
Cửa số
ba. Một
căn phòng khách sạn chật hẹp
Nhìn ra
con
phố sau
Một ngọn
đèn
loé lên trên mặt đường nhựa
Cái gỉ
sét
tuyệt vời của kinh nghiệm.
(1) Cái hình
ảnh “uống bóng đen trở thành nhìn thấy" này, quá tuyệt.
Gấu đã từng
lờ mờ nhận ra nó, khi đọc thơ Hoàng Hưng.
Câu thơ
"Muời năm còn quen ngồi một mình
trong bóng tối" làm nhớ một chi tiết về một nhà thơ trong nhóm Nhân
Văn,
[không nhớ là ai, NMG có nhắc tới trong một số Văn Học], ông quen ngồi
một mình
đến nỗi bóng in lên tường, thành một cái vệt, thời gian không làm sao
xóa mờ.
Nếu như thế, một người quen ngồi một mình trong bóng tối, cái bóng của
người đó
in lên tường mới khủng khiếp làm sao. Không ai có thể nhìn thấy nó, để
mà hỏi
thử, thời gian, khi nào xoá mờ!
Elegy
I open the
first door.
It's a large
sunlit room.
A heavy car
passes in the street
and makes
the porcelain tremble.
I open door
number two.
Friends! You
drank the darkness
and became
visible.
Door number
three. A narrow hotel room.
Outlook on a
backstreet.
A lamp
sparking on the asphalt.
Beautiful
slag of experiences.
Bi Khúc
Tôi mở cánh
cửa thứ nhất
Một căn phòng
rộng, rạng rỡ ánh mặt trời
Một chiếc xe
hạng nặng chạy ngoài đuờng
Chiếc bình sành
rung rinh
Tôi mở cửa số
hai
Bạn! Bạn uống
bóng đen
Và trở thành nhìn rõ mồn một
Cửa số ba. Một
căn phòng khách sạn chật hẹp
Nhìn ra con
phố sau
Một ngọn đèn
loé lên trên mặt đường nhựa
Cái gỉ sét
tuyệt vời của kinh nghiệm.
To Friends
Behind a Frontier
I
I wrote so
meagerly to you. But what I couldn't write
swelled and
swelled like an old-fashioned airship
and drifted
away at last through the night sky.
2
The letter
is now at the censor's. He lights his lamp.
In the glare
my words fly up like monkeys on a grille,
rattle it,
stop, and bare their teeth.
3
Read between
the lines. We'll meet in 200 years
when the
microphones in the hotel walls are forgotten
and can at
last sleep, become trilobites.
Gửi những
người bạn ở đằng sau biên giới
1
Tôi viết bèo
bọt cho bạn. Nhưng điều mà tôi không thể viết
Thì lại thật
là bảnh bao, như chiếc máy bay kiểu cổ, thời VNCH
Biến mất vào màn đêm cuối
Của một ngày
cuối
2
Thư bây giờ ở
trong tay 1 tên Cớm VC
Hắn thắp ngọn đèn
Dưới ánh đèn
chói chang, những từ của tôi thì giống như
những con khỉ ở hàng rào Sở Thú
Chúng nhảy loi
choi trên hàng rào, và nhe răng ra.
3
Đọc giữa những
con chữ. Chúng mình sẽ gặp nhau vào 200 năm
Khi những
chiếc micrô ở tường khách sạn thì đã bị quên lãng
Và sau cùng,
có thể ngủ, và trở thành những con vật tiền sử.
Tomas
Transtromer: the great enigma, new
collected poems
Trong vòng
21 năm sống ở đất nước này tôi chưa bao giờ sự bất mãn với
chế độ
của trí thức và doanh nhân đến mức độ như hiện nay."
Peter R.
Ryder, giám đốc điều hành của Quỹ đầu tư Indochina Capital
Câu dịch
trên của BBC. (1)
Gấu đọc,
không hiểu, bèn mò nguyên bản:
“In my 21
years here I’ve never seen this level of disenchantment with the system
among
the intelligentsia and entrepreneurs,” said Peter R. Ryder, the chief
executive
of Indochina Capital, an investment company in Vietnam. (2)
Gấu dịch:
Trong 21 năm
ở đây, tôi chưa từng nhìn thấy, sự bất mãn với chế độ, trong giới trí
thức và
doanh nhân, đến mức này.
Lẽ tất
nhiên, câu tiếng Việt, high-lighthed, do cẩu thả, bỏ mất từ “nhìn
thấy”, tuy trong bài
viết, thì có.
Một diễn đàn
“tiếng tăm” như BBC, biến thành “tai tiếng”, đến mức như thế này!
Đây cũng là 1 trong những
thành quả của ngày 30 Tháng Tư 1975.
NQT
Trở lại
cuộc chiến
“Rõ ràng là
họ coi chính quyền này như một chiến lợi phẩm mà - tiếc thay - họ chỉ
là kẻ thừa
hưởng"
Đào Hiếu (2)
Đúng giọng
tranh ăn, cay cú.
Thú thực, Gấu chưa từng gặp 1 tên VC nằm vùng nào có "bộ mặt người" cả!
War And
Conflict
Grieving
young woman kneeling as she weeps over body of one of fifteen civilians
who
were killed in explosion of homemade Viet Cong mine on country road
where most
of victims were riding in Lambretta Tricycle which struck mine during
Vietnam
War.
Location:
Tuy Hoa, Vietnam
Date
taken:
1966
Gấu đã từng
nằm 1 đống, như trong bức hình, vì mìn VC, của Đào Hiếu & đồng bọn,
nhưng may
quá,
đếch chết!
Ui chao, cũng
có 1 em ngồi khóc, y chang bức hình.
Gấu, trước khi ngất đi, còn thều thào cái
tên của mình cho tay ký giả báo Chính Luận, và tên của Gấu được đưa lên
mặt báo,
xếp loại những người bị thương nặng!
BHD
đọc báo,
nghĩ là ngỏm, bèn khóc, nhưng không dám dụi mắt, vì sợ mắt sẽ đỏ, và
mọi người
biết.
Ông bố chẳng
đã có lần nói với cô con gái, tao gặp nó mới sáng sớm mà đi xích lô từ
xóm về,
mặt tươi rói, miệng vểnh điếu thuốc lá, ngửa mặt nhìn trời, thở khói.
Đúng
là như
thế.
Gấu có thói quen như thế. Ngồi xích lô là phì phèo điếu thuốc lá, cho
nó sang!
Hình ảnh
chiến tranh Việt Nam
của tờ Life
Những nhà trí thức Mác Xít
luôn lèm bèm
[insister] về sự kiện, là, chủ nghĩa xã hội, mặc dù những phóng thể,
vong thân của
nó [aliénations], luôn thừa sức để mà tự điều chỉnh, từ phía bên trong.
Kiểu mẫu
Tiệp Khắc về một chủ nghĩa xã hội cộng hòa cho thấy một thứ hình thức
lý tưởng
về sự điều chỉnh này.
Về sự phát triển độc hại của Liên Xô,
và chư hầu - không kể đến - theo bà, liệu có cơ may, về một toan tính
mới, thực
hiện một chủ nghĩa xã hội cộng hòa, trong những xứ sở Đông Phương, mặc
khải từ
những kiểu mẫu Tiệp hay Nam Tư?
H. Arendt: Một
từ ông dùng làm tôi bực mình [scandalisé].
Gọi, qualifier, phóng thể, aliénation, một chế
độ như là chế độ Xì Ta Lin, theo tôi,
nhảm,
cực nhảm [euphemism: nói trại đi].
Gọi như thế là cố tình vờ đi, không chỉ thực
tại, mà còn những tội ác ghê tởm nhất. Tôi nhắc ông, ấy là vì, một cách
gọi “lệch
pha” [jargon: nói lóng] thường bóp mép sự vật; tội ác là tội ác, phóng
thể,
vong thân, khác hẳn.
Bà có tính ban cho chủ
nghĩa xã hội,
vào giờ này, à l’heure actuelle, một quan điểm trấn ngự nào, conception
dominante,
về tương lai của xã hội, một cơ may nào đó, để mà thực hiện?
Câu hỏi của ông
đưa đến vấn đề, chủ nghĩa xã hội thực sự nghĩa là gì. Marx, chính ông
ta cũng đếch
trả lời nổi câu này, một cách cụ thể, theo tôi.
Cho phép tôi ngắt lời bà.
Điều mà chúng
ta đang tính nói tới, là một chủ nghĩa xã hội hướng [orienté] tới những
kiểu mẫu
như là ở Tiệp hoặc Nam Tư.
Ông lại tính
nói về thứ “chủ nghĩa xã hội với bộ mặt người”…
Trên đây là
trích dẫn một số câu hỏi, trả lời, chương "Chính trị và Cách mạng",
trong
cuốn trên, nhan đề tiếng Anh là "Những tiếng khóc của nền cộng hoà",
tiếng Pháp, "Từ Dối Trá đến Bạo Lực"; và từ cuộc trao đổi, entretien,
giữa tác giả, H. Arendt và Adelbert Reif, vào năm
1970.
THE RAIN
When my
older brother
came back
from war
he had on
his forehead a little silver star
and under
the star
an abyss
a splinter
of shrapnel
hit him at
Verdun
or perhaps
at Grunwald
(he'd
forgotten the details)
He used to
talk much
In many
languages
But he liked
most of all
The language
of history
until losing
breath
he commanded
his dead pals to run
Roland
Kowalski Hannibal
he shouted
that this
was the last crusade
that
Carthage soon would fall
and then
sobbing confessed
that
Napoleon did not like him
we looked at
him
getting
paler and paler
abandoned by
his senses
he turned
slowly into a monument
into musical
shells of ears
entered a
stone forest
and the skin
of his face
was secured
with the
blind dry
buttons of
eyes
nothing was
left him
but touch
what stories
he told with
his hands
in the right
he had romances
in the left
soldier's memories
they took my
brother
and carried
him out of town
he returns
every fall
slim and
very quiet
he does not
want to come in
he knocks at
the window for me
we walk
together in the streets
and he
recites to me
improbable
tales
touching my
face
with blind
fingers of rain
Zbigniew
Herbert: The Collected Poems
1956-1998
Mưa
Khi ông anh
của tớ từ mặt trận trở về
Trán của anh
có 1 ngôi sao bạc nho nhỏ
Và bên dưới ngôi
sao
Một vực
thẳm
Một mảnh bom
Đụng anh ở Plê Ku
Hay, có lẽ, ở Củ Chi
(Anh quên những
chi tiết)
Anh trở
thành nói nhiều
Trong nhiều
ngôn ngữ
Nhưng anh
thích nhất trong tất cả
Ngôn ngữ lịch
sử
Đến
hụt hơi,
Anh ra lệnh đồng ngũ đã chết, chạy
Nào anh Núp,
Nào anh Trỗi.
Anh la lớn
Trận đánh
này sẽ là trận chiến thần thánh chót
[Mỹ Kút, Ngụy
Nhào, còn kẻ thù nào nữa đâu?]
Rằng Xề Gòn
sẽ vấp ngã,
Sẽ biến thành Biển Máu
Và rồi, xụt xùi,
anh thú nhận
Bác Hồ, lũ VC Bắc Kít đếch
ưa anh.
[Hà, hà!]
Chúng tôi
nhìn anh
Ngày càng
xanh mướt, tái nhợt
Cảm giác bỏ
chạy anh
Và anh lần lần
trở thành 1 đài tưởng niệm liệt sĩ
Trở thành những
cái vỏ sò âm nhạc của những cái tai
Đi vô khu rừng
đá
Và da mặt
anh
Thì được bảo
đảm bằng những cái núm mắt khô, mù
Anh chẳng
còn gì
Ngoại trừ
xúc giác
Những câu
chuyện gì, anh kể
Với những
bàn tay của mình.
Bên phải, những câu chuyện tình
Bên trái, hồi ức Anh Phỏng Giái
Chúng mang
ông anh của tớ đi
Đưa ra khỏi
thành phố
Mỗi mùa thu anh trở về
Ngày càng ốm
nhom, mỏng dính
Anh không muốn
vô nhà
Và đến cửa sổ
phòng tớ gõ
Hai anh em
đi bộ trong những con phố Xề Gòn
Và anh kể
cho tớ nghe
Những câu
chuyện chẳng đâu vào đâu
Và sờ mặt thằng em trai của anh
Với những
ngón tay mù,
Của mưa
Why The Classics
Tại sao
những
nhà cổ điển
Note:
Zbigniew Hertbert, trong tuyển tập văn xuôi, có đi đường về bài thơ này.
The Romantic
view of the poet who bares his wounds, relates his misfortunes, still
has many
supporters today, despite changes in style and literary taste.
Cái trò cào
cấu vết thương, than thân trách phận, của đám nhà văn nhà thơ Lãng Mạn,
đến nay
vưỡn còn nhiều fan, mặc dù thay đổi văn phong và khẩu vị.
Poetry as
the art of the word made me yawn
Thơ ca như
là 1 nghệ thuật của từ ngữ làm tôi ngáp.
Thơ
Thời Loạn
Quả là có
nhiều tập thuộc loại hiếm quí. Hoá Thân của Viên Linh, đuợc tái
bản ở hải
ngoại.
Thơ Du Tử Lê, thì chắc hẳn.
Người mở ra cả 1 web chỉ để ca tụng
Người,
và nhờ vậy, bằng hữu ca tụng Người cũng được ăn theo!
Hà, hà!
Gấu được hân
hạnh ngồi với Người nhiều lần, vậy mà chẳng bao giờ được Người đưa lên
web cả!
Nhưng DTL quả
là thật tốt với bạn.
Nhất là với những đấng thổi Người!
[Lại] Hà, hà!
Chép câu này,
của Hertbert, trong bài “Tại sao những nhà cổ điển”, để tặng bạn tốt
[không phải bạn quí nhe] của Gấu:
It
is an old dream of poets that their work may become a concrete object
like a
stone or a tree, that what they make from the material of language-
itself subject
to constant change-may acquire a lasting existence. One of the ways to
achieve
this, it seems to me, is to cast it far away from oneself, to erase the
ties
that connect it to its creator. This is how I understand Flaubert's
recommendation: "The artist must be in his work as God is in nature."
Giấc
mơ cũ mèm của thi sĩ, là tác phẩm của mình biến thành cụ thể như cái
cây, cục đá…
Một trong cách làm được điều này, là đuổi cổ chính thi sĩ ra khỏi bài
thơ, xóa
sạch mọi liên hệ giữa bài thơ và kẻ sáng tạo ra nó, thành ra tôi rất
khoái câu của
Flaubert: Nghệ sĩ phải với tác phẩm của mình như Chúa với thiên nhiên.
Sartre
hình như cũng đã từng phán, tác phẩm lớn giống như cái cây, cục đá.
Nó
đó, bố ai biết tại sao.
Câu
của Sartre, trong bài viết về Koestler, "tác phẩm lớn như cây đại thụ",
thực sự không phải vậy. Khi viết về Sartoris
của Faulkner, ông cho rằng tác phẩm lớn, tới một lúc nào đó, giống như
sỏi đá,
cây cỏ. Người đọc chấp nhận, và quên luôn nó đã từng có một tác giả. (1)
Athens,
filled with the ruins of ancient palaces, is a great impoverished
hospital hospital
where there are as many beggars as there are Christians.
BABIN
[Athens, chứa
chất những điêu tàn của những cung điện, lầu đài cổ, là một bịnh viện
nghèo khổ,
nơi có nhiều hành khất như là những tín hữu Ky Tô]
Zbigniew
Herbert trích dẫn, trong bài viết về Acropolis,
trong tuyển tập văn xuôi, The
Collected Prose 1948-1998.
Ui chao,
thay Athens bằng Hà Nội, thì hết xẩy con cào cào, nhỉ?
Hà Nội chẳng
vẫn tự hào về 4 ngàn năm văn hiến Bắc Kít ư?
Ăn mày nhiều bằng tín hữu
Ky tô.
Ăn mày, là dân Bắc Kít, thứ thiệt, như Đoàn Văn Vươn, thí dụ, giáo
hữu
Ky Tô, là thì là lũ VC.
Hà, hà!
Happy
Birthday to U, Mom
Richie & Jennifer and Everybody
Zbigniew
Herbert, “Ba Lan Tam Kiệt” [hai “kiệt” còn lại là, Milosz, Szymborska
đều đợp
Nobel văn chương], như "Đồng Nai Tam Kiệt" của xứ Mít Nam: Bùi Giáng,
Tô
Thuỳ Yên,
Thanh Tâm Tuyền, như NTV đã từng gọi.
Gấu biết tới
Herbert, là qua 1 bài viết của Coetzee, "Thế nào là cổ điển?" (1)
Nhưng
để đọc
được ông, thì cũng mới đây thôi, một phần vì cuốn nào của ông thì cũng
dày cộm,
và vì ông là thi sĩ, mà cái món thi sĩ, thì Gấu cũng mới đọc được, mới
đây thôi!
Đọc 1 phát, là dịch ào ào, điếc không sợ súng!
(1)
Nhà
văn Nam Phi [Coetzee] nhắc tới một bài
diễn thuyết - cùng tên với bài viết của ông, của T.S. Elliot -
vào
tháng Mười 1944, tại London,
khi
Đồng Minh đang quần nhau với Nazi tại đất liền (Âu Châu).
Về cuộc
chiến, Eliot chỉ nhắc tới nó, bằng cách xin lỗi thính giả, rằng chỉ là
tai nạn của hiện
tại
(accidents of the present time), một cái hắt hơi, xỉ mũi, đối với cuộc
sống của
Âu Châu, và nó làm ông không thể sửa soạn chu đáo cho bài nói chuyện.
"Nhà
là nơi một người bắt đầu" [Home is where one starts from], "Trong cái
bắt đầu là cái chấm dứt của tôi" [In my beginning is my end], nhà thơ
[Eliot] cho rằng, để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta phải trở lại với
nhà thơ
lớn lao nhất, "cổ điển của chính thời đại của chúng ta" (the great
poet of the classic of our own times), tức nhà thơ Ba Lan, Zbigniew
Herbert.
Với
Herbert, đối nghịch Cổ Điển không phải Lãng Mạn, mà là Man Rợ. Với nhà
thơ Ba
Lan, viết từ mảnh đất văn hóa Tây Phương không ngừng quần thảo với
những láng
giềng man rợ, không phải cứ có được một vài tính cách quí báu nào đó,
là làm
cho cổ điển sống sót man rợ.
Nhưng
đúng hơn là như thế này: Cái sống sót những xấu xa tồi tệ nhất của chủ
nghĩa
man rợ, và cứ thế sống sót, đời này qua đời khác, bởi những con người
nhất
quyết không chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với bất cứ mọi
tổn thất,
(at all costs), cái mà con người quyết giữ đó, được gọi là Cổ Điển.
Như vậy, với chúng ta, cuộc chiến vừa qua,
cũng chỉ là một cái hắt hơi
của lịch
sử. Không phải viết từ những đối nghịch chính trị, như một hậu quả của
cuộc
chiến đó, mà trở nên bền. Muốn bền, là phải lần tìm cho được, cái gọi
là nhà,
liệu có đúng như Eliot nói đó không: Nhà là nơi một người bắt đầu.
Hay nhà là nơi cứ thế sống
sót những xấu xa của chủ nghĩa Man Rợ, đời này qua
đời khác, bởi những con người nhất quyết không chịu buông xuôi, nhất
quyết bám
chặt lấy, với bất cứ mọi tổn thất...
Câu trên, Nhà là nơi
một người bắt đầu, có vẻ như áp dụng cho một nhà văn Việt
nam ở hải ngoại.
Câu dưới, có vẻ như dành cho
nhà văn trong nước.
Introduction by Adam Zagajewski
This poetry
is about the pain of the twentieth century, about accepting the cruelty
of an
inhuman age, about an extraordinary sense of reality.
And the fact
that at the same time the poet loses none of his lyricism or his sense
of
humor-this is the unfathomable secret of a great artist.
Thơ này là về
nỗi đau của thế kỷ 20, về chấp nhận cái sự độc ác, tàn bạo, dã man của
thời phi nhân, về cảm quan cực kỳ khác thường về thực tại. Nhưng, sự
kiện, cùng
lúc, nhà thơ không mất đi 1 tí gì của chất trữ tình, hay cái cảm quan
cà chớn, tếu táo, tưng tửng của mình
– thì đó là cái bí mật khủng ơi là khủng của 1 đại nghệ sĩ.
Adam
Zagajewski: Introduction
(Translated
by Bill Johnston) (1)
Bài “Thế nào
là cổ điển?” là bài mở ra cuốn tiểu luận đầu của Coetzee, Stranger
Shores, “Những bến bờ lạ lẫm hơn”, hết sức quan trọng, GCC
tính dịch hoài, nhưng tuổi thì già, lực thì tận, trời cho chỉ có thế
[đây là câu
trả lời, của ông anh nhà thơ TTT, lần Gấu phôn (sau cùng) hỏi ông, anh
có
tính “viết”
nữa không, “trời cho chỉ có thế!”].
Câu này,
trong bài viết của Coetzee mà chẳng thú sao, chép lại để tặng “anh Cu
Dzũng" -
cũng 1 thứ Bắc Kít, như GCC, "anh Cu Gấu" như TTT, "anh Cu Nghệ", như
viết cho
Đảo Xa, "trời cho nhiều hơn thế, hy vọng" -:
Phê bình là bổn
phận- bị buộc vào mình: tra hỏi quá khứ. (1)
Cái gọi là “bốn
ngàn năm văn hiến”, như thế, cần phải "bị/được" "tra tấn/vấn"!
(1)
One might
even venture further along this road to say that the function of
criticism is
defined by the classic: criticism is that which is duty-bound to
interrogate
the classic. Thus the fear that the classic will not survive the
decentering
acts of criticism may be turned on its head: rather than being the foe
of the
classic, criticism, and indeed criticism of the most skeptical kind,
may be what
the classic uses to define itself and ensure its survival. Criticism
may in
that sense be one of the instruments of the cunning of history.
Đó là câu
khép lại bài viết, và như thế, bài viết còn có tên: Phê
bình là gì?, theo GCC.
La Neige en
Deuil
Tháng Tư: Tuyết để Tang
There is
that great proverb—that until the lions have their own historians, the
history
of the hunt will always glorify the hunter. That did not come to me
until much
later. Once I realized that, I had to be a writer. I had to be that
historian.
It’s not one man’s job. It’s not one person’s job. But it is something
we have
to do, so that the story of the hunt will also reflect the agony, the
travail—the bravery, even, of the lions.
Chinua
Achebe trả lời The Paris Review.
Có câu châm
ngôn lớn: Cho dến khi lũ sư tử có những sử gia riêng của chúng, thì câu
chuyện
đi săn vẫn luôn luôn thổi đám thợ săn.
Câu này khác
với câu chúng ta thường nghe là lịch sử luôn do đám thắng trận viết ra.
Bởi vì,
như Achebe trả lời tiếp theo, khi có, câu chuyện đi săn sẽ phản chiếu
cơn hấp hối,
công việc - sự can đảm, ngay cả thứ của hiếm này, của những con sư tử.
Đám VNCH,
nhất
là mấy đấng cầm súng cầm viết, chưa làm được vụ này, và độc giả chỉ
nghe họ than thở thân
phận da vàng nhược tiểu, nỗi bơ vơ của bày ngựa hoang!
HSU CHAO
(ca. 1200)
The Locust
Swarm
Locusts laid
their eggs in the corpse
Of a
soldier. When the worms were
Mature, they
took wing. Their drone
Was ominous,
their shells hard.
Anyone could
tell they had hatched
From an
unsatisfied anger.
They flew
swiftly towards the North.
They hid the
sky like a curtain.
When the
wife of the soldier
Saw them,
she turned pale, her breath
Failed her.
She knew he was dead
In battle,
his corpse lost in
The desert.
That night she dreamed
She rode a
white horse, so swift
It left no
footprints, and came
To where he
lay in the sand.
She looked
at his face, eaten
By the
locusts, and tears of
Blood filled
her eyes. Ever after
She would
not let her children
Injure any
insect which
Might have
fed on the dead. She
Would lift
her face to the sky
And say,
"O locusts, if you
Are seeking
a place to winter,
You can find
shelter in my heart."
Translated from the
Chinese by
Kenneth Rexroth
Giặc Châu Chấu
Châu chấu đẻ
trứng trên cái xác của 1 tên Bộ Đội "Sinh Bắc Tử Nam"
Trứng nở, trưởng
thành, mọc cánh
Tiếng ò ò của
chúng mới đáng ngại làm sao
Cái vỏ chúng
thì mới cứng thế nào
Bất cứ ai nhìn
chúng thì cũng bèn hiểu ra liền
Lũ châu chấu
này được nở ra từ một cơn giận dữ chưa được thỏa mãn
Chúng bay về
phía Bắc
Chúng che rợp
bầu trời Bắc Kít
Và khi vợ
người bộ đội Cụ Hồ bất hạnh nhìn thấy chúng
Người đàn bà
biết liền tù tì là chồng mình đã hy sinh cho Đảng VC rồi.
Mặt bà tái đi,
Hơi thở cụt ngủn
Ban đêm, bà
nằm mơ
Cưỡi 1 con
ngựa trắng
Ngựa đưa bà
đến nơi xác người chồng nằm
Bà nhìn mặt
chồng
Bị lũ châu
chấu ăn nát bấy
Và nước mắt
đầy máu đầy mắt bà.
Sau đó bà cấm
lũ con không được ăn châu chấu
Hay bất cứ 1
giống vật nào có thể sống bằng xác chết.
Bà ngẩng mặt
lên trời
Và nói với lũ
châu chấu,
Nếu tụi mi có
cần 1 nơi cho mùa đông lạnh lẽo này,
Thì hãy tới
trú ngụ ở trái tim của ta.
The
Invisible
1
Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của nó thì được giấu kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công viên Lê Văn Tám
Chỉ những chiếc lá nói sự thực
Chúng rì rào âm u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều về những kẻ vô hình,
Hay là tại sao cánh của nó lại trong mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã bay đi mất rồi:
Chuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng VC đang rình mày đây nè!
2
Liệu những bóng đen biết gì về
nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta
Đúng ngày hôm nay Gấu trầm trồ
chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà
Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu
BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?
DERNIER
SOLEIL
À VILLA
ORTUZARI (1)
Soir pour
quelque Jugement dernier.
La rue est
une blessure ouverte dans le ciel.
Etait-ce un
Ange ou le couchant, cette clarté qui brulait
aux profondeurs ?
Obstinée, la
distance me charge comme un cauchemar.
Un barbelé
tourmente l'horizon.
Le monde
parait inutilisable et rejeté.
Au ciel il
fait encore jour, mais la traitrise de la nuit enva-
hit les fosses.
Tout ce qui
reste de lumière est dans les petits murs bleus
et dans ce
vacarme de fillettes.
Je ne sais
plus si c'est un arbre ou un dieu, cette forme qui
apparait à la grille rouillée.
Combien de
pays à la fois: la campagne, le ciel, la ban-
lieue.
Par les
rues, par le fil du couchant, j'ai connu la richesse
aujourd'hui, et par le soir devenu stupeur.
De retour,
je me restituerai à ma pauvreté.
(1) Quartier
de Buenos Aires
Sunset over
Villa Ortuzar
Evening like
Doomsday.
The street's
end opens like a wound on the sky.
Was the
brightness burning far away a sunset or an angel?
Relentless,
like a nightmare, the distance weighs on me.
The horizon
is tormented by a wire fence.
The world
is like something useless, thrown away.
It is still
day in the sky, but night is lurking in the gullies.
All that is
left of the light is in the blue-washed walls and in that flock of
girls.
Now is it a
tree or a god there, showing through the rusted gate?
So many
terrains at once: the country, the sky, the threadbare outskirts.
There were
treasures today: streets, whetted sunset, the daze of evening.
Far from
here, I shall sink back to my poverty.
-W.S.M.
J.L. Borges
Hoàng Hôn Cuối,
Xề Gòn
Hoàng
hôn gì mà như Tận Thế
Cuối
con phố mở ra như 1 vết thương lên bầu trời
Cái
vết sáng rực lửa xa xa kia, là Biển Máu VC, hay Hoàng Hôn, hay… Thiên
Thần?
Như
đỉa đói, khoảng cách đè nặng lên Gấu như 1 cơn ác mộng.
Chân
trời bị VC tra tấn bằng những hàng rào dây kẽm gai
Thế
giới - Xề Gòn đúng hơn – thì như 1 cái giẻ rách, vô dụng, vứt đi.
Nhìn
lên bầu trời, thì thấy vẫn còn ngày, nhưng đêm đã ló mòi, chật đầy hầm
hố.
Tất
cả những gì mà ánh sáng còn để lại, là những bức tường xanh, và đám con
gái.
Bây giờ thì, đó là 1 cái cây, hay 1 vị thần, đứng ở cổng
Xề Gòn gỉ sét?
Cùng một lúc, liền tù tì, là biết bao mảnh đất: xứ sở Nam Kít, bầu trời
Xề Gòn,
vùng ngoại ô của nó.
Ui
chao bi giờ, ở nơi lưu vong này, chúng là những kho tàng:
Những con phố Xề Gòn,
những ngày ở Xề Gòn, buổi hoàng hôn ngỡ ngàng.
Ui
chao, nếu có một ngày về lại Xề Gòn, Gấu Cà Chốn sẽ dựng lại Sự Nghèo
Đói thần
sầu đó.
EMPIRES
My grandmother prophesied the
end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet.
One of your heroes was giving a
speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.
There was no need to. They were
all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure I understood.
Charles Simic
Đế Quốc [Đỏ]
Bà tôi tiên đoán ngày tàn của
đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.
Một trong những anh hùng, Sáu
Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu của bà.
Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.
War
The trembling finger of a woman
Goes down the list of casualties
On the evening of the first snow.
The house is cold and the list is long.
All our names are included.
Charles Simic
Chiến
Tranh
Ngón tay run rẩy của người đàn
bà
Chạy dọc theo, không phải
danh sách chiến lợi phẩm,
mà là những mất mát, tổn hại.
Vào một buổi chiều đầu tuyết.
Căn nhà thì lạnh, và danh sách thì dài.
Tên của tất cả chúng ta
thì đều có trong đó.
Bà mẹ này bảnh hơn bà mẹ huyền
thoại Mít của TCS, bảnh hơn Bà Mẹ
Gio Linh của PD,
ở cái câu:
Tên của chúng ta đều có ở
trong đó.
Không
1 tên thi sỡi Mít nào viết nổi câu thơ trên.
NQT
Thơ Tháng Tư
CHARLES
SIMIC
1938-
A dream may
transform a moment lived once, at one time, and change it into part of
a
nightmare. Charles Simic, an American poet born in Serbia, remembers
the time
of the German occupation in his country. This scene from childhood is
put in
relief as the present which is no more, but which now, when the poet
writes,
constantly returns in dreams. In other words, it has its own present,
of a new
kind, on the first page of a diary of dreams.
EMPIRE OF
DREAMS
On the first page of my
dream book
It's always
evening
In an
occupied country.
Hour before
the curfew.
A small
provincial city.
The houses
all dark.
The
store-fronts gutted.
I am on a
street corner
Where I
shouldn't be.
Alone and
coatless
I have gone
out to look
For a black
dog who answers to my whistle.
I have a
kind of Halloween mask
Which I am
afraid to put on.
CHARLES
SIMIC
Đế quốc của
những giấc mơ
Ở trang đầu
cuốn sách mơ của tôi
Thì luôn
luôn là 1 buổi chiều tối
Trong 1 xứ sở
bị chiếm đóng.
Giờ, trước
giới nghiêm.
Một thành phố
tỉnh lẻ.
Nhà cửa tối
thui
Mặt tiền cửa
tiệm trông chán ngấy.
Tôi ở 1 góc
phố
Đúng ra tôi
không nên có mặt ở đó.
Co ro một
mình, không áo choàng
Tôi đi ra
ngoài phố để kiếm
Một con chó
đen đã đáp lại tiếng huýt gió của tôi.
Tôi mang
theo 1 cái mặt nạ Halloween
Nhưng lại ngại
không dám đeo vô.
These
few lines of poetry perfectly capture a nightmare, a disturbing and
recurring sleep dream. First Simic gives us the setting, muted violence
and destruction, isolation. Then he lays out the plot. The dreamer gone
out to find a dog on the streets, holding a Halloween mask that he is
afraid to put on.
This poem is a powerful recording of a nightmare. It acts upon us, the
readers, as discomfittingly as would a nightmare of our own. It leaves
us uncomfortable and unsure.
While this nightmare comes from Mr. Simic, as a work of art, and as the
sharing of a dream, it belongs to each of us to interact with as we
will. The significance of any dream is what we make of it.
What does this dream evoke in each of us? What uncomfortable questions
come up for us? Are we faced with wearing the mask of “normalcy” in
order to survive a dangerous situation? Do we need to put it on, or
throw it away? Where in our lives are we unable to, or unwilling to,
put on the mask of conformity to violence? Where do we feel isolated on
a dangerous street corner? What do we need to do to find safety?
The key to creating meaning is to interact with the dream (or work of
art, or any life event) and fearlessly become aware of what its message
is for us, one that can be different for each of us.
Then comes the hard part – to manifest the change in our lives that the
nightmare indicates is needed.
Source
Note:
Bình loạn trên, tình cờ vớ được trên net.
Cái tay này có vẻ không đọc ra bài thơ, mà chỉ có những kẻ nào đã sống
cuộc sống chiến tranh, giới nghiêm, hoả tiễn VC.... mới hình dung ra
được.
Bạn đọc phải đọc bài thơ, song song với Cõi Khác của GNV thì mới thấy
đã!
Đâu phải ‘vô tư’ mà Milosz chọn bài này đưa vô Thơ Tuyển Thế Giới!
Ông cũng kinh qua kinh nghiệm... VC này rồi!
Bởi thế, thay vì Cõi Mơ, Cõi Khác, thì Simic gọi là Đế Quốc Của Những
Giấc Mơ!
Đế Quốc Đỏ, Vương Quốc Ma Quỉ, và bây giờ là Đế Quốc Của Những Giấc Mơ,
Những Ác Mộng.
Hai
dòng thơ chót mới tuyệt cú mèo:
Cầm cái mặt nạ Ma trong tay mà không dám đeo vô, vì sợ biến thành Quỉ. (1)
The Devils
You were a
'victim of semiromantic anarchism
In its most
irrational form.'
I was 'ill
at ease in an ambiguous world
Deserted by
Providence.' We drank wine
And made
love in the afternoon.
The
neighbors' TVS were tuned to soap operas.
The unhappy
couples spoke little.
There were
interminable pauses.
Soft organ
music. Someone coughing.
'It's like
Strindberg's Dream Play,' you said.
'What is?' I
asked and got no reply.
I was
watching a spider on the ceiling.
It was the
kind St Veronica ate in her martyrdom.
'That woman
subsisted on spiders only,'
I told the
janitor when he came to fix the faucet.
He wore
dirty overalls and a derby hat.
Once he had
been an inmate of a notorious state institution.
'I'm no
longer Jesus,' he informed us happily.
He believed
only in devils now.
'This
building is full of them,' he confided.
One could
see their horns and tails
If one
caught them in their baths.
'He's got
Dark Ages on his brain,' you said.
'Who does?'
I asked and got no reply.
The spider
had the beginnings of a web
Over our
heads. The world was quiet
Except when
one of us took a sip of wine
Những Con Quỉ
Em là ‘nạn
nhân của chủ nghĩa vô chính phủ nửa lãng mạn,
Trong cái
hình thức phi lý nhất của nó.’
Còn anh thì
‘chẳng thích thú gì ở trong một thế giới hàm hồ
Bị Chúa bỏ
rơi.’ Chúng tôi uống rượu vang
Và làm tình
vào buổi chiều
TV hàng xóm
thì đang chiếu chương trình soap operas.
Cặp tình
nhân bất hạnh coi bộ ít nói.
Có những
khúc nghỉ kéo dài.
Nhạc organ
nhẹ. Một người nào đó ho.
‘Thật giống
như trong Kịch Mơ của Strindberg,’ em nói.
‘Cái gì?’
tôi hỏi, nhưng không nghe trả lời.
Tôi ngắm một
con nhện ở trên trần nhà.
Giống St
Veronica ăn, trong cái xen tuẫn nạn của bà.
‘Người đàn
bà đó chỉ tồn tại nhờ mấy con nhện,’
Tôi nói với
người coi nhà, khi ông ta tới để sửa cái vòi nước.
Ông ta mặc
cái áo ngoài dơ dáy và đội một cái nón quả dưa.
Ông đã có thời
ở trong nhà thương điên Biên Hòa nổi tiếng.
‘Tớ hết còn
là Ðấng Cứu Thế,’ ông hoan hỉ thông báo hai đứa chúng tôi.
Ông bây giờ
chỉ tin vào Quỉ Ðỏ.
‘Tòa biu
đinh này thì đầy Quỉ Ðỏ,’ ông tâm sự.
Người ta có
thể nhìn thấy sừng và đuôi của chúng
Nếu bắt gặp
chúng trong nhà tắm.
‘Cái đầu ông
ta thì chìm vào Thời Ðen Tối rồi,' em nói.
‘Ai chứ?’,
tôi hỏi nhưng không nghe trả lời
Con nhện
đang giăng tơ, khởi sự làm cái lưới
Ở trên đầu
chúng tôi. Thế giới thì yên tĩnh
Ngoại trừ
khi một trong hai đứa chơi 1 ngụm vang. (2)
Live at Club
Revolution
Our nation's
future's coming into view
With a
muffled drumroll
In a slow,
absentminded striptease.
Her
shoulders are already undraped,
And so is
one of her sagging breasts.
The kisses
she blows to us
Are as cold
as prison walls
Once we were
a large wedding party.
It was a
sunny weekend in June.
Women wore
flowers on their straw hats
And white
gloves over their hands.
Now we run
dodging cars on the highway.
The groom,
someone points out, looks like
President
Lincoln on a death notice.
It's time to
burn witches again,
The minister
shouts to the congregation
Tossing the
Bible to the ceiling.
Are those
Corinna Brown's red panties
We see
flying through the dark winter trees,
Or merely a
lone crow taking home
His portion
of the day's roadkill?
Charles
Simic
Nhạc sống tại
Câu Lạc Bộ Cách Mạng Thành Hồ
Tương lai xứ
Mít đi vô tầm nhìn
Với 1 hồi trống
tắc nghẹn
Trong một
xen thoát y chầm chậm, lơ đãng.
Vai em vũ nữ
để trần
Cũng thế, là
một bên vú, xệ xuống
Nụ hôn em
ban cho chúng ta
Lạnh như tường
nhà tù Phan Đăng Lưu
Một lần tụi
này tham dự tiệc cưới của 1 đại gia
Một weekend
có nắng vào Tháng Sáu
Đờn bà trang
trí hoa trên nón rơm
Đeo găng trắng
Lúc này, tụi
này đang chạy xe lắt léo trên xa lộ Biên Hòa
Chú rể, một
tay nào chỉ ra,
Sao giống y
chang Víp Va Ka,
aka Sáu Dân,
aka Hồ Tôn Hiến,
trên một tờ
giấy báo tử.
Đã đến giờ lại
thiêu sống lũ phù thuỷ
Vị mục sư la
lớn với giáo đoàn
Quăng cuốn
Thánh Kinh lên trần nhà
Có phải mấy
cái xịp đỏ lòm của kỳ nữ KC,
Chúng ta
nhìn thấy bay trên nền trời tối thui mùa đông Thành Hồ?
Hay chỉ là 1
chú quạ
đem về nhà
phần chia những
xác chết vì xe cán trong ngày?
Mother
Tongue
That's the
one the butcher
Wraps in a
newspaper
And throws
on the rusty scale
Before you
take it home
Where a
black cat will leap
Off the cold
stove
Licking its
whiskers
At the sound
of her name
Charles
Simic
Tôi êu
tiếng
nước tôi
Đó là thứ tiếng
mà tay đồ tể
Gói trong tờ
báo chợ Người Vịt,
Của băng Cờ
Lăng,
Rồi thẩy lên
cái bàn cân gỉ sét
Rồi bạn trả
tiền
Và mang về
Nơi con
mèo
đen nhảy qua cái bếp lò lạnh tanh
Liếm liếm mấy
sợi ria mép của nó
Khi nghe bạn
kêu “Miu Miu” (3)
|
|