*

 





The Keening Muse



Album

Thơ Mỗi Ngày

*

Liu Xiaobo: That Day

Vietnam (Wistawa Szymborska)

Tết 27 ( January 27 - Adam Zagajewski )

Charles Simic: Three Poems


Happy Birthday GCC


Phì Lũ

Les exclus du rêve américain

TB Nguyễn Tuân vs TB Võ Phiến


Chân Dung Nga
 Russian Portraits

The portraits that follow are from a large number of photographs recently recovered from sealed archives in Moscow, some-rumor has it-from a cache in the bottom of an elevator shaft. Five of those that follow, Akhmatova, Chekhov (with dog), Nabokov, Pasternak (with book), and Tolstoy (on horseback) are from a volume entitled The Russian Century, published early last year by Random House. Seven photographs from that research, which were not incorporated in The Russian Century, are published here for the first time: Bulgakov, Bunin, Eisenstein (in a group with Pasternak and Mayakovski), Gorki, Mayakovski, Nabokov (with mother and sister), Tolstoy (with Chekhov), and Yesenin. The photographs of Andreyev, Babel, and Kharms were supplied by the writers who did the texts on them. The photograph of Dostoyevsky is from the Bettmann archives. Writers who were thought to have an especial affinity with particular Russian authors were asked to provide the accompanying texts. We are immensely in their debt for their cooperation.

The Paris Review
1995 Winter

 *

Daniil Kharms

Trong số hàng triệu con người bị Stalin sát hại, có một nhà văn tức cười nhất, uyên nguyên nhất, của thế kỷ: Daniil Kharms. Sau khi ông chết ở trong tù, vào năm 1942, khi 37 tuổi, tên và tác phẩm của ông hầu như biến mất, và chỉ còn sống dưới dạng chép tay, lưu truyền giữa những nhóm nhỏ, ở một nơi có tên là Liên Bang Xô Viết.
Thực tình là, không có một độc giả Anh ngữ nào biết về ông. Tôi (Ian Frazier) cũng vậy, cho tới khi đi Nga, trở về, đọc những cuốn sách về nó, và cố gắng học tiếng Nga. Cô giáo của tôi, một người đàn bà trẻ chỉ ở Mỹ được vài tháng, đã ra bài làm ở nhà cho tôi như sau: hãy dịch một đoản văn của Daniil Kharms ra tiếng Anh. Đoản văn "Những mẩu chuyện từ Cuộc Đời Puskhin", (Anecdotes from the Life of Puskhin) là ở trong CTAPYXA (Bà Già), một tuyển tập nhỏ tác phẩm của Kharms, đã được xuất bản ở Moscow vào năm 1991. Tiếng Nga, hai cuốn từ điển, và một cuốn sách văn phạm, tất cả đều quá mới, lần đọc Kharms đầu tiên của tôi thật là chậm như sên. Cùng với sự mầy mò từng từ, từng câu, niềm hân hoan của tôi gia tăng, khi ý nghĩa của chúng lộ dần ra. Mỗi câu là một tức cười, hơn cả dự đoán của tôi về nó. Một đoạn văn bắt đầu như thế này: "Puskhin mê ném đá". Những mở đầu như vậy làm cho tôi nghẹt thở: làm sao đoán ra nổi cái gì sẽ tới liền sau đó.
Giữ được chất tiếu lâm, khi chuyển dịch ngôn ngữ, là một điều khó khăn vô cùng, ai nấy đều biết. Nhưng có một hệ quả, ít được biết: đôi khi, trong tiến trình dịch thuật, câu chuyện có vẻ tếu hơn là lúc thoạt đầu chúng ta nghĩ về nó. Trong khi dịch, tôi nghĩ Kharms là một nhà văn tức cười nhất mà tôi đã từng đọc.
Ian Frazier, qua cuốn Văn Chương Phi Lý Đã Mất của Nga (Russia’s Lost Literature of the Absurd), được biết, Kharms ra đời với tên Daniil Ivanovich Yuvachev, tại Petersburg vào năm 1905. Cha ông, một nhà trí thức cách mạng bị cầm tù và đầy đi Siberia. Ông thừa hưởng từ người cha, đam mê chuyện kỳ quái. Ông đau khổ vì "buồn" (that he suffered from melancholy). Mê Gogol, Knut Hamsun và Bach. Một bạn đồng học nói về ông: "Kharms là nghệ thuật" (Kharms is art). Cùng với sự lên ngôi của "nhà vô sản", và sự vào tù của "nhà quí tộc", Kharms cảm thấy thích thú trong bộ dạng một nhà quí phái, cộng thêm hàng ria mép giả thỉnh thoảng lại nhinh nhích, hinh hỉnh, cộng thêm chiếc cặp da kè kè bên mình, trong là những… chiếc ly uống rượu bằng bạc! Để lôi kéo khán thính giả cho một buổi trình diễn kịch của nhóm OBERIU, ông di dạo ở chót vót phía bên trên thành phố Saint Petersburg, miệng ngậm ống vố, và la lớn, thông báo cho những bộ hành qua lại phía bên dưới, về "biến cố quan trọng" kể trên!
Nói tóm lại, một gã vui nhộn, quá vui nhộn đối với chủ nghĩa Cộng Sản. Đối với bất cứ một ấn bản nào của Stalin, về chủ nghĩa Cộng Sản. Sau thành công của vở kịch "Elizabeth Bam", một hài kịch về một người đàn bà chờ… "được bắt và được giết", báo chí nhà nước kết án nhóm kịch của ông là… "trò múa may phản động, thơ ca vô nghĩa… chống lại nền chuyên chính vô sản". Ông bị bắt ở ngay trên đường phố, vào năm 1941. Khi vợ ông đi thăm nuôi, vào năm 1942, bà được thông báo, ông chết hai ngày trước đó. Mười bốn năm sau khi mất, tên tuổi của ông được phục hồi. Những nhà chuyên viết tiểu sử xếp ông vào danh sách: viết chuyện cho nhi đồng.

Ian Frazier



*


*

Deepa Mehta, đạo diễn người Canada, và tác giả Rushdie trên thảm đỏ chào mừng phim Những đứa con của nửa đêm. 





*

*

Note: Bức hình trên, trong số TLS 10 September, 2010, Quyền uy của nhà thơ trong thời không tưởng: Những nhà thơ trữ tình trở thành cái chó gì khi, thay vì phục vụ nữ thần thi ca, thì phục vụ nhà nước?
Bài này thần sầu!
TV sẽ đi luôn, cùng với bài của Brodsky về Akhmatova

Causework
The poet's authority in the age of utopia
ANDREW KAHN 

Clare Cavanagh

LYRIC POETRY AND MODERN POLITICS
Russia, Poland, and the West
344pp. Yale University Press
Paperback, £30 (US $45).
9780300 152968

Irena Grudzinska Gross 

CZESLAW MILOSZ AND JOSEPH BRODSKY
Fellowship of poets

362pp. Yale University Press. £30 (US $40).
9780300149379 

Sanna Turoma

BRODSKY ABROAD
Empire, tourism, nostalgia

296pp. University of Wisconsin Press.
Paperback, $29.95; distributed in the UK by
Eurospan. £26.95 .
978 0 299 23634 2


I live like a cuckoo in a clock,
I don't envy the birds of a flock.
They wind me up, and I cuckoo.
A fate like this-sad but true-
I can only wish, and do,
On an enemy or two.
1911

Tôi sống như con chim cu ở trong chiếc đồng hồ
Tôi không thích lũ chim bày đàn
Họ vặn dây thiều, và tôi cúc cu, cúc cu
Một số phần như thế - buồn nhưng thực –
Tôi chỉ có thể mong ước, và tôi làm điều này
Trên một kẻ thù, hoặc hai. 

The degree of compassion with which the various voices of this "Requiem" are rendered can be explained only by the author's Orthodox faith; the degree of understanding and forgiveness which accounts for this work's piercing, almost unbearable lyricism, only by the uniqueness of her heart, her self and this self's sense of Time. No creed would help to understand, much less forgive, let alone survive this double widowhood at the hands of the regime, this fate of her son, these forty years of being silenced and ostracized. No Anna Gorenko would be able to take it. Anna Akhmatova did, and it's as though she knew what there was in store when she took this pen name.
At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova-which explains her popularity and which, more importantly enabled her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of human ties: cherished, strained, severed. She showed these evolutions first through the prism of the individual heart, then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics anyway.
Brodsky

Mức độ so sánh được ban cho một số giọng nói ở trong Kinh Cầu có thể giải thích bằng niềm tin Chính Thống Giáo của tác giả; mức độ hiểu biết và tha thứ ở trong Kinh Cầu, sự nhức nhối, giọng trữ tình không thể nào chịu đựng nổi của nó, có được, là do sự độc nhất vô nhị của trái tim của bà, của cái ngã của bà, và cảm quan về Thời Gian của cái ngã này. Chẳng có cái rùng mình nào có thể giúp hiểu biết, chưa nói đến tha thứ, đừng nói chuyện, sống sót tình trạng ở goá kép dưới bàn tay của chế độ, số phần của đứa con trai, bốn chục năm bị bịt miệng và phát vãng. Không một Anna Gorenko nào có thể chịu nổi. Nhưng Anna Akhmatova thì lại được.
Khi chọn lựa cái bút hiệu đó từ trong kho dự trữ, bà biết điều này.

*

Dante

Chàng đếch thèm trở lại
Ngay cả sau khi mất
Thành phố Hà Lội của chàng
Rời bỏ, chàng đi thẳng một mách
Vì chàng mà tôi hát bài hát này
Đêm. Một bó đuốc. Nụ hôn sau cùng.
Bên ngoài, âm thanh số mệnh – Như gió hú
Từ Địa Ngục, chàng gửi cho nàng một lời trù ẻo.
Ở Thiên Đàng, nàng vẫn giữ chàng ở trong đầu
Chàng không bước chân trần, muộn trong đêm
Bị quyến rũ, như 1 tên tội đồ
Qua Hà Lội - phản bội, đầy hờn oán
Thành phố chàng chân thành ao ước.

Bài thơ trên, kỳ cục thay - tuyệt vời thay - làm liên tưởng tới nhà thơ tội đồ gốc Bắc Kít, trong bài thơ nhớ vợ; cũng cái giọng ngôi thứ nhất, cũng chỉ là riêng tư, mà trở thành “sử thi” của lũ Ngụy.
Bài thơ thần sầu nhất của Thơ Ở Đâu Xa:
Đâu có phải tự nhiên mà đám sĩ quan VNCH lại phổ thơ, và đi đường tụng ca, khi còn ở trong tù VC.
Mỗi ông thì đều có 1 bà vợ như vậy.

Bài nhớ thi sĩ

Nhớ Già Ung *
Gửi MT

Sáng nay thức giấc trong nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết thời trẻ
Bừng cháy trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang buổi tình đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù tối
Trễ muộn mùa xuân trên miền cao
Đang lay thức rừng núi biên giới
Đã qua đã qua chuỗi ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên đồi theo vào đêm
hành hạ anh đớn đau

Từ bao giờ anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai nhìn qua song tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút
(Bình minh bình minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)

Em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm

Đêm vây hãm lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn đốn

Em, soi bóng em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.

Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79
Thanh Tâm Tuyền
Thơ Ở Đâu Xa

Ghi chú của tác giả:
Già Ung: Giuseppe Ungaretti (1898-1970). Thi sĩ Ý

Ghi chú của người sao lục:
Bài Nhớ Thi Sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo, đã được nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2.

I asked a nearby cuckoo to say
How many years I had left to live.
The tops of the pine trees started to sway,
Sunbeams poured down as if through a sieve,
But in the woods, not a sound was heard.
I'm walking homeward now,
And the cool wind, self-assured,
Soothes my fevered brow.
1919
Akhmatova 

Gấu hỏi chú cu cu gần đó, mấy năm nữa thì tớ ngỏm
Những ngọn thông bắt đầu lắc lư
Nắng đổ xuống như xuyên qua một cái xàng
Nhưng trong rừng đếch nghe một tiếng động
Gấu bi giờ đi về phía nhà Mít
Và ngọn gió mát, rất tự tin về chính nó,
Phán ngay bong về cái trán sốt hừng hực của Gấu

At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova-which explains her popularity and which, more importantly enabled her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of human ties: cherished, strained, severed. She showed the revolutions first through the prism of the individual heart, then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics anyway.
Brodsky 

Vào một vài thời điểm lịch sử, chỉ có thơ là có thể đương đầu, ăn thua đủ, hay, lèm bèm với thực tại, bằng cách nén nó lại thành một điều gì gọn thon lỏn, điều mà cái đầu đầu hàng không làm sao cất giữ.

Đúng ra nên dịch là, “điều mà nếu không làm như thế - làm cho gọn lỏn - thì cái đầu chịu thua”. Nhưng nếu dịch như thế, thì hoá ra thơ phải chiều thực tại, chiều Cái Ác Bắc Kít, chịu thua Trại Tù?

Nhà thơ TTT khi đụng đầu câu hỏi, tại làm sao mà ở ngay giữa Lò Cải Tạo mà vẫn làm được thơ, bèn giải thích, Mít đếch nói “viết thơ”, mà nói, “làm thơ”:

Và làm thơ trong trại cải tạo, đó cũng là trở về với thơ ca bình dân. Chế độ lao động trong trại, đó là một ngày căng thẳng tám tiếng, không có cuối tuần; mỗi tù nhân có riêng một vũ trụ của anh ta: một cái chiếu, chừng năm, sáu chục tù nhân trên dưới hai lớp, trong tấm "toan" trên trăm tù. Viết là một xa xỉ: chỗ ngồi, thời gian viết. Với nhịp tù hối hả như thế, cái lạnh, cái đói... ai dám nghĩ đến sáng tạo? Ngay cả thiên tài, ngay một sức mạnh siêu nhiên cũng chẳng thể vượt qua, những "trói buộc" này. Tuy nhiên, người Việt nói "làm thơ", không ai nói "viết thơ". Như vậy, người ta có thể làm thơ bất cứ ở đâu, trong bất cứ vị trí nào: đi, đứng, nằm, ngồi, thức... Thơ gặp anh không cần hò hẹn, không định rõ ngày giờ. Người ta không thể kiếm nó, vì biết đâu mà kiếm. Bạn chỉ có một việc: tiếp nhận nó, bàn bạc cùng nó. Nó chỉ yêu cầu bạn: hãy giữ tiếng nói chơn chất của bạn. Tiếng nói này, sau đó, sẽ quyết định cuộc đời của riêng nó.

Đó cũng là điều nhạc sến làm được!



*

Khách sạn Hilton, Hà Nội

Chẳng có ai người cười nổi, những ngày đó
Ngoại trừ những người chết, sau cùng tìm thấy sự bình an
Như 1 cánh tay thừa thãi, 1 sức nặng vô dụng
Hà Nội đong đưa quanh Hỏa Lò
Hàng theo hàng, đám Ngụy diễu [không phải diễn] hành,
Khùng vì đau, nhắm nỗi bất hạnh của họ
Bài ca vĩnh biệt, sắc, gọn
Tiếng còi tầu chở súc vật rú lên
Ngôi sao thần chết đứng sững trên nền trời Hà Nội
Và xứ Bắc Kít, ngây thơ vô tội,
Quằn quại dưới gót giầy máu
Dưới bánh xe chở tù.

Không phải tôi. Ai đó đau khổ
Tôi làm sao chịu nổi nỗi đau đó
Hãy choàng nó bằng vải liệm đen
Và mang đèn đi chỗ khác
Đêm rồi!

Akhmatova: Kinh Cầu

Note: Bài giới thiệu tập thơ Akhmatova, của Brodsky, được in trong Less Than One, với cái tên: The Kneeling Muse. Nữ thần thơ ca ai oán
TV sẽ dịch bài này, làm thành“bộ ba”, “trilogy”, hai bài còn lại là Trong Căn Phòng Rưỡi, Tưởng Niệm Nadezhda Mandelstam [1899-1980].

Akhamatova, có vẻ như được sửa soạn để đóng cái vai của bà, hơn hầu hết những nhà thơ cùng thời. Ngoài ra, vào lúc xẩy ra Cách Mạng, bà 28 tuổi , không quá trẻ để tin hay không tin, và cũng không quá già để biện minh cho nó. Sau đó, là 1 người đàn bà, trong vai “gái” [“cái” cũng được] thì cũng khó mà thổi Cách Mạng, hay kết án nó. Bà cũng không quyết định thay đổi trật tự xã hội….

Đọc bài viết của Brodsky về Akhmatova, nữ thần thơ bi ai Nga, thì Gấu ngộ ra điều, tại sao mà GCC này chịu không nổi, phải nói, tởm, cái giọng của đám VC ly khai, thứ ngôn ngữ nhơ bẩn, “máu què”, thí dụ, cũng như cái giọng gà mái gáy của Sến, vẫn thí dụ.

Nhà thơ chỉ phán một câu thôi: Bà nhận ra nỗi đau, she recognized grief.
Và trước đó, Brodsky giải thích:
Bà không vứt Cách Mạng vào thùng rác. Một dáng đứng thách đố cũng đếch hợp với bà. Bà giản dị coi nó như là nó có, và chấp nhận nó, như là nó xẩy ra: cơn đau của cả nước, đau chừng nào, nỗi đau của mỗi cá nhân, đau theo chừng đó.

The poet is a born democrat not thanks to the precariousness of his position only but because he caters to the entire nation and employs its language: Nhà thơ sinh ra, và bèn dân chủ, không phải chỉ vì cái bấp bênh của dáng đứng, vị trí của mình, mà còn bởi cái sự mua vui cho đời, cho cả nước, và sử dụng cái ngôn ngữ của nó.
Cũng thế, là bi kịch.

Đâu có phải cứ đụng tới chữ nghĩa, tới văn chương, tới thơ ca, là vãi nước đái ra, hoặc văng tục, hoặc gáy?

Bearing the Burden of Witness:
Requiem 

Requiem was born of an event that was personally shattering and at the same time horrifically common: the unjust arrest and threatened death of a loved one. It is thus a work with both a private and a public dimension, a lyric and an epic poem. As befits a lyric poem, it is a first-person work arising from an individual's experiences and perceptions. Yet there is always a recognition, stated or unstated, that while the narrator's sufferings are individual they are anything but unique: as befits an epic poet, she speaks of the experience of a nation.

The Word That Causes Death’s Defeat
Cái từ đuổi Thần Chết chạy có cờ

Kinh Cầu đẻ ra từ một sự kiện, nỗi đau cá nhân xé ruột xé gan, và cùng lúc, nó lại rất là của chung của cả nước, một cách cực kỳ ghê rợn: cái sự bắt bớ khốn kiếp của nhà nước và cái chết đe dọa người thân thương ruột thịt. Bởi thế mà nó có 1 kích thước vừa rất đỗi riêng tư vừa rất ư mọi người, rất ư công chúng, một bài thơ trữ tình và cùng lúc, sử thi. Nó là tác phẩm của ngôi thứ nhất, thoát ra từ kinh nghiệm, cảm nhận cá nhân. Tuy nhiên, trong lúc chỉ là 1 cá nhân đau đớn rên rỉ như thế, thì nó lại là độc nhất: như sử thi, bài thơ nói lên kinh nghiệm toàn quốc gia….

Đáp ứng, của Akhmatova, khi Nikolai Gumuilyov, chồng bà, 35 tuổi, thi sĩ, nhà ngữ văn, trong danh sách 61 người, bị xử bắn không cần bản án, vì tội âm mưu, phản cách mạng, cho thấy quyết tâm của bà, vinh danh người chết và gìn giữ hồi ức của họ giữa người sống, the determination to honor the dead, and to preserve their memory among the living….

Solzhenitsyn đã không nhận ra điều này, như trong cuốn sách kể ra, về lần gặp gỡ giữa ông và Akhmatova...


Sĩ phu Bắc Kít vs Dalai Lama

Gấu nhiều lần lèm bèm, sĩ phu Bắc Kít bị liệt một nửa bộ não, ngay cả ["nhất là", mới đúng] đấng Nobel Toán!
Thú vị quá, với riêng Gấu, Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Tẫu VC!

“Tôi nói với Tông Tông Mẽo, Obama, đám Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, bộ não của họ bị thiến mất 1 mẩu, đúng mẩu có cái gọi là lương tri của con người”. Đức Dalai Lama nói với tôi, [ký giả Jonathan Mirsky của tờ NYRB] trong lần lèm bèm giữa chúng tôi tại London vào giữa Tháng Sáu, 2012

Evil Axis

Nhân đây tôi cũng hi vọng bài viết này không bị tất cả các trang của chính quyền ma này đồng loạt đăng lại, như trường hợp bài “Báo quan” mới đây. Không thể tránh, nhưng tôi không mong có những đồng minh bất ngờ như thế. (1)

Đám mê đội dĩa Sến [như DDTK, NV của băng Cờ Lăng, Diễn Đàn HV…  thí dụ], có thấy nhục & nhột...  không?
NQT


*

Traduit du silence

Journal intime
FRANZ KAFKA
Traduit (de l'allemand) et préfacé
par Pierre Klossowski
Ed. Rivages poche. 256 p .. 9 €.

En 1936, Pierre Klossowski publia la version francaise d'un texte prophétique de Walter Benjamin, qu'il intitula: L'Oeuvre d'art à l’époque de sa reproduction mécanisée. À Adrienne Monnier, irnpressionnée par son travail, il ne cacha pas ses réserves sur cette traduction, trop libre au gout du « visionnaire », rencontré à l'époque où il participait aux « agglutinations Breton-Bataille ».
L’écrivain berlinois venait de saluer en Kafka, mort douze ans auparavant, un habitant du pays de l'oubli, «réservoir d'où surgit la lumière ». Klossowski se souvenait sans doute de ces lignes quand, en 1945, avant l'édition presque définitive que devait parachever Marthe Robert, il proposa une traduction du Journal de Kafka, et dit, au sujet de ces cahiers, en partie détruits par leur auteur et certainement jamais lus par aucun de ses proches, homis Milena Jesenska: C'est le journal d'un malade qui désire la guérison, qui croit à la santé.
Georges Bataille s'empara de ces pages et les commenta en 1950, tout au long d'une étude, incluse par la suite dans La Littérature et le Mal, où Kafka plaide coupable, ayant cornmis, enfant, le “crime de lire », puis, une fois parvenu a l'âge d'homme, le « crime d'écrire », tout en demeurant dans la “puérilité du rêve ». La littérature fut-elle pour Kafka ce que la Terre promise fut pour Moise? En octobre 1921, il nota que si ce dernier n'atteignit pas Chanaan, ce n'est pas parce que sa vie fut trop brève, mais parce que c'était une vie humaine. Commencé au moment ou, malgré quelques couacs, i1 composait Richard et Samuel, de concert avec Max Brod, le Journal de Kafka l'Éléate est le livre des impossibilitiés: impossibilité d'écrire, d'écrire en allemand, ou d'écrire autrement, impossibilité de tourner le dos à sa judéite, ou de l'accepter pleinement, impossibilité d'approuver le celibat, et de supporter la vie en commun ...
Rappelons seulement les allusions aux armes d'estoc et de taille dont le Journal est émaillé. Ce sent aut ant d'indications des luttes que menait un « isole », a couteau tire avec le monde (Klossowski, lui-même admirateur de Soren Kierkegaard, esquisse dans son introduction une comparaison entre Franz Kafka et ce dernier). Résolu à défendrc sa solitude, à se preserver des relations humaines, jamais exemptés de mensonges, il voulait s'en tenir à un cercle limité, mais pur. Cette résistance est d'une innocence d'autant plus diabolique que, selon Georges Bataille, elle s'accompagne d'un refus de l'action: la manière qu'avait 1'« exclu » de s'incliner devant l'autorité est « plus violente qu'une affirmation criée'», Dès lors, Maurice Blanchot l'avait relevé dans un texte de 1949, l'impossibilité est plus qu'une impossibilité: écrire, c'est s'ernpecher d'écrire, mais c'est aussi « nommer le silence”, réchapper au silence des sirènes.

LINDA LÊ 

*


The Keening Muse

Prologue

There was no one who smiled in those days
Except the dead, who'd found peace at last
Like a tacked-on extra, a useless weight,
From its prisons dangled Leningrad
Rank on rank the condemned marched along
Crazed with pain, driven to their doom,
Their one farewell the short sharp song
The whistles of the cattle-trains blew.
The stars of death rose and stood above,
And Russia, guiltless, tormented, writhed,
Trampled under boots stained red with blood
And crushed by the Black Marias' tires.
[From The Word That Causes Death's Defeat]

This happened when only the dead wore smiles –
They rejoiced at being safe from harm.
And Leningrad dangles from its jails
Like some unnecessary arm.
And when the hosts of those convicted,
Marched by-mad, tormented throngs,
And train whistles were restricted
To singing separation songs.
The stars of death stood overhead,
And guiltless Russia, that pariah,
Writhed under boots, all blood-bespattered,
And the wheels of many a black maria.
1935

3.

No, this isn't me, someone else suffers,
I couldn't stand it. All that's happened
They should wrap up in black covers,
The streetlights should be taken away
Night.
1939

[From Akhmatova Poems]

Chẳng có ai người cười nổi, những ngày đó
Ngoại trừ những người chết, sau cùng tìm thấy sự bình an
Như 1 cánh tay thừa thãi, 1 sức nặng vô dụng
Hà Nội đong đưa quanh Hỏa Lò
Hàng theo hàng, đám Ngụy diễu [không phải diễn] hành,
Khùng vì đau, nhắm nỗi bất hạnh của họ
Bài ca vĩnh biệt, sắc, gọn
Tiếng còi tầu chở súc vật rú lên
Ngôi sao thần chết đứng sững trên nền trời Hà Nội
Và xứ Bắc Kít, ngây thơ vô tội,
Quằn quại dưới gót giầy máu
Dưới bánh xe chở tù.

Không phải tôi. Ai đó đau khổ
Tôi làm sao chịu nổi nỗi đau đó
Hãy choàng nó bằng vải liệm đen
Và mang đèn đi chỗ khác
Đêm rồi!

Akhmatova: Kinh Cầu

Note: Bài giới thiệu tập thơ Akhmatova, của Brodsky, được in trong Less Than One, với cái tên: The Keening Muse. Nữ thần thơ ca ai oán
TV sẽ dịch bài này, làm thành“bộ ba”, “trilogy”, hai bài còn lại là Trong Căn Phòng Rưỡi, Tưởng Niệm Nadezhda Mandelstam [1899-1980].


The Keening Muse

Akhamatova, có vẻ như được sửa soạn để đóng cái vai của bà, hơn hầu hết những nhà thơ cùng thời. Ngoài ra, vào lúc xẩy ra Cách Mạng, bà 28 tuổi , không quá trẻ để tin hay không tin, và cũng không quá già để biện minh cho nó. Sau đó, là 1 người đàn bà, trong vai “gái” [“cái” cũng được] thì cũng khó mà thổi Cách Mạng, hay kết án nó. Bà cũng không quyết định thay đổi trật tự xã hội,

Akhmatova, to say the least, seemed better prepared for this encounter than most of her contemporaries. Besides, by the time of the Revolution she was twenty-eight years old: that is, neither young enough to believe in it nor too old to justify it. Furthermore, she was a woman, and it would he equally unseemly for her to extol or condemn the event.

Nor did she decide to accept the change of social order as an invitation to loosen her meter and associative chains. for art doesn't imitate life if only for fear of clichés. She remained true to her diction, to its private timbre, to reracting rather than reflecting life through the prism of the individual heart. Except that the choice of detail whose role in a poem previously was to shift attention from an emotionally pregnant issue presently began to be less and less of a solace, overshadowing the issue itself.

She didn't reject the Revolution: a defiant pose wasn't for her either. Using latter-day locution, she internalized it. She simply took it for what it was: a terrible national upheaval which meant a tremendous increase of grief per individual. She understood this not only because her own share went too high but first and foremost through her very craft. The poet is a born democrat not thanks to the precariousness of his position only but because he caters to the entire nation and employs its language. So does tragedy, and hence their affinity. Akhmatova, whose verse always gravitated to the vernacular, to the idiom of folk song, could identify with the people more thoroughly than those who were pushing at the time their literary or other programs: she simply recognized grief.

Moreover, to say that she identified with the people is to introduce a rationalization which never took place because of its inevitable redundancy. She was a part of the whole, and the pseudonym just furthered her class anonymity. In addition, she always disdained the air of superiority present in the word "poet." "I don't understand these big words," she used to say, "poet, billiard." This wasn't humility; this was the result of the sober perspective in which she kept her existence. The very persistence of love as the theme of her poetry indicates her proximity to the average person. If she differed from her public it was in that her ethics weren't subject to historical adjustment.

Other than that, she was like everybody else. Besides, the times themselves didn't allow for great variety. If her poems weren't exactly the vox populi, it's because a nation never speaks with one voice. But neither was her voice that of the crème de la crème, if only because it was totally devoid of the populist nostalgia so peculiar to the Russian intelligentsia. The "we" that she starts to use about this time in self-defense against the impersonality of pain inflicted by history was broadened to this pronoun's linguistic limits not by herself but by the rest of the speakers of this language. Because of the quality of the future, this "we" was there to stay and the authority of its user to grow.

Brodsky: The Keening Muse