|
Cánh Đồng Bất Tận vs Sanctuaire
W. Faulkner:
Thee Reviews
Absalom,
Absalom!
Tôi biết hai
loại nhà văn. Một, ám ảnh của họ là cuộc diễn biến của chữ, verbal
procedure, một,
việc làm, work, và đam mê của con người. Loại thứ nhất, cực điểm của
họ, là
‘nghệ sĩ thuần tuý’. Loại kia, may mắn thay, được ban cho những cái nón
như là
“sâu thẳm” [profound], “nhân bản”, human, rất nhân bản. Trong số này,
còn có những
người ở giữa, nghĩa là tu tập cả niềm vui lẫn đức hạnh của cả hai loại
trên.
Trong số những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất, Joseph Conrad là người cuối
cùng,
có lẽ, đã quan tâm đến những thủ tục của một tiểu thuyết như trong số
phận và
nhân cách của những nhân vật của ông. Người cuối cùng, cho đến khi
Faulkner xuất
hiện trên sàn diễn.
Faulkner
thích trình ra cuốn tiểu tiểu thuyết của ông, qua những nhân vật.
Phương pháp
này thì cũng không hoàn toàn do ông mà ra: Cuốn Cái Nhẫn và Cuốn Sách
(1868), của
Robert Browning tả chi tiết một tội ác 10 lần, qua 10 cái miệng và 10
linh hồn,
nhưng Faulkner tẩm sự căng thẳng, cuờng độ, vào trong những nhân vật
của mình đến
mức độc giả, thứ "cà chớn" sẽ đếch làm sao chịu được! Một cung cách mẩu
đoạn, phá nát văn phong đến tận cùng, [cánh đồng bất tận mà!] đến vô
cùng, dục
vọng thì cũng vô cùng, và đen thui, đó là những gì người đọc tìm thấy ở
trong một
cuốn sách của ông. Nhà hát là Mississippi, những nhân vật của ông, đàn
ông, bị
tiêu ma, huỷ diệt bởi lòng ham muốn, rượu, cô đơn, và tàn tạ mãi đi, vì
hận
thù.
Absalom,
Absalom! có thể sánh với Âm
thanh và Cuồng nộ, và tôi không biết, có lời vinh
danh nào cao hơn thế nữa, về nó!
Borges
Sanctuaire
n'est en effet pas un roman d'action comme un autre, et certainement
pas un
ouvrage de série. Car ce qui y est dit est si effroyable, si cru, si
brutal
qu'il sacralise une véritable esthétique de la perversion, exprimée
selon une
vision douloureuse de la sexualité et du crime. Tous les personnages du
livre
sont, de fait, des corrompus, entièrement
fascinés par la
violence et la luxure, totalement soumis à l'emprise du mal. Dans ces
conditions, on comprend pourquoi André Malraux a parlé de Sanctuaire
comme d'une tragédie, en sachant fort bien ce que
recouvrait le mot. D'où aussi ces phrases de Marc Saporta, dans sa
«psychobiographie
» de Faulkner : « On trouve au coeur de Sanctuaire l'un des ressorts les
plus révélateurs
dont use la mythologie pour nous renseigner sur la condition humaine:
l'homme
ou la femme semble s'acharner avec persévérance à faire son propre
malheur. »
Jean
Baptiste Baronian, Le Magazine Littéraire,
hors- série (Juillet-Aout 2009): Le Polar
Giáo Đường không phải tiểu thuyết
đấm đá, hay cùng
loại sách đen (série noire). Bởi vì những gì ở trong đó thì quá đỗi
khủng khiếp,
quá sống, quá tuơi, quá tàn bạo, đến nỗi nó thánh hóa, thiêng hóa, vươn
tới 1
thứ mỹ học thực thụ của sa đọa, trầm luân, được diễn tả theo một
viễn ảnh hết
đỗi bi thương của sex và tội ác. Tất cả những nhân vật ở trong cuốn
tiểu
thuyết thì đều là những tên hư hỏng, đồi bại, hoàn toàn bị hớp hồn bởi
bạo lực
và dâm ô, tự tâm tự nguyện, hoàn toàn quỳ phục Cái Ác. Trong những điều
kiện như
thế, người ta hiểu tại sao Malraux coi Giáo
Đường như là “bi kịch”, và rất rành, rất tự tin, tại sao ông dùng
từ đó. Và
cũng thế, là những dòng của Marc Saporta, trong “tiểu sử tâm lý học của
Faulkner”, của ông: Người ta tìm thấy ở nơi trái tim của Giáo
Đường một trong những động lực mang tính mặc khải nhất, được sử
dụng trong huyền thoại học, để giảng dậy cho chúng ta về phận người:
“đờn ông
hay đờn bà, bám riết lấy, cố thực hiện cho bằng được, nỗi bất hạnh của
riêng họ”.
Hà, hà!
Ý chót - bữa
trước dịch sai, đã sửa – làm nhớ đến nàng Kiều, của Nguyễn Du:
Ma đưa lối
quỉ dẫn đường
Cứ tìm những
chốn đoạn trường mà đi.
Đúng là quảng
cáo không công cho nhà xb Phương Nam!
Thánh
Địa của Gấu
Mémoirs
Thời Tập
5.5.1974
Ngôi trường bên chợ
Đũi
Bài viết này, sơ sài quá. Hơn
nữa, khó mà gọi trường Trường Sơn là
“bên Chợ Đũi” được.
TS nằm gần ngã tư Hồng Thập
Tự/Lê Văn Duyệt, Chợ Đũi nằm tại ngã tư Trần Quý
Cáp/Lê Văn Duyệt, bên kia chợ là cái quán cà phê hủ tíu Tầu, Thánh Địa,
nơi Gấu
vẫn hẹn gặp BHD, mỗi lần em đưa cô em gái tới trường trung học Kiến
Thiết, nằm
trên một con hẻm cũng gần đó, trên đường Trần Quý Cáp.
Nhà HPA trên 1 con hẻm quá chút nữa. Khu này hồi đó đó có những quán
sách cũ,
Gấu và HPA ưa lục lọi, nào nrf, nào Ellery Queen, nào SF, nào série
noire…
GNV đọc bài điểm cuốn "Những Kẻ Mộng Du", [Les Somnambules, The Sleep Walkers],
của Koestler, trên tờ nrf, tại đây, đọc cọp, và nhớ
hoài cái
vòng tròn ma quái, vòng tròn tuyệt hảo, vòng tròn chúc dữ, là chủ nghĩa
CS thần
kỳ đưa loài người tới Thái Bường, không còn người bóc lột người!
Trong những giáo sư của trường,
tay viết bài này quên nhà thơ TTT!
Bạn quí của Gấu cũng dậy ở đây.
Bạn C, trong Thất Hiền, sau khi
rớt Tú Tài, hết còn được học CVA, bèn
ra đây
học, chắc là khỏi phải trả tiền.
Chính ở đây, bạn ta quen người đẹp có cái tên thật là tuyệt vời "Lạnh
Thì Tuyết
Rơi"!
Bạn phải dịch cái tên đó ra
tiếng Tàu, giống như VP dịch tiếng Mẽo qua tiếng Mít, thì mới biết tên
thực của người đẹp.
Cuộc tình không đi tới đâu, nhưng em quả là đẹp thật!
Sau em quen DNM, cũng 1 nhân vật giang hồ, được ông Chánh Tổng An Nam
tại Paris
nhắc tới, trong bài viết về BL, khi nhà thơ ra đi. DNM sau tự tử, tại
Canada,
theo DT.
Cái chỗ mà sau này là trường TS đó, là 1 trong những nơi chốn đầu tiên
Gấu ghé,
khi vừa mới tới Sài Gòn, vì là nhà của ông cử Ngô Thúc Địch, bà con với
ký giả
Hiếu Chân.
Con trai ông cử, là Ngô Tôn Liên, sau là bác sĩ nổi tiếng. Gấu phải gọi
là Chú.
Ông này có chỉ bảo Gấu mấy đường Toán, nhờ đó, Gấu tự mình tìm ra
phương trình
đường thẳng, đem đi khoe anh bạn cùng học NKL, anh thương hại lắc đầu
vô nhà
lấy cuốn sách toán, chỉ cho Gấu thấy, thứ này, người ta kiếm ra từ hồi
nảo hồi
nào rồi.
Gấu đọc mà cảm thấy thê lương vô cùng, hóa ra cái chó gì thì loài người
cũng
đều đã biết tỏng, tại sao còn cho Gấu ra đời làm cái chó gì nữa hả ông
Trời!
Hoá ra là Gấu ra đời, là chỉ để
gặp BHD!
Để được ghé Thánh Địa, là cái
quán cà phê ngã tư Chợ Đũi, để chờ Thánh Nữ, BHD,
và nhờ vậy mà sau này viết được Thánh Truyện,
Hà Nội Của Gấu!
Source
Gấu nhà
văn
Sartre, khen nắc nỏm Âm
thanh và Cuồng nộ, nhưng chê hết lời Sartoris, coi đây là thứ nghệ thuật
đánh lừa con mắt.
Lạ, là Borges lại coi đây, thứ nghệ thuật mà con mắt của Faulkner, là
thứ thượng thừa, khi viện dẫn một câu của Boileau, để minh chứng: ”Cái
thực đôi khi có thể chẳng có vẻ thực: Le vrai peut quelquefois n’être
pas vraisemblable.”
Trong Borges a Reader, có ba bài điểm, review,
thật ngắn, của Borges, về ba tác phẩm của Faulkner: The
Unvanquished, Absalom, Ansalom!,
Gấu nhà văn
Kurtz
des ténèbres [Kurtz của bóng đen]
Bien qu'il n'ait jamais disparu, le
courant brun qui coulait rapidement du cœur des ténèbres vers la mer en
nous emportant sur le fleuve Congo est de retour. Et avec lui revient le
personnage de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu, ou s'il l'a
fait, il était « parti très loin, comme dirait Kafka, pour rester ici
».
Thì, tất nhiên, nó chẳng bao giờ biến mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ
như máu, của sông Hồng, chảy từ trái tim của bóng đen, là thành phố Hà
Nội, ra biển, đưa chúng ta dạt dào lưu vong, sau khi thoát hải tặc Thái
lan, mãi tít tới miệt Công Gô, và, ăn Tết Công Gô xong, lại trở về.
Và cùng về với nó, là nhân vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề
biến mất, hay là, nếu anh ta làm như thế, “anh ta đi rất xa, nói như
Kafka, để ở lại đây”.
Ui chao, nghe cảm khái cứ như thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ, và những đấng
Yankee mũi tẹt, giang hồ khắp thế giới, đi đến đâu là biến nhà người,
đất người thành bãi đánh hàng:
Từ thuở
mang gươm đi dựng nước
Ngàn năm
thương nhớ đất Thăng Long
Cầu Việt Trì, trên sông
Hồng, nơi ông cụ Gấu,
vào năm 1946, được một đấng học trò làm thịt, xong, thẩy xuống sông,
kèm cục đá tổ bố, để cho khỏi nổi lên.
Kurtz,
như thế, họ hàng với Colonel Sutpen, trong Absalom, Absalom!
Cũng dòng Yankee mũi tẹt, gốc gác Hải Dương [cùng quê
PXA], hay Sơn Tây [cùng quê Tướng Râu Kẽm]?
Gấu bảnh hơn cả PXA & Râu Kẽm: Sinh Hải Dương, nhưng gốc dân Sơn
Tây!
Gấu về Bắc lần đầu, năm 2000 [2001, sửa lại. NQT], là để tìm hỏi
coi ông bố mình mất ngày
nào, và đến chỗ ông mất, trên, ngày xưa chỉ là một bãi sông, thắp nén
hương cho bố, rồi đi.
Mấy ông bạn văn VC nói, đi làm cái quái gì nữa, anh mua cái nhà, khu
Thanh Xuân chẳng hạn, vừa gần Tướng Về Hưu vừa gần tụi này!
Đi rất xa, chỉ để ở lại
đây!
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng
lắm!
*
Motifs
In the novel, Conrad uses the river as the vehicle for Marlow to
journey further into the "heart of darkness." The descriptions of the
river, particularly its depiction as a snake, reveal its symbolic
qualities. The river "resembl[es] an immense snake uncoiled" and "it
fascinates [Marlow] as a snake would a bird." Not only is Marlow
captivated by the river, representing as it does the jungle itself, but
its association with a snake gives this "fascination of the
abomination" its metaphorical characteristics. The statement that "the
snake had charmed me" alludes to both the idea of snake charmer and the
snake in the story of Genesis. While typically, a snake charmer would
charm the snake, in this case, Marlow is charmed by the snake, a
reversal which puts the power in the hands of the river, and thus the
jungle wilderness. Furthermore, the allusion to the snake of temptation
from the story of Adam and Eve demonstrates how the wilderness itself
contains the knowledge of good and evil, and upon entering that
wilderness Marlow will be able to see, or at least explore, the
characteristics of humanity as well as good and evil.
Heart of Darkness [Wikipedia]
Miêu tả sông Hồng, đặc biệt, như một con rắn, làm bật ra chất biểu
tượng của câu chuyện... Nó hớp hồn Marlow, như con rắn trước con chim
[như con cua NDT co rúm người trước con ếch TH! Coi hồi ký NDM]
Reception
In a post-colonial reading, the Nigerian writer Chinua Achebe famously
criticized the Heart of Darkness in his 1975 lecture An Image of
Africa: Racism in Conrad's "Heart of Darkness", saying the novel
de-humanized Africans, denied them language and culture, and reduced
them to a metaphorical extension of the dark and dangerous jungle into
which the Europeans venture. Achebe's lecture prompted a lively debate,
reactions at the time ranged from dismay and outrage—Achebe recounted a
Professor Emeritus from the University of Massachusetts
saying to Achebe after the lecture, "How dare you upset everything we
have taught, everything we teach? Heart of Darkness is the most widely
taught text in the university in this country. So how dare you say it’s
different?"[3]—to Cedric Watts' A Bloody Racist: About Achebe's View of
Conrad (1983),[4] which sets out to refute Achebe's critique. Other
critiques include Hugh Curtler's Achebe on Conrad: Racism and Greatness
in Heart of Darkness (1997).[5]
In King Leopold's Ghost (1998), Adam Hochschild argues that literary
scholars have made too much of the psychological aspects of Heart of
Darkness while scanting the moral horror of Conrad's accurate
recounting of the methods and effects of colonialism. He quotes Conrad
as saying, "Heart of Darkness is experience...pushed a little (and only
very little) beyond the actual facts of the case."[6]
Heart of Darkness is also criticized for its characterization of women.
In the novel, Marlow says that "It's queer how out of touch with truth
women are." Marlow also suggests that women have to be sheltered from
the truth in order to keep their own fantasy world from "shattering
before the first sunset."
Adaptations
The most famous adaptation of Conrad’s Heart of Darkness is Francis
Ford Coppola's 1979 movie Apocalypse Now, which translates the context
of the narrative from the Congo
into Vietnam and Cambodia.
Heart of
Darkness [Wikipedia]
Lại nói chuyện
“hửi”.
Trong Giáo
Đường, em nhí bị thằng
chả bất lực phá trinh bằng cái bắp ngô - the
barbarous deflowering of Temple.
Vargas Llosa -
GCC nhớ, hình
như đọc 1 tay phê bình, đọc cuốn sách, hít hà, trang nào cũng dậy
lên
mùi ngô bắp!
Sợ, không chỉ mùi ngô bắp!
Cái
xen Đỗ Hải Yến, vào
vai em nhí, trong Cánh Đồng Bất Tận,
mà chẳng
bước ra từ Giáo Đường sao?
Giáo Đường làm Faulkner nổi tiếng, và, tai
tiếng, như Đại Sư Phụ của "sự thờ cúng cái độc ác, tàn bạo". Ra lò
năm 1931, Giáo Đường, khỏi bàn cãi, là 1 trong những tác phẩm
quan
trọng nhất của ông.
Và cũng là tác phẩm viết đi viết lại nhiều lần. Chắc là
Người cũng ớn, như ghi chú nxb cho thấy:
EDITORS'
NOTE
This volume
reproduces the text of Sanctuary that has been established by Noel
Polk. It is
based on Faulkner's own typescripts-both the original carbon typescript
that
was completed in May 1929 and the revisions that he typed and affixed
to his
galley proofs in the summer of 193o--which have been emended to account
for his
revisions in proof, his indisputable typing errors, and certain other
mistakes
and inconsistencies that clearly demand correction. All of Faulkner's
novels
bear alterations of varying degrees of seriousness by his editors, but
Sanctuary is without question the work that has been most heavily
revised by
the author himself.
Jean
Baptiste Baronian, tác giả bài viết về Faulkner, trong số báo đã dẫn,
đặt câu hỏi,
liệu có nên xếp những tác phẩm của Faulkner vào “tiểu thuyết đen”
không, bắt đầu
bằng Giáo Đường?
Can John
Banville resuscitate Philip Marlowe?
Raymond
Chandler's estate have chosen John Banville to write a new Philip
Marlowe novel
– but can he capture the hero's loneliness and the bleak glitter of LA?
Cơ
sở quản lý di sản của Raymond Chandler đã chọn John Banville viết một
cuốn tiểu
thuyết mới, với nhân vật thám tử Philip Marlowe – nhưng liệu ông nắm
bắt được nỗi
cô đơn của nhân vật này, và vẻ rực rỡ ảm đạm của Los Angeles?
GCC phán:
Sure. Luôn cả sự cô đơn của Marlowe. Vẻ rực rỡ ảm đạm của LA, not sure.
- Tiểu thuyết Thánh
địa tội ác, dịch từ Sanctuary
của William Faulkner. Trần
Nghi Hoàng dịch. Thánh địa tội ác thuộc
bộ ba tác phẩm Faulkner in ở Việt Nam gần
đây, cùng Bọn đạo chính (tức The
Reivers) đã in và The Wild
Palms sẽ in. Ngoài
ra, Âm thanh và cuồng nộ cũng
đã được tái bản (dùng bản dịch của Phan Đan chứ
không phải bản dịch trước đây của Sài Gòn). (Bách Việt & NXB Văn
học).
Blog NL
Note: cái tít
tiếng Việt, hỏng. Thánh Đường, Giáo đường thì OK, chứ Thánh Địa, nhảm
quá. “Tội
ác” cũng nhảm. Dịch giả TNH chắc là thuổng cái tít bài viết của Vargas
Llosa về
cuốn của Faulkner: The Sanctuary
of Evil.
“Tội ác” là cú có
thiệt, danh từ cụ thể, đếm đuợc, count noun, còn "Evil" là Cái Ác, 1 ý
niệm, một
từ không đếm được, uncount noun. Khác nhau.
Dịch, chỉ mới cái
tít không thôi, đã nhảm rồi.
Số báo này
có quá nhiều bài tuyệt cú mèo. Bài về Giáo Đường, của Faulkner, khui ra
một chi
tiết thật thú vị: Cuốn Pas d'Orchidées
pour Miss Blandish (1938) của J.H. Chase, đã từng được Hoàng Hải
Thuỷ phóng
tác thành Trong vòng tay du đãng, là
từ Giáo Đuờng bước thẳng qua. Cái từ
tiểu thuyết đen, roman noir, của Tây không thể nào dịch qua tiếng Mẽo,
vì sẽ bị
lầm, "đen là da đen", nhưng có một từ thật là bảnh thế nó, đó là
"hard boiled", dur à cure,
khó nấu cho sôi, cho chín. Cha đẻ của từ này, là Raymond Chandler, cũng
một
hoàng đế tiểu thuyết đen!
Bài viết về
Chandler của nữ hoàng trinh thám Mẽo, Patricia Highsmith cũng tuyệt.
Rồi bài trả
lời phỏng vấn của Simenon, trong đó, ông phán, số 1 thế kỷ 19 là
Gogol, số 1
thế kỷ 20 là Faulkner, và cho biết, cứ mỗi lần viết xong một cuốn
tiểu thuyết
là mất mẹ nó hơn 5 kí lô, và gần một tháng ăn trả bữa mới bù lại được!
Bài trò chuyện
với tân nữ hoàng trinh thám Tây Fred Vargas cũng tuyệt luôn: "Tôi chơi
trò
thanh tẩy" ["Je joue le jeu de la catharsis"].
Viết trinh thám
mà là thanh tẩy!
Bài của JB
ngắn, ở lề, nhưng tuyệt vời, viết về nghệ thuật mất, “the art of
losing”.
TV sẽ
dịch bài này, tặng độc giả TV, thứ nghệ thuật, không khó làm chủ, the
art of
losing is one that is not hard to master, và có rất nhiều điều hình như
tắm đẫm
cái ước mong được mất đi, nhờ vậy mà cái sự mất đi của chúng không là
một thảm
họa [“seem filled with the intent/to be lost that their loss is no
disaster”], Banville mượn ý thơ của E. Bishop để giải thích.
Chúng ta chẳng
bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi ra, già mãi ra, rồi già -
và cái
nhu cầu đồ chơi, và chơi đồ thì chẳng bao giờ yếu đi.
Tay Banville
này, nhà văn, nhưng viết essay, viết review cũng thuộc bậc thầy.
Xứ Mít chưa
đẻ ra được thứ nhà văn này. Toàn thứ viết làm xàm ba cái truyện ngắn,
truyện
dài, bằng 1 thứ văn phong “có sẵn trong trời đất”, trên báo chí,
trong văn của người, nhiễm độc hồi nào không hay, bản thân, chưa từng
có ai đẻ ra được 1 thứ văn phong của riêng mình...
Influences
The novelist
Tibor Fischer summed up the general view on Banville's influences when
he said,
"You can sense the volumes of Joyce, Beckett and Nabokov on Banville's
shelves." Banville himself has acknowledged that all Irish writers are
followers of either Joyce or Beckett - and he places himself in the
Beckett
camp. A less obvious influence, which comes through most particularly
in
Banville's defence of his work as art, would be the Nobel laureate
Harold
Pinter. Banville's memories of his childhood in Ireland are also a
source of
inspiration in his later work, particularly in The Sea. "Even though I am
now on the brink of old age, childhood is still a source of material,"
he
has commented.
Sách gối đầu
giường của Banville: “Bạn có thể ngửi ra mùi của Joyce, Beckett và
Nabokov trên
giá sách của tôi"
GCC đọc Sến,
và lầm - tưởng mùi nữ bồ tát, hóa ra của nữ đại ma đầu!
Hà, hà!
Lại nói chuyện
“hửi”.
Trong Giáo
Đường, em nhí bị thằng
chả bất lực phá trinh bằng cái bắp ngô - the
barbarous deflowering of Temple.
Vargas Llosa -
GCC nhớ, hình
như đọc1 tay phê bình, đọc cuốn sách, phán, trang nào cũng dậy
lên
mùi bắp
ngô!
Cái xen Đỗ Hải Yến, vào
vai em nhí, trong Cánh Đồng Bất Tận,
mà chẳng
bước ra từ Giáo Đường sao?
Đỗ Hải Yến
trong Cánh Đồng Bất Tận [hình từ Bee]
(1)
Ui chao,
nhìn là thấy hiển hiện ra tất cả những nhân vật nữ của Faulkner!
Nhất là cái
em trong Giáo Đường, Sanctuaire, bị
thằng liệt dương phá trinh bằng cái bắp ngô!
Liệt dương
ư?
Hay là tay
hiệu trưởng gì gì đó?
NNT
chưa từng đọc Faulkner, nhưng có thể nói, toàn bộ tác phẩm của
cô, bước ra từ khúc dạo đầu của Absalom, Absalom!
Absalom,
Absalom! có thể
sánh với Âm
thanh và Cuồng nộ, và tôi không biết, có lời vinh danh nào cao hơn
thế nữa,
về nó!
Borges
Tuyệt!
Khen 1 tác phẩm của Faulkner,
bằng 1 tác phẩm khác, cũng của
Faulkner!
Đây cũng là đòn của Kim Dung, cho Vô Kỵ sử dụng, để đánh bại 1 nhà sư
Thiếu
Lâm, bằng chính võ công của Thiếu Lâm, và đúng cái môn võ công mà nhà
sư nổi
danh nhờ nó, trong 1 trận đánh kinh thiên động địa trên Quang Minh
Đỉnh, để cứu
cả một lũ Ngụy, tức Ma Giáo!
Đâu có thứ võ công nào khác, để mà đánh bại Ngài, ngoài võ công
của chính Ngài!
Ẩn tàng trong giai thoại trên, là bí mật của sáng tạo: Mi muốn
viết văn là phải kiếm ra vị Thầy của mi, và mi sẽ dùng chính môn võ
công của
Thầy mi dậy mi đó, để làm thịt Thầy! (1)
Gối
đầu giường, ảnh hưởng, sư phụ & đệ tử…. Phùng Phật Sát Phật… là theo nghĩa đó.
Độc ác như rắn rết mà là đệ tử của…. Kafka
ư?
John
Banville còn thử thay nghề viết truyện trinh thám với cái nick Benjamin
Black.
TLS số April 13 2012 có nhắc tới ông, trong sổ tay văn học, với cái tít
Who’s
who, và tiện thể còn nhắc đến cả 1 lô những nhà văn viết bằng
những cái nick khác
nhau, như Romain Gary, người đợp hai lần Goncourt, dù giải này quy định, chỉ
1 lần là đủ, khác Booker Prize
của Anh.
Tin Văn đã từng đi một
đường tưởng niệm
Mai Thảo, khi ông dùng cái nick Nhị, để mần thơ.
Nhưng TTT không có cái may
này.
Trước khi thành danh với cái nick TTT, thì ông có vài cái nick, nhưng
sau khi “chết
tên” rồi, là thôi.
Chứng cớ, trong thư gửi đảo xa, ông kể, ông làm thơ tặng đảo xa,
đăng báo Văn, ký nick khác,
MT & Ông Vượng, chủ báo lắc đầu, no!
GCC thì nhiều
nick quá. Lần trốn cái tên NQT tên sa đích văn nghệ, mượn tên của
đứa cháu
gái, Jennifer Tran, viết VHNT & Việt Báo online, "chấn động giang
hồ", độc nhất có
1 tay phê bình gia BVP là nhận ra, vì quá rành những
tác giả GCC đọc & trích dẫn [Steiner, Kafka, Bejamin… thí dụ]
Banville
says that he started writing novels at the age of 12. His early
attempts were
"dreadful imitations" of Joyce's Dubliners; the opening line of one
was, "The white May blossom swooned slowly into the open mouth of the
grave".
Banville cho
biết ông khởi sự viết văn khi 12 tuổi, và những bản văn đầu tay “bắt
chước thê thảm,
chết người” Những người dân thành
phố Dublin của Joyce, thí dụ dòng mở ra 1 bản
văn, "The white May blossom swooned slowly into the open mouth of the
grave"
[tạm dịch, “Bông
Tháng Năm, trắng toát, xỉu dần đi trong miệng huyệt mở rộng”]
The
past beats inside me like a second heart
All works of art are scar tissue.
Tác
phẩm 'nghệ thuật' nào [của Gấu] thì cũng như vết sẹo [ở trên tay
cô bạn],
và quá khứ những ngày ở Sài Gòn là trái tim thứ nhì [ở trong Gấu].
Nó đập còn dữ dằn hơn trái tim thứ nhất.
Càng đập càng nhớ... vết sẹo! (1)
John Banville
“Even
though I am now on the
brink of old age, childhood is still a source of material," he
[Banville]
has commented.
Ngay bi giờ, sắp đi xa, Gấu, lâu lâu, mơ thấy thằng cu Gấu đang lúi
húi đào
trộm khoai ở đồng làng Thanh Trì, Quốc Oai, Sơn Tây!
Hay thấy đang đứng ở ngã tư
Phan Đình Phùng & Lê Văn Duyệt, đợi, “đời của Gấu”.
Nguyễn Ngọc Tư & William Faulkner
Viết xong Cánh
đồng bất tận, tôi thấy buồn, nặng nề
và đau đớn ghê gớm, hệt như trút ra hết những gì mình mang bên trong.
Chắc phải
nghỉ ngơi lâu lắm, tôi mới quên được hết ấn tượng về những điều tàn
nhẫn mà
mình đã phải mô tả. Tôi đã động tới cái ác vì có nó, thì cái thiện, sự
thương
yêu, sự yếu ớt mong manh của những tình cảm tốt đẹp mới nổi lên được,
để cho
người ta nhìn thấy rõ hơn. Chỉ vậy thôi.
NNT
Đâu có thua
gì Faulkner, khi trả lời phỏng vấn, tại sao viết "Khi tôi nằm hấp hối",
As I Lay
Dying: (2)
I took this
family and subjected them to the greatest catastrophe which man can
suffer -
flood and fire, that's all.
Tôi lấy gia đình này làm đề tài và đẩy họ vào một thảm họa
lớn lao nhất mà con người có thể chịu đựng - lũ lụt và lửa, chỉ có vậy.
Faulkner, Lion in the Garden
Cái
“gia đình này”, đối
với Nguyễn Ngọc Tư, có thể là cả
Miền Nam của Bà sau 30 Tháng Tư 1975: Độc ác như thời tiết, như đất
đai, như sông nước, như... Bắc Kít!
[Bundren
family
life, like the weather, like the land and the water, is elemental and
merciless, especially so for the women]....
Camus
có 1 câu cũng thú
lắm, nếu đọc nó trong cùng 1 dòng với Pasternak [Người
ta đâu
sống chỉ bằng bánh mì. Người ta sinh ra để sống, đâu phải để sửa soạn
sống]: Nếu
con người cần bánh mì, cần nhà ở, thì nó cũng cần một cái đẹp trong
trắng
làm bánh
mì cho trái tim, "he also needs pure beauty which is the bread of his
heart".
|
|