*



Chân Dung Nga
1
2
3
4
5

Chân Dung Nga: Gorki_Kharms_

Looking on a Russian Photograph, 1928/1995












Viết

Chân Dung Nga

*

Isaac Babel and his Daughter

I was filled with regret when I first discovered Isaac Babel's stories in 1975 or thereabouts. I had already written four books as well as stories of my own. Babel's stories were overwhelming. The regret I felt was that I had not read them earlier and been influenced by him.
    It was Robert Phelps, a writer whose judgment of literature was unerring, who introduced me to Babel, even prescribing the stories I should read before making up my mind, My First Goose, Dante Street, Guy de Maupassant and The King.
    I read them in a small, book-lined study that Phelps kept, separate from his apartment, on East Twelfth Street, and immediately fell under the spell of a writer I liked as much as any I had ever known.
    Babel's reputation was originally based on Red Cavalry- stories drawn closely from his experience as a correspondent attached to Budenny's forces during the bloody civil conflict that followed the revolution of 1917-1918. The writing is brilliant, original and utterly unsentimental, marked by that telltale sign of greatness, keen observation. Every sentence is like an arrow thudding into the target, and Babel is stunningly succinct. His famous dictum states that no iron can pierce the human heart so chillingly as a period put in exactly the right place.
    I have reread the stories, some published long after his death in The Atlantic, Commentary and The New Yorker, many times. They are of an unquenchable freshness and somehow have - this is Babel's genius - despite their barbarity, an immense kindness of heart. Beyond the harshness they are filled with a perverse human nobility. They have the power to console. It is a quality one finds in Turgenev, Chekhov and Tolstoy.
    Born in 1894, the son of a tractor salesman, Babel was raised in Odessa and later lived in Moscow and for brief periods in the 1920s and 1930s in Paris. He had two daughters, Nathalie and Lidya, by different wives. The photograph is of Babel and Nathalie, his oldest child, who was raised in France by her Russian mother and came to America where she taught and later edited her father's work. In Babel's kind face and high forehead, his wire-rimmed glasses, one can sense his personality: cheerful, shrewd and somewhat mischievous. There is a hint of his great wisdom. We cannot hear his voice, which was high-pitched and with a slight lisp, but from his letters and the recollections of his friends, IIya Ehrenburg and Konstantin Paustovsky among others, one gains the picture of a wonderful man. I think of him agonizing over his work, "composing" as he liked to say, writing and rewriting. Half a page a day was a huge amount for him. I think of him living in Paris on a street called Villa Chauvelot, along the sea in the mountains section of Odessa, and in meager lodgings in Moscow.
    Like Pasternak, Mandelstam, Shalom Aleichem and it's not far-fetched to include Isaac Singer, Babel was Jewish. Strangely, he seems the least known though he may be the greatest of them. Fame is a vapor. Babel's compatriot, Bunin, a generation older, won the Nobel Prize but is little read today.
    Babel was perhaps forty-six when he died. His exact fate remains unknown. Crushed by censorship and official disapproval, he was arrested in May 1939, towards the end of the terror, and disappeared into the prison camps. His trunk, which contained countless pages of unpublished work - he was famously long in revising and slow to submit stories- disappeared with him and has never been found. It, too, vanished in the pyre.
    Stalin, who was responsible for the imprisonment or death of tens of millions of his countrymen, sometimes made unexpected telephone calls from his Kremlin office at night, to Pasternak and Ilya Ehrenburg among others. Ehrenburg received such a call after Babel had been arrested. Was Babel a good writer, Stalin asked him?
    “A wonderful writer," Ehrenburg said.
    Stalin's reply was a single word,
   
"Zhalko," he said-pity-and hung up. That was the death knell.

James Salter

Note: Bài viết này, Gấu hăm he giới thiệu với độc giả TV mà quên hoài. Nó chửi bố đám nhà văn Mít. Tác giả bài viết, thú nhận, ông xb vài cuốn sách, thì mới khám phá ra Isaac Babel.
Giả như biết sớm thì đã thờ làm sư phụ, và viết bảnh hơn nhiều rồi!
Đó là về phần đệ tử…  hụt.
Về phần sư phụ…  hụt, cũng có điều dậy lũ...  Mít chúng ta, về cái sự viết, “chỉ 1 câu văn”:
Cái dấu chấm câu, thì đúng như 1 cái dùi lửa, chọc thủng tim bạn, nếu đặt đúng chỗ!

Cười Vỡ Đêm Đen

Cuối thế kỷ, chúng ta hãy thử tưởng tượng một chuyến tháp tùng Thánh Peter, giả dụ như ông thánh này kiếm được chiếc chìa khóa nhà tù Lubyanka, và thả hết những nhà văn bị giết hại ở đây: bóng dáng oan hồn độc nhất vẫn còn giữ được nụ cười ở trên môi, hẳn là Isaac Emmanuilovich Babel.
Như bà vợ thứ nhì của ông, Antonina Piozhkova, cho chúng ta biết, tiếng cười rất quan trọng đối với Babel.
Biết cười, chịu được sự bỡn cợt là một đòi hỏi, khi đọc văn chương Nga, nhưng nó còn một sắc thái văn hóa vốn nín lại những dấu hiệu mở ra niềm hoan lạc. Có tất cả, thần thái nghiêm nghị, niềm âu lo, nỗi đau khổ chịu đựng, nhưng thiếu hẳn sự rạng rỡ.
Ngay Gogol cũng gạt mọi nét hoan hỉ, trong những bức chân dung. Nabokov hình như chỉ được hưởng "tiếng cười vui", khi đã vượt biên giới tới Berlin, Paris, và Ithaca.

*
 

Đàn anh Tolstoy phán:

Nè, Chekhov, mi viết truyện ngắn bảnh lắm đó. Nhưng mà mi viết kịch, ẹ quá.

Mi viết kịch còn ẹ hơn cả Shakespeare!

Russian Portraits

The portraits that follow are from a large number of photographs recently recovered from sealed archives in Moscow, some-rumor has it-from a cache in the bottom of an elevator shaft. Five of those that follow, Akhmatova, Chekhov (with dog), Nabokov, Pasternak (with book), and Tolstoy (on horseback) are from a volume entitled The Russian Century, published early last year by Random House. Seven photographs from that research, which were not incorporated in The Russian Century, are published here for the first time: Bulgakov, Bunin, Eisenstein (in a group with Pasternak and Mayakovski), Gorki, Mayakovski, Nabokov (with mother and sister), Tolstoy (with Chekhov), and Yesenin. The photographs of Andreyev, Babel, and Kharms were supplied by the writers who did the texts on them. The photograph of Dostoyevsky is from the Bettmann archives. Writers who were thought to have an especial affinity with particular Russian authors were asked to provide the accompanying texts. We are immensely in their debt for their cooperation.

The Paris Review Winter 1995

Chân Dung Nga

Những bức hình sau đây là từ một lố mới kiếm thấy, từ những hồ sơ có đóng mộc ở Moscow, một vài bức có giai thoại riêng, thí dụ, đã được giấu kỹ trong ống thông hơi ở tận đáy thang máy! Năm trong số, Akhmatova, Chekhov [với con chó], Nabokov, Pasternak (với sách), và Tolstoy (cưỡi ngựa), từ một cuốn có tên là Thế Kỷ Nga, xb cuối năm ngoái [1997], bởi Random House. Bẩy trong cuộc tìm kiếm đó không được đưa vô cuốn Thế Kỷ Nga, và được in ở đây, lần thứ nhất: Bulgakov, Bunin, Eisenstein (trong một nhóm với Pasternak and Mayakovski), Gorki, Mayakovski, Nabokov (với mẹ và chị/em) Tolstoy (với Chekhov), and Yesenin. Hình Andreyev, Babel, và Kharms, do những nhà văn kiếm ra cung cấp, kèm bài viết của họ về chúng. Hình Dostoyevsky, từ hồ sơ Bettmann. Những nhà văn nghe nói có giai thoại, hay mối thân quen kỳ tuyệt về những tác giả Nga, thì bèn được chúng tôi yêu cầu, viết đi, viết đi, và chúng tôi thực sự cám ơn họ về mối thịnh tình, và món nợ lớn này.


Và đây là 1 giai thoại, và cũng là 1 mối thân quen kỳ tuyệt:
-Ta đếch phải là con gái của Mayakovski!
-Có thể passport giả?
-Ở Mẽo người ta không làm passport giả!

*


 

Chekhov và Tolstoy. 

 

 Như tất cả mọi người, Chekhov đã làm một chuyến hành hương tới Iasnaia Poliana. Đó là ngày 8 tháng Tám 1895. Nhà văn của chúng ta đi lang thang trên những đại lộ, hai bên đường có những hàng cây bu-lô [một loại cây hàn đới, lá nhỏ]. Và trước mặt ông, là ai kia?

 Con người vĩ đại. Đầu đội nón, mặc áo choàng trắng, khăn vắt vai, Tolstoy đi tắm sông, và kéo Chekhov cùng đi tới "khúc nước lười biếng", của con sông nhỏ Voronka. Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai nhà văn là như sau: cả hai đều khoả thân, giấu mình ở dưới nước, chỉ thò đầu lên khỏi mặt sông. Sau đó, họ về nhà, tại một nơi được chủ nhân gọi là "một góc nhỏ êm ái dành cho những câu chuyện nghiêm túc".

 Chekhov ở Iasnaia Poliana hai ngày. Bạn bè của Tolstoy đọc cho ông nghe đoạn mở đầu tác phẩm "Phục Sinh", đang đương thời vào lúc đó. Chekhov, vốn chuẩn xác, khui ra liền một hạt sạn. Nhân vật nữ ở trong truyện bị kết án hai năm lao động khổ sai tại Sibérie. Với một tội như trong trường hợp này, ít lắm cũng phải bốn niên. Để đáp lễ, Tolstoy vớ ngay cuốn viết về đảo tù Sakhaline. Ông bạn viết về, nào là cuộc sống của những tù khổ sai, đưa ra hàng loạt những thống kê… nhưng còn thiên nhiên? Chẳng có một miêu tả nào về thiên nhiên cả. Chekhov lắc đầu, tôi có tới đó để vui thú điền viên đâu, đây là một cuộc điều tra, và nó phải [làm cho người đọc] nhức nhối. Vẫn không lọt tai Tolstoy.

 Nhưng Chekhov tới Iasnaia Poliana để làm gì?

 Vào thời kỳ đó, Chekhov hết còn mê Tolstoy. Nói rõ hơn, cái thái độ, "ai vả má phải đưa má trái cho người ta vả tiếp", tức chủ trương "không-chống trả" (non-résistance) của Tolstoy đã hết còn quyến rũ ông. Trước đó, đã có thời, sách Tolstoy thuộc loại gối đầu giường, rảnh chút nào là lôi ra ghi ghi chép chép. Ông mê lý tưởng khắc kỷ thanh tịnh của Tolstoy. Nhưng cứ ra khỏi ngõ là đụng đầu với nỗi đau khổ của con người, ông bắt đầu nổi loạn chống lại chủ nghĩa Tolstoy, nếu không muốn nói là chống lại Tolstoy. Bởi vì, dù thế nào, ông vẫn tiếp tục coi đây là một nhà văn hàng đầu.

 -Khi Tolstoy mất đi, mọi chuyện đều phó thác cho quỉ sứ, ông nói với Ivan Bounine.

 -Kể cả văn chương?

 -Ờ, kể cả văn chương!

 Ông tuyên bố trước Lazarevski:

 -Có những người sợ, không dám làm những hành động xấu xa, chỉ bởi vì, Tolstoy vẫn còn đang sống.

 Vào năm 1897, ông viết thư cho Souvorine, "Đúng rồi, chúng ta là những tài năng lớn, chúng ta đại diện cho nhân loại, chúng ta luôn luôn có một điều gì để mà nói, nhưng nói phỉ phui, Tolstoy vừa nằm xuống, là chẳng ai viết nổi, dù chỉ một bài viết nho nhỏ."

 Hay là đoạn này, vào năm 1900, cho Menchikov, "Tôi lo ngại cái chết của Tolstoy. Nếu ông mất đi, là có một khoảng trống lớn ở trong đời tôi. Thứ nhất, tôi chưa hề quí một người nào nhiều như quí ông ta; tôi là một kẻ vô thần, nhưng trong tất cả những kẻ hữu thần, chỉ có ông ta là gần gụi với tôi. Thứ nữa, trong đám nhà văn, nếu có một Tolstoy, như vậy ai không cảm thấy áy náy, rằng mình "cũng là nhà văn"!

 Vả chăng, làm sao mà không biết tới Tolstoy cho được? Rozanov, tác giả cuốn "Bộ mặt u tối của đấng Christ", vốn là một trong những cộng sự viên và bạn của Souvorine, có nói, "Là người Nga mà không biết Tolstoy thì cũng buồn như là người Âu châu mà không biết dẫy núi Alpes."

 Với Chekhov, nếu ông yêu con người nhưng chống lại những tư tưởng của Tolstoy, bởi vì đã từ lâu ông quá chán "sự thôi miên của tay phù thuỷ già". Điều này thật rõ ràng, trong một số tác phẩm của ông. "Một câu chuyện tầm thường" ("Une banale histoire", còn được dịch ra tiếng Pháp là "Une morne histoire"), chống Tolstoy, ngay cả trong sự mô phỏng "Cái chết của Ivan Ilitch". Bởi vì, nếu Ilitch, sau khi biết những nỗi khủng khiếp của cái chết, đã nhìn ra ánh sáng, nhân vật Nicolai Stépanovitch cũng sa xuống tận đáy cuộc đời, nhưng chẳng hề có một ảo tưởng về một cứu rỗi, cứ thế lạc lối trong cõi âm u, như Katia, người yêu bé nhỏ mà anh ta đã để mặc cho lang thang lưu lạc cùng với đám bụi đời. Tolstoy, trong chuyện kể "Con người cần bao nhiêu đất" ("Combien de terre l’homme a-t-il besoin"), đã đưa ra câu trả lời: ba tấc là đủ; Chekhov đáp lại, trong truyện vừa (nouvelle), "Những cây lý chua" ("Les Groseilliers"): "Ba tấc là dành cho một xác chết, không phải dành cho một con người".

 Tolstoy, khi quay mình về với tông giáo, đã cho rằng Chekhov thiếu chất "tâm linh" (spiritualité). Ông than thở, "Làm cho Gorky vào đạo, còn có thể, với Chekhov, thật vô phương." Đối lại, Chekhov tuyên bố, "Tất cả những nhà hiền giả lớn lao đều đáng tởm như những viên đại tướng, và cũng vô lễ, vô ơn như là họ, bởi vì họ tin chắc, chẳng ai dám đụng tới họ. Diogène dám nhổ vào mặt người khác, bởi vì biết sẽ chẳng xẩy ra chuyện gì cho ông ta. Tolstoy thì cũng là một Diogène. Đâu có ai dám xách cổ ông ta tới đồn cảnh sát, hay tấn công ông ta trên báo chí."

 Tolstoy tỏ ra ngạc nhiên, khi thố lộ với Lydia Avilova:

 -Tôi quí ông ấy, nhưng tôi không hiểu tại sao ông ấy lại viết kịch.

 Có lần, Chekhov đến thăm Tolstoy tại Gaspra, vùng Crimée, trong toà lâu đài mà nữ bá tước Panine nhường cho ông. Ông nhà văn già còn nằm trên giường. Khi Chekhov cáo lui, ông già nói: "Hãy ôm hôn tôi". Chekhov cúi xuống, Tolstoy ôm hôn, và thừa dịp, thì thầm vào tai Chekhov: "Bạn biết đấy, tôi không chịu nổi Shakespeare, nhưng những kịch của bạn còn tồi tệ hơn nhiều."

 Một lần, vào tháng Tư năm 1887, khi Chekhov đau nặng, phải vô bệnh viện, Tolstoy đến ngồi ngay bên giường. Ông nói gì với bệnh nhân? Tương lai.

 "Nhiều khi trong cái rủi có cái may: L.N. Tolstoy đã đến thăm tôi ở bệnh viện. Chúng tôi đã có một cuộc trao đổi thật thú vị. Cực kỳ thú vị, đối với tôi, bởi vì tôi lắng nghe nhiều hơn là nói. Chúng tôi nói về bất tử."

 Bất tử, bất diệt: khi cá nhân tan hoà vào với đám đông, một đám đông to tổ bố. Chekhov không thể hiểu được [điều này], có thể là do, một bất tử bất diệt như thế chẳng nói lên được một điều gì đối với ông, và Tolstoy hoàn toàn ngạc nhiên [về thái độ của Chekhov].

 Phải mãi sau đó, thật quá trễ, bởi vì phải tới khi "Chekhov từ giã cõi đời’, vào tháng Chín 1904, Tolstoy mới đưa ra lời tuyên bố, với phóng viên đặc biệt của tờ Rous, tới tận Iasnaia Poliana để phỏng vấn ông, "Những hình thức mới mẻ đã được Chekhov sáng tạo ra, và, hãy vứt bỏ mọi thói khiêm nhường giả tạo, tôi xác định ở đây, điều này: về phương diện kỹ thuật, ông ta hơn hẳn tôi."

 Và sau đó, "Hai ngày nay, tôi đọc Chekhov, và sướng điên lên." ("Je lis Chekhov depuis deux jours, et je suis en extase". Nhật Ký, 29 tháng Ba, 1907).

 Theo Tolstoy, "Douchetchka" là số một, vượt hẳn mọi truyện ngắn khác, cũng của Chekhov. (Tatiana Tolstoy cho biết, ông đã đọc đi đọc lại bốn lần, đọc lớn giọng, cùng trong một ngày, và khẳng định, nó làm cho ông sáng mắt sáng lòng – intelligent - thêm ra!)

 "[Truyện đó] giống như một dải lụa, dệt bởi một cô gái trong trắng. Ngày xưa, có những cô gái cứ mãi mãi là những cô gái trong trắng, suốt cả cuộc đời của họ. Tất cả những giấc mơ, họ chuyển vào trong những tấm lụa mà họ dệt. Những giấc mơ về những gì thật quí giá, thật trong trắng, và cũng thật mơ hồ…"

 Đây là câu chuyện một người đàn bà không thể sống mà không yêu. Bà tiếp nhận một cách thật ngây ngô, lố bịch những tư tưởng, những thói này tật nọ của những người đàn ông mà bà yêu. Chúng thật nhiều, mà cũng chẳng thể nào giống nhau. Cuối cùng, trơ trọi, bà hết còn tỏ ra tức cười nữa, và kể như tiêu luôn, và mọi người muốn cùng khóc với bà.

 Jennifer Tran