
La critique un art
difficile
Le critique est
étymologiquement celui qui « juge comme décisif » - ou non - ce qu'on
lui
soumet. Cela suppose une compétence, un savoir, mieux, une science qui
le
distingue du lecteur ordinaire. Au grand dam des illusions
démocratiques. Mais
comme il est aussi un contemporain ordinaire, il subit l'influence des
critères
moraux, codes langagiers et partis pris de son temps. Pour s'y
soumettre ou les
combattre. Retour sur l'exercice périlleux - la postérité peut être
impitoyable! - de l'expertise de la littérature. De Sainte-Beuve à
Barthes,
Genette et Lacan.
Philippe-Jean Catinchi
Phê bình, một nghệ thuật
khó
Phê bình gia, theo nghĩa từ nguyên của nó, là
kẻ phán, "quyết định hay
không quyết định", cái mà người ta dí vào mắt anh ta. Điều này đòi hỏi
khả
năng, tri thức, và hơn thế nữa, một khoa học để phân biệt nhà phê bình
với độc
giả bình thường.
Nhưng anh ta còn là một con người đương thời bình thường, và
chịu ảnh hưởng những đòi hỏi đạo đức, những mẫu mã ngôn ngữ và những
định kiến
của thời của mình.
Để mà chiều theo hoặc chống lại.
Văn chương, khi nào?
Câu hỏi
nhức nhối nhất mà phê
bình mỹ học về văn học, lý thuyết văn chương và ngôn ngữ học, gặp phải,
thì không
phải là câu mà Sartre sử dụng như là cái tít cho một tác phẩm của ông, “Văn chương
là gì?" nhưng mà là, “Khi nào
có văn chương?, Quand y-a-t-il litérature? “
Với Gérard Genette, văn phong
vươn tới kết cấu, chứ không phải tới cấu trúc hay cách diễn đạt
Pour Gérard Genette, le style
se manifeste au niveau de la texture, et non à celui de la structure ou
de l’élocution.
L'éternel critique
L'option des “classiques”
Sainte- Beuve écrit clair,
classe juste, ne manque pas de courage. Mais sa manie est de faire la
morale
aux grands écrivains
Phê bình... Vũ Ngọc Phan
Saint-Beuve viết sáng sủa,
xếp loại đúng, không thiếu can đảm. Nhưng ông bị cái tật là ưa giảng
đạo đức
đối với các đại văn sĩ
*
Ở thế kỷ 20, một kẻ chân
thật, thật khó mà là một nhà phê bình văn học. Có quá nhiều điều khẩn
cấp hơn
phải làm. Phê bình chỉ là phụ thuộc. Bởi vì nghệ thuật phê bình là làm
độc giả
quan tâm tới tác phẩm văn học; khổ một nỗi, "quí độc giả" có khi không
cần lắm, tới sự giúp đỡ này. Liệu ai đó đọc phê bình thơ ca, văn
chương, kịch
nghệ, một khi quá rành về nó? Hơn thế, "hai tay" còn khổ, vì
hai cám dỗ. Về phía tay phải, là Lịch sử Văn học, với cái vẻ chắc nịch,
và
những uy thế hàn lâm. Tay trái, trò Điểm Sách - không thực sự một nghệ
thuật,
chỉ là kỹ thuật dựa vào một lý thuyết thật chẳng đáng tin cậy, rằng
phải có cái
gì đáng đọc được in ra hàng năm. Ngay cả một tay phê bình tốt nhất cũng
có thể
bị nó cám dỗ, thôi thì cứ xiêu phải, hoặc quẹo trái. Như Sainte-Beuve
chẳng
hạn; hỡi ơi, làm thế nào tạo được sự vị nể trí thức, một thế đứng khoa
bảng, nhà
phê bình bèn trở thành nhà sử văn (literary historian). Thế là cứ hùa
theo
những đòi hỏi của một cuốn tiểu thuyết, và của tính tức thời; cái phần
có ý
nghĩa trong những phát giác mang tính phê bình tác phẩm của Henry
James, đã
không sống lâu hơn những điều tầm phào được gạt bỏ. Những bài điểm sách
tốt
cũng làm xàm như những cuốn sách tồi.
Tuy nhiên còn một lý do cơ bản nữa cho thấy tại sao khó, đối với một
đầu óc
nghiêm túc, sinh nhầm thế kỷ (sinh trong thế kỷ nhiễu nhương và hiểm
nguy này),
muốn cúc cung tận tụy với phê bình văn học. Thế kỷ của chúng ta, khỏi
cần nói
thì ai cũng biết, được mùa môn khoa học tự nhiên. Chín chục phần trăm
những nhà
khoa học đều đang còn sống. Thắng lợi ròn rã của khoa học, chân trời
lùi dần
trước tinh thần tra hỏi, đâu còn chỗ cho quá khứ? New Americas [Những
Tân Thế
Giới], được kiếm thấy mỗi ngày. Tâm tính con người do đó cũng bị ảnh
hưởng bởi
giá trị khoa học. Ảnh hưởng và sự mê hoặc của chúng vượt quá bờ cõi
khoa học,
theo nghĩa cổ điển của từ này. Lịch sử và kinh tế học cũng khoa học,
theo một
tiêu chuẩn nào đó. Cũng vậy, luận lý học và xã hội học. Nhà nghệ sử gọt
rũa
tinh vi những dụng cụ và kỹ thuật ông coi là có tính khoa học. Nhà soạn
nhạc thập
nhị cung (twelve-tone) qui chiếu khổ công tu luyện của mình về những
thực tập
của những nhà toán học. Durrell, trong lời tựa cho Tứ Khúc [BHD] của
mình, phán,
ông cố gắng chuyển vào ngôn ngữ và vào dòng kể, his narrative, viễn
tượng của
thuyết Tương Đối. Ông nhìn thành phố Alexandria theo không gian bốn
chiều.
*
Ở thế kỷ 20, một
kẻ chân thật, thật khó mà là một nhà phê bình văn học. Có quá nhiều
điều khẩn cấp
hơn phải làm....
Steiner
Câu trên có thể áp dụng vào trường hợp của Gấu, khi ra hải ngoại, nhất
là đúng
vào lúc cầm lên cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng của Steiner.
*
Và bởi vì phê bình, như thế,
chỉ là một siêu ngôn ngữ, cho nên, nhiệm
vụ của nó, chẳng hề là khám phá ra, "những sự thực", nhưng mà là
"những cái có giá trị" ["the validities"]. Tự thân, ngôn ngữ
không thực, mà cũng chẳng giả; nó có giá trị, hoặc không: giá trị,
valid, có
nghĩa, tạo một hệ thống hài hòa những ký hiệu. Những lề luật của ngôn
ngữ văn
chương chẳng màng đến sự ăn ý, giữa nó với thực tại [cho dù mấy trường
phái hiện
thực lải nhải cỡ nào thì cũng… dẹp!], nhưng mà là sự cúi mình chịu vô
khuôn
khép với hệ thống ký hiệu tác giả tạo ra (và chúng ta, lẽ dĩ nhiên,
phải đem đến
cho cái từ ‘hệ thống’ này một cái nghĩa rất ư là mạnh, ở đây] (1). Phê
bình chẳng
có tí trách nhiệm nào, về cái việc phải tuyên bố, liệu Proust nói lên
“sự thực”.
Cái ngôn ngữ bậc hai này thao tác (operate) trên ngôn ngữ bậc nhất
(hay, ngôn
ngữ sự vật, language object). Từ đó suy ra, ngôn ngữ phê bình phải đụng
(deal)
với hai thứ liên hệ: liên hệ giữa ngôn ngữ phê bình với ngôn ngữ của
tác giả
được tìm hiểu, và liên hệ giữa ngôn ngữ sự vật này với thế giới. Chính
sự
"đụng độ, tranh chấp", giữa hai ngôn ngữ này định nghĩa, cái gọi là
phê bình. Và, có lẽ, sự đụng độ này làm cho phê bình thật giống với một
hoạt
động tâm thần khác, lý luận học, môn này cũng đặt nền tảng trên sự phân
biệt
giữa ngôn ngữ sự vật và siêu ngôn ngữ.
Phê Bình Là Gì?
*
Gấu đọc bài viết trên, của Barthes, chỉ sau cái cú đọc Bếp Lửa ít lâu,
và đều
là những cú mặc khải. Nhờ bài viết của Barthes, Gấu tách ra khỏi được
những
"vấn nạn lớn lao" của văn chương, đề ra bởi Sartre, thí dụ, văn
chương là gì, viết cho ai, viết để làm gì, và nhất là dòng văn chương
dấn thân,
mà ông là chủ soái.
Bạn tha hồ dấn thân, như một con người, trong cái xã hội người cùng
thời với
bạn, nhưng văn chương, là một câu chuyện "khác".
Barthes chỉ ra sự khác biệt, giữa nhà văn, écrivain, và nhà dùng văn,
écrivant.
Nhà văn đặt nặng chuyện sáng tạo, tìm cái mới, khởi từ hệ thống ngôn
ngữ đã có,
của thời của mình; nhà dùng văn, écrivant, sử dụng, cũng ngôn ngữ đó,
cho mục
đích, mục tiêu, một cái "goal", mà người này manh nha, hoặc toan
tính, chỉ chờ có thời gian ngồi xuống bàn, để viết ra.
Chính vì thế Barthes được coi như người bảo vệ, trường phái tiểu thuyết
mới, và
cùng với nó, là quan niệm, "tôi viết để hiểu tại sao tôi viết".
*
Khoảng cách giữa hai cú mặc khải - đọc
cọp Bếp Lửa trên đường phố Sài Gòn, và
đọc Barthes, khi đã đi làm, và cầy, không chỉ một, mà tới hai "job",
một cho Bưu Điện, và một cho UPI - là một giấc mộng đã thoả: Gấu đã
từng rớt
Toán Đại Cương chỉ vì không có tiền mua sách Đại Học, và đã từng thề
với mình,
khi nào tao có tiền, tao sẽ mua sách cho thoả chí bình sinh!
Thành thử cái vụ bỏ ngang Đại Học, đi làm Bưu Điện, thật là tuyệt vời!
Nếu không làm Bưu Điện, Gấu chẳng làm sao có cơ hội tiếp xúc với xứ
người, qua
đám ký giả ngoại quốc, qua sách vở, báo chí ngoại.
Nhờ đô la Mẽo, Gấu mua, cả những cuốn sách Tây, trên vốn liếng ăn đong
của
mình, nào là Lịch Sử và Ý thức Giai cấp của Lukacs, nào là
những cuốn
của nhà xb Nửa Đêm, Tây chính gốc cũng còn ớn, thành thử, câu nói, "Mày
có
biết tiếng Tây không đấy?", Gấu chưa nghe, nhưng nhìn thấy nó, thật rõ,
ở
trên mặt, những văn hữu, trong có cả Trần Phong Giao, nhưng ông này
lịch sự
hơn, hỏi thẳng, "Mày mua cái này về để trưng ở tủ sách, hở?"
Tuy nhiên, cái sự đọc sách, nó cũng ly kỳ lắm. Khi mua những cuốn như
thế, Gấu
chỉ tự nhủ, sẵn tiền, cứ mua, khi nào dư dả chữ Tây, thì mình đọc, đâu
có sao!
Ui chao, chiêu như thanh ty, có tới hai cái thú, nay, mộ thành tuyết,
chỉ còn
một: Lên xóm và ghé tiệm sách!
Lần đầu lãnh lương Bưu Điện, là bèn đi xóm.
Lần đầu lãnh đô la Mẽo, là bèn ghé một trong những tiệm sách ở đường Lê
Lợi,
cũng gần sở làm UPI, 19 Ngô Đức Kế.
Sau đó, thì cũng lại lên xóm!
Làm sao thoát!
*
Lại nói chuyện không có tiền mua sách Đại Học.
Bỗng nhớ Miếng Thịt Bò của Hemingway, chuyện một anh võ sĩ già,
hết
thời, chỉ vì thiếu một miếng thịt bò, cho bữa điểm tâm, trước khi so
găng, đành
thua một gã trẻ tuổi mới vô nghề đấm.
Giá có miếng thịt bò, thì cú đấm tối hiểm của anh đã hạ nốc ao địch thủ.
Ui chao, giá như Gấu không quá nghèo, không quá đói, thì... sao
nhỉ?
Nhưng, thịt bò hay không thịt bò, thì cũng không còn "ép phê" gì nữa
rồi!
Hội chứng hậu
chiến tranh Việt Nam, hay hiện tượng Chúa Sẩy Thai, khủng khiếp vô
cùng, đối
với Việt Nam, chứ không phải đối với Mẽo.
Mẽo cút rồi, thế là yên thân Mẽo.
Chỉ tội đám Mít. Thắng trận giặc Mẽo rồi, làm sao thắng trận giặc Mít
đây:
Làm sao tiêu diệt đám bọ thèm đô la Mẽo?
Có cả Faulkner
nữa!
Giáo Đường, Sanctuaire, ư?
Tất nhiên rồi!
Tôi tưởng tượng ra một chuyện ghê rợn nhất rồi bầy nó ra
mặt giấy. (1)
Câu của Faulkner, áp dụng vào Cánh đồng bất tận mà không tuyệt
sao?
(1)
Trên tờ Nguời
Quan Sát Mới, số 11-17 Mars 2010, mục “Điện thoại đỏ”, cho biết
tin
nóng hổi:
Những
chuyên gia về Faulkner đã rụng rời, en
émoi, kể từ khi người ta khám phá ra
một cuốn sổ đăng ký một đồn điền nô lệ ở Mississipi, được coi là nguồn
sáng
tác Giáo Đường của Faulkner!
Cuốn sổ dầy
1.800 trang, giấy vàng khè, từ, datant
du, thế kỷ
19. Nhà văn lấy giai thoại từ đó, và còn chôm tên một số nô lệ cho
những nhân vật
của ông.
Tình lơ
Nguyễn Ngọc Tư
V/v Tình Lơ.
Hẳn là Cô Tư đọc Cuốn
Theo Chiều Gió, và bởi vì cùng một nỗi ám ảnh về một Miền Nam sâu
thẳm của một William Faulkner, một Margaret Mitchell, mà viết ra nó.
Scarlett và Melanie ở đây là hai chị em giống nhau như đúc. Và thầy
giáo Thành trong Một Mối Tình, thì biến thành anh chồng ngớ ngẩn lầm cô
chị với cô em, hoặc ngược lại.
Cái không khí chung của tất cả truyện của Cô Tư, vẫn là ảo tưởng về ông
anh Bắc Kít ruột thịt cuối cùng hóa ra… kẻ thù!
Scarlett khi vỡ ra, bèn đoạn tuyệt với ảo tưởng, quyết tâm xây dựng lại
thiên đàng Tara, chờ ngày Rhett [chắc
là đi học tập cải tạo] trở về!
Một độc
giả TV đã khều nhẹ Gấu, Cô Tư làm sao mà đẹp như ông Gấu tưởng tượng
ra, như thế!
Gấu này đành phải thú thực, sợ Cô Tư còn đẹp hơn cả những W. Faulkner,
những Margaret Michell! Tất cả những sáng tác của Cô Tư đều bàng bạc
trong đó, một Miền Nam đã mất, và gốc rễ của nó, phải tính từ thời Adam
và Eva bị tống ra khỏi Vườn Địa Đàng, biến thành một lũ “giả-Do Thái”
[giả ở đây giống như trong từ ‘giả cầy’!], lang thang
khắp miền trái đất, một nửa reo rắc tai ương, một nửa ăn mày lòng
thương hại của nhân loại.
*
Chuyện
Faulkner
thuổng tài liệu đăng ký đồn điền cao su Nam Bộ, ấy chết xin lỗi, đồn
điền nô lệ
Mississipi, viết Giáo Đường,
theo Gấu chưa quái bằng chuyện Cô Tư, chưa từng đọc
Faulkner, vậy mà toàn bộ tác phẩm của cô như bước ra từ chương I cuốn Absalom,
Absalom! của Faulkner!
TV sẽ post chương
I, hồi I trên, và để độc giả TV tuỳ nghi thẩm định!
"Years ago
we in the South made our women into ladies. Then the War came and made
the
ladies into ghosts. So what else can we do, being gentlemen, but listen
to them
being ghosts?"
Những năm nảo năm
nào chúng ta, người Miền Nam,
tôn các bà của chúng ta thành những bậc mệnh phụ. Rồi đám Bắc Kít hô
hào giải
phóng Miền Nam
đánh cho Mẽo cút Ngụy nhào, và biến họ thành những bà vợ đám Ngụy có
chồng đi
tù cải tạo. Chúng ta có thể có thể làm gì, ngoài chuyện, lắng nghe Cô
Tư kể
chuyện?"
Hà, hà!
Đúng là dịch bố lếu bố láo, anh cu Gấu!
Đỗ Hải
Yến trong Cánh Đồng Bất
Tận [hình từ Bee]
Ui chao, nhìn là thấy hiển hiện
ra tất cả những nhân vật nữ của Faulkner!
Nhất là cái em trong Giáo
Đường, Sanctuaire, bị thằng
liệt dương phá
trinh bằng cái bắp ngô!
Liệt
dương ư?
Hay là tay hiệu trưởng gì gì đó?

Lire,
c'est vivre plus!
La
culture ambiante
conditionne la réception des œuvres, autant que leur conception
Façons
de lire, façons
d'être: il y en a autant que d'individus, et toutes se valent, la
meilleure
restant celle
de chacun. La remarque s'applique aux professionnels de la lecture,
payés pour
publier leurs impressions. Les uns croient devoir et pouvoir informer
en
racontant ce qu'ils ont lu; d'autres décrètent que la littérature ne se
commente pas et parlent autour, de tout, de rien, de leur lointaine
jeunesse
prometteuse, tandis que la critique universitaire se rêve science
exacte et
périodiquement déchante.
Un
spécialiste de Proust, le
professeur Jean-Yves Tadié (La Critique littéraire au XX siècle,
PocketAgora
1987), raconte cette utopie scientiste des professeurs qui, sous
l'influence
des disciplines voisines - linguistique, psychologie, sociologie -,
aura marqué
le xx: siècle, de Lanson (1857-1934) à Barthes (1915-1980).
Tout
est parti des«
formalistes russes », entre les deux guerres. Le grand public français
ne les
découvre que vers 1960, grâce aux textes réunis par Tzvetan Todorov et
à la
présentation de Propp (1895-1970) et Jakobson (1896-1982) par Claude
Lévi-Strauss.
Pour simplifier à l'extrême, la critique savante tend désormais à
prendre les textes
comme objets d'étude en dehors des considérations biographiques,
psychologiiques ou esthétiques utilisées jusque-là.
Notre
incuriosité pour ces
écoles ne doit pas nous faire surestimer ni sous-estimer les apports de
critiques français comme Béguin (1901-1957), sur 1'« âme romantique »,
Poulet
(1919-1991) sur la « distance intérieure », ou Raymond (1897-1981),
injustement
négligé. Tout en recensant cettte histoire de la critique à l'usage des
étuudiants, Jean-Yves Tadié rectifie certaines déformations, telle
celle qui a
fait de Gaston Bachelard un obsédé des contenus alors que la forme
l'occupe tout
autant. Dans la descendance de Bachelard s'inscriivent Jean-Pierre
Richard,
Gilbert Durand, Hélène Tuzet.
Freud a
renouvelé la vieille
psychologie des auteurs, en tenant la création pour un rêve éveillé,
aux
origines refoulées. Après lui, tout un canton de la critique a couché
les
textes sur le divan et scruté leurs associaations, à la recherche des
mythes
personnels ou collectifs enfouis : Charles Baudouin, Charles Mauron,
Marthe
Robert, Dominiique Femandez ...
Autre
science humaine
contiguë dont la critique s'est emparée: la sociologie. C'est Lukacs
(1885-1971) qui théorise le premier les rapports possibles entre l'état
d'une
société et les créations qui le manifestent. Tous les grands romans du
XVII'
siècle, par exemple, traduiraient l'humiliante impuissance de la
subjectivité à
faire ses preuves, face à des structures sans idées, à leurs
représentants
médiocres, et au cours même du temps.
Avant
Lukacs, Engels a fait
remarquer comment l'appétit de réalité l'emportait, chez le légitimiste
Balzac,
sur les intenntions et les prédications. C'est dire que l'écrivain,
sans
échapper à l'action du marrché, n'est pas forcément le reflet ni le
défenseur
d'un groupe. Goldmann (1913-1970) a corrigé sur ce point, et comme
déstalinisé
son maître Lukacs. En quoi la culture ambiante d'une époque irrigue ses
chefs d'œuvre:
Bakhtine (1895-1975) le montre à propos de Rabelais, Michel Crouzet
pour
Stendhal, Leenhardt, Riffaterre ...
Dernier
apport décisif des
nouvelles approches critiques : mettre en évidence que cette culture
ambiante
conditionne la réception des œuvres, autant que leur conception.
L'au-delà de
l'œuvre compte au moins autant que son en-deçà. Le sens des livres
bouge avec
chaque lecteur, chaque génération de lecteurs. D'où deux types de
recherches :
sur les moyens de fabriquer ce sens flottant - c'est le retour en force
de la
rhétorique, naguère limitée au seul art de convaincre - et sur la
science des
signes. Tadié réussit le tour de force de résumer des travaux aussi
subtils que
ceux de Gérard Genette sur les «figures », d'Umberto Eco, Greimas
(1917-1992),
Tzvetan Todorov, Julia Kristeva ou Georges Blin.
On
regrette seulement que le
sérieux de l'entreprise empêche les éclats d'écrivain. Dire de Barthes
que
c'est un auteur « brillant et insaisissable» ne rend pas compte d'une
œuvre où
l'étymologie sauvage et la confidence personnelle chargent de
sensualité,
d'érotisme, les moindres rappports avec la langue.
Marthe
Robert laisse voir
davantage en quoi ses lectures l'ont enrichie et donnent des ailes à sa
plume.
Ce n'est pas qu'elle manque de vision d'ensemble sur le fait
littéraire. Roman
des origines et origines du roman
(Gallimard) et La
Révolution psy-chanalytique (Payot) ont fait d'elle une des championnes
du
freudisme appliqué à la lecture, et on la sait habitée par Kafka, sa
référence
primordiale. Mais ses Livres
de
lectures, dont Le Puits de
Babel constitue le quatrième volume, nous invitent, plus largement, au
cœur
d'une conscience lisante, avec ses alentours, ses distractions, ses
marottes.
*
Le XX siècle, Kafka en tête aura sapé les
certitudes bien assises du précédent, au point de ne plus laisser subsister des
mots, les grands notamment, qu'une
carcasse vide, qu'un moyen précaire de se
mettre
d'accord
*
Le
titre reflète une
conviction diffuse, plus qu'une thèse étayée: que le XX" siècle, Kafka
en
tête, aura sapé les certitudes bien assises du précédent, au point de
ne plus laisser
subsister des mots, les grands notamment, qu'une carcasse vide, qu'un moyen précaire de se mettre d'accord.
Le
reste du livre n'est que
gambade alerte, et alertée sur tout. Aviez-vous remarqué comment les
romanciers
mêlent à leurs créatures fictives des personnages historiques pour
emporter
notre adhésion, ou discréditent, au contraire, leurs inventions en y
introduisant
des êtres de légende? Que signifie, selon vous, l'actuel déferlement de
calembours
dans la presse, sinon une autosuspicion du journalisme lui-même?
Il n'y
a pas de lectures
mineures pour qui se nourrit de caractères d'imprimerie. Marthe Robert
fait un
sort aux petites annonces, comme aux guides et aux catalogues. Sa
machine à
comparer et à supputer se met en route à tout propos. Le coq-à-l'âne
règne. Ici
surgit, à l'occasion d'un mot de Jules Renard, la crainte de l'écrivain
d'éprouver ses limites; là reviennent les liens singuliers de Kafka
avec le
rêve et la réalité, ou la liberté exigée par Marx pour les poètes «
ilfaut les
laisser vagabonder à leur guise» ...
La
modernité que prônait
Rimbaud, c'est quoi? Pour Proust, Céline et Faulkner, ce fut une
certaine
discontiinuité, qui gageait leurs droits à une subjectivité menacée.
Pour nous?
Que pensent Einstein de la guerre, et Claude Lévi-Strauss de
l'engagement ?
Comment éviter l'avilissement du langage parlé à la téléviision?
Vialatte
a-t-il pillé Apollinaire? D'où viennent le mot « coinstot» ou
l'expression « à
tire-larigot » ? Si le roman contemporain faiblit, ne serait-ce pas que
disparaissent le bourgeois et le peuple, piliers des fictions XIX"
siècle?
Marthe
Robert ne répond pas.
Elle rebondit de questions en perplexités. Elle donne envie de lire
aussi bien
qu'elle, de lire tout simplement. Elle dément l'image courante d'une
lecture
devenue archaïque, inutile, réservée aux faibles, aux rêveurs, aux
insatisfaits. Elle prouve de manière étincelante que lire, c'est donner
plus de
prix à chaque instant, et plus de sens à chaque geste; c'est vivre plus.
Bertrand
Poirot Delpech (30
Janvier 1987)
Hậu Hiện
Đại
Cái vụ “quái trạng” đang om xòm
chợ cá, về
chuyện, ai là người đầu tiên phịa ra từ hậu hiện đại, và vào năm nào…
làm Gấu
nhớ đến một ý của Auden, đại khái, một nhà thơ có thể tự hỏi, tại sao
mình làm
thơ vào lúc sáu mươi tư tuổi, thí dụ, nhưng không bao giờ, vào năm
1940, vẫn
thí dụ.
Mượn ý của Auden, sự ra đời của một nhà thơ, hay một dòng thơ, hay bất
cứ sự ra
đời của một tư tưởng, một trào lưu triết học… hệ tại ở hai điều, “tại
sao” và
“như thế nào”, theo Gấu.
Hậu hiện đại là hiện đại được đẩy đến cực điểm của nó, khi nhân loại
phải đối
diện với Cái Ác của thế kỷ hung bạo, thế kỷ 20.
Postmodernism.
After 1945, there was radical questioning of
the basic,
savagery in human
nature. William Golding, Iris Murdoch, Norman Mailer, and John
Fowles
brought this theme into fiction. The freedom to write explicitly of sex
and
violence was taken further. Drama and the novel now presented the human
dilemma
in terms influenced by French existentialist philosophy. The theatre of
the
absurd, with Samuel Beckett and Harold Pinter, took dramatic speech
away from
the communicative and naturalistic to the inconsequential. The term
Postmodernism has been given to the extension of Modernism into a more
radical
questioning of the integrity of language and the uncertainty of all
linguistic
performance.
Đó là cái phần "tại sao".
Còn "như thế nào" liên quan đến những biểu hiện của chủ nghĩa này,
trong các ngành nhân văn, nghệ thuật.
Roland Barthes hình như cũng đã viết về vấn đề này, nếu Gấu nhớ không
lầm. Ông
nhấn mạnh đến cái “pourquoi” và cái “comment” của văn chương.
Nhìn như thế, Mít chưa có hậu hiện đại. Và chỉ có, khi đối mặt với Các
Ác Bắc
Kít, mà nguyên nhân và hậu quả, là Cuộc Chiến và Lò Cải Tạo.
*
Ngay từ khi Solz còn sống, tác phẩm Tầng Đầu Địa Ngục của ông
đã được
đưa lên TV ở Nga, ‘không bỏ một chữ’, mượn chữ của nhà văn NMG khi đưa Sông
Côn Mùa Lũ về trở lại Việt Nam. Lẽ dĩ nhiên, cũng có sự lợi dụng
của Putin,
nhưng thà rằng là như vậy! Nhà nước Nga cho bạch hóa hồ sơ mật. Nhưng ở
một
nước cựu chư hầu của Liên Xô, là Việt Nam, Solz vẫn là một cấm kỵ, và
trong
nước Mít vẫn than thở giùm cho ông, sinh không gặp thời. Cái sự không
đọc, và
giới thiệu Solz, Akhmatova, Mandelstam… mới là một quái trạng, bởi vì
chỉ có
bắt đầu đọc những nhà văn nhà thơ ngày nào còn bị cấm kỵ ở quê hương
của chính
họ, thì mới giải trừ được nọc độc toàn trị, trong khi chờ đợi những tác
phẩm
dám nhìn thẳng vào thực tại Việt Nam. Có thể bằng suy nghĩ đó, Nguyên
Ngọc dịch
Kundera. Sự xuất hiện của những tác phẩm tố cáo tội ác Đức quốc xã của
Hitler
theo tôi, là cũng nằm trong suy nghĩ như trên. Trong khi những nhà thơ
Xô Viết
như Yevtushenko, như Mayakosky… với những vần thơ ái quốc xúi tưổi trẻ
hy sinh
cho lũ già ở Bắc Bộ Phủ tha hồ hưởng thụ, vậy mà vẫn có người lôi ra
mân mê,
cái đó cũng là quái trạng.
Ngay cả cái sự giới thiệu hậu hiện đại, làm như đây là cơ hội ngàn vàng
của văn
học trong nước, để theo kịp trào lưu thế giới cũng là quái trạng!
*
Applebaum gives the final word of her splendid book to the writer Lev
Razgon. A
Communist believer, Razzgon was arrested in 1938 and spent the next
eighteen
year in labor camps and exile. In 1990 he was allowed to see his own
archival
file in the Lubyanka building of the KGB-"a thin collection of
documents
describing his arrest and the arrests of his first wife, Okksana, as
well as
several members of her family." Razgon read the file and later wrote a
moving essay about it, the fate of his wife's mother, and the "strange
absence
of repentance on the part of those who had destroyed all of them."
But his final thoughts, it seems to Appplebaum, are more ambivalent:
I have long since stopped turning the pages of the file and they have
lain next
to me for more than an hour or two, growing cold with their own
thoughts. My
guardian [the KGB archivist] is already beginning to cough suggestively
and
look at his watch. It's time to go. I have nothing more to do here ....
I go
downstairs, along the empty corridors, past the sentries who do not
even ask to
see my papers, and step out into Lubyanka Square.
It's only 5 p.m., but it's already almost dark and a fine, quiet rain
falls
uninterruptedly. The building remains beside me and I stand on the
pavement
outside, wondering what to do next. How terrible that I do not believe
in God
and cannot go into one quiet little church stand in the warmth of the
candles,
gaze into the eyes of Christ on the Cross and say and do those things
that make
life easier to bear for the believer. ...
I take off my fur hat, and drops of rain or tears trickle down my face.
I am
eighty-two and here I stand, living through it all again ... I hear the
voices
of Oksana and her mother ... I can remember and recall them, each one.
And if I
[have] remained alive, then it is my duty to do so ....
*
Applebaum khép lại “Gulag một lịch sử” của bà bằng những dòng trân
trọng dành
cho nhà văn CS tin tưởng sắt đá vào chủ nghĩa, Lev Razgon. Ông bị bắt
vào năm
1938 và trải qua 18 năm tiếp theo trong tù cải tạo và lưu vong. Vào năm
1990
ông được KGB cho phép coi hồ sơ mật về trường hợp của ông.
*
Coi cái sự mân mê những vần thơ vệ quốc của những nhà thơ như
Yevtushensho là
quái trạng có lẽ không đúng. Đây là do mặc cảm phạm tội, và do cái sự
bất khả
tưởng niệm [The Inability to Mourn,
tác phẩm Alexander và Margarete
Mitscherlich, viết về sự im lặng về tội ác Nazi của dân chúng Đức] nếu
chúng ta
để ý đến trường hợp của Grass, như Coetzee viết về ông, trong bài Những
nạn
nhân [điểm cuốn Cua Bò, Crabwalk,
NYRB 12 June, 2003]:
Những người
cùng thế
hệ của Grass giữ sự im lặng bí ấn về những năm chiến tranh, Grass thú
nhận, bởi
vì mặc cảm tội lỗi cá nhân của họ vượt lên trên hết, và sự “cần thiết
chấp nhận
trách nhiệm và ăn năn hối lỗi chỉ có thể có, khi có một người nào đó
xâm mình
mở đường”.
*
Trong Quần đảo Gulag, Solz dành một chương viết về những quốc
gia lưu
vong, Tin Văn sẽ scan ấn
bản rút gọn. So
sánh với Mít, quả là toàn thể một miền đất - Miền Nam –
sau 1975, xứng đáng được gọi
là "quốc gia lưu vong". Những cú như 10 ngày cải tạo, kinh tế mới..
như được lấy ra từ sách lược của Người [Stalin].
Với mọi
quốc gia toàn thể tự
nguyện đi đầy như thế, một sử thi sẽ được viết
ra một ngày nào đó - về cái sự nó bị xé ra khỏi đất mẹ của nó, và cái
sự nó bị
huỷ diệt tại miền Siberia. Chỉ những quốc gia như thế, chính
chúng, mới
có quyền cất lên tiếng nói của chúng, để nói về tất cả những gì chúng
trải qua:
Chúng ta không có những từ ngữ để nói giùm cho chúng.
Solz
Solzhenitsyn comes back to this theme at several points. "The
imagination
of writers is poverty-stricken in regard to the native life and customs
of the
Archipelago," he writes. How could a Western writer, in particular,
describe the perturbation of a human soul placed in a cell filled to
twenty
times its capacity and with no latrine bucket, where prisoners are
taken out to
the toilet only once a day! Of course, much of the texture of this life
is
bound to be unknown to Western writers; they wouldn't realize that in
this
situation one solution was to urinate in your canvas hood, nor would
they at
all understand one prisoner's advice to another to urinate in his boot!
It takes a writer such as Shalamov to convey something, a tiny human
fragment,
of the reality of Kolyma. It takes
Primo Levi
to describe Auschwitz.
Applebaum: Gulag a history
Phải
có nhà văn như Shalamov để
viết về tí người còn sót trong trại tù Kolyma.
Primo Levi để miêu tả Lò Thiêu.