|
Thơ Mỗi Ngày
GHOSTS
It's Mr.
Brown looking much better
Than he did
in the morgue.
He's brought
me a huge carp
In a
bloodstained newspaper.
What an odd
visit.
I haven't
thought of him in years.
Linda is
with him and so is Sue.
Two pale and
elegant fading memories
Holding each
other by the hand.
Even their
lipstick is fresh
Despite all
the scientific proofs
To the
contrary.
Is Linda
going to cook the fish?
She turns
and gazes in the direction
Of the
kitchen while Sue
Continues to
watch me mournfully.
I don't
believe any of it,
And still
I'm scared stiff.
I know of no
way to respond,
So I do
nothing.
The windows
are open. The air's thick
With the
scent of magnolias.
Drops of
evening rain are dripping
From the
dark and heavy leaves.
I take a
deep breath; I close my eyes.
Dear
specters, I don't even believe
You are
here, so how is it
You're
making me comprehend
Things I
would rather not know just yet?
It's the way
you stare past me
At what must
already be my own ghost,
Before
taking your leave,
As
unexpectedly as you came in,
Without one
of us breaking the silence.
Charles
Simic: Sixty poems
Những hồn ma
Đó là ông
Brown, trông khá hơn khi còn ở trong nhà xác
Ông mang cho
tôi một con cá chép bự
Gói trong một
tờ nhật báo có những vết máu
Cuộc thăm viếng
mới kỳ cục làm sao
Tôi chẳng
nghĩ tới ông trong nhiều năm.
Linda thì đi
với ông ta, cả Sue nữa
Hai hồi nhớ
nhạt nhoà, nhợt nhạt và lịch lãm
Họ cầm tay
nhau.
Ngay son môi
của họ thì cũng tươi mơn mởn
Hóa ra những
chứng từ khoa học thì đều nhảm cả.
Linda sẽ nấu
món cá?
Nàng quay
người và nhìn về hướng bếp
Trong khi
Sue
Tiếp tục nhìn
tôi thật thê lương
Tôi chẳng hề
tin bất cứ gì, về chuyện này
Vậy mà tôi vẫn
sợ đến vãi linh hồn,
Người cứng đơ.
Tôi đâu biết
đáp ứng ra làm sao
Thế là tôi
chẳng làm gì hết
Những cửa sổ
thì mở. Không khí dày
Những giọt mưa
chiều lìa những chiếc lá, tối và nặng
Tôi chơi một
hơi thở dài, nhắm mắt lại.
Những hồn ma
thân thương ơi
Tôi chẳng hề
tin,
Mấy bạn đứng đây, giờ này
Vậy mà mấy bạn bắt
tôi tin
Những điều
giá mà tôi đừng biết,
Hoặc, chưa vội
biết?
Đó là cách
mà mấy bạn nhìn khi đi qua tôi
Như thể tôi đã
là hồn ma của chính mình rồi,
Trước khi rời,
Cũng bất ngờ,
Như khi đến
Chẳng bên nào
thốt một lời để phá vỡ sự im lặng.
MY TURN TO
CONFESS
A dog trying
to write a poem on why he barks
That's me,
dear reader!
They were
about to kick me out of the library
But I warned
them.
My master is
invisible and all-powerful.
Still, they
kept dragging me out by the tail.
In the park
the birds spoke feely of their own vexations.
On a bench,
I saw an old woman
Cutting her
white curly hair with imaginary scissors
While
staring into a small pocket mirror.
I didn't say
anything then,
But that
night I lay slumped on the floor.
Chewing on a
pencil,
Sighing from
time to time.
Growling,
too, at something out there
I could not
bring myself to name.
Charles
Simic
Đến lượt Gấu
thú tội
Một chú chó
cố viết một bài thơ về tại sao nó sủa
Đó là GCC, độc
giả TV thân mến
Chúng muốn
đá GCC ra khỏi thư viện
Đâu có dễ, Gấu cảnh cáo.
Sư phụ của Gấu
thì vô hình, và đầy quyền năng
Tuy nhiên,
chúng vẫn kéo tai Gấu lôi ra
Ở công viên
lũ chim vô tư lèm bèm những bực mình của
riêng chúng
Trên băng ghế
Gấu thấy một bà già
Cắt mớ tóc
trắng bằng kéo tưởng tượng
Trong khi
nhìn vô tấm gương nhỏ loại bỏ túi
Gấu đếch thèm
nói gì cả
Nhưng đêm
hôm đó, Gấu nằm lăn ra sàn nhà
Cắn mẩu viết
chì
Thở dài sườn
sượt
Gầm gừ với một
điều gì đó
Mà Gấu không
làm sao đặt tên
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Bi Khúc 3 [nguyên tác]
Memory
Bi Khúc 3: Hồi nhớ
THE BIG WAR
We played
war during the war,
Margaret.
Toy soldiers were in big demand,
The kind
made from clay.
The lead
ones they melted into bullets, I suppose.
You never
saw anything as beautiful
As those
clay regiments! I used to lie on the floor
For hours
staring them in the eye.
I remember
them staring back at me in wonder.
How strange
they must have felt
Standing
stiffly at attention
Before a
large, incomprehending creature
With a
moustache made of milk.
In time they
broke, or I broke them on purpose.
There was
wire inside their limbs,
Inside their
chests, but nothing in the heads!
Margaret, I
made sure.
Nothing at
all in the heads….
Just an arm,
now and then, an officer's arm,
Wielding a
saber from a crack
In my deaf
grandmother's kitchen floor.
Charles
Simic
Trận Đại Chiến
Chúng tớ chơi
chiến tranh trong chiến tranh
Margaret. Những
tên lính đồ chơi thì rất ăn khách,
Thứ làm bằng
đất sét.
Thứ lính bằng
chì họ nung chảy để làm đạn, hẳn thế.
Bồ không thể
nhìn thấy cái chi đẹp như thế đâu
Những binh đoàn
đất sét! Tớ nằm dài trên sàn nhà
Hàng giờ đồng hồ để nhìn vào mắt chúng
Tớ nhớ, chúng
cũng nhìn lại tớ, tò mò, ngạc nhiên
Hẳn là lạ làm
sao, chúng cảm thấy
Đứng cứng đờ
nghiêm túc, chú tâm
Trước 1 thứ
sinh vật to bự, ngốc nghếc, chẳng hiểu gì cả
Với bộ ria
mép bằng sữa.
Thế rồi cũng
tới lúc chúng bể ra,
Hoặc tớ làm bể, vì một mục đích nào đó.
Có dây thép ở
trong chân tay của chúng
Ở trong ngực
cũng có, nhưng chẳng có gì ở trong đầu!
Margaret, tớ
bảo đảm với bồ điều đó.
Chẳng có cái
chó gì ở trong đầu chúng…
Chỉ một cánh
tay, lúc này, lúc nọ, cánh tay của 1 tay sĩ quan,
Gắn với 1 cây
gươm từ 1 lần bể gãy
Trong sàn bếp
của người bà điếc của tớ
EMPIRES
My grandmother prophesied the
end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet.
One of your heroes was giving a
speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.
There was no need to. They were
all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure I understood.
Charles Simic
Đế Quốc [Đỏ]
Bà tôi tiên đoán ngày tàn của
đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.
Một trong những anh hùng, Sáu
Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu của bà.
Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.
War
The trembling finger of a woman
Goes down the list of casualties
On the evening of the first snow.
The house is cold and the list is long.
All our names are included.
Charles Simic
Chiến
Tranh
Ngón tay run rẩy của người đàn
bà
Chạy dọc theo, không phải
danh sách chiến lợi phẩm,
mà là những mất mát, tổn hại.
Vào một buổi chiều đầu tuyết.
Căn nhà thì lạnh, và danh sách thì dài.
Tên của tất cả chúng ta
thì đều có trong đó.
Bà mẹ này bảnh hơn bà mẹ huyền
thoại Mít của TCS, bảnh hơn Bà Mẹ
Gio Linh của PD,
ở cái câu:
Tên của chúng ta đều có ở
trong đó.
Không
1 tên Mít nào viết nổi câu thơ trên
NQT
HOTEL
INSOMNIA
I liked my
little hole,
Its window
facing a brick wall.
Next door
there was a piano.
A few
evenings a month
A crippled
old man came to play
"My
Blue Heaven."
Mostly,
though, it was quiet.
Each room
with its spider in heavy overcoat
Catching his
fly with a web
Of cigarette
smoke and revery.
So dark,
I could not
see my face in the shaving mirror.
At 5 A.M.
the sound of bare feet upstairs.
The
"Gypsy" fortune-teller,
Whose
storefront is on the corner,
Going to pee
after a night of love.
Once, too,
the sound of a child sobbing.
So near it
was, I thought
For a
moment, I was sobbing myself.
Charles
Simic
Khách sạn
“Mat Ngu” (1)
Tôi thích
cái lỗ nhỏ của mình
Cửa sổ của
nó nhìn ra một bức tường gạch
Cửa kế bên
có cái đàn dương cầm
Vài buổi chiều
mỗi tháng
Có ông già
què tới chơi bản
“Thiên Đàng
Xanh của tôi”
Ngoài ra,
hoàn toàn im ắng
Phòng nào có
nhện của phòng đó
Trong chiếc
áo choàng nặng nề
Bắt ruồi bằng
một tấm lưới
Dệt bằng
khói thuốc và cơn mộng
Tối thui,
Tôi không thể
nhìn thấy mặt mình trong chiếc gương cạo râu
5 giờ sáng,
có tiếng chân trần lên cầu thang
Cô gái xem
bói người “bô hê miêng”
Có tiệm ở
góc khách sạn
Đi đái, sau
một đêm làm tình.
Một lần, có
tiếng nức nở của một đứa bé.
Quá gần
Trong 1
thoáng
Tôi nghĩ
Hay là chính
mình đang khóc?
(1)
Một lần khi
còn viết cho Chợ Cá, Gấu mail, hỏi tên 1 bài viết của HPNT về TD.
SCN trả lời,
Doi Thoai Mat Ngu.
Gấu mail hỏi
lại:
Đối thoại,
Mặt Ngu?
Mật Ngữ?
Mất Ngủ?
Preachers
Warn
This
peaceful world of ours is ready for destruction-
And still
the sun shines, the sparrows come
Each morning
to the bakery for crumbs.
Next door,
two men deliver a bed for a pair of newlyweds
And stop to
admire a bicycle chained to a parking meter.
Its owner is
making lunch for his ailing grandmother.
He heats the
soup and serves it to her in a bowl.
The windows
are open, there's a warm breeze.
The young
trees on our street are delirious to have leaves.
Italian
opera is on the radio, the volume too high.
Brevi e
tristi giorni visse, a baritone sings.
Everyone up
and down our block can hear him.
Something
about the days that remain for us to enjoy
Being few
and sad. Not today, Maestro Verdi!
At the
hairdresser's a girl leaps out of a chair,
Her blond
hair bouncing off her bare shoulders
As she runs
out the door in her high heels.
"I must
be off," says the handsome boy to his grandmother.
His bicycle
is where he left it.
He rides it
casually through the heavy traffic
His white
shirttails fluttering behind him
Long after
everyone else has come to a sudden stop.
Charles
Simic: Master of Disguises
Thầy tu cảnh
báo
Cái thế giới
hòa bường này của chúng ta thì đã sẵn sàng cho sự huỷ diệt –
Tuy nhiên mặt
trời thì vưỡn bò lên, lũ sẻ vưỡn tới
Mỗi sáng, kiếm
mẩu vụn ở lò bánh mì.
Nhà kế bên,
hai người đàn ông đem giường tới cho 1 cặp mới cưới
Cả hai đấng
bèn ngưng lại, để chiêm ngưỡng một chiếc xe đạp
Xiềng vô cái cột đồng hồ tính
tiền ở chỗ đậu xe.
Chủ của nó đang
bận làm bữa trưa cho người bà bịnh
Anh ta hâm nóng
cháo, và mang tới giường cho người bà trong 1 cái tô.
Cửa sổ mở, gió
ấm.
Những cây con, ở con phố chúng ta,
Sướng điên lên vì bắt đầu ra lá.
Nhạc opera Ý
từ chiếc la dô, âm thanh lớn quá
Brevi e
tristi giorni vise, một giọng baritone
[nam trung] ư ử
Mọi người lên
và xuống khu nhà chúng ta thì đều có thể nghe.
Một điều gì đó,
về những ngày tàn, cho chúng ta hưởng
Tí ti, và buồn.
Không phải bữa nay, Maestro Verdi!
Tại tiệm làm
tóc, một cô gái nhổm ra khỏi ghế ngồi
Tóc nâu, xỏa
xuống đôi vai trần
Cô chạy
ra khỏi tiệm,
Hai gót chân mới cao làm sao, hà hà!
“Con phải đi
đây”, cậu trai đẹp trai nói với người bà.
Chiếc xe đạp
thì vẫn ở chỗ cũ.
Anh ta đạp
xe ngù ngờ qua con phố đầy xe cộ
Đuôi áo sơ
mi ve vảy ở đằng sau anh ta
Thật mãi lâu
sau đó, mọi người,
Ai thì cũng tới 1 điểm ngừng bất thần.
Poetry and Utopia
Charles
Simic
Thơ
& Không Tưởng
Only for the
sake of the hopeless ones have we been given hope.
Walter
Benjamin: Illuminations
Chỉ vì những
kẻ vô hy vọng mà chúng ta được ban cho hy vọng
Thơ Simic,
sau 1977 tẩm chất “blue” của jazz, ["blue không xanh mà blue đen",
TTT], hay là
những nốt nhạc “bent”… Theo năm tháng,
ông cố tìm một nguồn hứng khởi mới, bằng cách đọc triết, đọc Heidegger
(thí dụ Nguồn gốc của nghệ phẩm,
“The origin of the Work of Art”), và Husserl. Chúng ta
không biết ông đọc nhiều, hay ít, Walter Benjamin, nhưng rõ ràng những
bài viết của Benjamin ảnh hưởng lên thơ Simic, kể từ “White”, tôi phác
ra ở đây:
Thứ nhất, chắc
chắn Simic đã ôm lấy câu của Benjamin: “Chúng ta đều là những đứa trẻ
mồ côi
của những ý thức hệ”,” "orphans of ideologies”, và như Benjamin, ông
rất ư hồ
nghi về mọi hình thức của chủ nghĩa không tưởng, all forms of utopian
idealism,
bao gồm Mạc Xịt. Chính vì lý do này mà Benjamin đếch chịu được dòng tư
tưởng Hegel
thập niên 1930, mặc dù ông là bạn với, và bị ảnh hưởng bởi, một vài
trong số những
khuôn mặt nổi tiếng nhất của nó, bao gồm Theodor Adorno. Cái sự quá
chán “tiến
bộ” trong lịch sử, thì được ông mô tả 1 cách thần sầu, khi ông chiêm
ngưỡng 1 bức
họa của Paul Klee, như ông ghi lại trong “Những Luận đề về Triết học
của Lịch sử”
[“Theses on the Philosophy of History”]:
A Klee painting named "Angelus
Nevus" shows an angel looking as though he is about to move away from
something he is fixedly contemplating. His eyes are staring, his mouth
is open,
his wings are spread. This is how one pictures the angel of history.
His face
is turned toward the past. Where we perceive a chain of events, he sees
one
single catastrophe which keeps piling wreckage upon wreckage and hurls
it in
front of his feet. The angel would like to stay, awaken the dead, and
make
whole what has been smashed. But a storm is blowing from Paradise; it
has got
caught in his wings with such violence that the angel can no longer
close them.
This storm irresistibly propels him into the future to which his back
is turned,
while the pile of debris before him grows skyward. This storm is what
we call
progress. (Illuminations
257-58)
Peter
Schimidt: White: Charles Simic's Thumbnail
Epic
Bức
họa của Klee, một thiên thần đang tính chuồn khỏi một điều gì Người
đang hết sức chiêm ngưỡng. Đôi mắt Người nhìn chằm chằm, miệng há hốc,
đôi
cánh xoải ra. Đó là hình ảnh con người nhìn "thiên thần lịch sử", qua
nét vẽ của Klee. Mặt của Người hướng về quá khứ. Nơi con người chìn
thấy một chuỗi những sự kiện, Người
chỉ nhìn thấy một thảm họa, của những rác rưởi, cứ thế chất thành 1
đống bát nháo dưới chân Người. Có lẽ Người muốn ở lại, đánh thức người
chết, làm thành một toàn thể từ những đổ nát. Nhưng một trận bão từ
Thiên Đàng ùa
tới, đôi cánh của Người bị lay động dữ dội, Người không làm sao co lại
được. Trận
bão cứ thế cuốn Người về tương lai; lưng thiên thần quay về phía đó,
mắt nhìn
đống rác cứ thế cao ngút trời. Trận bão đó, là cái mà chúng ta gọi là
tiến bộ.
EMPIRES
My grandmother prophesied the
end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet.
One of your heroes was giving a
speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.
There was no need to. They were
all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure 1 understood.
Charles Simic
Đế Quốc [Đỏ]
Bà tôi tiên đoán ngày tàn của
đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.
Một trong những anh hùng, Sáu
Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu của bà.
Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.
nẫu
người về
trong. nắng tháng. ngày âm. ui
người về
lãng.đãng trong. tôi sóng. gầy
hồn va xuống.
vực tôi. gọi âm. vang
mưa. rào
gió. bấc lá chạy. loay quanh
gánh. nặng
cái tên. hâm hoài nỗi. nhớ
người về
gánh. vuông sầu. tôi trăng. rằm
người về
hoa. đẫm ngây. dại mắt. quanh
người về gởi.
text rung. cả một. thời
chữ. còn chữ.
héo kéo dài. cơn mê
người về có.
lẽ độc. mộc mình. tôi
phai. màu mắt.
cũ mưa sói. những niềm
tôi hỏi. người về còn. nẫu mùi nhớ.
Đài Sử
Clouds
Gathering
It seemed
the kind of life we wanted.
Wild
strawberries and cream in the morning.
Sunlight in
every room.
The two of
us walking by the sea naked.
Some
evenings, however, we found ourselves
Unsure of
what comes next.
Like tragic
actors in a theater on fire,
With birds
circling over our heads,
The dark
pines strangely still,
Each rock we
stepped on bloodied by the sunset.
We were back
on our terrace sipping wine.
Why always
this hint of an unhappy ending?
Clouds of
almost human appearance
Gathering on
the horizon, but the rest lovely
With the air
so mild and the sea untroubled.
The night
suddenly upon us, a starless night.
You lighting
a candle, carrying it naked
Into our
bedroom and blowing it out quickly.
The dark
pines and grasses strangely still.
Charles
Simic: Hotel Insomnia
Mây tụ
Có vẻ đúng là
thứ cuộc đời chúng ta muốn.
Dâu dại và cà
rem buổi sáng.
Ánh nắng trong
mọi căn phòng.
Hai đứa mình
trần truồng đi bên biển.
Tuy nhiên có
một vài buổi tối,
Đôi ta với đôi
mình,
Chẳng hiểu
chuyện gì sẽ xẩy ra tiếp theo.
Như những kịch
sĩ bi thương trong một nhà hát đang cháy,
Với lũ chim
bay vòng vòng trên đầu,
Những hàng thông
đen, ôi sao, tĩnh mịch lạ,
Mỗi hòn đá
chúng ta bước lên,
Rực máu chiều
tà.
Đôi ta trở lại
sân thượng nhấp rượu đỏ
Tại làm sao
luôn lấp lửng, đoạn cuối bất hạnh này?
Mây, dáng người, tụ nơi chân trời
Chút còn lại đáng yêu làm sao
Với gió thật
dịu, và biển thì bất động.
Đêm bất thình
lình đổ lên đôi ta, một đêm không sao
Em thắp nến, trần truồng cùng với nến
Đi vô phòng,
và vội vàng thổi cái phù
Hàng thông đen,
và bây giờ, thêm dặm cỏ
Mới tĩnh lặng
làm sao.
FOLK SONGS
Sausage-makers
of History,
The bloody
kind,
You all hail
from a village
Where the
dog barking at the moon
Is the only
poet.
*
O King
Oedipus, O Hamlet,
Fallen like
flies
In the pot
of cabbage soup,
No use
beating with your fists,
Or sticking
your tongues out.
*
Christ-faced
spider on the wall
Darkened by
evening shadows,
I spent my
childhood on a cross
In a yard
full of weeds,
White
butterflies, and white chickens.
Charles
Simic: Hotel Insomnia
Dân ca
Những kẻ làm
xúc xích Lịch Sử
Thứ đầy máu
Các bạn đều
từ làng tới
Nơi con chó
sủa trăng
Là thi sĩ độc
nhất
Ôi Oedipus, Ôi
Hamlet,
Rớt xuống như
ruồi
Trên nồi xúp
cải
Đập tay đập
chân làm cái chó gì,
Thè lưỡi ra
làm chi
Nhện mặt Chúa
trên tường
Xỉn đi theo
chiều tối
Tôi trải qua
thời thơ ấu của mình
Trên cây thánh
giá
Ngoài vườn đầy
cỏ dại
Bướm trắng,
gà con trắng.
Poetry and Utopia
Charles
Simic
Thơ
& Không Tưởng
Only for the
sake of the hopeless ones have we been given hope.
Walter
Benjamin: Illuminations
Chỉ vì những
kẻ vô hy vọng mà chúng ta được ban cho hy vọng
Thơ Simic,
sau 1977 tẩm chất “blue” của jazz, ["blue không xanh mà blue đen",
TTT], hay là
những nốt nhạc “bent”… Theo năm tháng,
ông cố tìm một nguồn hứng khởi mới, bằng cách đọc triết, đọc Heidegger
(thí dụ Nguồn gốc của nghệ phẩm,
“The origin of the Work of Art”), và Husserl. Chúng ta
không biết ông đọc nhiều, hay ít, Walter Benjamin, nhưng rõ ràng những
bài viết của Benjamin ảnh hưởng lên thơ Simic, kể từ “White”, tôi phác
ra ở đây:
Thứ nhất, chắc
chắn Simic đã ôm lấy câu của Benjamin: “Chúng ta đều là những đứa trẻ
mồ côi
của những ý thức hệ”,” "orphans of ideologies”, và như Benjamin, ông
rất ư hồ
nghi về mọi hình thức của chủ nghĩa không tưởng, all forms of utopian
idealism,
bao gồm Mạc Xịt. Chính vì lý do này mà Benjamin đếch chịu được dòng tư
tưởng Hegel
thập niên 1930, mặc dù ông là bạn với, và bị ảnh hưởng bởi, một vài
trong số những
khuôn mặt nổi tiếng nhất của nó, bao gồm Theodor Adorno. Cái sự quá
chán “tiến
bộ” trong lịch sử, thì được ông mô tả 1 cách thần sầu, khi ông chiêm
ngưỡng 1 bức
họa của Paul Klee, như ông ghi lại trong “Những Luận đề về Triết học
của Lịch sử”
[“Theses on the Philosophy of History”]:
A Klee painting named "Angelus
Nevus" shows an angel looking as though he is about to move away from
something he is fixedly contemplating. His eyes are staring, his mouth
is open,
his wings are spread. This is how one pictures the angel of history.
His face
is turned toward the past. Where we perceive a chain of events, he sees
one
single catastrophe which keeps piling wreckage upon wreckage and hurls
it in
front of his feet. The angel would like to stay, awaken the dead, and
make
whole what has been smashed. But a storm is blowing from Paradise; it
has got
caught in his wings with such violence that the angel can no longer
close them.
This storm irresistibly propels him into the future to which his back
is turned,
while the pile of debris before him grows skyward. This storm is what
we call
progress. (Illuminations
257-58)
Peter
Schimidt: White: Charles Simic's Thumbnail
Epic
Saturday, June 9, 2012 8:23 PM
Sáng chủ nhật đọc hai bài thơ của Simic "trên đỉnh non Tản" thật tuyệt,
cám ơn bác.
Đa tạ.
NQT
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Bi Khúc 3 [nguyên tác]
Memory
Bi Khúc 3: Hồi nhớ
Poetry and Utopia
Charles
Simic
Thơ & Không Tưởng
Vào năm 1972,
tôi thấy tên tôi
trên lịch trình những tác giả sẽ lèm bèm về thơ
tương lai tại Hội Thơ Struga Poetry Festival, ở Macedonia. Đúng ra, là
một vị
khác, nhà thơ Mẽo W.S. Merwin, và do bận bịu lo cho cô bạn gái, ông nhờ
tôi thế
chỗ, và tôi thì không thể từ chối một vị “bạn quí”, nhiều tuổi hơn tôi,
nổi
tiếng hơn tôi nhiều, tôi thực tình quá mến mộ.
Thế là buổi
sáng đẹp trời bữa đó, tôi bèn tưng tửng mò tới Hội Thơ, chẳng có tí
thơ nào trong đầu, và cũng chẳng nghĩ mình sẽ nói cái chó gì nữa.
Thơ tương lai,
ư?
Tôi thực sự
khủng, khi thấy mấy đấng nhà thơ trong lịch trình, ông nào cũng
khăn áo chỉnh tề, và được chuẩn bị tới chỉ, nào tài liệu ghi chú, hay
là, nếu
là 1 vị đến từ Liên Xô, thì là một bản viết dài, tiên đoán về một thời
hoàng
kim của thơ trong một thế giới biến thành Quỉ Tha Ma Bắt, lần đầu tiên
sống hoà
thuận với thơ và với bạn thơ trong lịch sử nhân loại.
Tới lượt tôi
đăng đàn, và tôi lúc đó thì gần như ở trong tình trạng hôn mê, sau
chuyến đi dài 24 tiếng đồng hồ từ San Francisco, gần như chưa được 1 tí
ngủ.
Nhưng, chơi thì chơi, sợ chó gì, cờ đến tay ai người đó phất, và thế là
tôi bèn
cao giọng phán, tiên tri về thơ trong tương lai là chuyện mất thì giờ,
nhảm,
cực nhảm, bởi là vì thơ hầu như chẳng thay đổi gì, cơ bản mà nói,
trong…
25 thế kỷ vừa qua, và tôi nghi rằng, nó sẽ vưỡn “vũ như cẩn”
trong… 100
năm tới.
Tới đó thì tôi
kể như xổ ra hết chút năng lực, nhiên liệu, nội lực còn sót lại,
và bèn rơi vào im lặng, không hề mở miệng ra một lần nào nữa suốt Hội
Thơ.
Về những bạn
thơ cùng lịch trình, tôi chẳng nhớ có ai phản biện phản biếc về
điều tôi phán, và hình như tất cả đều tiếp tục lèm bèm về thơ tương
lai.
Điều mà tôi
phán bữa đó, gây kinh ngạc, không chỉ cho tôi, mà còn cho bất cứ ai
trong phòng, bởi vì như danh tiếng mà tôi có được, thì tôi được dán
nhãn siêu
thực, một người thường tuyên bố có niềm tin vào đám… Hậu Vệ.
Tôi và bạn bè
của tôi khi đó, cũng giống đám cựu Mạc Xịt, những người rất
“xua”, sure, họ hiểu luật tiến hóa của lịch sử. Nghĩa là, thí dụ, hội
họa hình
tượng ngỏm thì mới lượt trừu tượng, thơ tự do thì phải có mặt sau thơ
vần…..
vân vân và vân vân… Với tôi, cái mới, cái còn trinh thì tất nhiên là
thơm hơn
cái mất trinh [cái này hơi bị nhảm, nhưng thuổng… Thầy Cuốc!], và nó
vưỡn như
vậy, từ thuở có đờn bà, hà hà!
Tôi thì đồng ý
với Wallace Stevens, khi viết:
Sống trong
nước không phải trên đá
Thời đồ đá qua
rồi, hết rồi.
Với sự thích
đáng, phần lớn Đồ Đạc Hồng Mao
Thì được Cớm
Trị bởi hy vọng Giáng Sinh
Với ông, lịch
sử là 1 tiến trình qua đó, không có chuyện, thực tại chấm dứt, và
thơ là 1 phần của tiến trình chuyển biến của thực tại. Một nhà thơ đáng
đọc,
sống trong hiện tại, và hiện tại liên tục thay đổi thành 1 cái gì khác.
Cái gì
OK hôm qua cho thơ, thì không OK hôm nay cho thơ, và nhà thơ không có
chọn lựa
nào khác, ngoài việc tìm những phương tiện đối đầu với thời mà anh ta
sống ở
trong đó. Tuy nhiên, điều không thay đổi, là chúng ta "vũ như cẩn",
từ hàng hàng thế kỷ trước đây, những
cái
đầu đọc những cái đầu, cố tìm manh mối cái ý nghĩa của cuộc hiện hữu
của chúng,
kinh ngạc lúc này lúc nọ, ừ hóa ra là mình đang sống, trong khi rất ư
là rõ ràng
về cái sự ngỏm của mình, mình sinh ra, là để chết.
Tôi
hiểu ra điều
mình nói bữa Hội Thơ ở Struga nhiều năm sau, khi tôi đứng vào một buổi
xế trưa
Tháng Năm thật đáng yêu, ở góc con Phố Thứ Năm, và Thứ 42, ở New York
City, đợi
một người bạn đến hẹn trễ. Đó là 5 giờ chiều, giờ văn phòng đóng cửa và
hàng ngàn
con người ùa ra chật cứng phố xá, trên đường tới trạm xe điện ngầm hay
nhà ga.
Giờ trước đó tôi trải qua trong 1 tiệm sách trong 1 khu phố lối xóm nổi
tiếng với
trữ lượng báo chí văn học và tuyển tập thơ, tôi đứng lật trang này, đọc
bài thơ nọ. Đứng đợi tại một ngã tư đông đúc, bận rộn, bất thình lình,
một ý
nghĩ sực tới với tôi, giả như nếu nữ thi sĩ Hy Lạp cổ xưa, Sapho, có
thể nhìn
thấy như tôi đang nhìn thấy bây giờ, thì bà không chỉ chẳng thể hiểu
gì, mà còn
hoảng sợ đến mất vía, nhưng mặt khác, nếu bà có thể đọc những bài
thơ mà tôi đang đọc,
thì bà sẽ gật gù cái đầu cảm nhận, kể từ khi mà, như chính bà, rất
nhiều bài thơ
mới này nói thẳng thừng tới những đau khổ, và niềm vui, của một con
người . Nghi
ngờ mọi thứ sự thực nhà nước ban cho, thay đổi hàng bữa, họ, những nhà
thơ bèn
phán ra sự thực của riêng họ, trong khi bối rối, và không chắc chắn, về
con người
nào, mà cuộc đời được họ miêu tả thì được tính đếm tới ở đây.
JUNE IN
SIENA
-we shall
never be in touch with something
greater than
ourselves – Richard Rorty
Flat days
came to pass, when doubt governed,
days of
obvious accord.
Summer cried
loudly like vegetable sellers
in Parisian
markets.
Lovers,
spliced together on benches, began to tally
future gains
and losses,
months of
happiness and contention.
June in
Siena: on every small square the boys
practiced
their kettledrums before the Palio-
the brown
city quivered like troops before a battle.
Dry lips
waited for rain.
Adam
Zagajewski: Unseen Hands
Tháng Sáu ở
Siena
-Chúng ta sẽ
chẳng bao giờ tiếp xúc với một điều gì
lớn hơn chính chúng ta - Richard Rorty
Ngày tẻ nhạt
tới, qua đi, khi nghi ngờ quản lý
Ngày tán thành,
hiển nhiên.
Mùa Hè la lớn
như mấy bà bán rau ở chợ Paris
Những tình
nhân quấn bên nhau trên băng ghế
Bắt đầu tính
toán thua lỗ tương lai
Những tháng
hạnh phúc và cãi cọ
Tháng Sáu ở
Siena, quảng trường nhỏ nào cũng có những đứa trẻ tập đánh trống trước Palio –
Thành phố nâu rùng mình
như những đoàn quân trước một trận đánh
Môi khô chờ
mưa.
WRITING
POEMS
Writing
poems is a duel
that no one
wins-on one side
a shadow
rises, massive as a mountain range
viewed by a
butterfly, on the other,
only brief
glimpses of brightness,
images and
thoughts like a match flame
on the night
when winter is born in pain
It's trench
warfare, a coded telegram,
long
watching, patience,
a sinking
ship that sends out signals
and stops sinking,
a cry of triumph,
loyalty to
the old, silent masters,
calm
contemplation of a brutal world,
explosive
joy, ecstatic, unsatisfied,
regret,
everything passes, hope, nothing is lost,
a
conversation without a final word,
a long break
at school when the students
are gone,
the defeat of one weakness
and the
start of another, endless waiting
for the next
poem, a prayer, mourning
for a
mother, a momentary truce,
complaints
and whispers in a charred confessional,
rebellion
and magnanimous forgiveness,
squandering
the whole estate, remorse, assent,
sprint and
stroll, irony, cold gaze,
profession
of faith, diction, haste,
the cry of a
child who's lost his greatest treasures.
Adam
Zagajewski: Unseen Hands
Làm thơ
Làm thơ là một
trận tử đấu tay đôi
Chẳng bên nào
thắng - một bên,
một cái bóng
lớn lên, to lớn, nặng nề như một rặng núi,
được nhìn bởi
một con bướm, một bên,
chỉ là những
chấm sáng ngắn ngủi,
những hình ảnh,
những ý nghĩ như ánh lửa của 1 cây quẹt
vào một đêm
khi mùa đông sinh ra trong đau đớn.
Đó là chiến
tranh hầm hố, giao thông hào –
cái gì gì, ‘mẹ nằm dưới cơn mưa, nơi địa đạo Củ
Chi’:
một điện tín được mã hóa của… PXA?]
thức, canh, đợi
dài người, kiên nhẫn,
một cái tầu
chìm, đánh ra tín hiệu cầu cứu
và ngưng chìm,
một tiếng la của chiến thắng
trung thành
với những vị thầy cổ xưa, im lặng
chiêm ngưỡng
lặng lẽ thế giới tàn bạo
niềm vui bùng
ra, cực sướng, cực khoái, đếch hài lòng,
ân hận, mọi
chuyện qua đi, hy vọng, chẳng có gì mất
một cuộc lèm
bèm không có lời cuối
một cuộc nghỉ
hè dài, khi những sinh viên đã ra đi,
sự thất bại của kẻ yếu
và sự khởi đầu
của một cái khác, chờ đợi khôn cùng
bài thơ tiếp,
một nguyện cầu, một tưởng niệm
dành cho một người mẹ, một cuộc hưu chiến ngắn
ngủi, tạm bợ,
những phàn nàn,
những thì thầm trong một phòng xưng tội hoá thành than,
sự nổi loạn, và sự tha
thứ cao thượng,
sự phung phí trọn gia tài của mẹ, hối hận, phê chuẩn
chạy nước rút
và đi tản bộ, hài hước, cái nhìn lạnh lẽo,
nghề của niềm
tin, cách chọn từ, hấp tấp
tiếng khóc của
một đứa bé mất những kho tàng lớn lao nhất của nó.
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Bi Khúc 3 [nguyên tác]
Memory
Bi Khúc 3: Hồi nhớ
Máu đào ai
thắm trên sông
mà em giặt
áo chờ mong người về
chao tay
trong ánh trăng thề
có nghe hồn
lụa não nề huyết xương
Ngàn năm e vẫn
còn vương
trên sông trầm
lặng chút hương máu nồng
Blog HH
Bài thơ này,
trên Tin Văn có 'thủ bản', của chính thi sĩ Joseph Huỳnh Văn!
"áng
giăng thề", không phải "ánh trăng thề".
“chao”, không phải “trao”, như thường gặp.
Độc giả KD chắc còn nhớ,
Vô Kỵ cắn một phát vào tay em, mà em nhớ hoài đến phát
khùng, vì cú [gi]răng thề!
Và khi gặp lại,
em lắc đầu, mi không phải cái thằng cắn ta. Cái thằng cắn ta nó độc ác
lắm, đâu
phải tên hiền lành này!
Hà, hà!
NQT
Thơ Joseph
Huỳnh Văn có gần như đầy đủ trên Tin Văn.
Trong nước cũng mới in tập thơ của
anh
Thơ Joseph
Huỳnh Văn xuất hiện lần đầu tiên trên Nhã
Tập, số ra mắt của Tập San Văn Chương,
cùng với bài viết Truyện Kiều ABC của
Đỗ Long Vân
Nhã Tập
Truyện Kiều ABC
Bruce Weigl:
Ông cũng nói, trong triết (và trong thơ và sử), ông nhìn, “theo 1
nghĩa, có thể
hình dung ra và cảm thấy sức nặng con người về sự cô đơn của kẻ khác”,
“in the
sense of being able to picture and feel the human weight of another‘s
solitude”.
Cái gì đặc biệt triết cho ông cái nhìn đặc biệt này? [What is it
specially
about philosophy that allows you this special seeing?]
Charles
Simic: Bởi vì cái kẻ suy nghĩ thì cô đơn, the one who thinks is alone.
Kẻ nào nghĩ
lớn thì cô đơn lớn. The greater the thinker the greater his solitude.
Thơ mang đến
cho triết, lẽ dĩ nhiên, sự tưởng tượng. Thơ tưởng tượng nơi chốn và
hoàn cảnh
trong đó kẻ suy tư suy tư. Theo nghĩa này thì thơ cũng là 1 cách nhìn.
Nó nhìn
nó cảm thấy như thế nào khi nghĩ những suy tư tối thượng về bản chất sự
vật [It
sees how it feels to be thinking the supreme thoughts about the nature
of
things].
BW: Nó cảm
thấy thế nào khi nghĩ những suy tư tối thượng? How does
it feel to think those supreme thoughts?
CS: Nó
cảm
thấy sướng điên lên. Đó là tất cả những gì mà tôi hằng mong làm.
It feels good.
This is all I ever want to do.
Summer
That summer
was so hot and muggy ...
The white
sky hung above me like a circus tent.
I talked to
myself, wrote letters,
dialed
interminable numbers.
It was so
stifling that ink
dried up in
fountain pens. Hawks swooned.
I even sent
a telegram, accepted
with a start
by the dozing post office.
Drunken
wasps reeled above the table,
sugar cubes
burst in black coffee.
I wandered
through the town and turned
slightly
invisible, out of habit,
from
despair. I talked to myself.
An airport,
a train station, a church
shot up at
the end of every street.
Travelers
spoke of fires and omens.
I looked for
you everywhere, everywhere.
Shutters
were locked, borders sealed,
only clouds
stole westward.
It was so
hot, the lead dripped
from
stained-glass windows.
Adam
Zagajewski
Hè
Hè mới nóng
và mới oi làm sao…
Bầu trời trắng treo lăng nhăng ở trên đầu Gấu, như 1 cái lều rạp xiệc
Gấu lèm bèm với
Gấu,
Gấu viết thư
cho BHD,
Quay số điện
thoại nhà em hoài!
[Xạo!]
Hè đặc quánh,
khiến mực khô queo trong cây viết.
Lũ chim ưng xỉu
đi.
Gấu đành phải
gửi đi 1 cái điện tín,
Bắt đầu bằng cơn ngủ gà ngủ gật của Bưu Điện Xề Gòn.
Mấy đấng ong,
say đứ đừ, bay lừ khừ phía bên trên mặt bàn
Mấy thỏi đường
nổ lắp bắp bên trong ly cà phe đen.
Gấu lang thang trong những con phố Xề Gòn,
và dần dần biến thành vô hình,
Chẳng giống ai, chẳng giống thói quen thường ngày,
Do chán quá!
Nhớ BHD quá!
Gấu lảm nhảm
với Gấu.
Một phi trường
[Phi trường Tân Sơn Nhứt?],
Một nhà ga
[Hòa Hưng, hay Xề Gòn, nơi con phố Lê
Lai,
Gấu Xì Ke ngày nào mà chẳng lai vãng, hà, hà!]
Một nhà thờ
[Nhà Thờ Đức Bà, chứ đâu nữa!]
Chúng hiện
ra như 1 cú chích, a shot, ở cuối mọi con phố.
Những du khách
nói về những đám cháy, về những điềm triệu.
Gấu kiếm BHD
mọi nơi, mọi nơi
Những tấm chắn
cửa thì đều kéo xuống, khóa,
Những biên cương thì đều đóng dấu niêm phong.
Chỉ có những
đám mây Xề Gòn là vẫn lừ đừ trôi về phía Tây.
Nóng quá,
Chì chẩy ra
từ những khung kính cửa sổ màu
PIANO LESSON
I'M EIGHT
YEARS OLD
Piano lesson
at the neighbors', Mr. and Mrs. J.
I'm in their
apartment for the first time,
which smells
different from ours (ours has no smell,
or so I
think). Everywhere carpets,
thick
Persian carpets. I know that they're Armenians,
but don't
know what that means. Armenians have carpets,
dust wanders
through the air, imported
from Lvov,
medieval dust.
We don't
have carpets or Middle Ages.
We don't'
know who we are-maybe wanderers.
Sometimes I
think we don't exist. Only others are.
The
acoustics are great in our neighbors' apartment.
It's quiet
in this apartment. A piano stands in the room
like a lazy,
tamed predator-and in it,
at its very
heart, dwells music's black ball.
Mrs. J told
me right after the first
or second
lesson that I should take up languages
since I
showed no talent for music.
I show no
talent for music.
I should
take up languages instead.
Music will
always be elsewhere,
inaccessible,
in someone else's apartment.
The black
ball will be hidden elsewhere,
but there
may be other meetings, revelations.
I went home,
hanging my head,
a little
saddened, a little glad-home,
where there
was no smell of Persia, only amateur paintings,
watercolors,
and I thought with bitterness and pleasure
that I had
only language, only words, images,
only the
world.
Adam
Zagajewski
Bài học dương
cầm
Tớ lúc đó 8
tuổi
Bài học dương
cầm ở nhà hàng xóm, ông/bà J.
Tớ vô căn phòng
của họ lần đầu tiên
Nó có mùi khác
hẳn phòng nhà tớ
(phòng nhà tớ
không có mùi, hay tớ nghĩ thế).
Thảm tứ lung
tung, chỗ nào cũng có thảm,
Những tấm thảm
Persian dày. Tớ biết họ là dân Armennia,
Nhưng tớ chẳng
biết Armenia nghĩa là gì.
Người
Armenians có thảm.
Bụi lang
thang trong không khí,
Nhập cảng từ
Lvov, bụi Trung Cổ
Chúng tớ không
có thảm, hay Trung Cổ.
Chúng tớ không
biết chúng tớ là ai - chắc là những kẻ lang thang.
Đôi khi tớ
nghĩ chúng tớ đếch hiện hữu, đếch có chúng tớ!
Chỉ những
người khác hiện hữu
Âm học thì lớn
ở trong phòng của họ.
Thật im ắng
trong căn phòng này
Một cái đàn
dương cầm đứng ở trong 1 căn buồng
Như một vật ăn
thịt người đã dược thuần hóa, luời biếng
Và trong nó,
Ở ngay chính
trái tim của nó, một trái banh đen âm nhạc trú ngụ.
Bà J. biểu tớ,
ngay sau buổi học đầu tiên
Hay buổi thứ
nhì
Khổ thân cháu
quá, cháu không có 1 tí khiếu về âm nhạc.
Hay là cháu
hãy thử học ngôn ngữ coi.
Tớ đếch có 1
tí mùi/mầm âm nhạc nào hết
Thay vì âm
nhạc thì thử thời vận bằng ngôn ngữ nhe!
Âm nhạc luôn
có ở đâu đó
Không thể tóm
nó được,
Ở trong phòng
một người nào đó
Cái trái cầu
đen sẽ ẩn náu ở đâu đó,
Nhưng có thể
có những cuộc gặp gỡ khác, đốn ngộ khác.
Tớ về nhà tớ,
lắc lư cái đầu như phê xì ke
Hơi có tí buồn,
hơi có tí vui – nhà
Nơi không có
mùi Persia, chỉ có những bức họa tài tử
Màu nước, và
tớ nghĩ, với cay đắng và vui vẻ
Rằng tớ chỉ
có ngôn ngữ, chỉ có những từ ngữ, những hình ảnh
Chỉ có thế
giới.
A Note on
Poetic Justice
Orhan Pamuk
When I was
little, a boy the same age as I - his name was Hasan - hit me just
under the
eye with a stone from his slingshot. Years later, when another Hasan
asked me
why all the Hasans in my novels were evil, this memory returned to me.
In
middle school, there was a big fat bully who used to find any excuse to
torment
me at recess. Years later, to make a character less attractive, I had
him sweat
like this tough fatso; he was so fat he had only to stand there and
these beads
of sweat would form on his hands and his forehead, until he looked like
a giant
pitcher that had just come out of the refrigerator.
When I was
little and my mother took me shopping, I used to dread the butchers who
worked
such long hours in their stinking shops wearing bloody aprons and
wielding
their great long knives, and I didn't eat too many of the chops they
cut for us
because they were too fatty. In my books, butchers figure as people who
cut up
contraband animals and engage in bloody, shady activities. And the dogs
that
have followed me all my life are portrayed as creatures that cause
alarm and
suspicion in the heroes to whom I feel close.
A similarly
innocent sense of justice has meant that bankers, teachers, soldiers,
and elder
brothers are never cast as good people. Nor are barbers, because when I
was
very little I'd be in tears when taken to the barber, and over time my
relations with them continued to be poor. Because I came to love horses
during
my childhood summers on Heybeliada, I've always given very good parts
to horses
and their carriages. My horse heroes are sensitive, delicate, forlorn,
innocent, and often the victims of evil. Because my childhood was full
of good,
well-meaning people who always smiled at me, there are lots of good
people in
my books too, but justice reminders first and foremost of evil. In the
mind of
such a reader, as for a person strolling through an art gallery, there
is this
faint feeling of justice: What we expect from poets is that they should
avenge
evil somehow.
As I've been
trying to explain, I try to avenge evil single-handedly, and mostly I
do this
in a most personal way, but in such a way that the reader isn't meant
to notice
and sees the revenge as beautiful. Because poetic justice reaches its
high
point at the end of children's books and adventure comics, when the
hero
punishes the villain, saying, "And this blow is for such and such ...
and
this blow for ... ," I invented just such a scene as a novelist: Line
by
line, I enumerate every heinous act committed by an evil Hasan or a
butcher,
until the butcher or whoever panics and drops the knife in his hand and
is cleaning
up the shop, crying, "Please, my brother, I beg you not to treat me
harshly; I have a wife and children!"
Revenge
breeds revenge. Two years ago, when eight or nine dogs cornered and
attacked me
in Macka Park, it seemed as if they had read my books and knew I had
exacted
poetic justice on them to punish them for roaming, especially in
Istanbul, in
packs. This, then, is the danger in poetic justice: Taken too far, it
might
ruin not just your book-your work-but your very life. You might carry
out your
revenge with elegance, and with no one the wiser, your writing more and
more a
thing of beauty, but there are always dogs waiting to catch the
vengeful poet alone
at a comer and sink their teeth into him.
[Trích Những
Sắc Màu Khác, Chương 18: Một tiểu chú về Công lý Thơ]
Ui chao, đọc
cái này thì lại nhớ, không phải ông anh nhà thơ, mà là bà cụ thân sinh
của cả “ba
anh em”, tức hai anh em nhà thơ, “con đẻ”, và 1 thằng “con nuôi” của
cụ, là Gấu
Cà Chớn.
Một lần cụ nói,
mày với thằng Tâm giống hệt nhau, cứ thấy người nào giàu là tởm, là coi
như…. hủi!
Tất nhiên cụ
nói khác, Gấu không còn nhớ, nhưng nội dung là như vậy.
Có thể cuộc
chiến Mít cũng từ đó mà ra, Bắc Kít thù Nam Kít, vì chúng giàu quá,
sướng quá,
đếch biết cái khổ, cái đói là cái đéo gì hết!
Đâu phải "tự nhiên" mà Cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở Miền Bắc khủng
khiếp đến như thế!
Nó là cuộc
"Đại Diễn Tập", chờ cú "Đại Hành Động", bắt đầu đúng vào ngày 30 Tháng
Tư
1975.
Cái cô bạn thân
của GCC, tức bạn thân của Gấu Cái, cô phù dâu ngày nào, cũng chửi GCC y
chang, giàu có đâu
phải là 1
cái tội.
Cái gì cô cũng
hơn Gấu Cái, chỉ mắc mỗi 1 tội, giàu!
Cô này cũng
khổ, chẳng bao giờ tin là có người thực sự thương mình, và khi hiểu ra,
có 1 thằng
thực sự thương mình, thì thằng đó lại là chồng cô bạn thân, và rất thù
người giàu!
Trả
hận nuôi dưỡng trả
hận. Hai năm trước đây, khi chừng chín, mười đấng chó bủa vây
quanh tôi
tại công trường
Macka Park, có
vẻ như chúng đều đã từng đọc những cuốn sách của
tôi, và biết,
tôi hành xử công lý thơ đối với chúng, để trừng phạt chúng đã sủa váng
trời ở
những công viên Istanbul.
Và đây đúng là hiểm nguy
trong công lý thơ:
Đẩy quá xa, đi quá đà, nó
huỷ hoại, không chỉ cuốn sách của bạn – mà
luôn cuộc
đời của riêng bạn.
GCC phải biết xử trí lòng
trả hận “bạn quí”,
bằng sự
duyên dáng, và nên nhớ rằng, lúc nào cũng có 1 đàn chó đang chờ GCC ở 1
công viên nào đó,
để đóng vai…. thần công lý!
Ui chao, lúc
này thì lại nhớ đến Gấu Cái, và câu của Bả:
Chỉ có 10 đô
mà mi nhắc hoài, sao mi bần tiện thế!
Hà, hà!
Khi
tôi còn bé, 1 thằng bé cùng tuổi tôi – tên của nó là Hasan, dùng cái ná
bắn 1 cục
sỏi trúng ngay dưới mắt tôi, xém thì mù.
Nhiều năm sau, một vị độc
giả cũng tên Hasan sửng cồ với tôi, tại làm sao mà những nhân vật tên
Hasan ở trong
truyện của ông thì đều thứ khốn kiếp, ma quỉ cả?
Liu
Xiaobo
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Bi Khúc 3 [nguyên tác]
Memory
Bi Khúc 3
I
Đêm tối
Treo lửng lơ
bên mép bờ sắc nhọn
Mấy lần tỉnh
lại
Muốn nhìn rõ
cái gì
Mấy lần thiếp
đi như đến gần vực sâu
Trận sương
mù lớn lan bên trong thân thể
Gió gợn, thỉnh
thoảng nhấp nháy sáng
Một cây kim
lang bang trong huyết quản
Nối lại những
câu từ rã rời vỡ vụn
Ý nghĩ rách
nát
Như tình
nhân li tán
Hờn trách đó
đây bội phản
II
Vì một vọng
tưởng bị lưu đày
Cần đến một
hư vô đơn giản, rõ ràng
Thời gian chảy
ngược như thời gian trôi mất
Gương mặt
trong vũng máu mở trừng mắt
Mùi vị bụi đất
toả ra
Trí nhớ trống
rỗng
Như một siêu
thị
Hôm nay là
sinh nhật của tình nhân
Mỗi một giờ
đều thật quý giá
Phải dùng những
tờ bạc trăm tệ
và những chiếc
thẻ tín dụng thật bảnh, thật hào phóng
Lấp đầy
III
Ý thức được
mình là kẻ sống sót qua kiếp nạn
Tôi sẽ hết sức
cảm thấy chấn động hoặc xấu hổ
Ý thức rằng
sống tiếp là mệnh số
Tôi hồ như
chực trào nước mắt, hoặc quặn thắt
Tự do là một
chiếc cà-vạt hàng hiệu
Treo trong tủ
áo xông hương
Phẩm giá là
một tờ ngân phiếu dùng không hết
Chuyển đi
hàng trăm hàng ngàn lần
Giữa khách sạn
và thương trường
Giữa ngân
hàng và thị trường cổ phiếu
Vô số những
gương mặt trẻ tuổi kích động
Từng là ngọn
cờ là khẩu hiệu là biểu ngữ
Mà sau một
trận mưa u ám
Ngọn đuốc
trong tay Nữ Thần Tự Do
Biến thành
điếu văn không người đọc.
IV
Khi những
người chết lên đường
Tôi không từng
tiễn đưa
Bồn tắm lớn
trong Chung cư ngoại giao
Ngâm những
xác thân sợ hãi
Sự ấm áp của
nước có thể tẩy sạch làn da
Nhưng không
thể rửa sạch vết nhơ linh hồn
Xe quân đội
trên cầu vượt bốc cháy
Họng súng nhắm
vào ống kính máy ảnh trên ban công
Mắt xanh mắt
đen nhìn nhau
Tìm không ra
chìa khoá mở cửa nhà
Là ai, thỉnh
thoảng bấm máy
Chộp ảnh
chàng trai trẻ đứng trước xe tăng
Vẫy vẫy cánh
tay
Làm cả thế
giới cảm động
Nhưng, ngoài
họng pháo xe tăng
Không một ai
thấy mặt chàng trai
Tên của anh
Cũng không một
ai biết
Sau đó thì
sao sau đó thì sao
Anh tuyệt vô
tung tích
Thế giới từng
trào nước mắt vì anh
Cũng không
buồn đi tìm anh nữa
Khi họ lên
đường
Vẫn còn rất
trẻ
Trong khoảnh
khắc ngã xuống
Vẫn còn co
giật giãy dụa vì một tia sự sống
Khi họ bị
đưa vào lò đốt xác
Cơ thể vẫn
còn mềm mại
Thi thể vô
danh hoá thành tro tàn
Một thời đại
hay lịch sử dằng dặc
Bất quá chỉ
là một tia khói xanh
V
Cuộc sống,
chỉ là những tiếp nối không khác biệt
Một ngày và
một năm cũng chẳng khác gì
Nói chuyện
yêu đương hay bày âm mưu thì cũng vậy
Hút thuốc,
chuyện phiếm, đi bar
Giao cấu,
chơi mạt chược, tắm sô-na
Tham ô, chạy
chức quyền, buôn bán trẻ em, phụ nữ
Thân thể bị
lột da
Làm tròn sứ
mệnh lừng lẫy
Thời gian
vào trú nhà thương điên
Những ngày
khá giả thật hưởng thụ
Đồng tiền dễ
dàng làm sao
Tha thứ lưỡi
lê và lời dối trá
Lý do biện hộ
cho cuộc tàn sát
Giống như
Hình nhi thượng học(*) của Nho, Đạo bổ sung nhau
Trở thành lý
tưởng được người người tiếp nhận
VI
Dân tộc này
Đã quen nhớ
mồ mả thành cung điện
Trước khi có
chủ nô
Đã học được
Cách quỳ xuống
thế nào mới là tuyệt hảo.
Dã Viên dịch
nguyên tác
-----------------------
(*) Hình
nhi
thượng học: thường được hiểu như Siêu hình học
|
|