|
10.9.2012
Charles Simic
Against Winter
The truth is dark under
your eyelids.
What are you going to do about it?
The birds are silent; there's no one to ask.
All day long you'll squint at the gray sky.
When the wind blows you'll shiver like straw.
A meek little lamb you
grew your wool
Till they came after you with huge shears
Flies hovered over your open mouth,
Then they, too, flew off like the leaves,
The bare branches reached after them in vain.
Winter coming. Like the
last heroic soldier
Of a defeated army, you'll stay at your post,
Head bared to the first snowflake.
Till a neighbor comes to yell at you,
You're crazier than the weather, Charlie.
The Paris Review, Issue 137,1995
Chống Đông
Sự thực thì mầu xám dưới
mi mắt anh
Anh sẽ làm gì với nó?
Chim chóc nín thinh; không có ai để hỏi.
Suốt ngày dài anh lé xệch ngó bầu trời xám xịt
Và khi gió thổi, anh run như cọng rơm.
Con cừu nhỏ, anh vỗ béo bộ
lông của anh
Cho tới bữa họ tới với những cây kéo to tổ bố
Ruồi vần vũ trên cái miệng há hốc của anh
Rồi chúng cũng bay đi như những chiếc lá
Cành cây trần trụi với theo nhưng vô ích.
Mùa Đông tới. Như tên lính
anh dũng cuối cùng
Của một đạo quân bại trận, anh sẽ bám vị trí của anh
Đầu trần hướng về bông tuyết đầu tiên
Cho tới khi người hàng xóm tới la lớn:
Mi còn khùng hơn cả thời tiết, Charlie. (1)
Liu Xiaobo: That Day
Interview
with Haris Vlavianos
Ông làm thơ
hay thơ làm ông?
Do you write
the poem or does the poem write you?
Thoạt đầu bạn
làm thơ, sau tới những bài thơ làm thơ, và sau cùng, những bài thơ làm
thi sĩ.
"Even
God Needs an Eye-Witness"
So that man
no longer
exists.
He spoke for
a while
then fell silent.
A mourning
veil
- virtually
transparent -
now covers
his
favourite words,
those that
once
had given
him
(with no
little generosity)
his share of
silence:
of the
night's whiteness
(flakes of
clear conscience
in the
page's margin)
and death.
Perhaps, one
day;
when turning
to look back
we'll feel
his absence
weighing
upon us
like his
voice,
when our
thoughts
on his
irrevocable end
light the
path
of our own
exile.
HARIS
VLAVIANOS (1)
Translated
by David Connolly
TLS 10 September,
2010
“Ngay Ông Giời Cũng Cần Chứng Nhân
Nhìn Tận Mắt”
Như vậy là
người đàn ông đó
Không còn nữa
Ông ta lèm bèm
một lúc
Rồi lặng
thinh
Một tấm khăn
tang
-Gần như
trong suốt-
Vào lúc này
phủ lên những từ bảnh tỏng của ông ta
Những từ đã
có lần
Đem đến
(không phải
không có tí ti rộng lượng)
Phần chia nín
khe của ông:
Của sắc trắng
của đêm
(những bông
lương tâm trong trắng
ở lề trang sách)
và cái chết.
Có lẽ một ngày
nào đó
Khi ngoái nhìn
lại
Chúng ta cảm
nhận sự vắng mặt của ông ta
Đè lên chúng
ta
Như tiếng nói
của ông,
Khi những ý
nghĩ của chúng ta về sự tận cùng không thể thay đổi của ông
Soi sáng con
đường lưu vong của riêng chúng ta
Live at Club
Revolution
Our nation's
future's coming into view
With a
muffled drumroll
In a slow,
absentminded striptease.
Her
shoulders are already undraped,
And so is
one of her sagging breasts.
The kisses
she blows to us
Are as cold
as prison walls.
Once we were
a large wedding party.
It was a
sunny weekend in June.
Women wore
flowers on their straw hats
And white
gloves over their hands.
Now we run
dodging cars on the highway.
The groom,
someone points out, looks like
President
Lincoln on a death notice.
It's time to
burn witches again,
The minister
shouts to the congregation
Tossing the
Bible to the ceiling.
Are those
Corinna Brown's red panties
We see
flying through the dark winter trees,
Or merely a
lone crow taking home
His portion
of the day's roadkill?
Charles
Simic
Nhạc sống tại
Câu Lạc Bộ Cách Mạng Thành Hồ
Tương lai xứ
Mít đi vô tầm nhìn
Với 1 hồi trống
tắc nghẹn
Trong một
xen thoát y chầm chậm, lơ đãng.
Vai em vũ nữ
để trần
Cũng thế, là
một bên vú, xệ xuống
Nụ hôn em
ban cho chúng ta
Lạnh như tường
nhà tù Phan Đăng Lưu
Một lần tụi
này tham dự tiệc cưới của 1 đại gia
Một weekend
có nắng vào Tháng Sáu
Đờn bà trang
trí hoa trên nón rơm
Đeo găng trắng
Lúc này, tụi
này đang chạy xe lắt léo trên
xa lộ Biên Hòa
Chú rể, một
tay nào chỉ ra,
Sao giống y
chang Víp Va Ka,
aka Sáu Dân, aka Hồ Tôn Hiến,
trên một tờ giấy báo tử.
Đã đến giờ lại
thiêu sống lũ phù thuỷ
Vị mục sư la
lớn với giáo đoàn
Quăng cuốn
Thánh Kinh lên trần nhà
Có phải mấy
cái xịp đỏ lòm của kỳ nữ KC,
Chúng ta nhìn
thấy bay trên nền trời tối thui mùa đông Thành Hồ?
Hay chỉ là 1
chú quạ
đem về nhà
phần chia những
xác chết vì xe cán trong ngày?
Mother
Tongue
That's the
one the butcher
Wraps in a
newspaper
And throws
on the rusty scale
Before you
take it home
Where a
black cat will leap
Off the cold
stove
Licking its
whiskers
At the sound
of her name
Charles
Simic
Tôi êu tiếng
nước tôi
Đó là thứ tiếng
mà tay đồ tể
Gói trong tờ
báo chợ Người Vịt,
Của băng Cờ
Lăng,
Rồi thẩy lên
cái bàn cân gỉ sét
Rồi bạn trả
tiền
Và mang về
Nơi con mèo đen
nhảy qua cái bếp lò lạnh tanh
Liếm liếm mấy
sợi ria mép của nó
Khi nghe bạn kêu “Miu
Miu”
Bữa rượu nhỏ
Nàng không
tin nàng còn xinh
Cười đưa hoa
ấu chồng mình ngắm chơi
Rót ly rượu
nhỏ cùng soi
Chân mày môi
má hồng thôi là hồng (1)
Đặng Lệ
Khánh
Note: Bắc
Kít nói, Hồng ơi là Hồng!
Đen ơi là Đen!
Tks
NQT
Người Huế
cũng nói "hồng ơi là hồng!", nhưng nói như vậy thì hơi "liếng"
.
Để nghiêm chỉnh hơn một tí thì dùng chữ "thôi" !!
Anh Trụ dịch
và viết nhiều quá, K đọc không kịp !!!
Tôi tính chỉ
dịch thơ, và dịch 1 số truyện ngắn, và bỏ hết những mục khác, nhưng
chưa được.
Tôi cũng định
chuyển 1 số bài viết cho a2a, nhưng phải là những bài nhẹ nhàng, và
“hoàn tất”!
Tks agian
NQT
Giáng Sinh
Giáng Sinh
chưa nhấp môi đã thấy nhớ nhà
Dường như có
một người bạn thân ở trong ta
Đi rất xa
Rất lâu
Chợt về đêm
nay
Người bạn
thân hay là quê hương cũ
Tiếng cười
xưa rộn rã với đêm này
Nến rực rỡ
soi hồn ta rất rõ
Chút ngậm
ngùi bay theo hơi rượu cay.
Rượu rất cay
mà lòng rất vui
Chúc tụng
nhau bằng bài thơ mới
Ba mươi năm
thơ vẫn đẹp như người.
Bữa rượu nhỏ
làm Gấu nhớ đến bài trên làm bữa Noel đầu
tiên, 1994, gặp lại cô bạn ở Xứ Lạnh.
Gấu Cái giận
ơi là giận vì dòng thơ chót.
I honestly
can't believe I won. I really was preparing my runner-up speech,
because I
thought, 'Man, she's playing so great,"'
Serena
Williams
Tôi thực tình
không tin tôi thắng. Tôi thực tình sửa soạn mấy câu cám ơn khi kết thúc
trận đánh,
như 1 kẻ về nhì, bởi vì tôi nghĩ, “Trời ơi, cô ta đánh mới bảnh làm
sao!”
Tuyệt.
Bữa qua, chắc
là cả nhân loại chứng kiến trận đánh thần sầu giữa hai siêu sao quần
vợt.
Nhưng Gấu
nghĩ, chẳng có ai nghĩ ra nổi ý nghĩ trên, ngoài Hemingway ra, trong Ngư Ông và Biển Cả: Con người có thể bị
huỷ diệt, nhưng không bị khuất phục.
A man can be
destroyed but not defeated
Happy
Birthday GCC
Phì
Lũ
Les
exclus
du rêve américain
TB Nguyễn Tuân
vs TB Võ Phiến
Chân Dung Nga
Linda Lê,
une voix qui nous hante
Linda Lê, một
giọng ám ảnh chúng ta
Blog Pierre
Assouline giới thiệu cuốn sách mới xb của Linda Lê: Lame
de fond [sóng dữ bất thình lình: lame soudaine, provenant d'un
phénomène sous-marin. Petit Robert], 276 trang, 17 euros, nhà xb
Christian
Bourgois
TV sẽ có bản
tiếng Việt, sau.
Nhà văn nào
thì cũng viết so với sự bí mật của mình. Và cây kim để ở trong bọc mãi,
thì cũng
có ngày ló ra. Khi, bất thình lình; khi, nhỏ giọt. Những độc giả trung
thành của
Linda Lê, một câu lạc bộ không ngừng lớn mãi, rình mò từ hai chục năm
nay điều
này, qua chừng mười lăm cuốn sách. Và, “hình tượng lột da sống" ["écorchée vive", người tử đạo văn
chương), (1)
không phải thứ dễ dàng lôi kéo, hay hoảng sợ trước những cái micro, hay
dưới ánh
sáng chói loà ở phòng ghi âm, để trải ra sự loạn luân: cái vũ trụ đắng,
chát được
chuyển tải bằng 1 cách viết đòi hỏi, không dễ dàng đến với người đọc.
Và nếu bạn
chưa từng đọc, thì chỉ vào lúc này, hoặc là chẳng bao giờ. Bởi vì tác
phẩm mới
xb của bà, Lame de fond, (Sóng ngầm đáy biển), không
phải chỉ, hoàn hảo nhất, thành tựu nhất: lãng mạn hơn so với đa phần
tác phẩm xb
trước đó, cắm sâu hơn, vững hơn, vào cái thực, nó còn tự ban cho nó cái
quyền: chiếc chìa khoá của tác phẩm của bà, hay, ma trận, tử cung, cái
khuôn, từ đó
đẻ ra mọi tác phẩm.
Người ta tìm
thấy ở trong đó, cường độ và ý nghĩa của bi kịch của bà, những tang
tóc, trở đi
trở lại, đủ thứ tang tóc, về người, nơi chốn, ngôn ngữ, nhà cửa, mà lưu
vong và
bị nhổ, bật gốc mang theo (bà sinh năm 1963 tại Việt Nam) hay là từ tái
tạo gốc, cắm lại rễ trong tiếng Pháp sống như một xứ sở ngôn ngữ đối
với bà, một
tổ quốc
di động, ở đó, bà nương náu, và diễn tả bằng nói và bằng viết, trong 1
ngôn ngữ
độc nhất, trừ bỏ hẳn đi một ngôn ngữ khác, nơi bà sống hiệu quả, kể từ
những ngày
“ngày mai ca hát”, sau ngày 30 Tháng Tư của cuộc chiến Mít.
Trở lại nơi một thời vang bóng
Cứ theo lịch
sử mà nói, thì luôn luôn, cá nhân bị buộc tội phản bội xứ sở của nó.
Tại sao
chúng ta không nói ngược lại, theo kiểu đổi bên, nghĩa là, bây giờ đến
lượt Gấu
buộc tội xứ sở Mít phản bội Gấu!
Hà, hà!
Ý trên, là của
Ha Jin, trong bài Ngôn ngữ Phản bội, The
Language of Betrayal, trong
Nhà văn
như là Di dân, The writer as Migrant.
Ông giải
thích thêm:
Rất nhiều xứ
sở là những tên phản bội đối với những công dân của chúng.
Cái tội ác tệ
hại nhất, khốn kiếp nhất mà xứ sở phạm, đối với một nhà văn, là, khiến
nhà văn
đếch làm sao viết với sự chân thật, và với sự toàn vẹn của người nghệ
sĩ.
The worst
crime the country commits against the writer is to make him unable to
write
with honesty and artistic integrity. (1)
Ghi
chú
trong ngày
Trong Khi Chờ
Tầu!
Nhân đọc mẩu
viết về “tầu hoả”, tức “xe lửa”, trên Blog NL, bèn nhớ tới số báo
này.
Bài "édito" thật tuyệt.
Cái tít làm nhớ đến Beckett, Trong
Khi Chờ Godot, và đây là dụng ý
của tay viết.
Và của Gấu!
EN ATTENDANT
LE TRAIN
MÉDITANT SUR
TOLSTOI ET DOSTOIEVSKI au fil d'un magistral essai (1), George Steiner
ouvre une brève
parenthèse pour souligner le role stratégique des quais de gare chez
ces deux auteurs.
Leurs trajectoires, si souvent opposées et dont Steiner s'applique à
minorer
les divergences, se trouvent ainsi réunies, en attendant le train, II
ne
faudrait pas toutefois en conclure que le roman russe s'apparente à
l'indicateur
Chaix et encore moins à une littérature de gare, encore que lire Guerre et Paix dans le Transsibérien
demeure un projet séduisant. Et cohérent. Les héros de Tolstoi comme
ceux de
Dostoievski aiment voyager par le train, Que l'on songe à l'ouverture
de L'ldiot, quand le prince Muichkine et
Rogojine approchent de Saint-Pétersbourg par le train de Varsovie. Ou
encore à
la tragédie
d'Anna Karénine qui commence, comme elle finira, sur un quai de gare.
Vronsky, on
le sait, part pour la guerre. II existe d'autres destinations plus
enviables. D'autant que
le roman russe profite de l'immensité de l'espace pour pousser ses
héros vers
de lointaines et mythiques frontières, là où campent les Cosaques, les
tribus
du Caucase, les vieux-croyants du Don et de la Volga. Le héros
tolstoien s'évade
volontiers à la
campagne, et ce retour à la terre s'accompagne d'une résurrection
de l'âme. Le héros dostoievskien, pour sa part, cherche son salut dans
le
royaume de Dieu, improbable destination que l'auteur des Possédés
conseillait ironiquement de choisir plutôt en juin.
Quand,
rompus de fatigue, les héros restent à quai, c'est l'auteur qui part.
Ainsi Tolstoi,
abandonnant au soir de sa vie de domicile conjugal pour retrouver les
lieux de sa
jeunesse, fuyant vers le Caucase comme s'il voulait semer la mort qui
est à ses
trousses. « Je m'en vais dans la solitude», écrit-il dans ses Carnets. Pour terminus, une petite gare,
à Astapovo, où il mourra en laissant sur sa table de chevet deux
livres, ultimes compagnons
de voyage: Les Frères Karamazov et
les Essais de Montaigne.
La Russie et
l'Europe sont les deux patries des auteurs russes. Tolstoi admirait
Stendhal. De son coté,
Dostoievski avait lu avec passion Sand, Dickens, Balzac, Sue, Restif...
Reconnaissant
sa dette envers la culture européenne, il faisait dire à Ivan
Karamazov: « Je veux
voyager en Europe, Aliocha; je veux sortir d'ici. Et pourtant, je sais
que je
ne trouverai qu'un cimetière un très précieux cimetière, voilà ce que
c'est! »
Quant à Gogol, il trouva sa Russie alors qu'il pérégrinait à Paris,
Rome ou Vevey.
Indifférente
à tant de transports, l'Europe à longtemps consideré avec froideur et
réticence
les auteurs russes, On leur reprocha une débauche de pathos, l'absence
de contraintes
esthétiques, trop de vie, trop de pages. Comment faire face aces «
grands monstres
informes », selon la redoutable expression d'Henry James? Tolstoi a
écrit pas
moins de quatre-vingt-dix volumes et, jamais en mal d'inspiration, il
se risqua
à bâtir une pièce de théatre en six actes. Voulant rivaliser avec
l'infinité,
il faisait en sorte que le dernier chapitre de chaque roman ménage un
prélude à
l'oeuvre prochaine. II refusait de mettre un point final, et en mit
même trois
pour éviter de tout à faire conclure
Guerre et Paix. Voilà l'un des miracles
de la littérature
russe : les trains qui la traversent ne s'arrêtent jamais.+
(1) George
Steiner, Tolstoi ou Dostoievski,
traduit de l'anglais par Rose Celli, réed, 10/18, 2004.
hồng vệ binh
30/4 (1)
Note: Được,
được!
V/v Nhà thơ Đại
Hàn này, TV cũng đã đi 1 đường bình loạn, khi anh “thú tội trước bàn
thờ” [thuổng Kiệt Tấn: anh viết, thú hơn, nhưng Gấu không tiện lập lại
ở đây!], 1 dòng thơ trong bài thơ thần sầu "quê hương", không phải của
ảnh!
Phúc
phương phì
Câu cuối
không hề có!
Ui
chao, trễ quá rùi
Một độc giả Tin Văn,
chắc là nữ độc giả, sau khi đọc bài viết về nỗi thiếu quê hương, không
thể lớn thành người, đã viết mail, trách nhẹ Gấu, không thể so sánh Đỗ
thi sĩ với Kim Phúc được, vì một lý do rất giản dị, không một người phụ
nữ nào muốn cái chuyện, thân thể của mình bị mang ra làm trò, bất cứ
trò gì, đừng nói trò tuyên truyền khốn nạn. For Your Eyes Only, không
nhớ sao, Chú/Bác Gấu?
Bà/Cô nhắc tuồng Gấu:
Phải so sánh với trường hợp Grass, và cái chân lý về thế kỷ bửn, thế kỷ
Lò Thiêu, Lò Cải Tạo: Không ai muốn từ giã nó mà trên người không có
tí… cứt!
Quả có thế: Đỗ Thi Sĩ
chẳng có tí gì dơ dáy, sau một cuộc chiến nhơ bẩn như vậy!
PXA than địa ngục hết chỗ, ông không biết đi đâu, không phải vì ông
nghĩ ông sạch, mà là vì cỡ như ông, phải có một nơi nào khác, thí dụ,
Lò Luyện Ngục. Nhưng nếu nói huỵch tẹt ra thì cao ngạo quá. Nên nhớ,
chỉ những thứ long trời lở đất, khi còn sống, thì chết, mới được đưa
xuống Lò Luyện Ngục, Purgatoire, thí dụ Sartre, Aragon, chẳng hạn.
Văn Hóa vs Cái
Ác Bắc Kít
“Je suis une
sorte de survivant, tôi chỉ tạm coi mình cũng 1 thứ sống sót.
Steiner viết như
vậy về ông, là cũng từ cái ý thế kỷ bửn mà không có tí cứt trên người,
là đếch
có được!
Nhờ ông già khôn như… Bắc Kít,
gia đình ông chạy kịp trên chuyến tầu chót rời cựu lục địa qua Mẽo. Ông
già của
ông sau đó, chắc cũng đau vì sống sót nhờ khôn quá, khi ông con tính
định cư luôn
ở Mẽo, bèn chửi, mi mà ở Mẽo thì thằng Hít Le quá đúng rồi, quá có lý,
còn cái
mẹ gì để mà nói nữa, và ông con bèn ngộ ra liền, bèn về lại Âu Châu,
quanh quẩn
bên mớ tro than Lò Thiêu.
Cái cú gia đình
Steiner thoát Lò Thiêu vào phút chót, gần như 1 phép lạ, như ông kể với
tờ The
Paris Review, (1) làm Gấu nhớ đến “phép lạ Mỹ
Cảnh”: Giả như Gấu, vào phút chót không
bật ra cái ý nghĩ, nhường cho hai ông bạn người Phi hai ghế trong, quay
lưng vào
bờ, nhìn ra sông Sài Gòn về đêm với ánh đèn chói lòa tung tăng trên
sóng nước, thì
đâu còn anh cu Gấu ở trên đời nữa?
Và nếu không
được VC thưởng cho hai trái mìn, thì Gấu dính cú Tổng Động Viên, và có
thể
cũng mất xác rồi cũng nên, hà hà!
Y chang chuyện
tái ông thất mã!
Ly kỳ nhất,
là cái lần đầu đi trình diện, gặp tay y bác sĩ quân y, ông ta coi cái
hình cánh
tay bị thương của Gấu, phán, đi.
Gấu cũng nghĩ thế, đi thì đi, sợ gì, nhưng Tết
đến đít rồi, thế là Gấu bèn trả lời, OK, đi, nhưng ông cho tôi ăn Tết
với gia đình
1 phát, rồi ra Giêng ngày rộng tháng dài, tha hồ mà đi.
Ông ta bật cười, gật đầu, và cho Gấu
hoãn dịch 3 tháng.
Thế là những
lần sau, mấy ông y sĩ khác bắt chước ông thứ nhất, cho mày 3 tháng!
The Keening
Muse
Trong
căn phòng rưỡi ( J. Brodsky)
Note: Bức
hình trên, trong số TLS 10 September, 2010, Quyền uy của nhà thơ trong thời
không tưởng: Những nhà thơ trữ tình trở thành cái chó gì khi,
thay vì phục vụ nữ
thần thi ca, thì phục vụ nhà nước?
Bài này thần sầu!
TV sẽ đi luôn, cùng với bài
của Brodsky về Akhmatova
Causework
The poet's
authority in the age of utopia
ANDREW KAHN
Clare
Cavanagh
LYRIC POETRY AND MODERN
POLITICS
Russia,
Poland, and the West
344pp. Yale
University Press
Paperback,
£30 (US $45).
9780300
152968
Irena
Grudzinska Gross
CZESLAW MILOSZ AND JOSEPH
BRODSKY
Fellowship of poets
362pp.
Yale
University Press. £30 (US $40).
9780300149379
Sanna Turoma
BRODSKY ABROAD
Empire, tourism, nostalgia
296pp.
University of Wisconsin Press.
Paperback,
$29.95; distributed in the UK by
Eurospan.
£26.95 .
978 0 299
23634 2
Evil Axis
I am
American
Tôi là Mẽo.
Đọc bài này
thì Gấu lại nhớ đến câu Mít thường nói, mi không chọn được bố mẹ.
Đối với
tay này, Úc chính là bố mẹ của anh ta, vậy mà anh ta từ bỏ, chỉ vì Mẽo
đối xử với
anh tốt hơn, do ngửi ra có thể “dùng” được anh ta: Mẽo Nhân Dụng, Mẽo
dùng người
mà!
Không phải
chỉ anh này.
Đọc bài viết làm Gấu nhớ thời gian ở trại tị nạn Thái Lan, anh Mít nào cũng chỉ 1 giấc mơ được Mẽo nhận!
Gấu làm bồi
Mẽo trên mười năm, rành Mẽo quá, chán Mẽo quá!
V/v Mẽo Nhân
Dụng.
Cái cụm từ này,
Gấu mặc khải từ cái nick của Ông Số 2.
Ông này cũng
dân Canada như Gấu, nhưng, cũng như rể quí của Râu Kẽm, mê Mẽo, và bèn
bỏ chạy
quê hương thứ nhì của ông qua Mẽo, để “Chống Cộng Kíu Nước”, làm Trùm
Bộ Lạc Cờ
Lăng.
Nhưng nhân
dụng, hay thực dụng, thực tế, đúng là
chính sách, của Mẽo, trên toàn cầu:
Những ông,
những bà vốn có quyền quyết định đường
lối ngoại giao tại nước Cờ Hoa – và hầu hết phần còn lại của thế giới –
họ đã cảm
nhận về chính họ: như là những con người "thực tế" (realists); nghĩa
là hành động vì lợi ích của chính quốc gia họ, và ít quan tâm tới những
công
chuyện có tính nội bộ (domestic affairs) của những nước khác. Viên bộ
trưởng
ngoại giao Mỹ, James Baker, đã diễn tả thật là tuyệt vời, cái tính
"thực tế"
của chính sách trên, qua câu nói, khi xẩy ra những vụ nhổ cỏ thì phải
nhổ cả gốc,
làm sạch những sắc dân khác (ethnic cleaning) ở Bosnia: "Chẳng có một
con
chó Mỹ nào bị kẹt ở đó." (We don’t have a dog in this fight: Chúng ta
không có một con chó nào ở trong trận đánh này).
Hồi
Ức Từ Địa Ngục: Diệt chủng
nghĩa là gì? (1)
Gấu
không hiểu, khi Mẽo quan tâm dến rể quí của Râu Kẽm, họ có coi ông,
“hơn 1 con
chó Mẽo”?
Nên nhớ, Mẽo đã can thiệp cho Râu Kẽm hồi chánh, khi anh y tá dạo, Trùm
VC, lắc đầu,
đếch cho tên tội đồ này về!
Cánh Đồng Bất Tận vs Sanctuaire
TB Nguyễn Tuân
vs TB Võ Phiến
Ngô Khánh
Lãng & Vũ Bạch Tuyến & Nguyễn Hải Hà
và Nguyễn Hà
Trỵ
Trụ ơi !
Tớ
còn nhớ là Hải chở tớ đến nhà Trụ khoảng hè 1972, Trụ còn rủ bọn này đi
"bát phố Bonnard" như ngày nào năm xưa mà.
Hơn cả nửa năm 1956, ngày nào Trụ cũng đòi ngồi trên sườn xe đạp của tớ
từ nhà
anh Nguyễn Hoạt (Hiếu Chân) ở căn gác sau BV Bình Dân đến trường Thành
Công của
Ô. Chu Tử trên đường Lê Văn Duyệt, Trụ còn nhớ Ngô Tùng Lam, Đoàn Đức
Long, Mai
Ngọc Liên, Vũ Ngọc Hải ...ngày ấy không ? (tất cả đều không còn nữa!)
Hình ngồi trong tiệm phở, tay to con, Nguyễn Hà Trỵ đó.
Rất tiếc là Chánh Biện Lý Phạm Văn Hàm đi Úc đến 18/9 mới về nên không
gặp và hẹn
Lãng sáng hôm sau gặp mặt Nguyễn Trọng Văn và Quyên Hải quân
nữa....nhưng Lãng
có chuyện đột xuất ....đành hẹn kỳ sau vậy.
Nghe Lãng nói có thể Trụ sẽ có dịp về nam Cali. khoảng tháng 10 này,
phải không
? Nếu nhất định được ngày gìờ thì cho Tuyến biết, có thể chúng
mình sẽ gặp
lại nhau sau 40 năm đó.
Giữ gìn sức khỏe để còn gặp lại nhau nhé
Thân,
Tuyến
Ngô Tùng Lam
thì nhớ quá chứ, còn mấy bạn kia quên sạch.
Mai Ngọc Liên?
Có phải anh bạn ở bên Thủ Thiêm, rớt Tú Tài I, đi Đà Lạt ngay
khóa đầu?
Tớ chơi xì ke chừng vài
chục năm [cc
1970-1989, cỡ đó] khi “hồi phục”, mất hẳn 1 khoảng thời gian, không làm
sao nhớ
lại được.
May là còn
ngờ ngợ ra bạn!
Tháng tới, tớ
qua Cali, sẽ gặp nhau
Gửi lời chúc
tới gia đình và tất cả bè bạn
NQT
|
|