Phỏng vấn George Steiner
Ronald A. Sharp
Lời người dịch:
Lần đầu tiên, tôi ((NQT) làm quen với G. Steiner, nhân
chuyến ghé thư viện Toronto, Canada, tình cờ cầm cuốn Ngôn Ngữ và Câm
Lặng, lật
đúng bài Nhà Văn và chủ nghĩa Cộng Sản, trong có nhắc tới cuốn Bác Sĩ [Dr] Zhivago của
Pasternak, vốn là một trong những cuốn
vỡ lòng của tôi. Thế
là photocopy ngay tại chỗ, về nhà dịch liền, gửi đăng trên tạp chí Hợp
Lưu ở
Mỹ.
Thuở mới lớn, tôi "mê" Roland Barthes, cách ông
đặt vấn đề ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ phê bình... G. Steiner mở cho
tôi
chiều sâu tối đen của ngôn ngữ, sự câm lặng:
"Thi sĩ phải thôi đi sao? Trong một thời đại mà con
người bị khiến phải thổi kèn đồng [hãy nhớ những dòng thơ xưng tụng
Stalin của
Tố Hữu, chẳng hạn], hoặc tru tréo nỗi khổ đau của mình như sâu bọ, như
lũ
chuột, tiếng nói văn chương, thứ tiếng mang tính người nhất trong tất
cả mọi
thứ: liệu có còn được không?"
(Should the poet cease? In a time when men are made to pipe
or squeak their sufferings like beetles and mice, is literate speech,
of all
things the most human, still possible?)
Ronald A. Sharp, người phỏng vấn Geprge Steiner, là giáo sư
môn Anh văn (the John Crowe Ransom Professor of English) tại trường Kenyon College.
Ông là đồng-biên tập The Norton Book of Friendship, cùng với Eudora
Welty, và
là người biên tập cuốn Đọc (Reading)
George Steiner.
Lời người phỏng vấn: Cuộc phỏng vấn
được thực hiện vào mùa
thu năm 1994, vài ngày trước khi G. Steiner đảm nhiệm kiêm khai sáng bộ
môn văn
chương so sánh (the first occupant of the Lord Weidenfeld Professorship
of
Comparative Literature), tại đại học Oxford.
Từ 700 năm nay, đây là lần đầu tiên có một chức vị như thế, tại Oxford
hay
Cambridge, bởi vì nước Anh trước đó chưa chấp nhận giá trị môn học này,
và
Steiner thường được đón nhận ở Anh như một thế giá phức tạp, gây tranh
cãi; sự
bổ nhiệm ông đã được đón nhận bằng một sự quan tâm nhiệt liệt của giới
báo chí,
và họ coi đây như là sự trở về của đứa con hoang đàng.
Sinh tại Paris,
vào năm 1929. Cha mẹ người thành Vienne,
gốc
Do Thái. Steiner qua Mỹ vào năm 1940. Tốt nghiệp Cử Nhân (B.A.) đại học
Chicago, Cao Học (M.A.), Harvard, và Tiến Sĩ (D. Phil.), Oxford; tại
đây, như
ông sẽ hóm hỉnh nhắc lại cùng với cử tọa, trong bài thuyết trình mở ra
khóa
học: khi soạn luận án tiến sĩ, bản văn đầu tiên của ông đã bị [mấy ông
thầy]
loại bỏ, vì quá gần gụi với một môn học mà Oxford không giảng dậy những
ngày
đó: văn chương so sánh.
Ông dậy tại nhiều đại học Mỹ, như
Stanford, Đại Học New York
(NYU), và Princeton, nhưng Anh Quốc và Thụy Sĩ mới là những khung cảnh
chính
trong sự nghiệp giảng dậy ở đại học của ông (the main settings of his
academic
career) (1). Tại đại học Geneva,
ông giữ chức giáo sư môn văn chương so sánh cho tới khi ông nghỉ hưu.
Tại đại
học Cambridge, ông giữ chức vị được phong suốt đời là Nghiên Cứu Sinh
(Người
Bạn Khác Thường, Extraordinary Fellow) của Học viện Churchill. Ông hiện
đảm
nhận những khóa giảng ngắn ngày tại nhiều đại học Ý, và ở Geneva.
Danh sách tác phẩm của ông thật dài.
Trong đó bao gồm phê
bình văn chương, triết học, và văn hóa: Tolstoy hay là Dostoevsky
(1959), Cái
Chết của Bi Kịch (1961), Ngôn Ngữ và Câm Lặng (1967), Ngoại Địa
(Extraterritorial 1971), Trong Lâu Đài Yêu Tinh Râu Xanh (In
Bluebeard's
Castle, 1971), Lực Trường (Fields of Force): (kỳ thủ) Fischer và
Spassky tại
Reykjavik (1973), Sau Babel (After Babel, 1975, ấn bản sửa chữa, 1992).
Về Sự
Khó Khăn và Những Tiểu Luận Khác (On Difficulty and Other Essays,
1978), Martin
Heidegger (1978), Antigones (1984), George Steiner: Độc Bản (A Reader
1984), và
Những Hiện Diện Thực (Real Presences (1989). Thêm vào đó, là ba tác
phẩm thuộc
loại giả tưởng: Năm của Chúa (Anno Domini): Ba Truyện Ngắn (1964), tiểu
thuyết
The Portage to San Cristobal of A.H. (1981), Chứng Cứ và Ba Dụ Ngôn
(Proofs and
Three Parables, 1993). Ông phụ trách biên tập (cùng với Robert Fagles)
Homer:
Tuyển Tập những Tiểu Luận Phê Bình (1962), và Cuốn Sách Thơ Dịch Hiện
Đại của
nhà xb Penguin (1966). Những tác phẩm mới nhất của ông gồm một tuyển
tập giả
tưởng: The Deeps of the Sea (Biển Sâu, nhà xb Faber&Faber, 1995),
Mê Đắm
Chẳng Hoài (No Passion Spent, tuyển tập tiểu luận, nhà xb Yale
University,
1996), và Đính Chính (Errata), một dạng hồi ký.
Chính vì kinh lịch đa dạng, sở học bao
la, cho nên thật khó
mà khép ông vào bất cứ một phạm trù hiện thời nào, như văn học, trí
thức, hay
văn hóa. Dịch thuật được ông quan tâm suốt sự nghiệp, nó đưa ra một ẩn
dụ đẹp
nhất, về việc làm của ông: dịch thuật theo nghĩa vượt biên giới, biên
cương; và
băng từ môn này qua môn khác.
Điểm đặc thù trội bật, ở cả Steiner
lẫn tác phẩm của ông:
trí tuệ, luôn trong dạng học vấn bao la, trong khiếu kể chuyện tuyệt
vời. Ngay
cả khi suy lý nhất, lý thuyết nhất, họa hoằn Steiner mới dằn được, việc
nêu ra
một giai thoại minh họa. Và cái lạc thú khi ông kể những câu chuyện
này, còn
toát ra từ thân thể ông.
Mặc dù về tâm tính có khoan dung phi
thường, nhưng tinh quái
có tính truyền kỳ vẫn lồ lộ ở nơi ông. Ông có thể tranh luận "tới
chỉ", ông "mê" một phát biểu hay ho (good argument), nhất là khi
gặp một đối thủ xứng tay; khi những thách đố, đặt cuộc trí tuệ, là ở
trên đỉnh.
Những lần nói chuyện diễn ra ở hai
nơi, ở văn phòng rất
thoáng của Steiner tại Học viện Churchill, và tại phòng khách ở nhà
riêng,
trong vùng Cambridge.
Trên giá sách, người ta thấy hàng chục bộ cờ, phản ảnh một trong những
say mê
sâu thẳm của ông, nằm kề [sưu tập] những bản in lần đầu, của Heidegger
và Kant,
của Coleridge và Byron. Thoải mái trong áo len dệt, quần thụng, Steiner
chồm
tới vuốt ve Jemi, loại chó chăn cừu cổ xưa của Anh, mớm cho cô nàng
những miếng
bánh ngọt có sô cô la sau bữa ăn chiều. Suốt ngày chuông điện thoại
reo, từ
những người chúc mừng nhân dịp ông được bổ nhiệm vào ghế văn chương so
sánh tại Oxford.
Steiner
thoải mái chuyển từ tiếng Anh qua tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Ý. Chỉ
vài ngày
nữa, hơn một ngàn người sẽ chen vào giảng đường Phục Hưng tại Oxford,
nghe ông
mở ra khóa học.
Người phỏng vấn: Ông có lần nhắc tới
"kiên nhẫn nắm
bắt" (patience of apprehension), và "hỏi tra phơi mở"
(open-endedness of asking), theo đó giả tưởng có thể nhập cuộc; nhưng
ông lại
mô tả những giả tưởng của ông như là "những ám dụ tranh luận, những dàn
dựng tư tưởng". Liệu ông vẫn coi chúng là "những dàn dựng tư
tưởng"?
George Steiner: Đúng là như vậy. Văn
giả tưởng của tôi, nằm
trong tổng mục chung chung, của những giáo sư, những nhà phê bình, học
giả;
những người thích thử thách chính bàn tay của họ, một hoặc hai lần
trong đời,
thể loại giả tưởng. Những truyện đầu cho thấy một gợi ý về câu hỏi
trung tâm
của tôi. Tôi cho rằng The Portage
to San Cristobal
of A.H (2) còn hơn thế nữa. Cuốn sách
này có thể có một cuộc đời nào đó. Proofs
là một dụ ngôn khác, một dụ ngôn trí thức; những diễn văn trong A.H., những phần đoạn trong cuốn tiểu
thuyết, có lẽ thực sự làm người đọc xúc động, chúng cũng là những tiểu
luận.
Tôi biết điều đó. Chúng là những phát biểu, tuyên bố đề thuyết, niềm
tin, xác
tín, tra hỏi. Sự bí mật, theo đó, bằng cách nào, một nghệ sĩ sáng tạo -
chúng
ta chưa có câu trả lời - tạo ra được một tiếng nói, một nhân vật
ba-chiều,
mười-chiều, có được một cuộc sống độc lập, sự bí mật này thật ít dính
dáng tới
những quyền năng thuần lý trí, hay mang tính hệ thống, phân tích. Có
những tiểu
thuyết gia hết sức thông minh, Trời biết, và có thể Proust là một cái
đầu mạnh
mẽ nhất của thế kỷ, theo một số cung cách nào đó, nhưng rất nhiều người
không
theo cung cách như vậy. Họ chẳng thể nào cho biết chuyện hội ngộ - giữa
họ và
ngôn ngữ - tạo nên sự sống động, cái điều (đang) diễn ra trước mắt bạn,
khiến
bạn quên cả tên tác giả. Đó là thiên tài, đó là sáng tạo, và chắc chắn
là tôi
không có nó. Hai trang của Chekhov đem đến cho bạn cả một thế giới, và
không
thế nào bạn quên nổi những tiếng nói. Chúng đây này, chúng có đó. Đó là
một điều
khác hẳn, mà một người nào đó như tôi, có thể làm được.
-Như vậy, vai trò tư tưởng trong giả
tưởng chỉ là phụ thuộc?
-Đúng là một câu hỏi hắc búa. Có những
cuốn tiểu thuyết mà
người ta gọi là lớn, chúng sống do nội dung mang tính ý thức hệ, mang
tính trí
thức. Khá nhiều tiểu thuyết của Thomas Mann là theo kiểu này. Cuốn Người Không Phẩm Chất (Man Without
Qualities) của Musil, được hằng hà những triết gia cũng như là
những nhà
phê bình văn học bàn về nó. Nhưng cái này hiếm. Đừng đòi một chuyện như
thế, ở
nhà tạo giả tưởng dị thường nhất của thời đại chúng ta - đừng cười tôi
chứ,
bạn! - người đó là Georges Simenon (3). Tôi có thể lấy trên giá sách
của tôi,
chừng 10 hay 12 cuốn về Maigret, và nếu phải so với 5 hay 10 trang của
Balzac,
hay 20 trang của Dickens (ông này nhẩn nha thuộc bậc thầy, Balzac cũng
vậy):
Simenon chỉ cần hai hoặc ba đoạn. Có một cuốn Maigret mở ra với một
tiếng ồn
lớn. Ba giờ sáng tại khu Pigalle, khu phố cổ đèn đỏ Paris, tay chủ quán rượu kéo tấm sắt
đóng cửa
tiệm. Rầm một tiếng. Dội ra từ đó, là tiếng xe giao sữa, tiếng chân kẻ
ăn sương
trở về nhà kiếm giấc ngủ, tiếng người đi vô Khu Cầu Muối (Les Halles)
kiếm đồ
ăn sẵn, cho một ngày đang ló dạng. Simenon không chỉ đem đến cho bạn
một thành
phố, không chỉ một điều không một sử gia nào có thể vượt được, về nước
Pháp,
nhưng còn điều này: rằng hai hoặc ba con người liên quan tới câu
chuyện, đã sẵn
sàng trước mắt bạn. Bằng một cách nào đó, Simenon cho bạn nhận ra rằng
những
bước chân của người đàn ông vừa đóng sập tấm cửa, rồi những tiếng chân
rời xa
quán, cách chúng lết đi gợi sự tò mòø. Và thế là bạn nhập vô mấu chốt
quan
trọng thứ nhất của câu chuyện. Đó là cái gọi là mysterium tremendum
(điều rất
thiêng) (4), về sáng tạo ra một nhân vật tự chủ. Nhưng vâng, đó có thể
là ý
thức hệ. Tôi may được quen Arthur Koestler, biết được cái điều: ai mà
chẳng dám
đánh đổi tất cả, nếu viết được một tác phẩm như là Bóng
Đêm Giữa Ban Ngày: một trong những hành động tối thượng của tư
tưởng. Đối với tôi, đây là một trường hợp biên cương [giữa văn học và ý
hệ]. Nó
sẽ vẫn còn được đọc, không chỉ vì Gletkin và Rubashov là những nhân vật
giả
tưởng, mà còn vì những tranh luận về chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Marx,
về sự
tra tấn, và khủng bố: đâu là bản chất của sự dấn thân tới chết, với ý
hệ? Đâu
là bản chất của dối trá, nhằm bảo vệ chính nghĩa? Đúng là một cuốn sách
giầu
có. Koestler đưa vô, khá đủ độ đậm của cuộc sống, khiến nó không nghèo
nàn như
là một kịch bản về ý hệ.
-Ông vẫn còn thích viết giả tưởng?
-Vâng, nhưng tôi chưa vươn tới tầm,
xứng với những đề tài
làm tôi đứt ruột đứt gan. Tôi cứ trở đi trở lại hoài với khởi đầu một
câu
chuyện, hay là một cuốn tiểu thuyết nho nhỏ, về một đề tài như sau:
chúng ta
hoặc đang ở một hòn đảo Hy Lạp thời kỳ mấy ông tướng, hay ở Thổ Nhĩ Kỳ,
hay Nam
Mỹ: bất cứ một nơi nào trên trái đất, nhưng phải là một chế độ cảnh sát
trị.
Một người đàn ông trở về nhà với vợ con, và vào cái lúc họ đi vô giường
ngủ,
hay ở bàn ăn, bà vợ ngửi thấy mùi tra tấn ở ông chồng (anh ta đã tra
tấn người
suốt buổi). Anh ta chẳng bao giờ nói về chuyện đó, vậy mà các bà biết:
họ biết
họ đang chia giuờng sẻ gối với những người đàn ông đã làm gì với thân
thể của
những người đàn ông đàn bà khác. Cội nguồn xa xưa nhất của nó, là từ
Lysistrata, của Aristophanes, về những người đàn bà không chịu ngủ với
chồng,
cho tới khi họ ngưng chém giết. Ở đây, không chỉ là chuyện họ không
chịu ngủ
với chồng, nhưng một căn bệnh khủng khiếp bắt đầu xâm nhập vô ngay
chính hành
động ái ân, và sau cùng những người đàn bà bắt đầu làm thịt mấy ông
chồng. Lại
còn chuyện những đứa trẻ nữa: làm sao chúng sống, với sự hiểu biết về
điều
người cha làm?
Nhưng chuyện này phải
do tay một bậc thầy, mà tôi thì không.
Tôi cứ quanh quẩn hoài với nó, mà cứ thấy nó cay nghiệt, riết róng,
cứng ngắc,
và trừu tượng thế nào ấy. Một bậc thầy sẽ biết phải nói gì về bữa ăn
tối, về
tiếng động nhỏ nơi giường ngủ, và ông ta sẽ để chúng cứ thế diễn ra.
Ông ta sẽ
tóm được bạn.
Một câu chuyện khác
tôi đang đánh vật với nó, thuộc loại nhẹ
nhàng hơn. Tôi theo dõi những thảm kịch hôn nhân hiện nay, đặc biệt là
bây giờ,
chúng ta sống thọ hơn trước. Tôi làm ghi chú thật tỉ mỉ một câu chuyện
theo đó,
một hôn nhân biến thành một tình bạn sâu xa, nhưng lẽ dĩ nhiên, dục
vọng bỏ đi,
và theo một nghĩa nào đó, tình yêu cũng bỏ đi mất tiêu, bởi vì tình bạn
không
phải là tình yêu. Đề tài xoay quanh một câu của Rilke, trong thư gửi bà
vợ mà
nhà thơ từ giã, ngay thuở thoạt đầu, và chẳng bao giờ thực sự gặp lại:
"Hãy nhớ rằng, trong một cuộc hôn nhân tốt, người này trở thành thiên
thần
hộ mạng, cho nỗi cô đơn của người kia". Đúng là một câu nói kỳ tuyệt!
Tôi
ao ước vô cùng mở ra nghịch lý này: rằng dục vọng và sự sống động của
hôn nhân
có nhiều cơ may sống còn, một khi có thù nghịch sâu xa ở trong đó.
Đó là hai đề tài tôi
đang loay hoay với chúng, nhưng cần một
tiểu thuyết gia thứ thiệt, mà tôi thì không.
-Thế còn thơ? Ông vốn
có làm thơ.
-Vâng, tôi có in ở
Oxford, trong tạp chí Thi Ca, vào những
ngày hiển hách của nó, ngay cả ở tờ Điểm Sách The Paris Review. Học vấn
Pháp ở
trung học (lycée) của tôi, may còn giống thế kỷ 19, bằng cái việc học
thuộc
lòng, học cú pháp tiếng La Tinh, Hy Lạp. Điều này đặt để trên giả định,
rằng
một văn nhân (a literate man) - có lẽ tôi nên thêm, một người đàn bà có
học
nhưng như thế hóa ra là dởm đời, [bởi vì] thời đó thiết yếu là chỉ đàn
ông -
anh ta có thể làm thơ (write verse). Chúng tôi phải bắt chước một đoạn
La Tinh
nổi tiếng, phải tìm ra tiếng La Tinh của riêng chúng tôi; rồi tới tiếng
Pháp:
làm những biến thiên về một đề tài văn chương quá quen thuộc. Làm sao
làm thơ
theo đúng luật một cách thật nghiêm ngặt: [thể thơ] sonnet, ode,
couplet hùng
tráng. Chẳng ai mong trong lũ chúng tôi có một thiên tài tự phát, nhưng
mà là
một "thủ công" (a craft), một tay nghề khéo (a techne), một từ Hy Lạp
cho chúng ta những từ như là kỹ thuật học (technology), hay kỹ thuật
(technique). Đó là "một tới mức, một thành tựu" (accomplishment), một
từ mà ý nghĩa của nó đã không còn, theo tự vựng của chúng ta hiện giờ -
như
công việc thêu đan, hay chơi piano cho mấy thiếu nữ nhỏ tuổi, hay như
môn mầu
nước.
Tôi đã được huấn
luyện theo đường hướng như vậy, và khi tôi
hoàn toàn nhập vào thế giới ngôn ngữ tiếng Anh, tôi làm thơ, một vài
bài có vẻ
khá hơn là mấy thứ kể trên. Có một ít ánh lên tí lửa, yêu cầu riêng tư,
nhưng
nói chung, chúng đều là những câu văn vần (verse), và khoảng cách giữa
văn và
thơ là phải tính bằng những năm ánh sáng. Trong một bài thơ thực sự, sự
liên hệ
giữa thể (set form), và cái mà chúng ta gọi là nội dung, liên hệ này
thật là
hữu cơ, đến nỗi, nếu chúng ta hỏi một nhà thơ thứ thiệt, tại sao bài
thơ này
lại là ode, tại sao nó không là thơ tự do, tại sao chỗ này lại là độc
thoại,
ông ta sẽ trả lời, "Đừng ngu si như thế chứ. Hãy đọc nó! Nó không thể
khác."
Tuy nhiên, đừng quá
lãng mạn về chuyện này. Ben Jonson viết
những tóm gọn thơ xuôi (prose summaries), và rồi sản xuất được một số
những
khúc trữ tình (lyrics) thần kỳ nhất. Dryden và Pope lao động, từ thơ
xuôi thành
thơ vần: một vài câu văn vần tuyệt vời nhất của họ, là một thứ văn xuôi
được
đẩy cao lên. Nhưng chắc chắn là, kể từ thời kỳ Lãng Mạn, đây không phải
là điều
người ta quan niệm về "sự tràn bờ tức thời của những tình cảm mãnh
liệt", theo một công thức của Wordsworth. Giáo dục tại lycée trái ngược
hẳn: nếu bạn chiều theo sự tràn bờ, bạn lau chùi sạch nó.
-Chuyện gì xẩy ra cho
truyền thống những "văn
nhân" mà ông nhắc tới ở trên?
-Nó đang bị nghi ngờ
nặng nề. Chúng ta hãy bắt đầu bằng một
câu chuyện nho nhỏ. Văn nhân tiêu biểu cho một kiểu "nhất trí", về
khiếu thưởng ngoạn, và sự quan tâm, trong xã hội của anh ta. Người ta
muốn nghe
về văn chương, nghệ thuật, từ một tay không phải chuyên viên, nhưng có
học (a
cultivated nonspecialist). Maculay, Hazlitt - những văn nhân có hạng -
hầu như
đã viết cả một cuốn, về một bài điểm sách; còn nhiều người nữa. Đây là
thời để
in ấn xuất bản loại này. Văn nhân cũng có thể làm thơ, viết truyện
ngắn, tiểu
thuyết, hay tiểu sử, và ở Anh truyền thống này chưa chết. Chúng ta còn
có
Michael Holroyd, một người học trò cũ của tôi là Richard Holmes hiện
đang rất
được hoan nghênh, chúng ta có Cyril Connolly, Pritchard - một người
viết truyện
ngắn tuyệt vời, thường xuyên phê bình, điểm sách - Và tôi cũng không
phải là
người coi khinh J.B. Priestley. Những người coi khinh Priestley ắt hẳn
sẽ tự
móc mắt, để đổi lấy một chút đỉnh tài năng của ông ta. Robert Graves
vừa là phê
bình gia, người viết tiểu sử, viết hồi ký, vốn là một nhà thơ tinh tế,
chính là
một văn nhân tuyệt vời.
Bất cứ một người nào,
trong những đối thủ của tôi, bất cứ
người nào trong số những người phê bình tôi, đều có thể nói cho bạn,
rằng tôi
là một thứ "người tổng quát" (a generalist), viết hời hợt về mọi thứ,
trong một thời đại không ai còn làm như thế nữa, một thời mà kiến thức
có trách
nhiệm là kiến thức chuyên môn hóa. Khi cuốn Sau Babel của tôi xuất bản
lần đầu
tiên, có một bài điểm sách do một nhà ngôn ngữ kiệt xuất, bây giờ ông
ta già
rồi, nhưng vẫn còn sống, và là một người mà tôi hết sức kính trọng: vị
tiên chỉ
trong làng quan viên (the high priest of the mandarins). "After Babel
là một
cuốn sách
tồi", bài điểm sách bắt đầu, "nhưng than ôi, đây là một cuốn sách cổ
điển." Thế là tôi viết thư cho ông ta, nói, chưa có một bài điểm sách
nào
vinh danh tôi hơn thế, nhất là cái từ ‘than ôi’ mà ông phải ép lòng nói
ra,
thật là tuyệt vời. Tôi có thể sống với nó. Ông ta viết trả lời, một
điều thật
thú vị. Ông ta nói, rằng chúng ta đã đạt tới điểm mà không một cá nhân
lẻ loi
nào có thể bao trùm toàn thể bộ môn ngữ học và thi học về dịch thuật
Ông bảo,
lẽ ra cuốn sách đó nên để 6, hay 7 chuyên gia phụ trách, còn ông đóng
vai chủ
biên. Thế là tôi viết trả lời, "Không, đừng như vậy. Mất thời giờ, phí
phạm, và cuối cùng chỉ là thu gom bụi bặm trên những giá sách kỹ
thuật".
Tôi thích may rủi lớn. Trong cuốn sách thực sự có những lầm lẫn, có
những điều
không chính xác, bởi vì một cuốn sách đáng sống, là hành động của một
giọng
nói, hành động của đam mê, hành động của một "nhân vật" (persona).
Chúng tôi bất đồng, nhẹ nhàng, nhưng thật sâu đậm. Ông ta nói, không,
điều đó
không thể làm được. Nó có thể làm được, cho tới Đệ Nhất Thế Chiến,
nhưng sau
đó, tri thức tự xé lẻ, phân hạt... đến nỗi, ngay trong địa hạt nhân
văn, những
cái đầu mạnh mẽ nhất cũng phải bỏ ra cả đời, chỉ để sao cho chuyên
ngành của
mình đúng hơn, nhiều hoặc ít, chứ đừng nói tới toàn cảnh. Đây là một
bất đồng
thật cơ bản. Như vậy George Orwell, thí dụ vậy, là gì, nếu không phải
là một
văn nhân (man of letters), hay Edmund Wilson, người mà tôi kế vị, ở tờ
Người
Nữu Ước, The New Yorker, cách đây 27 năm? - văn nhân ngày một
thêm bị
nghi ngờ.
-Nói một cách tổng
quát, phải chăng liên hệ giữa văn chương
và phê bình đã biến cải?
-Tôi nghĩ vậy. Chúng
ta có thể nói 10 giờ [về đề tài này].
Cái nhìn của tôi là thứ say mê cay đắng, như thể chúng ta đang ở trong
thời kỳ
Byzantine, hay thời kỳ Alexandrine, theo đó vị ngự sử, và cái tháp ngự
sử của
ông ta cao hơn là nguyên tác. Sainte-Beuve khi chết còn cay đắng nhận
xét:
"Chưa từng có ai tạc tượng, cho nhà phê bình". Trời hỡi! Ông ta mới
lầm lạc làm sao. Bây giờ, chúng ta được người ta nói cho mà biết, rằng
có lý
thuyết phê bình, rằng phê bình trấn áp - nào giải cấu trúc, ký hiệu
học, hậu cơ
cấu, hậu hiện đại. Đúng là một khí hậu kỳ quặc, tất cả là do một người,
một
thiên tài không ai nghi ngờ: Ngài Derrida, khi ông nói rằng mọi bản văn
là một
"tiền-văn bản" (pretext). Đây là một trong những trò chơi chữ lầm lạc
khủng khiếp, phá hoại khủng khiếp, tầm phào một cách thật sáng láng, đã
từng
được phóng ra. Như vậy nghĩa là gì? Rằng bất cứ thế giá nào của một bài
thơ: nó
[phải] đợi nhà phê bình giải cấu trúc; nó có đó, nó chỉ là cơ hội cho
sự thao
tập. Đối với tôi, không từ ngữ nào diễn tả nổi sự lố bịch này. Walter
Benjamin
nói, một cuốn sách có thể đợi một ngàn năm, không được đọc, cho đến khi
một độc
giả mắt xanh chợt ghé vô. Những cuốn sách, chúng đâu có vội vã. Một
hành động
sáng tạo, cũng đâu cần hối hả: nó đọc chúng ta, nó "đặc quyền" chúng
ta, một cách vô cùng. Quan niệm theo đó, đây chỉ là cơ hội cho chúng ta
phô tài
khéo, nó khiến tôi hết đỗi bàng hoàng, chua cay, và phẫn nộ. Quan niệm
cho rằng
học sinh ngày nay đọc những thứ phê bình của phê bình cấp hai và cấp
ba, và
ngày càng đọc văn ít đi, thực sự, nói một cách triệt để, chính là cái
chết của
trật tự tiền hậu bình thường, ngây thơ, và thuận lý (the death of the
normal
naive and logical order of precedence).
Nguời phỏng vấn: Liệu
nhân văn đã thất bại trong việc nhân
bản hóa [con người]? Liệu ông vẫn tin rằng việc học văn, trớ trêu làm
sao, lại
nuôi dưỡng độc ác chính trị, và chủ nghĩa man rợ?
G. Steiner: Chủ nghĩa
Quốc Xã, chủ nghĩa Cộng Sản, chủ nghĩa
Stalin đã thuyết phục tôi, về một nghịch lý trung tâm này: tính từ
chương
(bookishness), từ tiếng Anh cổ này, là một từ rất hay: bookishness, sự
biết đọc
biết viết ở mức cao nhất, mọi kỹ thuật về tuyên truyền văn hóa và dậy
dỗ, chẳng
những có thể song hành với tính thú vật, sự áp bức, độc tài bạo quyền,
nhưng ở
một điểm nào đó, còn nuôi dưỡng chúng. Trọn cuộc đời, chúng ta được dậy
dỗ,
huấn luyện dài về trừu tượng, về giả tưởng, và chúng ta phát triển một
quyền
năng nào đó - tạm gọi là quyền năng - để đồng nhất với giả tưởng, để
giảng dậy
nó, làm sâu nó (Phu nhân Macbeth có bao nhiêu con cái nhỉ? (5) Rồi thì
chúng ta
xuống đường, và có tiếng la thét, và nó có một cái gì đó hư ảo lạ lùng.
Hình
ảnh tôi muốn sử dụng ở đây: Ngay giữa trưa, tôi ở trong một rạp chiếu
bóng, coi
một phim rất hay. Trời nắng đẹp. Khi tôi bước ra khỏi cuốn phim, nhập
vào ánh
nắng của buổi trưa thành phố, tôi thường cảm thấy buồn nôn, một sự mất
thăng
bằng lộn mửa. Phải mất nhiều giây, nhiều phút, có khi lâu hơn, tôi mới
lại có
thể chú mục vào thực tại.
-Ra khỏi cái hang của
Plato? (6)
-Còn mãnh liệt hơn
thế nữa, do cung cách lạ, theo đó tác
dụng của cuốn phim ắt phải là một tác dụng hoàng hôn. Tại làm sao ban
ngày đi
coi phim lại quái gở và không ổn như vậy? Bây giờ tôi khai triển kinh
nghiệm
đó: Tôi trải qua trọn ngày với những sinh viên trong một căn phòng,
chung quanh
một cái bàn thảo luận ở Geneva.
Chúng tôi cố gắng tới được một điểm nào đó, về sự diễn tả cực kỳ súc
tích đối
với vai trò của Cordelia trong Vua Lear, vỏn vẹn chưa đầy 90 câu thơ.
Không ai
tin điều này, cho tới khi đếm từng dòng. Hay là những sự im lặng lớn
lao trong
văn chương, những nhân vật xuất hiện và chẳng nói gì - từ Aeschylus tới
Dostoevsky - hay chỉ nói vài lời. Hay là người khờ ở cuối [cuốn kịch
thơ của
Puskhin] Boris Godunov: anh ta hát hai tiếng, hai tiếng đi trọn thế
gian trong
nỗi tuyệt vọng và kinh hoàng của chúng. Và những sinh viên đáp ứng, bạn
đáp
ứng, bạn biết tới tận tim gan cái đó, nó thấm tẩm vào bạn, và bạn rời
chỗ,
xuống đường, và bạn nhìn hàng chữ lớn trên trang báo: "Một Triệu Người
Chết Ở Rwanda".
Không phải chỉ là chuyện, bạn trở nên vô cảm trước những sự ghê rợn
diễn ra
hoài hoài của thế kỷ chúng ta: chúng chẳng gây được một chút tác động
nào, lên
trí tưởng tượng của bạn.
Đối với riêng tôi,
"điểm ngoặt" chính là Pol Pot.
"Vào thời điểm đó" [Thế Chiến II], rất ít người biết, về Auschwitz. Vâng, cái lũ khốn nạn, cái lũ chó đẻ
biết, và
không tin chuyện đó, nhưng chúng chỉ là thiểu số. Sự che đậy của Nazi
về Lò
Thiêu đã có một hiệu quả huyễn hoặc. Những cánh đồng giết người là ở
đài phát
thanh, truyền hình, trong lúc đang xẩy ra, và chúng ta được biết là Pol
Pot
đang chôn sống một trăm ngàn đàn ông, đàn bà và trẻ con. Bây giờ tôi
không thể
gắn một ý nghĩa trung thực cho câu: "chôn sống một người đàn ông, một
người đàn bà, hay một đứa trẻ." Một trăm ngàn! Tôi hầu như không còn
cái
đầu, vào những ngày này, khi cảm thấy mình cay đắng bất lực. Tôi bị ám
ảnh, vì
hy vọng, rằng Nga xô và Hoa Kỳ sẽ nói, "Chúng ta không biết cái mớ bòng
bong địa lý chính trị khó có thể tin được này, phải trái ra sao, nhưng
45 năm
sau Lò Thiêu, hay là sau Gulag, chúng ta không thể cạo râu vào buổi
sáng, chúng
ta không dám nhìn vào chính mặt mũi của mình, khi biết rằng một trăm
ngàn người
đang bị chôn sống; lưỡi dao cạo không còn chạm vào da. Không một người
đàn bà
nào có thể đánh phấn thoa son, và còn nghĩ rằng mình là người. Nếu mi
không
chấm dứt trò này, bọn tao sẽ nhẩy vào can thiệp." Trước đây, tôi đã
từng hy
vọng, vì những lý do hiển nhiên, Israel hẳn sẽ ra một tuyên
bố như
thế. Câm lặng hoàn toàn, câm lặng hoàn toàn về bất cứ một ngăn chặn hay
can
thiệp. Pol Pot cứ tiếp tục chôn sống người, giết một triệu rưởi người
khác,
thiến sống người ta ở giữa đồng, và hôm nay, chúng ta đang bán vũ khí
cho hắn.
Bây giờ, đối với tôi,
Cambodia
là một điểm ngoặt, về một
bất lực tuyệt đối, tuyệt vọng cùng cực. Sau đó tới Rwanda,
và ngày mai, đến phiên x,
y, hay z. Và giờ này, chúng ta biết. Tôi sẽ làm - tôi dùng một từ khá
trang trọng
- một sự phân biệt mang tính bản thể học, phân biệt thuộc về yếu tính,
giữa một
thời đại mà chúng ta chẳng biết gì hết, hay có lẽ chẳng có thể làm được
gì hết,
về chuyện đó (chúng ta có nên ném bom các đường xe lửa hay là không:
đây vẫn
còn là một trong những luận cứ chua chát nhất về lò thiêu Auschwitz;
chúng ta
có lẽ nên thử; OK) và lúc này - một khi chúng ta biết, đối phương chỉ
là một
con cá lòng tong - chẳng thể nào so sánh được với quyền uy của cả thế
giới còn
lại: Me-xừ Pol Pot và đám Khờ Me Đỏ khùng của ông ta. Chúng ta chẳng
làm gì
hết, và chúng ta bây giờ đang tái vũ trang hắn.
-Với tư cách là một
người giảng dậy, tất cả những chuyện đó
hàm ý gì?
- Tôi cực kỳ bối rối
vì nó. Hàm ý của tôi: tôi tiếp tục cố
gắng thổi điều này vào trong đầu những con người đang học đọc cùng với
tôi. Tôi
yêu thích biết bao: được nhắc nhở tới, như là một người thầy tốt, về
việc đọc.
Đọc như một phương thuốc chữa trị, theo một nghĩa đạo đức sâu thẳm:
rằng cái
đọc sẽ đưa chúng ta tới một tầm nhìn (a vision), sẽ nhập thân nhân loại
tính
của chúng ta, làm cho chúng ta đỡ lơ là bỏ mặc mọi chuyện cho qua đi.
Nhưng tôi
không biết tôi có thành công chưa, hoặc cho những người khác, hoặc cho
chính
tôi.
Liệu có một thứ học
vấn, dậy thơ, nhạc, nghệ thuật, nó làm
người ta không thể cạo râu buổi sáng - hãy tha thứ cho hình ảnh tầm
thường này
- bởi vì tấm gương ném trả một cái gì phi nhân, hay thấp hơn con người?
Đó là
điều tôi tiếp tục dùi mài trong suy tư, trong viết lách của mình. Thế
cho nên,
trong cuốn Những Hiện Diện Thực, tôi đã chuyển qua cái góc khó khăn vô
cùng để
hướng về thần học. Thế còn những thi sĩ lớn, nghệ sĩ lớn, những người
biết về
những điều như thế - Dante thí dụ vậy, hay là Shakespeare? Liệu có điều
nào có
thể khiến chúng ta không còn vô tri giác được nữa, không còn có thể mù
lòa, câm
điếc được nữa? Liệu có điều nào có thể làm cho trí tưởng tượng phải
mang trách
nhiệm và phải trả lời cho những nguyên lý thực tại để làm người quanh
ta? Đó là
vấn đề.
-Vậy thì đã 50 năm
rồi, ông thẩm định ra sao, về câu châm
ngôn nổi tiếng của Adorno: "Không có thơ, sau Auschwitz"?
-Với tôi, đó là thời
điểm quyết định, cực kỳ tự nhiên để nói
ra [1945]. Và nó cầu mong một phản bác. Đã có phản bác, bằng thi ca của
Paul
Celan. Thơ của ông phản bác một nhận định như thế - và Adorno biết điều
này,
trước khi mất. Chúng ta hãy trở lui vài bước. Vấn đề tục tằn, việc "đếm
đầu xác chết" không nêu ra ở đây, nhưng tôi gộp những trại tập trung,
dù
là ở Ba Lan, ở Đức, hay ở khắp những nơi chốn khốn kiếp nào: hiện tượng
tù đầy,
loại trừ tập thể hàng triệu con người từ đầu này tới mút kia của thế
giới. Một
trong những giải đáp khả hữu: toàn bộ nền văn hóa của chúng ta đã chứng
tỏ hoàn
toàn bất lực, và không tự vệ. Hơn nữa, văn hóa của chúng ta còn tô điểm
cho cái
việc giam giữ và giết người. Trong những đêm mà người ta có thể nghe
những
tiếng la thét thất thanh của những con người, bị nhốt kín trong những
toa xe
lửa ở nhà ga Munich, trên đường tới trại tập trung Dachau, ngay ngoại ô
Munich,
thì Gieseking vẫn trình diễn toàn bộ nhạc dương cầm của Debussy. Những
tiếng la
thét có thể nghe, thấu suốt phòng hòa nhạc. Điều này được ghi lại.
Không hề có
một nhân chứng, dù là mỏng manh nhất, nói rằng, đêm đó ông chơi thiếu
tuyệt
diệu, hay là khán thính giả của ông không hoàn toàn đáp ứng, không sâu
xa xúc động.
Bởi vậy, đã có phê
bình mang tính hư vô, như của Adorno; hay
như được công thức hóa, qua câu nói của Walter Benjamin: "ở nền của mọi
tác phẩm nghệ thuật lớn, là một đống man rợ." Bạn có thể chấp nhận câu
nói
đó, như nhiều người thuộc trường phái Frankfurt,
theo một nghĩa nào đó, cũng đã chấp nhận. Họ còn nhấn thêm một bước
nữa, và nói
rằng: "Thôi chúng ta hãy tạm câm đi một lúc." Tôi thường có một ước
mơ, về sự trì hoãn không bàn tới những điều này - trong 10 năm, 15 năm,
một
trăm năm - cố gắng không giảm trừ chúng, thành lời. Nói lên thành lời,
đó là
cung cách lạ lùng, khiến chúng có thể chấp nhận được. Đó là điều Adorno
thực sự
muốn nói: Hãy coi chừng! Ngay cả tiếng gào thét lớn lao, nếu nó được
kiểu thức
hóa, giả dụ thành vần, thành điệu, thành khổ, thì vẫn làm cho hiện
tượng kia có
thêm một sự huyền nhiệm, về điều khả dĩ chấp nhận được (a mystery of
acceptability).
Bước thứ nhì, và là
bước khó khăn nhất trong tất cả mọi
bước, đó là nói: "Không, mặc dù tất cả những chuyện đó, tôi vẫn có thể
chuyển chở, truyền đi một điều gì về kinh nghiệm cốt tuỷ." Trong trọn
mớ
văn chương hằng hà sa số viết về Lò Thiêu, chỉ có 3 hoặc 4 người viết,
làm được
điều này.
-Họ là những ai?
-Celan, trên tất cả.
Không nghi ngờ chi, còn Primo Levi, nhà
văn Ý gốc Do Thái: tối thượng, tối cao cả. Không có một từ nào trật bản
lề;
đúng là một phép lạ. Một hay hai người Đông Âu không được biết đến
nhiều, một
vài truyện ngắn Latvia
tuyệt vời. Có lẽ chỉ chừng 5, hoặc 6 bản văn mà tôi dám nói là đã biện
minh cho
cái toan tính táo bạo không thể nào tin được kia. Nhưng cuối cùng, tổn
thất mới
ghê gớm làm sao! Celan tự tử. Primo Levi tự tử. Jean Améry tự tử. Mãi
sau đó.
Như thể, đã xong nhiệm vụ làm nhân chứng, đâu còn ý nghĩa gì cho đời
mình, cho
ngôn ngữ mà mình sử dụng. Điều làm tôi kinh hoàng, là bất cứ một toan
tính trục
lợi nào đối với những chất liệu này, bởi những kẻ hoàn toàn không kinh
qua nó.
Người phỏng vấn: Nói
về Lò Thiêu theo đường hướng này, tức
là nói về điều không thể nói được, phải chăng đây (cũng) là điều ông
quan tâm,
khi viết The Portage?
Steiner: Vâng, chắc
chắn như vậy. Tôi thật tình muốn mọi
người quan tâm tới tính hàm hồ khủng khiếp trong tất cả ngôn ngữ, trong
tất cả
những hành động nói. Vật lý học nói – tôi không hiểu nghĩa, nhưng thật
đáng yêu
– rằng có một vũ trụ phản-vật chất phản chiếu y hệt vũ trụ chúng ta,
rằng, khi
vật chất và phản-vật chất đụng nhau, cái nọ huỷ diệt cái kia. Tôi đã
tìm cách
chứng tỏ trong ngôn ngữ của Hitler, có phản-vật chất, phản-ngôn ngữ, nó
huỷ
diệt, theo nghĩa siêu việt, sự thật và cái nghĩa. Và nó phải đụng với
Do Thái
giáo, vốn là một niềm tin, một văn hóa, một sự tin cậy có lẽ hoàn toàn
dựa trên
từ ngữ, dựa trên tính nói lên được, và sự khả hữu của cái nghĩa, và dựa
trên
cuộc thoại hoài hoài, ngay cả với Thượng Đế. Điều này thực đáng suy
nghĩ. Tại
sao Người lại nói? Do Thái giáo luôn luôn tin vào định đề, về một
Thượng Đế rất
ham nói.
Vậy thì vâng, tôi
thật sự lo lắng về chuyện đó, và chắc chắn
là, tôi không dám trở lại với nó. Nói cho cùng, tôi chưa hề ở trong
tình huống
[như vậy], và có lẽ, đừng ai nên thử. Về mặt khác, liên quan tới những
cuộc tấn
công nhắm vào William Styron (7). Tôi hoàn toàn ở phía đối nghịch.
Styron là
một tiểu thuyết gia tuyệt vời, và ông hoàn toàn có quyền thử nghiệm một
nhân
vật như Nat Turner, hay Sophie. Không ai có quyền nói, rằng ông ta chưa
từng là
một người da đen nô lệ, hay chưa từng ở Auschwitz.
Chúng ta có thể nói, "Ông không thuyết phục nổi tôi". Chúng ta có thể
nói, "Xin lỗi, cái đó chưa ra ngô ra khoai". Nhưng theo tôi, thử là
quyền năng tuyệt đối của một nghệ sĩ.
Trong những thế kỷ
sắp tới, biết đâu, một tân Dostoevsky,
hay một tân Faulkner sẽ tìm ra con đường xấn tới trái tim – và làm sáng
ra -
thực tại không thể nói, không thể nghĩ, không thể chịu đựng được này.
Thật ngu
xuẩn khi đặt vấn đề như vậy, nhưng Shakespeare sẽ nói gì? Tôi cứ suy
nghĩ hoài,
rằng Shakespeare sẽ có một tên hầu ngựa thứ năm, hay một người đầy tớ
thứ bẩy ở
cuối một màn quan trọng, có thể là một màn tiếu lâm; một kẻ mà, bằng
một cách
nào đó, cho chúng ta biết rằng anh ta đang ở trong một trại tù (8). Bây
giờ,
bạn chớ có chế nhạo tôi, nhưng chưa có một vở kịch nào trên thế gian
làm cho tôi
buồn hơn là Đêm Thứ Mười Hai (kịch Shakespeare) Tôi thực sự bị ám ảnh,
như là
với Cosi Fan Tutte (nhạc Mozart): chúng bề ngoài có vẻ vui nhộn, theo
kiểu
"mưa, mưa rơi mọi ngày". Những bài hát của Feste, tên hề, chúng như
thuộc trong số những bài hát bi thảm tuyệt vời nhất, đối với tôi: Ớ cái
này, ớ
cái kia. Tôi cứ tưởng tượng ở đâu đó, có một người hầu trong căn nhà
Quận công,
hay của Olivia, hay Viola, và Shakespeare, trong một vài thoáng chốc,
làm cho
chúng ta hiểu, về những gì người hầu đã nếm trải qua. Điều này chắc là
có thể
chấp nhận được trong tương lai. Như vậy, nó là điều chưa biết. Nó là
mảnh đất
giấu mặt lớn lao (the great terra incognita), của trí tưởng tượng. Tình
huống
này [bên ngoài cười nói như thường, bên trong đoạn trường từng khúc],
có mặt
trong mọi điều tôi viết, mọi thứ tôi giảng dậy, mọi suy nghĩ của tôi,
và trên
tất cả, là cuộc sống của tôi tại Âu Châu.
-Rõ ràng là có một
nối kết sâu xa giữa hiểu biết về Lò
Thiêu, và lý thuyết dẫn giải của ông. Ông có thể nói một chút về chuyện
này không?
-Vấn đề then chốt, đó
là cảm quan về một điều không thể phân
tích hay giải thích. Hành vi chủ chốt trong việc dẫn giải, là ngày càng
tới gần
tâm điểm của tác phẩm, nhưng chẳng bao giờ tới quá gần. Chính sự thất
bại,
chính cái khoảng cách bất lực, về một dẫn giải lớn lao, là khoảng cách
kích
thích người đọc. Chính sự bất lực này lại năng động, gợi ý, hùng biện
và hoạt
bát. Những hành động đẹp nhất của việc đọc, chúng là những hành động
chưa hoàn
tất (9), những hành động của trực giác manh mún, của chuyện từ chối
(một cách
đọc) hoa hòe hoa sói, siêu-đoạn (metaphrase), điều sau cùng: "Cái hay,
cái
tuyệt ở đây, tôi chưa chạm tới được". Nhưng chính cái điều làm cho sự
không thể này không phải là một thất bại nhục nhã, hay một mẩu huyền
bí, nhưng
là một thứ mời gọi vui: rằng, hãy đọc lại.
Bây giờ, vẫn ở trong
mỹ học, nhưng tôi sẽ đi tới câu hỏi của
ông về nối kết với Lò Thiêu, và tôi hy vọng rồi thì câu chuyện sẽ rõ
ràng hơn.
Một lần, có một đứa nhỏ, Paul Klee, thường bị nhà trường đưa đi chơi
giã ngoại
(pinic), ra khỏi thành phố Bern, nơi cậu sinh trưởng, đó là những dịp
buồn tẻ
nhất trong sinh hoạt ở Thụy Sĩ. Một bữa lớp cậu được dẫn tới xem một
cây cầu
máng La Mã, và ông thầy giải thích, nó chuyên chở được bao nhiêu lượng
nước, và
được kiến tạo ra sao. Lúc đó Paul Klee mới mười một tuổi, và cậu luôn
mang theo
tập vẽ nháp, thế là cậu hí hoáy cây cầu máng, và cho nó mang giầy. Kể
từ ngày
đó, tất cả những cây cầu máng đều biết đi; bạn không thể nhìn một cây
cầu máng
không biết đi. Picasso xuống phố. Ông thấy chiếc xe đạp ba bánh
(tricyle) của
con nít. Cả tỉ người thấy nó, trên đường phố. Picasso nhấc chiếc xe
lên, lấy
yên xe làm mặt con bò, chiếc ghi đông thành hai cái sừng (10). Chưa
từng có ai
làm như vậy, và kể từ ngày đó, cái xe đạp con nít tấn công người lớn,
bằng hai
cái sừng cứ thế húc tới. Chẳng hề có ai giải thích điều này, cũng chưa
hề có ai
giải thích, điều mà [nhà nhân học người Pháp] Lévi-Strauss gọi là sự bí
mật tối
thượng của mọi tri thức nhân loại: "sự phát minh ra giai điệu" (the
invention of melody) (11). Đây là một trong những câu quan trọng nhất
đối với
tôi. Nó làm tôi rạng ngời, theo nghĩa này: sự không thể vẹn toàn, của
những
toan tính say mê, của một người nào đó, khi cố gắng tới gần hơn, gần
hơn nữa.
Đây là sự huyền diệu của nó. Chơi xong rồi thì buồn, dân leo núi kể cho
bạn
nghe, nỗi buồn như thế nào, sau khi đã lên tới đỉnh một ngọn núi trước
đó chưa
ai lên tới, nhưng chúng ta không bao giờ tới đỉnh bản thể học về cái
mỹ, hay
câu hỏi về cái nghĩa của nghĩa (the meaning of meaning), hay câu hỏi về
cội
nguồn của ngôn ngữ.
Xét về mặt cái chết,
sự tra tấn, tàn sát, thế kỷ của chúng
ta là một trong những thế kỷ đen thui. Tôi đọc, với một niềm kính trọng
chân
thực, những nhà kinh tế – những người nói với chúng ta, rằng có thể sử
dụng một
lý thuyết tốt đẹp về kinh tế, về kỹ nghệ, để giải thích chủ nghĩa Cộng
Sản, chủ
nghĩa Phát Xít; hay là những nhà xã hội học – những người nói [với
chúng ta về]
những cuộc đấu tranh giai cấp, về cơ cấu xã hội học của đô thị, vào
thời đó, và
cứ thế, cứ thế. Tất cả những sử gia cũng có ý tưởng này, tư tưởng nọ.
Như tất
cả mọi người, tôi cũng cố bắt kịp với những người nói rằng, "Tôi có thể
giải thích điều đó cho bạn". Nhưng đúng là, tôi chịu thua. Có thể có
chút
tia sáng lý thú ở đó, thí dụ như quan niệm cho rằng trong những trại tử
thần,
có những sắc thái của một nhà máy. Tốt thôi, đúng là một phát giác hay
ho. Tôi
muốn nghĩ về điều này. Có thể nó gây hứng khởi. Hay là khi tôi được bảo
cho
biết, rằng chủ nghĩa Nazi khác biệt với chủ nghĩa Stalin, sự khác biệt
này dựa
trên những bất ổn và những phẫn nộ của giai cấp trung lưu, tôi rất quan
tâm.
Nhưng những giải thích này, dù có quan trọng, chúng chẳng giúp gì cho
tôi,
trong việc nắm bắt sự kiện.
Sự kiện là, khi bộ tư
lệnh của Hitler nói với ông ta,
"Thưa Lãnh Tụ, chúng ta rất đỗi là cần, những chuyến xe lửa chở xăng
dầu,
vũ khí, chỉ xin Quốc Trưởng [dành] cho chúng tôi 4 tuần lễ ngưng chở
người tới
trại tử thần," ông ta trả lời, chiến thắng cuộc chiến chưa quan trọng
bằng
việc tận diệt bọn Do Thái. Quan niệm rằng ông ta khùng chẳng thuận tai
tôi một
chút nào, ở đây. Ông ta rất không khùng. Tôi cũng chẳng thấy thuận tai
chút
nào, khi biết rằng Stalin đã huỷ diệt một phần lớn đám dân có học của
ông ta,
một cách hệ thống, trong khi lên kế hoạch tạo thành sự vĩ đại của Liên
Bang Xô
Viết.
Vì thế tôi xoay sở
với những dẫn giải hoàn toàn khác. Trong
thời kỳ Ánh Sáng, vào những năm đầu của thập niên 1760, Voltaire, sau
khi chống
đỡ thành công cho một số người, đã đưa ra khẳng định: Một điều chắc
chắn, là sẽ
không có việc sử dụng tra tấn nữa, tại Âu Châu văn minh.". Vài năm sau
đó,
Thomas Jefferson, một trong những cái đầu sắc sảo nhất, cứng cựa nhất,
chưa
từng có vào thời kỳ đó, nói, ông ta có thể hứa hẹn – ông ta đúng là đã
dùng từ
"hứa hẹn" (promise) – rằng sẽ chẳng bao giờ có việc trở lại, với
chuyện đốt sách. Tôi có cả một tuyển tập những khẳng định như vậy.
Không phải
bởi những thằng khùng ngây thơ, nhưng bởi một vài, trong số những cái
đầu cứng
cựa nhất, châm biếm nhất. Có một tư tưởng gia thuỷ tổ-phát xít theo
Ca-tô giáo,
tên là Joseph de Maistre; ông ngồi trên bờ [giữa hai phe tranh chấp],
cười đến
sái quai hàm, và viết một tuyệt tác thuần túy, đặt tên là Những Buổi
Chiều ở
St. Petersberg. Ông ta nói rằng, cứ cái đà này, thế kỷ thứ 20 sẽ chìm
vào biển
máu ở Âu Châu; rằng sẽ có những trại tù dành cho việc làm thịt nhân
loại một
cách có hệ thống. Ông ta làm việc với một lý thuyết hoàn toàn khác
biệt, khởi
đi từ tội tổ tông.
Sự thực, de Maistre
nói, "Làm ơn giải thích cho tôi về
bản chất của lịch sử". Nếu chúng ta là những Con Người Khôn Ngoan (Homo
sapiens), thuần lý đang trên đường thăng tiến, như vậy chúng ta đang
làm gì
nhau đây? Tại sao những cuộc chiến tranh của chúng ta ngày càng giết
chóc nhiều
hơn? Tại sao những trận đói ngày càng lớn hơn? Về mặt khác, nếu có một
kiểu
mẫu, cho cái gọi là mất ân sủng nguyên thuỷ – (original) dis-grace, một
từ rất
ư là mãnh liệt, khi chúng ta tách bạch bằng một cái gạch như trên –
ghét bỏ
(disgrace) trở thành một từ tẹp nhẹp ở đây; dis-grace: sa khỏi ân sủng
(fall
from grace), ngắt triệt mối tương thông với Thượng Đế – như vậy lịch sử
sẽ là
một sự trừng phạt, và chúng ta sa chân vào lịch sử, chủ yếu là để chịu
đựng đau
khổ, và chúng ta cứ thế tiếp tục chịu đựng cho đến tận cùng, cho tới
khi nào
chúng ta làm thịt lẫn nhau sạch sẽ không còn mống, bằng bom nguyên tử,
bằng nội
phá (implode) đô thị, hay là có một trận đói, hay sau cùng có một thứ
bệnh AIDS
không làm sao ngăn chặn được. Trọn một lý thuyết về tội tổ tông. Bằng
cách nào,
bạn xử lý (operate) với một lý thuyết như thế? Tôi không biết. Tôi gọi,
đây là
một ẩn dụ [để] làm việc (a working metaphor).
-Nó đòi hỏi niềm tin,
ở nơi Thượng Đế?
-Vâng, hay – nguy
hiểm hơn nữa – niềm tin vào địa ngục. Một
lần, vào lúc sáng tinh mơ, Đức Giáo Hoàng Pius XII tiếp Paul Claudel,
để vinh
danh nhà viết kịch nổi tiếng và nhà thơ Ca-tô giáo. "Con của ta,"
ngài nói, với nụ cười mỉm, "con quá tin vào địa ngục, thế mới khổ cho
con;
[còn ta], ta không quá chắc mẩm, về thiên đường, đến thế đâu". Đây là
một
hình thức đặc biệt về dị giáo. Một hình thức của chủ nghĩa nhị nguyên
(Manichaeanism). Và tôi tự coi tôi là một [người theo thuyết] nhị
nguyên, một
Manichaean khá bối rối. Vâng, tôi là một kẻ hèn nhát: tôi trốn vào chỗ
an toàn
nhất, vững chắc nhất, nếu nói về bảo hiểm nhân thọ, còn vượt quá cả một
nơi chốn
như là hãng bảo hiểm Lloyd’s. Immanuel Kant – một trí tuệ lành lặn
nhất, trầm
tĩnh nhất, cân bằng nhất – tin vào cái ác nhập thể (incarnate evil),
không hẳn
như của Aristotle – cái ác là sự vắng mặt của cái thiện – chính niềm
tin này gỡ
bạn ra khỏi mọi câu móc. Kant không định nói về một kẻ nào đó có sừng
có đuôi,
nhưng cái ác là một sức mạnh nhập thể, một tác nhân tích cực.
Chỉ bằng cách này,
tôi hiểu tại sao những công chuyện tuyệt
vời nhất của chúng ta lại chuyển mầu địa ngục. Hãy suy nghĩ về những
tài liệu
gốc của chủ nghĩa quốc gia Do Thái (Zionism) – cha tôi có mặt trong
nhóm đầu
tiên với Herzl: một giấc mơ không tưởng về bình đẳng, sự thông cảm trọn
vẹn về
sắc tộc, biến Jeremiah và Isaiah thành hiện thực ("vũ khí biến thành
lưỡi
cày"). Bây giờ, hãy nhìn sự đau khổ. Hãy nhìn xứ sở được võ trang này:
để
sống sót, phải là một trong những xã hội trọng binh (militaristic) trên
mặt
đất. Chúng ta tới xứ sở Mogadishu,
để mang thức ăn, để giúp đỡ, và cuối cùng là địa ngục, nơi xác người bị
kéo lê
trên đường phố.
Đó là điều minh chứng
hoàn toàn, nhận xét của Shakespeare:
"Như bầy ruồi đối với lũ trẻ tinh nghịch, thân phận của chúng ta với
chư
thần cũng thế thôi / Chư thần giết
chúng ta để
đùa chơi" (As flies to wanton boys, are we to the gods, / They kill us
for
their sport.) Hay như trực giác này của ông, "Cái tệ nhất còn chưa tới
/
Chừng nào ta còn hỏi: Thế đã là tệ nhất chưa? (The worst is not / So
long as we
can say "This is the worst?") Cái gì đã khiến cho, chuyện cứ xẩy ra
hoài, ra mãi, những thiện ý, những bác ái từ bi, những xã hội ước mơ
của chúng
ta, cứ biến thành địa ngục? Điều này cần tra hỏi.
-Phải chăng chủ nghĩa
quốc gia là một trong những thí dụ đầu
tiên của ông?
-Vâng. Tôi bị chỉ
trích rất nhiều vì điều này, tôi chán
ghét, tôi ghê tởm chủ nghĩa quốc gia. Tôi ở nhà, ở bất cứ đâu, khi mà
có cái
máy đánh chữ. Tôi coi những lá cờ, những tờ giấy thông hành là rác rưởi
nguy
hiểm. Tôi tin tưởng rằng chúng ta là những khách trọ của cuộc đời – ở
đây, tôi
là một người theo Heidegger. Chúng ta không biết tại sao chúng ta sinh
ra,
chúng ta đâu chọn lựa điều này, chúng ta không chọn lựa được sinh ra
trong một
cộng đồng, trong một thời đại, trong một giai cấp xã hội nào; chúng ta
không
chọn lựa, được sinh ra, câm điếc, giữa những người ăn mày, những kẻ bị
tim la, hay
mang vi khuẩn HIV, hay là một triệu phú, hay là có một tài năng phi
thường.
Trước hết, chúng ta là những vị khách trọ của đời sống trên trái đất
này, nơi
chúng ta đang cướp bóc, phá phách, huỷ diệt, làm ô nhiễm một cách có hệ
thống,
như chúng ta biết đấy. Tôi tin tưởng chúng ta phải học, để là những
người khách
của nhau. Để mà sống sót; rằng số mệnh Do Thái, bi đát, đặc biệt: cố
sống (với)
cái công chuyện thật là khó khăn: cảm thấy ở nhà, bất cứ ở đâu. Tôi đã
từng ở
nhà, với nhiều, thật nhiều mảnh đất.
Người phỏng vấn: Tuy
nhiên, qua tất cả những chuyến đi như
vậy, ông vẫn bám rễ tại Cambridge?
Steiner: Chỉ bán-thời
gian thôi. Chúng mình hãy trở lui một
chút. Tôi đúng là đẻ bọc điều. Mẹ tôi từ một gia đình Do Thái, dân
thành Vienna,
biết nhiều thứ
tiếng. Ông chú/bác vĩ đại của bà là một nhà văn rất nổi tiếng, người đã
khám
phá ra bản thảo Woyzeck của Georg Buchner, trong một cửa tiệm thuốc.
Cha tôi,
từ một làng cách Lidice 8 cây số, một làng dân du mục (Bohemian) ở phía
bắc,
nơi mọi người đều bị giết, tàn sát trong một cuộc trả thù vì đã giết
tên cầm
đầu Gestapo. Cha tôi tới Vienna
khi còn là một đứa trẻ. Ông có một sự nghiệp tuyệt vời ở Áo, và quyết
định, vào
năm 1924 - mặc dù mẹ tôi làm trận làm thượng - phải rời Vienna, nơi cả
hai đều
yêu thương gắn bó, bởi vì ông đã nhìn ra chuyện đang tới. Ông cứ nói
hoài,
"Hitler là người Áo, chớ quên điều đó." Vậy là ông bà tới Paris, và tôi đã
ra đời
vào năm 1929, trong một căn nhà xó xỉnh nào cũng có sách vở, âm nhạc,
và văn
hóa: truyền thống Do Thái Trung Âu. Má tôi bắt đầu một câu bằng một
ngôn ngữ,
và chấm dứt, hầu như vô tình, bằng một vài ngôn ngữ khác, vậy là tôi
lọt lòng
trong cả ba thứ tiếng. Cha tôi bắt đầu đọc Homer, với tôi, trước khi
tôi tới
tuổi đi học; ông bắt đầu dậy cho tôi những tác phẩm cổ điển, ngay dưới
cái bóng
ngày một vươn lên, khủng khiếp, của Hitler.
Vào năm 1934, một vụ
bê bối tài chánh lớn lao đã nổ ra ở
Pháp, có liên can đến người Do Thái, và những đám đông bài-Do Thái diễn
hành
ngay kế trường học của tôi, vốn là một trường gần như thuần Do Thái.
Thế là bà
vú, bà nữ gia sư của tôi – vào những ngày đó, chúng tôi vẫn có những
gia sư –
chạy tới trường đưa tôi về nhà. Tại nhà, má tôi hạ mấy tấm màn cửa sổ
xuống,
rồi ngó ra đường, nhìn đám người bên ngoài la hét, "Giết lũ Do Thái!"
Ba tôi về nhà, nói, "Hãy kéo mấy tấm màn cửa sổ lên!", và ông nắm tay
tôi tới bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Tôi như bị mê hoặc, lẽ dĩ nhiên; bất
cứ đứa
trẻ nào cũng vậy thôi. Và ông nói, "Con không bao giờ được khiếp sợ;
cái
con đang nhìn, người ta gọi là lịch sử." Tôi nghĩ câu nói đó đã tạo nên
vóc dáng cho trọn cuộc đời của tôi.
-Lúc đó, ông mấy tuổi?
-Năm. Đúng là một
điều tuyệt vời để nói, với một đứa bé.
Theo nghĩa đó, tôi chẳng bao giờ khiếp hãi nữa. Tôi thật quá, quá may
mắn, và
tôi quan tâm thật là khủng khiếp đến lịch sử, đến việc nhìn ra bên
ngoài cửa
sổ, nhìn điều đang diễn ra, bất kể nó là cái gì.
-Ông hãy kể thêm cho
chúng tôi nghe, về những năm đầu đời
của ông đi.
-Rồi thì chiến tranh,
và cha tôi được thủ tướng Pháp trao
cho sứ mạng thương lượng với người Đức, về việc mua chiến đấu cơ
Grumman. Một
chuyện quá đỗi lạ lùng đã xẩy ra. Mọi người hầu như đều quên hẳn một
điều, New York
là một thành
phố trung lập, vào năm 1940. Nơi đây đầy những phái bộ mãi dịch, phái
bộ ngân
hàng, kỹ sư Quốc Xã. Cha tôi được mời ăn trưa, nhân dịp vinh danh Uỷ
Ban Thương
Mại (Trade Purchasing Commission), tại Câu Lạc Bộ Phố Tường (Wall Sreet
Club).
Tại bàn của ông, là đại diện ngân khố Mỹ, ngân hàng, và phái đoàn Pháp.
Người
hầu bàn mang đến cho cha tôi một tờ giấy gấp lại, và nói, một vị khách
tại một
bàn khác, đã yêu cầu anh ta mang lại cho cha tôi. Cha tôi liếc quanh
một vòng,
và nhìn thấy một phái bộ mãi dịch Quốc Xã, chữ thập ngoặc trên ve áo.
Hoàn toàn
hợp pháp: họ cũng đang mua trang bị, và dàn xếp những vụ vay mượn dầu
lửa (oil
loans), cùng với Ngân Hàng Chase, và rất nhiều ngân hàng khác. Cha tôi
nhận ra
một người, vốn là bạn làm ăn rất thân, nhưng ông đã không liên lạc kể
từ năm
1933 khi Hitler lên cầm quyền. Thế là cha tôi thẳng thừng xé nát mẩu
giấy, rồi
thả những mảnh vụn xuống sàn. Ông đứng dậy, đi vào nhà vệ sinh; người
đàn ông
đang đợi ở đó, ông ta nắm lấy cha tôi, và nói, "Dù muốn hay không, tốt
hơn
ông hãy lắng nghe tôi. Tôi không thể chi tiết. Tôi không biết tí gì.
Chúng tôi
sẽ vô nước Pháp, đầu hôm sớm mai." (Đó là năm 1940). "Bằng mọi giá,
đưa gia đình ông đi ngay" (12).
Đây là một tay chóp
bu, của xí nghiệp quan trọng nhất về
điện khí ở Âu Châu, hãng Siemens. Cuộc họp về "giải pháp chót" (the
final solution: tận diệt dân Do Thái. CTND), chưa xẩy ra. Nhưng ở Ba
Lan, những
vụ tàn sát diễn ra rồi, và giới chóp bu Siemens đã biết một điều gì. Họ
không
biết chi tiết, bởi vì bạn sẽ bị bắn bỏ ngay lập tức, nếu bạn xin nghỉ,
và nói
về chuyện đó; nhưng tin tức này luồn lách qua đám chỉ huy cao cấp, qua
những
nhà ngoại giao, và người đàn ông này, cám ơn Trời, đã tin, và cha tôi,
đã tin
ông ta.
Cha tôi liên lạc với
thủ tướng, và xin ông cho phép gia đình
được tới với ông một thời gian, vì cuộc thương lượng kéo dài hơn là cha
tôi
thoạt đầu nghĩ. Thủ tướng nói, "Được thôi, lẽ dĩ nhiên, hãy để cho gia
đình tới với ông". Gia đình tôi được cứu thoát là nhờ vậy. Chúng tôi
thoát
ra trên những chiếc thuyền Mỹ cuối cùng.
Câu chuyện này sẽ có
một lý thú đáng kể, với những sử gia,
bởi vì đầu năm 1940 – người Đức tới tháng Năm mới "vô", trong khi
chuyện xẩy ra, là vào tháng Giêng – một nhân viên cao cấp Đức đã biết
một điều
gì đó.
-Rồi thì gia đình ông
đi đâu?
-Tới Nữu Ước. Cha tôi
quyết định, ít ra ông phải có một cử
chỉ làm tin, với nước Mỹ, với cơ may dị kỳ của chúng tôi. Ông gửi tôi
tới
trường Horace Mann; tôi, một học sinh Pháp 11 tuổi, khó chịu, ngạo mạn,
được
rèn luyện quá chu đáo, tiếng Anh làu làu. Sau hai năm, cha tôi kéo tôi
ra, gửi
tới một trường trung học Pháp.
Một bữa, chúng tôi
đụng độ với Horace Mann, trong một trận
túc cầu, và họ đã mang tới cả một giàn, nào trang bị, nào đồng phục,
trong khi
chúng tôi chẳng có gì. Chúng tôi đã "giần" cho họ một trận để đời.
Chúng tôi chơi lận, theo kiểu liều mạng, nhưng bữa đó, từ Riverdale trở
về nhà,
là chiến thắng!
-Tôi chưa hề biết,
ông đã là một cầu thủ. Ngoài ra, trường
Tây đó còn gì khác nữa?
-Lẽ dĩ nhiên, tôi đã
là một cầu thủ đá banh. Tôi đã là Tây
(I was French). Trường Tây là một "bước ngoặt lịch sử", đối với tôi.
Do chính quyền Vichy
cai quản. Một vài giáo sư là dân tị nạn, loại thiên tài, tất cả đều cố
kiếm tí
cháo trước khi vớ được một chân tại đại học Mỹ. Vậy là tôi đã gặp gỡ
với những
ông hoàng của văn hóa tị nạn Âu Châu, và đó là nơi tôi khám phá ra
thiên hướng
(vocation) của mình.
-Ông có trở lại Pháp
không, sau khi tốt nghiệp?
-Chúng tôi trở lại
căn nhà cũ, cố nhặt nhạnh đồ này thứ nọ,
cố tìm xem ai còn sống, ai đã mất. Thư viện của chúng tôi được chôn
giấu, và
còn nguyên. Tôi đã tính cứ để cho cuộc đời đưa đẩy, và trở thành một
thứ quan
viên Tây (a French mandarin). Tôi chẳng có một quan niệm, rồi đời mình
sẽ như
thế nào. Nhưng ông già khôn hơn nhiều, và - "nói theo nghĩa đen" -
ông đã tóm cổ thằng con, dọng cho một trận, rằng mày phải vào đại học
Mỹ, bởi
vì tiếng Anh là ngôn ngữ của tương lai. Thế là tôi được nếm mùi, cái
gọi là
"tuần lễ huấn nhục" (orientation week), ở đại học Yale.
-Bọn họ có "choảng"
cho ông một trận không?
-Không, nhưng một đứa
nhỏ trường Tây, từ những năm trước đó,
đã tới phòng tôi, và cho biết về tình trạng Do Thái ở Yale. Căng như
thế nào,
bị cô lập ra sao. Hãy nhớ là, đó là năm 1948; không giống như bây giờ.
Thế là
tôi trở lại Nữu Ước, một thân một mình. Tờ báo Time hồi đó, có một bài
viết
trang bìa, về một người có tên là Robert Maynard Hutchins, theo bài
viết, bạn
có thể lấy mảnh bằng cử nhân tại Đại học Chicago, tùy theo sức của bạn.
Tôi
viết cho ông ta, "thư của một cậu bé", và nhận được điện tín của ông,
nói, cứ việc tới trình diện.
-Vậy là ông tới Chicago?
-Bằng cử nhân thông
thường gồm 14 môn học, và bạn có thể thi
tốt nghiệp bất kỳ môn nào, ngay khi nhập học. Nếu được điểm A, bạn khỏi
cần học
môn đóù. Tôi thi tất cả 14 môn, đậu 10, còn 4 môn bị điểm E trừ – dưới
cả điểm
loại – về vật lý, hóa học, toán, và một môn có tên là "nghiên cứu xã
hội" (trước đó tôi chưa hề nghe nói đến từ này). Thế là tôi phải học
mấy
môn đó, và tôi đã trải qua một đoạn đời kỳ ảo. Chúng hoàn toàn mới mẻ.
Một thế
giới mở ra đối với tôi.
-Ông là sinh viên
chưa tốt nghiệp tại đó trong bao lâu?
-Tôi lấy cử nhân
trong một năm, và rồi tôi phải đi gặp một
chức sắc được gọi là cố vấn cho sinh viên tốt nghiệp, về chuyện học
khoa học.
Một chức vị lạ hoắc đối với Âu Châu. Ông này là một tổ sư toán, tên là
Kaplansky. Sau khi đọc thật kỹ những bài thi của tôi, ông phán, "Nói
theo
tính cách kỹ thuật, anh là một thằng ngu; anh chẳng biết gì hết. Cái
học Âu
Châu ghê gớm của anh cho thấy, anh học thuộc lòng mọi thứ, nhưng chẳng
có một
tia lửa nào bắn ra, nếu nói về một hiểu biết tiến trình toán học - nó
cho phép
anh xứng đáng bước vào khoa học". Tôi chẳng bao giờ tha thứ cho ông ta,
và
nhiều năm sau đó, tôi xoay sở đăng được một bài viết nho nhỏ về lịch sử
một vấn
đề mang tính toán học, trên tờ Tự Nhiên (Nature), một tờ báo khoa học
tối
thượng trên thế giới, và gửi nó tới cho thầy Kaplansky, lúc này đã nghỉ
hưu.
-Ông ta có trả lời
hay không?
-Trả lời bằng thư.
"Cám ơn ông về bài viết thú vị. Tôi
chẳng ân hận gì hết, về cái phần đóng góp của mình, vào lịch sử văn
chương." Tôi thật "mê", câu trả lời.
-Thế là sau đó, ông
quay qua văn chương?
-Tôi học văn chương
với Allen Tate, triết với Richard
McKeon. Giữa hai người, tôi không thể quyết định mê thầy nào hơn thầy
nào. Tôi
mê cả hai. Nhưng rồi, [đại học] Harvard liên lạc với tôi, về một chỗ
học cao
học, và tôi đã phạm một lỗi "dởm", là la lên rằng, "Ôi chao,
Harvard", sao tôi lại ngốc đến thế.
-Harvard liên lạc với
ông? Lúc đó họ đã biết ông rồi à?
-Một người nào ở đó
bảo họ, rằng tôi là một sinh viên xứng
đáng nhận vào môn văn chương so sánh, thế là cái linh hồn bé bỏng, hợm
hĩnh,
ngu si của tôi mắc bẫy. Tôi thật hạnh phúc ở Chicago, và say mê quan hệ với
trường. Tôi
tới Harvard, và chỉ vài tuần là biết ngay mình lầm: cái không khí hàn
lâm ghẻ
lạnh, sự kiện là, nếu bạn không học ban cử nhân ở Harvard, thì chẳng có
ai thèm
biết đến bạn. Đây là một trong những thời kỳ u ám nhất trong cuộc đời
của tôi.
Nhưng tôi có cái liều, từ Illinois
xin học
bổng Rhodes Scholarship thông qua trường Chicago.
Tôi viết thư cho viện trưởng Hutchins – đúng là liều bình phương, liều
lũy thừa
– và nói, đã lâu lắm chưa có sinh viên nào được Rhodes, và tôi có thể
dành một
học bổng cho ông. Ông ta thấy lý thú quá đến nỗi chịu làm một trong hai
người
đề cử tôi.
-Làm thế nào ông
thắng?
-Cú thắng này rất ly
kỳ, gây ám ảnh, đến nỗi cho tới bây giờ
tôi vẫn còn đôi chút hoang mang. Họ phỏng vấn bạn, mãi khuya lắc khuya
lơ, tại
một câu lạc bộ đồng quê. Giống như đối với nhân viên bộ ngoại giao. Họ
gọi tôi
vào phòng, cùng với một người vào chung kết khác nữa, anh này có ngôi
sao vàng
trường võ bị West Point trên cổ áo, và là một tay thủ quân của hai đại
học; họ
nói, sẽ là "một trong hai anh. Các anh có mười phút để sửa soạn một
phát
biểu ngắn gọn trước tiểu ban, cho biết quan điểm của mình, về trường
hợp
Hiss." [Hai vợ chồng bị kết tội gián điệp, trao tài liệu nguyên tử cho
Nga]. (Đó là tháng Chạp 1950, giữa phiên tòa sử lần đầu, và lần thứ
nhì). Anh
chàng hào hoa phong nhã được gọi vô trước, đứng nghiêm chào kính, và
nói,
"Xin lỗi, tôi xin được không trả lời câu này, với tư cách là một sĩ
quan
tương lai, vì vụ án còn đang tái thẩm". Tới lượt tôi, chẳng mảy may
ngần
ngại, tôi khai triển câu trả lời dài của mình: Tôi tin tưởng, một cách
say mê,
rằng bà ta mới là bên phạm tội, và ông ta đang hành sử quyền khai man
trước tòa
một cách ngược ngạo, để bảo vệ bà ta. Tôi khai triển nó vượt quá cả mọi
hiểu
biết, nhưng họ hoàn toàn bị đưa vào mê hồn trận.
Rồi họ nói với tôi,
"Bây giờ, chúng tôi muốn cho anh
học bổng, nhưng vì trở ngại thể chất của anh, không có một môn thể thao
nào.
Anh có mê một môn nào không?" "Ngoại trừ cờ tướng ra," tôi nói,
"tôi còn mê bóng đá Mỹ (American football)." Họ đưa cho tôi cục phấn
– chuyện này tất cả đều thực - và hỏi, tôi có thể chỉ cho họ, sự khác
biệt giữa
split-T, T, và một đội hình đơn-cánh (a single-wing formation). Tôi
nói,
"Chuyện dễ ợt", và tôi cứ thế bắt đầu, và họ nói, "Được rồi, anh
được học bổng." Câu chuyện thực hoàn toàn là như vậy.
Người phỏng vấn: Ông
vẫn còn là một ‘si khách’ (a fan) của
môn bóng bầu dục chuyên nghiệp (professional foobal)?
Steiner: Vâng, và của
bóng bầu dục đại học nữa. Tôi vốn hay
đi coi những trận đấu của [trường] Notre Dame, và Michigan State,
ở ngoài Chicago.
Tôi
[lúc này] nhớ chúng lắm, đành
phải theo dõi trên TV. Tôi mê mệt sự tinh tế của cái đầu, và sự kết hợp
xã hội
phức tạp của môn bóng này. Nói gần nói xa chẳng qua nói thật: đó là lý
do tại
sao tôi trở lại Anh Quốc.
-Sau khi học Oxford,
ông làm việc với tờ Người Kinh Tế (The Economist). Công việc thực sự
của ông ở
đó là gì?
-Viết, viết, viết, và
viết. Tôi trải qua bốn năm tuyệt vời
với tòa báo. Đầu tiên, về khối Liên Minh Đại Tây Dương (NATO) và Tây
Âu, và
rồi, Mỹ. Nhân một tin chuyện (a story), tôi được tòa báo cử qua Mỹ, để
viết về
Uỷ Ban Nguyên Tử Lực, trong đó có cuộc phỏng vấn nhà bác học
Oppenheimer tại
Viện Nghiên Cứu Cao Cấp (the Institute for Advanced Study) ở Princeton.
Vừa
thấy mặt tôi, ông đã nói, ông không thể tin, người thư ký của ông lại
cho cái
hẹn này; rồi ông giao hẹn, chỉ ba phút thôi; rằng ông còn nhiều chuyện
tốt hơn
để làm, đâu có thì giờ thừa thãi ‘hầu chuyện’ mấy anh nhà báo. Sau đó,
ông làm tới,
xát xà- phòng một mách, về ‘cái gọi là báo chí’; thế là tôi phản pháo,
"Nếu ngài tỏ ra ‘trắc ẩn’ một chút xíu, về ‘cõi báo đời’, biết đâu lại
có
một tin chuyện hay, cũng nên!" ("Perhaps, if you were a little more
humane about it, we’d get the story right.") Thế là ông bật cười ha hả.
Vậy là, tôi đi ăn
trưa với George Kennan, và Erwin Panofsky,
và vị học giả lớn lao về Plato, Harold Cherniss. Sau đó Cherniss mời
tôi tới
văn phòng đẹp tuyệt vời của ông, và trong khi chúng tôi ngồi bàn gẫu,
Oppenheimer vô phòng, ngồi bàn đằng sau chúng tôi. Đây là một trong
những mánh
ác độc, trí xảo nhất (one of the most cruel, brilliant tricks): nó cho
phép tay
chơi mánh làm chủ tình hình, trong khi những kẻ bị hỏi chuyện không thể
nhìn
thấy anh ta, và đành chịu trận. Oppenheimer là một bậc thầy của những
cú diễn
xuất như vậy. Cherniss lúc đó đang chỉ cho tôi, cách ông biên tập, cố
trám vô
một đoạn tác phẩm của Plato bị tàn khuyết. Khi Oppenheimer hỏi tôi, sẽ
sử sự
như thế nào, với một đoạn như vậy, tôi bắt đầu lắp bắp, và ông nói, "A,
vậy là ngu lắm. Một bản văn lớn phải có chỗ trống." May phước làm sao,
tôi
hết chịu nổi: "Trong đủ thứ thùng rỗng kêu to, đây là thứ nổ lớn
nhất," tôi nói. "Thứ nhất, đây là trích dẫn Mallarmé, và một người
như ngài, chắc hẳn phải biết. Thứ nhì, đó là thứ nghịch lý ông có thể
đùa giỡn
mãi, cho tới khi trâu bò về chuồng. Nhưng khi biên tập một bản văn của
Plato
cho thường nhân như chúng tôi, tôi sẽ đội ơn vô cùng, nếu các khoảng
trống được
điền vô." Oppenheimer phản công cũng thật ‘tuyệt cú mèo’, "Không,
chính với triết, bạn phải biết rành hơn thơ. Cái thiếu tiềm ẩn là mầm
gây biện
luận. ("No, precisely in philosophy you should know more than in
poetry.
It is the implicit missing that stimulates the argument.")
Đúng lúc đó, người
thư ký của ông bước vô, cho biết xe tắc
xi của tôi đang đợi. Oppenheimer đi kế bên tôi, với lối đi nổi tiếng
của ông,
và hỏi tôi đã lập gia đình chưa; vẫn trong trạng thái ngất ngư ở trên
đỉnh,
"mới đây thôi", tôi trả lời; ông quạt tiếp, "mấy con?"
"À, chưa, chưa có, chúng tôi vừa mới lấy nhau." Ờ," ông nói,
"hay lắm; việc nhà ở dễ lo hơn." Cách tôi nhập Viện Nghiên Cứu Cao
Cấp Princeton là như vậy đấy. Tôi là người đầu tiên, và quá trẻ trong
ngành
nhân văn, được mời nhập viện.
-Như vậy là ông từ bỏ
tờ Người Kinh Tế và trở lại Mỹ?
-Tay chủ bút của tôi
ở Luân Đôn năn nỉ tôi đừng đi; ông vạch
ra rằng, bây giờ họ cho tôi có thời giờ viết lách ngay cạnh Thư Viện
Luân Đôn,
công việc ở tờ Người Kinh Tế chủ yếu chỉ mất có 3 ngày 1/2 mỗi tuần, và
tôi có
thể làm việc riêng. Đó là truyền thống văn nhân ở Anh. Nhưng
Oppenheimer có nói
với tôi, đừng mong làm bán-thời gian mà đẻ ra được những cuốn sách tốt.
Câu nói
như lưỡi sao sắc cắt lịm người tôi. Thực vậy chăng? Bây giờ thật khó mà
nói.
Nhưng lúc đó, nó cắt tôi, ngọt lịm: tính quyền uy của người nói ra câu
đó, sức
thu hút, sự khinh miệt rất ư xác đáng, của một nhận định như thế. Bởi
vậy, tôi
chấp nhận.
-Tại sao sau đó, ông
quyết định trở lại Âu Châu?
-Đây thực sự là câu
hỏi trung tâm, về toàn bộ con người tôi,
toàn bộ công cuộc của tôi. Trước hết, hãy cho tôi làm sáng tỏ một điều,
vốn
thường rất bị hiểu lầm, hoặc được nói tới theo kiểu ngốc. Món nợ của
tôi với
Hoa Kỳ thực là lớn lao. Quốc gia này đã cứu cuộc đời chúng tôi, vào năm
1940,
không chỉ vậy; nó còn cho tôi nền học vấn, quốc tịch Mỹ của nó, và học
bổng Rhodes. Vợ tôi là người sinh đẻ
ở Nữu Ước; con cái của
tôi, chúng đều là những nhà khoa bảng trẻ ở Hoa Kỳ. Trong 27 năm, tôi
là người
phê bình cho tờ The New Yorker (Người Nữu Ước). Hàng năm, tôi tới Hoa
Kỳ chừng
vài lần, để thuyết trình, giảng dậy, và gặp gỡ gia đình và bè bạn.
Tuy nhiên, cũng hoàn
toàn thực, là tôi muốn sống và làm việc
ở Âu Châu. Công việc của tôi bám quanh một điều kiện đa ngôn ngữ. Điều
quan tâm
số một của tôi, có lẽ là câu hỏi về mối tương quan, giữa chúng ta và
ngôn ngữ
của mình; mối tương quan nội tại của chúng ta, với những ngôn ngữ mà
chúng ta
nói, và điều kiện của người đa ngữ, vốn là điều kiện không hiếm hoi gì,
ngược hẳn
với vô số lập luận ngu si. Tại Thụy Điển và Phần Lan, đa số dân chúng
trưởng
thành hoàn toàn trong cái nôi hai ngôn ngữ. Tại một thung lũng ở phía
bắc nước
Ý, người ta nói tiếng Ý, tiếng Đức, và phương ngữ (local dialect). Trên
thế
gian này, ở nhiều nơi, con người sinh ra trong cái nôi đa ngôn ngữ. Đối
với
tôi, chuyện này là cơ bản. Tiếng Pháp, tiếng Đức, và rồi tiếng Ý – được
thêm vô
sau đó: tôi sống trong chúng, tôi viết trong chúng, tôi nằm mơ trong
chúng.
Điều đơn giản đối với tôi là Âu Châu ban cho hoàn cảnh khả dĩ đa ngữõ.
Đặc biệt
ở Geneva,
trong
cuộc sống của tôi ở Pháp – cái phần hoài hoài trong hiện hữu của tôi;
tôi tiếp
xúc với nhiều tầng lớp của bản thân, [trong khi] ở Hoa Kỳ đơn ngữ tôi
không thể
có được.
Thứ nữa, tôi tuyệt
đối bị mê hoặc bởi lịch sử, bởi tính cổ
xưa của những đô thị và phong cảnh Âu Châu. Tôi chẳng bao giờ có thể,
chẳng bao
giờ có đủ thông minh, để đáp ứng với những không gian rộng lớn của hoàn
cảnh
Mỹ. Vứt tôi tại bất cứ một xó xỉnh Âu Châu, là tôi có thể nói cho bạn
biết,
trong phạm vi chừng vài cây số, xó xỉnh này thuộc về xứ nào: cái mùi,
cái giọng
nói, những cái tên, ánh sáng trên cây, trên tường những căn nhà. Mật độ
huy
hoàng và bi đát của hiện hữu, áp lực hiện hữu được cảm nhận (this
pressure of
felt being), đối với tôi, đây đơn thuần là bản năng, ta không lý luận
về nó.
Toàn phần cung cách con người tôi, dường như tuyệt đối là vậy.
Nhưng tất cả những
điều đó thực sự chỉ là mặt nổi. Có một lý
do cơ bản, bất di bất dịch. Nó là một giai thoại, và là phần số [đối
với tôi].
Heidegger nói một cách hung hãn, rằng giai thoại là kẻ thù của lý trí.
Phải,
trong một cung cách, nó là như thế, nhưng tôi đành chịu tội [là kẻ thù
của lý
trí]. Tôi là một người kể chuyện, và tôi mê chuyện. Thời gian đó, tôi
có hai
cháu, trước mắt chẳng biết kiếm đâu ra tiền, lại mới bậm vô một công
việc cô
đơn, là [tác phẩm] Sau Babel; hai đại học Mỹ tỏ ra thật rộng lượng, mời
tôi phụ
trách môn văn chương so sánh. Thế là tôi vù đi gặp cha tôi, lúc đó bịnh
quá
rồi, tại Nữu Ước. Chúng tôi tới một quán mà ông rất thích ngồi, Căn
Phòng Sồi
(the Oak Room) ở Plaza: một nơi mang chất Âu Châu tuyệt vời, và cũng
thật cổ
kính. Vẫn cái bàn ông đã từng ngồi, lần đầu tiên, vào năm 1924, khi ông
viếng
thăm nước Mỹ. Tôi xin ý kiến của ông. Tôi liệt kê lợi thế của đại học
A, so với
đại học B, ông rất lịch sự lắng nghe – ông là một người rất nghiêm
khắc, khó
khăn – và ông nói, tôi mới là người quyết định, lẽ dĩ nhiên; và rồi,
sau một
hồi lặng thinh, ông nói, "Thật là buồn, Hitler đã thắng." Điều ông
muốn nói, là Hitler đã thề, rằng Âu Châu sẽ sạch bóng Do Thái, rằng sẽ
không có
một mống Steiner nào ở đó nữa. Ngay đêm đó, tôi điện thoại cho nhà tôi,
nói,
thà tôi là một giáo viên, một công nhân hãng xưởng, bất cứ một giống gì
ở Âu
Châu, còn hơn là lại phải nghe một lời khinh miệt như vậy của cha tôi.
Tôi
không thể chịu nổi. Làm sao tôi đủ sức chịu nổi cả ‘một trời khinh miệt
buồn
bã’ (the immense world of sad disdain), qua nhận xét đó. Tôi biết là
cha tôi
đúng. Ông đã hy sinh đời ông để cứu chúng tôi, để cố gắng cứu những
người khác,
và con trai của ông không bị đẩy ra khỏi đó, trong bất cứ một tình
huống nào.
Tôi là một người của
hồi nhớ. Ở trung tâm tác phẩm của tôi,
là toan tính: tới sau Lò Thiêu, theo nghĩa văn học, dưới góc cạnh văn
hóa,
triết học. Được ở lòng vòng đâu đó, với tất cả những cái bóng, những
hồn ma và
tro than, những thứ đó thì đầy rẫy ở đây [Âu Châu]. Điều này có phần
phi lý;
những người biên chép vĩ đại - như Raul Hilberg, Elie Wiesel – đã chọn
làm điều
này, từ một căn cứ Mỹ. Còn tôi thường xuyên trở về những nơi chốn người
thực
việc thực. Tôi cũng thường trở lại cái làng của cha tôi ở Tiệp Khắc.
Tôi đã tới
những trại tù. Tôi cứ trở lại hoài - hầu như do bản năng - với ngôi
trường của
tôi ở Paris.
Trong lớp học của tôi hồi đó, chỉ có một đứa trẻ Do Thái sống sót, cũng
là do
may mắn, may mắn thuần tuý. Âu Châu dường như là nơi tôi phải ở để làm
công
việc của tôi, giảng dậy, và suy nghĩ.
-Có bao giờ ông nghĩ
tới chuyện sống ở Israel?
-Có những buổi sáng,
ở Jerusalem,
tôi tự hỏi chính mình, "Tại sao mi không ở đây?" Với tôi, nó là một
câu hỏi thật phiền nhiễu, và cũng thật khẩn cấp. Trọn đời, tôi luận
chiến chống
lại [chủ nghĩa] Zionism, bởi vì tôi chán ghét chủ nghĩa quốc gia, bởi
vì tôi là
một thứ tự kiêu về sắc tộc. Tôi là một kẻ phân biệt sắc tộc tới chân
răng kẽ
tóc, ‘theo một nghĩa đạo hạnh’ [của từ này]. Nói vậy có nghĩa, với tôi,
sự
kiện, rằng một người Do Thái phải tra tấn một con người khác, như trong
trường
hợp công an mật vụ Israel đã làm, là ‘để sống sót’: một điều tôi không
thể sống
nổi với nó, theo một nghĩa thuần lý. Dường như đối với tôi, nó là một
điều quá
kinh khủng. Nếu có ai hỏi tôi, tại sao lại như thế - mật vụ Do Thái tra
tấn
người tồi tệ hơn bất kỳ một người nào khác [tra tấn người] - tôi sẽ nói
là đối
với tôi, nó tồi tệ vô cùng. Chúng tôi là những con người, bởi sự bất
lực của
chính mình, bởi chính mình bị săn đuổi, nên có cái đặc quyền và tính
quí tộc
phi thường, là không tra tấn ai, là không làm cho người khác trở thành
kẻ không
nhà.
Nhiều năm trước đây,
tôi chui vô đứng phía sau những thính
giả trong một buổi thuyết giảng của Edward Said, ở đại học Columbia. Chúng
tôi chỉ biết mặt nhau; ông ta
thấy tôi, và làm ra vẻ không nhận ra, ông nêu lên cuốn sách kiệt xuất
của
Martin Buber, Tôi và Người (I and Thou), và nói: "George Steiner có thể
sẽ
thú vị, khi biết rằng cuốn sách này được viết ra, trong căn nhà mà cha
mẹ tôi
và tôi đã bị tống ra khỏi, vào một đêm nào đó, (tôi nghĩ), đó là vào
năm 1948.
Và tôi hiểu ra một điều, ông ta đã thắng, theo một đường hướng khủng
khiếp,
theo một đường hướng hầu như siêu việt, đặc quyền chế nhạo, móc họng
đó. Chúng
tôi, những người Do Thái chưa hề là đề tài của sự móc họng như vậy, bởi
vì sự
bất lực, theo một nghĩa ngược ngạo. Nhưng với tôi, cây có rễ, người có
chân, và
đây là một lợi thế lớn lao vô cùng. Chúng ta là những vị khách, lẫn
nhau, vì
nhau, khi chúng ta di động trên mặt đất. Viễn ảnh này, về Do Thái giáo,
chạy từ
Jeremiah tới Trotsky, một trong những khuôn mặt vĩ đại nhất khác nữa
của chủ
nghĩa quốc tế Do Thái – Trotsky, kẻ tiên tri; Trotsky, một người đã tin
tưởng
rằng mọi biên cương sẽ bị bãi bõ; kẻ đã chết vì một cái rìu bổ băng,
tại
Mexico, sau khi bị săn đuổi suốt hai mươi xứ sở. Hiện ắt phải còn một
vài người
Do Thái không thực tế đến mức phi lý, còn sót lại trong cái thế giới
bóng đen
vĩ đại Âu Châu, họ ít ra cũng còn tưởng nhớ đến một nền văn minh còn
vang bóng.
Theo nghĩa đó, tôi giản dị không có đặc quyền, hay khả năng, hay tài
năng để
góp phần vào cuộc sống Mỹ, như là tôi cảm nghĩ tôi có thể, với cuộc
sống ở Âu
Châu.
Người phỏng vấn:
Nhưng chắc chắn có điều gì liên quan tới
tính cách của cuộc sống trí thức và văn chương Mỹ, và nó làm ông giãn
ra.
Steiner: Vâng. Tôi
viết một tiểu luận được tái đăng nhiều
nhất và bị ghét bỏ – trong số những gì tôi viết, đây có lẽ là bài bị
ghét bỏ
nhiều nhất – tên là "Thư Khố Vườn Địa Đàng" (The Archives of Eden),
trong đó tôi dướn mãi cổ lên mà nói rằng những bảo tàng viện, thư khố,
những
viện nghiên cứu, đại học Mỹ sẽ là trung tâm của thế giới văn hóa, sống
nhờ nghệ
thuật, triết học, siêu hình học của Âu Châu. Nói vậy có nghĩa, rằng
những
Wittgenstein, những Heidegger, những Sartre của trái đất này sẽ vẫn
tiếp tục
tới, từ một Âu Châu tự sát, bị moi ruột, tan hoang rã rời; rằng tác
phẩm loại
nhì - chứ không phải loại nhất - đang làm đầy văn hóa Mỹ, và cứ thế
tràn lan ra
mãi; rằng de Tocqueville đã đúng, khi ông nói về một chủ nghĩa đồng
hạng sâu
xa, cố hữu, (a deep inherent egalitarianism) ở trong những hy vọng của
tâm hồn
Mỹ; rằng cái thứ công lý xã hội và chủ nghĩa đồng hạng, và phép lịch sự
(decency) – hãy gạch dưới từ này bằng tám cây bút chì đỏ! – trớ trêu
làm sao
[lại tỏ ra] thù nghịch với một vài phẩm chất triết học dứt khoát thuộc
loại
thượng hảo hạng và có lẽ [thù nghịch cả với] sáng tạo nghệ thuật.
Về chuyện này, những
người Mỹ sẽ nói, đúng thôi, rằng họ
đang dẫn đầu thế giới, về vũ ba lê. Tôi không phải là một ông tòa,
nhưng tôi
hoàn toàn chiều theo một nhận định như vậy – hay là một nhận định cho
rằng hiện
nay có một vài nhà soạn nhạc rất tốt: không phải một Schoenberg, không
phải một
Bartok, không phải một Stravinsky, nhưng một người nào đó, quan trọng
cỡ Elliot
Carter hay là Aaron Copland. Lẽ dĩ nhiên, lên danh sách kiểu này thật
là ngu
xuẩn, và chẳng dẫn tới đâu. Đây là một câu hỏi về linh cảm, về bản
năng. Có thể
tôi lầm, nhưng tôi vẫn chưa thấy rằng mình được thuyết phục. Báo chí Âu
Châu sẽ
vẫn đưa lên trang nhất, một biến cố triết học, hay một cuộc tranh luận,
hay là
cái chết của một tư tưởng gia xuất sắc. Không gian như có dây tơ, réo
rắt điệu
vũ tư tưởng (There is a density to the atmosphere, a vibrato of ideas).
Hãy cho tôi trình bầy
theo kiểu khác. Từ mút phía tây Portugal
tới St. Petersburg,
bạn có những
"cafés", nơi bạn có thể tới vào buổi sáng, kêu một ly cà phê, hay một
ly rượu chát, suốt ngày đọc những tờ báo trên thế giới, chơi cờ, hay
viết lách.
Thư mục về những cuốn sách tuyệt vời, viết ở quán cà phê, thì thật là
khổng lồ.
Có những người luôn luôn làm việc theo kiểu này, và rất khoái như vậy.
Bạn
không thể có những quán cà phê như thế ở Moscow,
một thành phố ở biên cương Á Châu. Đường ranh có thể sẽ thật rạch ròi: Odessa có lẽ là
giới hạn
chót của "café". Tôi thuộc loài "café’, không phải loài tiệm
rượu (pub creature). Quán rượu Anh là một con vật hoàn toàn khác biệt,
và
"bar" Mỹ lại càng là một con vật quá đỗi khác biệt. Tôi ở nhà, tại
bất cứ nơi đâu, ở Âu Châu, bởi vì ngay lúc tôi vào quán cà phê, hoặc là
có một
bàn cờ, thách một người khác, hoặc gọi báo đọc, những tờ báo gắn vào
những
thanh gỗ cổ kính, khi đọc ta phải cuốn cho tròn. Đó mới là thứ xã hội
bình đẳng
nhất trên thế giới, bởi vì chỉ cần trả một ly cà phê hay một cốc rượu
chát là
bạn mua được cả một ngày ngồi bàn, viết lách, làm bất kỳ chuyện gì. Sau
những
bài giảng của tôi ở Geneva, những sinh viên của tôi biết rất rõ, tôi sẽ
ngồi ở
đâu để uống ly cà phê thứ nhì buổi sáng, hay là một cốc rượu vang
trắng, họ có
thể tới, và tán gẫu với ông thầy. Đó mới là nơi cuộc sống trí thức sáng
ngời.
Đó là những vấn đề
gai góc; thật chẳng có cách chi để mà ‘cò
kè’, với những đam mê, hoặc những lỗi lầm nghiêm trọng của mình. Con
cái tôi,
chúng sẽ nói Mỹ là tương lai, và có thể đã là hiện tại. Chúng đã chọn
lựa, tôi
tự hào về chúng và rất vui được thường xuyên viếng thăm. Nhưng hồi ức
thì thật
là mãnh liệt, cái học Tây, còn đầy. Tại sao tôi không đi về thiên đàng?
Rõ ràng
là, tôi tới thiên đàng vì những lý do đạo đức, nhưng còn có những lý do
rất ư
thực tế nữa: "Tôi đã ở thiên đàng rồi." Thiên đàng là gì? Là Phòng
Trưng Bầy Tranh (Galleria) ở Milan.
Tôi đang ngồi với ly phê cappuccino, thứ thiệt, trước mặt tôi là (tờ
báo) La
Stampa, là (tờ báo) Frankfurter Allgemeine, tờ Thế Giới (Le Monde), và
tờ
Times. Trong túi tôi là chiếc vé đi coi La Scala, và mũi tôi thì ngào
ngạt
chừng cả tá mùi vị thật khó phân biệt tại Galleria này: mùi sô cô la,
mùi bánh
nướng, mùi sách vở của chừng 20 tiệm sách (những tiệm sách thuộc loại
số một
trên hoàn vũ), tiếng chân người bước về phía hí viện (oprea), hay những
rạp hát
tối nay; cung cách Milan rung lên quanh bạn. Tôi đang ở thiên đàng, bởi
vậy tôi
đâu cần một thiên đàng thứ nhì nữa.
Trung Tâm Lincoln không giống như vậy, đối với tôi. Tôi yêu
và chiêm ngưỡng "the Met" [The Metro Museum of Modern Arts, Viện Bảo
Tàng Nghệ Thuật Hiện Đại Nữu Ước], nhưng vấn đề không phải như vậy.
Chúng ta là
những sinh vật phức tạp và mảnh đất nội, cảnh thổ của toàn bộ con người
tôi, là
Châu Âu, và có thể, có lẽ – tôi biết chứ – đó là cảnh thổ của một Châu
Âu đã
mất rồi.
-Nơi nào trên thế
giới hiện nay, có thứ viết lách hạng nhất?
-Đông Âu, và Mỹ Châu
La Tinh, theo tôi nghĩ, hầu như chẳng
chút nghi ngờ. Viết lớn, nghĩ lớn [thường] nở rộ dưới sức ép. Suy tư là
một
công việc cô độc, ung thư, cõi riêng, khật khùng: khả năng tập trung
sâu thẳm,
xoáy mãi vào bên trong. Rất ít người biết suy tư: suy tư tập trung thực
sự là
điều khó nhất trên đời, và nó lợi vô cùng, nhờ sức ép. Được hỏi về sự
kiểm
duyệt Ca-tô giáo, Joyce nói, "Cám ơn Trời, có nó. Tôi là trái ô-liu,
hãy
vắt tôi đi." Được hỏi tại sao không rời bỏ thành phố Buenos Aires nguy
hiểm,
thời kỳ Peron đang nắm quyền, đổi lấy một địa vị ở đại học Harvard, nhà
văn,
nhà thơ mù Borges mỉm cười nói: "Kiểm duyệt là mẹ của ẩn dụ". Không
phải tôi nói ra những điều này, mặc dù tôi bị tấn công rất nhiều vì
chúng; đó
là những con sư tử, đó là những con người biết suy tư là cái giống gì,
và biết
thế nào là thứ viết lách loại tối hảo.
Có lẽ trong một thời
gian, vẫn có những thứ viết ghê gớm, từ
những quốc gia mới được tự do. Nhưng nó nhạt nhòa tức thì. Jackie
Collins đang
làm đầy những khung cửa sổ mà Tolstoy, Dostoevsky, và Gogol đã có lần
làm đầy.
Những người trẻ nói, "Hãy cắt bỏ ba thứ đồ cổ". Họ muốn cuộn băng
videocassette vừa mới ra lò. "Văn hóa cao của bạn ghê thấy mẹ", họ
nói; ‘người ta tọng vào cổ chúng tôi. Chẳng ai hỏi chúng tôi có ưa
Goethe hay
là không. Chúng tôi ghê tởm ông ta." Tôi biết điều đó. Tôi không đến
nỗi
ngu chùm đầu. Trong trường hợp đó, tôi sẽ thấy ngay, mình là loài khổng
tượng,
một thứ quan viên, phần còn sót lại của một nền văn hóa ưu tú cao cấp.
Tôi biết
điều đó.
Nhưng đâu là sự dị
biệt thực sự giữa tôi với hầu hết những
đồng nghiệp người Mỹ? Tôi có thể kính trọng, và thích hợp, với bất cứ
ai, nếu
người đó sống niềm tin của mình (anyone who lives his beliefs). Sống
niềm tin
của mình là một điều rất nguy hiểm. Tôi vừa mới cho xuất bản tại Pháp,
một cuốn
sách gồm những cuộc đối thoại – về [đề tài] Abraham và Antigone – với
một trong
những người sống sót lớn lao nhất, sau cùng, thoát khỏi phát xít Pháp,
một
khuôn mặt rất nổi tiếng, Pierre Boutang, một triết gia cực tả. Chúng
tôi khác
biệt nhau, về mọi điều, ngoại trừ điều này: sự kính trọng hỗ tương, và
khả năng
tranh luận (debate) những dị biệt của nhau, bởi vì ông ta đã đem cuộc
sống của
mình ra để mà chứng minh, còn tôi thì cố gắng sống trọn những điều mình
tin
tưởng. Điều tôi không thể chịu nổi, đó là một chủ nghĩa bình dân-dân
chủ
(democratic populism) được rao lên, được mời chào, được tuyên bố, bởi
những
người bản thân mắc nợ đủ thứ văn hóa cao, những kẻ sống cuộc đời đặc
quyền, đặc
lợi bên trong những hang động hàn lâm, và cố tình ăn theo cả hai mặt.
Thời kỳ xẩy ra những
vụ rắc rối nổi tiếng 1968 và 1969, tôi
có mặt ở vài điểm nóng bỏng nhất – đại học Harvard, Frankfurt – nhưng
những
sinh viên tuyệt đối kính trọng một người theo Platon không chịu cải tạo
(an
unreconstructed Platonist), như là chính tôi. Tôi chẳng gặp rắc rối gì
hết. Họ
thù ghét, họ bất đồng, nhưng họ hiểu rằng tôi say mê thâm chứng chủ
nghĩa
Platon đó. Họ tới, chỉ để tỏ sự khinh miệt với những kẻ nào muốn tru
theo chó
sói. Sinh viên có thể nhìn, xuyên qua thói đạo đức giả, như xuyên qua
một chiếc
ly thuỷ tinh không mờ mờ. Họ biết những kẻ nào chỉ cố làm điều: làm họ
hài
lòng, làm họ phổng mũi. Bạn không thể ăn theo cả hai mặt. Một người mà
cõi mơ,
mà tình yêu, mà bực rọc, mà đời thường, mà truyền thông: là Plato, là
Bach, là
Shakespeare, là Wittgenstein: người đó không thể giả đò: tôi là một
loài bình
dân. Chính điều này làm tôi buồn nôn. Nếu tôi phải đụng đầu với một
người như
Camille Paglia, bà cho rằng Jimi Hendrix thì quan trọng hơn là
Sophocles, hay là
nếu tôi gặp một người thực lòng sống một kiểu sống như thế đó, với tất
cả những
hiểm nguy của nó, tôi chỉ có việc ngả mũ chào. Tôi có thể không đồng ý
với họ.
Thí dụ, tôi cũng đã tin, rằng nhạc kim khí nặng và nhạc rock là sự phá
huỷ mọi
im lặng, mọi hy vọng về niềm trầm lắng, hướng nội của con người. Nhưng
nếu có
người bảo tôi, rằng họ là tiếng nói của tương lai, rằng họ đang sống
điều đó,
rằng họ không giả đò làm điều đó từ căn biệt thự mầu trắng có vách bảo
hộ, có
vườn rộng, được chăm sóc, vậy là có sự kính trọng hỗ tương, không khó
khăn gì
hết. Tôi phát điên lên, vì thói rởm đời của ngành nghề chúng tôi, thói
rởm đời,
sự giả hình máu me: vừa muốn lợi dụng hai mặt, vừa muốn chạy tru với lũ
chó sói
chính phái chính trị, [nguyên văn: PC wolves (những con chó sói chính
trị chính
phái. PC: politically correct] để được yêu vì.
-Vậy thì, hãy đồng ý
rằng có những tác phẩm lớn. Hãy đồng ý
rằng chúng ta có thể nói, một cách thông minh, về những người [được coi
là]
những nhà văn vĩ đại nhất. Những người viết hảo hạng hiện còn sống, là
những
ai?
-Người ta thường lầm
lẫn, về điều này, trong thời đại của
mình. Edmund Wilson hầu như đã nhận ra điều này, khi cho hai nhà văn
lớn kết
đôi với nhau: Proust và Faulkner, Yeats và Joyce. Ông ta có cây ăng ten
tuyệt
hảo hạng. Tôi tin rằng [nếu trong văn học sử], tôi là một cước chú của
một cước
chú của một cước chú (if I’m a footnote to a footnote to a footnote),
thì cước
chú đó sẽ là: George Steiner đã tranh đấu rất sớm cho một nhà văn như
Paul
Celan. Và René Char, người mà tôi tin là một nhà thơ ngất ngưởng chót
vót trên
thi đàn Pháp, khi thế kỷ 20 này kết thúc. Đây là một vấn đề rất khó.
Người nào
đọc 10 trang cuốn Toàn Bầy Tuấn Mã (All the Pretty Horses) của Cormac
McCarthy,
người đó có ấn tượng là một Faulkner tái hiện. Tôi cố đọc lại 10 trang
đó:
không thể. Bạn bắt đầu bị chết nghẹn vì những máy móc công thức, của
một tặng
phẩm huy hoàng. Nó là một tặng phẩm không thể ngờ được. Có những trang
văn xuôi
trong tác phẩm của McCarthy ngay lúc này là một thứ văn xuôi điện giật,
hung
bạo nhất, phát hiện nhất, được viết ra. Tôi nghĩ là ban giám khảo còn
vắng mặt,
chưa quyết định. Tôi muốn thử đọc lại McCarthy. Tôi cũng sẽ không đưa
ra những
bảng danh sách, theo kiểu của Harold Bloom. Tôi thù ghét kiểu thao diễn
như
vậy. Điều làm tôi hoảngï, là những điểm đặc thù. Trong những tiệm sách
Anh,
thời kỳ sách tồn kho bán đại hạ giá, cho những cuốn tiểu thuyết đầu
tay, là 17
ngày. Vậy thì đâu là cơ may cho một cuốn thuộc loại khó khăn, thuộc
loại độc
đáo? Làm sao những cuốn sách thuộc loại khó đọc hơn, có thể sống sót,
qua cái
mùa siêu thị những giá trị văn hóa, khi chúng chiếm một chỗ thật ngắn
hạn trên
kệ sách, khi không được thổi phồng, thiếu những màn tiếp cận thị
trường? Làm
sao chúng sống sót sự chuyển kiếp, sách biến thành dĩa, thành CD-ROM,
một tân
thế giới [của những cách thức, phương tiện] tiếp cận bản văn? Tôi có
thể tưởng
tượng ra những sách học làm người, những cuốn sách thể thao, thời sự:
chúng cứ
thế nở rộ. Những cuốn sách hướng dẫn viện bảo tàng, chúng thật quá tốt.
Nhưng tôi
không chắc, rằng một Proust, một Musil, một Broch, một Faulkner lại có
một tí
bóng ma của cơ may ở đây. Điều này làm tôi lo. Việc bãi bỏ thời gian
cần thiết!
(The abolition of the necessary time!). Thời khốn kiếp chi đâu: bạn và
tôi, tất
cả mọi người chẳng còn một tí thời gian, cho bất cứ một chuyện gì, dù
có đủ cả,
nào điện thoại, nào điện thư (faxes), nào thư điện tử (E-mails). Chúng
ta thiếu
hụt thời giờ thực thụ, nhưng quan trọng hơn, thiếu hụt không gian dành
riêng
cho mình, thứ không gian không bị ai quấy rầy, mà những người trước
chúng ta đã
có.
-Ông nói tới máy fax,
điện thoại, máy điện toán. Hãy nói về
những công cụ của việc viết, và cung cách theo đó, kỹ thuật ảnh hưởng,
hay
không ảnh hưởng, vào công việc của chính ông?
-Vâng, tôi say mê tay
nghề cụ thể, đích thực của việc viết.
Tôi là loài buổi sáng. Tất cả những việc làm tốt nhất của tôi đều nhắm
vào buổi
sáng, đặc biệt lúc sáng tinh sương, khi cái đầu của tôi, và tính mẫn
cảm tỏ ra
hữu hiệu nhất. Tôi đọc và ghi chú vào buổi chiều, rồi sau đó, phác họa
bản viết
dành cho sáng hôm sau. Buổi chiều là thời gian để nạp điện. Tôi viết
bằng những
cái máy đánh chữ cổ lỗ sĩ. Tờ Tạp chí Paris (The Paris Review) có một
sưu tập
lớn nhất về ba chuyện thông cảm như thế này, trong bất cứ lần in ấn
nào. Thực hết
sức phi lý, nhưng tôi mê loại giấy viết khổ lớn; ở Mỹ, họ gọi là khổ
"pháp
định" ("legal" size). Nó trước đây vốn được bán tại bất cứ một
cửa hàng văn phòng phẩm nào, nhưng bây giờ bạn phải đặt trước. Tôi
thường đánh
máy theo lối xít hàng (single-space), trên những tờ giấy lớn đó, đánh
thật dở,
đánh đại, chẳng thèm phân đoạn. Đây là thứ ra lò đầu tiên, được đánh
máy một
cách ngây ngô, cục cằn. Bản thứ nhì sẽ là cách hàng (double-space), bắt
đầu
dùng loại giấy khổ thông thường, nhưng vẫn còn cả lố những chữ viết tay
thêm
vô, và những sửa chữa. Vậy là, theo một kiểu tức cười, bản phác thảo
của tôi là
xít hàng, đánh trên giấy khổ lớn; tôi không biết trò này bắt đầu khi
nào, nhưng
tôi đã làm vậy trong nhiều, nhiều năm và tôi cứ đi đi lại lại trong căn
phòng như
một con gà mái mất bầy con, khi không có được cái thứ giấy khổ kỳ cục;
một cách
nào đó, nó tương xứng với cung cách mà tôi nhìn một vấn đề.
-Cách ông sửa [bản
thảo]?
-Ở mặt trái, hay ở
lề. Bản thảo tiếp theo, vẫn còn rất thô
bạo, là cách hàng, vì vậy, tôi sửa ở giữa hai dòng chữ.
-Ông viết ở đâu, và
khi nào?
-Ở bất cứ chỗ nào.
Tôi làm chuyện đó ở phòng khách sạn nếu
có máy đánh chữ kế bên. Bây giờ tôi có rất nhiều văn phòng: một cái
thật đáng
yêu ở Geneva, ở đây, nơi bạn đang ngồi, căn phòng của tôi ở Churchill
College
[thuộc] Đại học Cambridge, và bây giờ, tôi sẽ xách cái máy đánh chữ tới
St.
Ann’s College, thuộc Đại học Oxford. Nói theo kiểu đó, tôi thật là may
mắn: môi
trường chung quanh chẳng làm phiền tôi. Tôi lại lắm thư từ. Và ngay mặt
này, tôi
đa số viết tay. Tính trung bình một ngày, tôi nhận chừng 10 hoặc 12 lá
thư.
-Ngày đặc biệt, ông
viết bao nhiêu thư?
-Bốn hoặc năm, và
trong rất nhiều trường hợp, chỉ là một lời
xin lỗi ngắn ngủi, do đã không trả lời. Tôi không làm theo kiểu thiệp
in sẵn của
Edmund Wilson: "Tôi xin lỗi vì tôi không thể trả lời". Bởi vì tôi
viết về quá nhiều điều, bởi vì tôi nhắc tới quá nhiều cuốn sách và
những người
viết khác, nhận thư hoài, để hỏi tôi tìm cái này cái nọ ở chỗ nào, hỏi
kiếm đâu
ra để đọc, về một người viết riêng biệt. Những người đó, tôi luôn luôn
trả lời.
Đây, tôi nghĩ, là một thứ luật đạo đức, đối với tôi.
-Ông có những nghi
thức đặc biệt nào không, khi bắt đầu
viết?
-A, thực sự có chứ.
Đúng là một câu hỏi tốt; bạn làm cho tôi
nhận ra điều này đấy. Trước khi khởi đầu một cuốn sách mới, hay là một
tiểu
luận dài, tôi sẽ lấy một trang văn xuôi loại hàng đầu, trong một ngôn
ngữ thích
ứng, và đọc một cách trầm lắng trước khi khởi sự viết. Nhưng nó sẽ
chẳng liên
quan tới đề tài tôi viết.
-Ông đọc lớn đoạn văn
đó?
-Vâng, và hầu như học
thuộc lòng - tôi thực may mắn về
chuyện này – tôi có thể học thuộc lòng rất nhanh, ngay cả với văn xuôi.
-Trí nhớ của ông là
thuộc loại chụp ảnh (virtually
photographic)?
-Nó được tôi luyện
thật kỹ. Chúng tôi khởi sự, khi còn là
một đứa trẻ năm hoặc sáu tuổi, trong một trường Pháp, với mười dòng mỗi
tuần,
về một bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine, và cuối cùng là một trăm năm
chục dòng
mỗi tuần, khi tôi mười bẩy tuổi – chẳng khó khăn gì hết. Tôi vẫn còn
thuộc lòng
rất nhiều Racine
của tôi. Vậy thì vâng, đây là một nghi thức. Sau này, thí dụ, khi tôi
đang viết
Những Hiện Diện Thực (Real Presences), tôi thường bắt đầu chính mình
bằng cách
lấy một trang của Coleridge. Nó tác động tuyệt vời lên tôi. Tôi có một
ấn
tượng, về một âm nhạc của tư tưởng (a music of thought), vượt quá cả
tầm mình.
Với tiếng Đức, thì thường là một bài thơ, với tiếng Ý, gần như ngày nào
tôi
cũng đọc Dante. Ông đi cùng với tôi hoài hoài, hoài hoài.
-Tôi thấy mắt ông
sáng rỡ, khi nói về nghi thức của ông;
thật ngọt, thật tuyệt. Vậy là cái việc viết sau cùng, thực sự, hoàn
toàn đem
lạc thú cho ông?
-Không, không, nhưng
tôi thực may mắn. Hành động viết thường
làm tôi vui tràn trề. Có những lúc, tôi cảm thấy chết khiếp, khi nghĩ
tới thời
hạn chót phải đưa bài, nhưng ít khi xẩy ra chuyện này. Một trong những
đặc
quyền trong 27 năm ở tờ Người Nữu Ước (The New Yorker), là tôi tha hồ,
muốn
viết về đề tài nào là viết.
-Ông có nhờ ai cố vấn, khi đang viết?
-Không bao giờ. Đó là
một lỗi lầm. Tủ sách Đại chúng (The
Every’s Library), lần thứ nhất cho ra một bản Cựu Ước, và tôi được yêu
cầu viết
một lời tựa dài. Mất cả một mùa hè. Tôi không phải là một người rành
tiếng Do
Thái Hebrew, hay là một nhà học giả về kinh thánh; bây giờ vấn đề tế
nhị là gửi
mười phóng bản cho những chuyên gia, và nhờ họ chỉ giùm những sai sót
tôi đã
phạm phải. Có lẽ lần này tôi sẽ làm điều này, một điều trước đây tôi
chưa hề
làm - với phí tổn của tôi. Đây đúng là đi ngược lại với khuynh hướng
làm việc
theo trào lưu hợp tác hiện thời. Tôi nghĩ một trang viết - nó hát, nó
sống ở
trong chúng ta - như vậy phải là một hành động tự biên tự diễn thật
hoang dại;
thật khùng, nếu tự mình làm tất cả. Thật khùng khi nghĩ rằng bạn có một
điều gì
mới để nói về Cựu Ước, ới Thượng Đế ơi! Bao nhiêu cuốn sách đã viết về
nó nhỉ?
Hàng trăm ngàn? Tôi thật đoán cũng không nổi; chúng họp thành cơ man là
thư
viện. Vậy thì làm sao bạn lại khùng như thế? Làm sao, sau Proust và
Joyce và
Kafka và Faulkner, bạn có thể ngồi xuống và viết một cuốn tiểu thuyết?
Tôi
chẳng bao giờ hiểu hoàn toàn. Câu trả lời: bạn phải [ngồi xuống và
viết]. Và
cái "bạn phải" này là một ung thư "riêng", một cục u
"tư", của linh hồn (a private tumor of the soul). Nó không phải là
một hành động tập thể, như là trong những ngành khoa học.
-Có lần ông nói với
tôi, rằng The Portage "đã viết
ông", như thể ông là một người thư ký ghi chép lại. Trước đó, hoặc kể
từ
đó, ông đã từng kinh nghiệm một điều như thế?
-Tôi có kinh nghiệm
này, ở một vài trang sách. Cái đoạn ở
trong Sau Babel, về những điều dối trá như là giây phút sáng tạo lớn
lao, và về
tư tưởng: rằng 20,000 ngôn ngữ là phương thức đáp ứng, nhằm thoát khỏi
cõi đơn
điệu là cuộc sống, mỗi ngôn ngữ cho bạn một viễn ảnh khác biệt về thế
giới –
đây là năm hoặc sáu trang sách, về những gì chưa từng có ai nói ra, và
cũng
chưa từng có một người nào đồng ý. Đoạn cuối Antigones, cũng là do
chính cuốn
sách tự viết. Nhưng toàn một cuốn, có thể là The Portage.
-Ông đã nhắc tới cuốn
Cựu Ước trong Tủ Sách Đại chúng. Ông
có thể nói cho chúng tôi một điều gì, về những dự án hiện thời của ông?
-Vâng, tôi vừa hoàn
tất – ôi sung sướng làm sao! – một cuốn
sách nhan đề là Homer trong tiếng Anh (Homer in English), từ Caxton tới
Walcott, bốn trăm năm chục năm, những tuyển chọn từ những bản dịch
Homer, những
bản phóng tác, bắt chước, châm biếm, nhại, mô phỏng. Đây là lịch sử
ngôn ngữ
Anh và cảm tính từ đầu thời Trung Cổ tới ấn bản mới được xuất bản, tập
ba và
bốn của Christopher Logue; từ ấn bản Caribbean của Dereck Walcott, tới
những ấn
bản Tô Cách Lan, ấn bản Ái Nhĩ Lan, Welsh và Mỹ. Đây là bản văn được
dịch thuật
nhiều nhất, qua bất kỳ một ngôn ngữ, còn nhiều hơn là thánh kinh. Kể từ
bước
mgoặt thế kỷ mười bẩy, không năm nào mà không có một người cho xuất bản
một
Iliad, một Odyssey, một thánh ca mang chất Homer, hay là những trích
đoạn. Kể
từ năm 1945, chúng ta có 14 bản Iliad và Odyssey toàn tập, tại Mỹ và
Anh, và
một bản mới của dịch giả Robert Fagles hiện đang được in ấn.
-Ông còn viết gì khác
nữa không, vào lúc này?
-Dự án chính, một dự
án nó làm tôi miệt mài sáng đêm, mồ hôi
chẩy ròng ròng, đó là Những Bài Giảng Gifford. Tôi đã quá hết sức cảm
động, hết
đỗi ngạc nhiên và được vinh danh, khi được mời thuyết giảng về triết
học ở cấp
hàng đầu trong thế giới phương Tây này. Tôi thấy mình ngu si làm sao,
khi bất
thình thình nghĩ rằng, tôi sẽ ở trong cùng danh sách với Henri Bergson
và
William James và Bertrand Russell và tất cả những triết gia hiện đại
quan trọng
nhất! Đã có thỏa thuận, tôi sẽ viết và cho xuất bản những bài giảng
này, đây là
những bài giảng tôi đã đưa ra vào năm 1990. Vậy là một công việc lớn
đang ở
trước mặt. Nó là một nhiệm vụ lớn.
-Trong số nhiều vấn
đề khác nữa, phải chăng những bài giảng
[còn] liên quan tới vấn đề siêu việt (transcendent)?
-Vâng, chúng có tên
là Những Văn Phạm của Sáng Tạo, và chúng
bàn tới câu hỏi sau đây: tại sao, trong tiếng Anh, và trong những tiếng
Âu Châu
khác, bạn có thể sử dụng câu "Thượng Đế sáng tạo (created) ra vũ trụ,
mà
không phải là câu: "Thượng Đế phát kiến (invented) ra vũ trụ"? Đây là
một nghiên cứu về sự khác biệt giữa hai từ, giữa sáng tạo (creation) và
phát
kiến (invention). Nói theo tính cách triết học, văn học – cho dù tôi
đưa tranh
luận xa tới mức nào – đang dẫn tôi tới trung tâm của những câu hỏi cực
kỳ khó
khăn.
-Theo một số cung
cách nào đó, đây là nối tiếp Những Hiện
Diện Thực?
-Vâng, nhưng theo một
đường lối rất khác. Những người buộc
tội tôi "tản mạn" (scattering), là họ phỉnh nịnh tôi đấy. Thị kiến
của riêng tôi, hầu như chỉ xoáy về một điểm. Khi còn là một gã quá trẻ,
tôi cho
xuất bản cuốn Tolstoy hay là Dostoevsky, trong đó, tôi nhắc đi nhắc lại
mãi,
rằng điều phân biệt hai nhà văn này với một Flaubert hay một Balzac, đó
cũng là
điều làm họ giống Melville, và đó là chiều thần học (theological
dimension),
tức là câu hỏi về sự hiện hữu của Thượng Đế. Cuốn sách nói về điều mà
Những
Hiện Diện Thực mở rộng ba mươi lăm năm sau đó. Tôi tin tưởng rằng có
một số
chiều nào đó, trong văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, và cả trong triết
học:
chúng sẽ không thể nắm bắt được, nếu câu hỏi, có hay không một đấng
Thượng Đế,
bị coi là vô nghĩa.
Kẻ vô thần mạch lạc,
là một sinh vật rất ư hiếm hoi. Anh ta
gây hứng khởi cho tôi, thứ hứng khởi bao gồm khiếp sợ lẫn kính nể sâu
thẳm nhất.
Chín mươi tám phần trăm chúng ta sống trong thứ nước dơ gồm các mê tín,
mộng
tưởng, sợ hãi, và hy vọng lưu cữu từ bao đời, mỗi lần có tiếng chuông
điện
thoại reo trong đêm, và chúng ta nghe, rằng con cái của chúng ta đang
trong một
tai nạn xe cộ, chúng ta bắt đầu kêu gào Thượng Đế, cách này hoặc cách
khác. Đó
là một thân phận nhục nhã. Một kẻ vô thần thực sự, và một tín đồ với
một niềm
tin sâu thẳm thực sự – một người mà theo người đó, có một trật tự trong
vũ trụ,
một người mà ngay cả cái chết của đứa con mình, thật không thể chịu
nổi, ngay
cả một cái chết như vậy cũng có một ý nghĩa theo một chiều hướng nào đó
– những
con người ấy mới ít ỏi, mới đáng tự hào làm sao! Chúng mình nói tới
niềm tin
sâu xa của tôi, rằng có một cái ác tuyệt đối. Tôi cầu mong tôi cũng
được tin
tưởng sâu xa như vậy, về một cái tốt tuyệt đối.
Nhưng tôi cảm thấy rõ
ràng là, chúng ta ở Tây Phương sẽ
không còn có thể sản xuất ra những trật tự nào đó, về văn chương và
nghệ thuật
và âm nhạc và tư tưởng, nếu sự nhất trí văn hóa là cái điều mà chủ
nghĩa thực
chứng luận lý và triết ngữ học ở Oxbridge, sẽ nói: rằng một câu trong
có chứa
từ Thượng Đế bắt buộc phải là một câu vô nghĩa. Nếu quan điểm này lấn
lướt, tôi
nghĩ chẳng còn gì để nói nữa.
-Điều này mắc míu như
thế nào, tới nét gẫy lớn trong ý thức
Tây Phương như là ông nhìn ra trong thập niên cuối cùng của thế kỷ 19?
-Đó là khởi đầu.
Mallarmé và Rimbaud sửa soạn cho Derrida,
Lacan và Foucault, bằng cách nói rằng không có chủ thể, không có cái
"Tôi", rằng một từ là sự vắng mặt của điều nó qui chiếu về (dòng chữ
tuyệt vời của Malarmé: "chữ hồng là chẳng có hoa" (the word rose is
the absence of any flower). Chúng ta đụng đầu ở đây, với hậu quả đầy
đủ, của
một câu khác, của một nhà thực chứng luận lý: rằng từ sư tử không đi
ỉa, hay là
không có bốn chân (the word lion does not defecate or have four legs.).
-Trong Những Hiện
Diện Thực ông sử dụng rất nhiều thần học
Ca-tô giáo. Là một người Do Thái, ông giải thích điều này như thế nào?
-Ky-tô giáo, khác với
Do Thái giáo, có một mỹ học, tự thân
đã quan tâm từ lâu về chỗ đứng của nghệ thuật trong cuộc sống và trong
tương
quan của con người với những cảm xúc siêu việt. Do Thái giáo không có
[mỹ học,
những quan tâm như vậy]. Như Hồi giáo, Do Thái giáo mang tính đả phá
những hình
tượng tôn giáo một cách sâu xa. Phong nhã, và bao la, Do Thái giáo
không tìm
hình ảnh, bất cứ loại nào. Ky tô giáo, theo quan niệm của tôi, là một
đa thần
giáo, bởi vì niềm tin ba ngôi của nó – một chủ nghĩa đa thần rất cao,
rất phong
nhã, nhưng không phải là nhất thần giáo. Ky tô giáo có trong nó niềm
quan hoài
về tính biểu tượng, ám dụ, và sự tưởng tượng. Tôi không tin, rằng người
ta có
thể viết, hay suy tư một thời gian lâu dài về vai trò của những mô típ,
những
đề tài, những biểu tượng siêu việt trong nghệ thuật, văn chương, âm
nhạc, mà
không đụng đầu với bộ khung lớn lao là tư tưởng Ky tô từ Thánh
Augustine và
Thánh Thomas tới hiện tại.
-Tình yêu là một quan
niệm thần học quan trọng của Ky tô
giáo. Trong ấn bản tuyển chọn tác phẩm của ông, nhà xuất bản Penguin,
ông có
cho rằng, "Cội rễ của tất cả những tác phẩm kế tiếp nhau của tôi, của
việc
giảng dậy của tôi, là sự tin tưởng sớm sủa, rằng phê bình triết học và
văn học
nghiêm túc: nó phải tới như là một món nợ tình." Ông có thể giải thích
điều này?
-Rất hân hạnh. Tôi
đau khổ, trọn đời, về [vấn đề] sống trong
một thời đại, không như nhiều người nói: của âu lo, nhưng của khinh
miệt, ham
muốn, và ghen tức. Tôi đã cho in trên một trăm năm chục bài viết ở trên
tờ The
New Yorker, và cỡ chừng trên hai trăm năm chục bài khác, tại những nơi
như là
tờ Times Literary Supplement (Phụ trang Văn học của Thời Báo, Luân Đôn)
Trong
ba mươi lăm năm, tôi nghĩ, cho là có đi chăng nữa. cũng chỉ độ bốn hoặc
năm bài
điểm sách tiêu cực. Tôi đã từng bỏ qua rất nhiều cuốn sách không điểm,
vì chúng
ẹ quá. Tôi đã cố ca ngợi, tôi đã cố: được rạng ngời, tôi đã cố la lên:
"Hãy đọc cuốn sách này".
Tôi hoàn toàn lỗi
nhịp với cung bậc Anh, mím môi thích thú
từ khước, hạ cố, bắt ne bắt nét, không thèm để mắt (bất kiến, invidia:
một từ
to tát tiếng La Tinh về thần học luân lý), của tính hiện đại. Chúng ta
đang ở
trong văn hóa ghen tị. Khi tôi có những sinh viên có khả năng hơn tôi,
lanh trí
hơn, sâu lắng hơn, sáng tạo hơn – tôi có chừng năm hoặc sáu người như
vậy, và
trong số họ có người hiện đang nổi bật ở Mỹ – đây đúng là một đặc quyền
lớn lao
đối với tôi. Đó là lúc mọi chuyện trở nên có nghĩa, đó là lúc tôi thấy
mình có
ích.
Chức năng của những
người như ông như tôi, là gì? Chúng ta
là lũ cá hoa tiêu, những sinh vật kỳ quái, nhỏ nhoi, đi trước dẫn hướng
cho
loài cá thực, những con cá mập, cá voi, cảnh giác người ta: "Nó đang
đến
đấy!" Khi tôi ở Phi Châu, trong khu biệt lập dành riêng cho săn bắn,
tôi
thực sự nhìn thấy những con chim xinh đẹp, nhỏ bé, lông vàng; chúng đậu
trên
con tê giác, và chíp chíp như điên, để báo động cho mọi người rằng con
vật đang
tới. Vậy thì một vị thầy tốt, một nhà phê bình tốt sẽ nói, "Đây là thứ
thiệt.
Tại sao, thì đây này. Hãy đọc nó, đọc nó, hãy ghé vô mua nó. Hãy đi mua
đi."
Tôi sẽ chẳng bao giờ
quên nổi phần việc của tôi, một bữa
trong khi giảng dậy ở Cambridge.
Một sinh viên đến trễ trong giờ học kèm, và tôi có vài phút rảnh; trong
thùng
thư có một gói lớn, một bản thảo. Thường ra, báo Người Nữu Ước tránh
cho tôi
việc đọc và duyệt bản thảo gửi tới để tôi giữ được hoàn toàn tự do của
người
điểm sách, và tôi hết sức kính trọng phong cách đó. Thế là tôi lấy gói
lớn đó
ra, tính bỏ vô thùng rác, nhưng thùng rác lại quá nhỏ: cái bao bì gói
bản thảo
mới lớn làm sao! Tôi đọc một dòng đầu bản thảo, và Trời hỡi Trời, tôi
nghĩ: có
một điều gì thật lớn lao vừa hạ cánh xuống bàn làm việc của tôi. Tôi
điện thoại
cho ông Shawn để yêu cầu, liệu tôi có thể làm một bài điểm cuốn sách đó
không,
ông rất khoái chí, nói, chắc cũng phải một năm rưỡi, hai năm cuốn sách
mới xuất
bản, nhưng được chứ, ông sẽ dành cuốn sách cho tôi: Thiền & Nghệ
thuật Bảo
Trì Xe Gắn Máy.
-Ở thời điểm đó, đã
có nhà xuất bản nào nhận in cuốn sách
chưa?
-Tôi không chắc.
Nhưng tôi viết cho tác giả, và nói,
"Bạn biết không, nó đây rồi." Tôi không nói với người đó nhưng tôi
nói với bà xã, và ghi vào sổ tay, rằng tôi sợ sẽ chẳng còn một cuốn
sách nào
đáng đọc nữa, từ người đàn ông này. Điều này hoàn toàn rõ ràng đối với
tôi,
đúng là một điều khủng khiếp, và tôi đúng, thế mới thật đáng buồn.
Nhưng điều
mà tôi cố gắng nhấn mạnh, phần việc của tôi, là của một con chim líp
chíp trên
lưng con tê giác.
Vậy thì tôi thật quá
may mắn khi có thể, thường xuyên la
lên: "Trời hỡi, thật tuyệt vời, cuốn sách này!" Tôi vẫn đang chiến
đấu. Tôi tin tưởng, ở Anh, sau Hardy, chỉ có mỗi một tiểu thuyết gia cỡ
bự:
John Cowper Powys. Chỉ một dúm người đồng ý với tôi. Tôi có thể hoàn
toàn lầm
lẫn về chuyện này. Tôi đã có thể đưa một số tác phẩm như vậy qua ấn bản
bìa
mỏng, như là chuyện tiếp theo sau đó. Nhưng cho tới nay, vấn đề chưa
hoàn toàn
được được khai thông. Tôi tin tưởng Glastonbury Romance, Porius, và
Wolf Solent
là những cuốn lớn. Tôi viết về ông ta. Tôi thuyết giảng về ông ta. Tôi
nói với
mọi người, hãy tìm mua chúng. Cho tới nay, rất ít người làm theo, và
rất nhiều
người thực tình đã thử [đọc], và nói, tôi hoàn toàn lầm lẫn, rằng không
thể đọc
anh ta. Tốt thôi. Thà tôi phạm những lỗi lầm như thế, còn hơn ém đi
những nỗi
niềm đam mê của mình.
Một trường hợp khác
nữa mà tôi chẳng bao giờ được tha thứ,
là về Lawrence Durrell. Nào bây giờ, hãy cẩn thận. Durrell bây giờ bị
chế riễu,
ở khắp mọi nơi. Nhưng tôi vẫn tin tưởng rằng ba cuốn đầu, trong Bộ Tứ
về thành
phố Alexandrie (The Alexandria Quartet), là thứ thiệt, không thể có thứ
khác.
Tôi thừa nhận, cuốn thứ tư hỏng, một mớ hổ lốn, điều này thật là bi
đát, rằng
sau ba cuốn đầu, sau đó là triền miên ba thứ hổ lốn. Nhưng không sao.
Cứ giả dụ
rằng tôi đã lầm, giả dụ rằng tôi đang lầm: hoan hô! Điều làm tôi quan
tâm, là
những lỗi lầm (errors) của đam mê, những lỗi lầm mà bạn vươn cổ lên mà
gánh.
Trời hỡi Trời, toan tính mới đúng đắn làm sao: toan tính của những nhà
khoa
bảng hiện thời: cứ an toàn cho chắc ăn! Trong vòng bốn chục năm, tôi đã
hỏi
những sinh viên của tôi, họ sưu tập những tác phẩm nào, trong những tác
giả
hiện đang còn sống, ai là người họ quá mê, ngay cả những tác phẩm tồi
của tác
giả đó. Nếu họ chẳng sưu tập được một người viết nào, như vậy là họ ở
đâu đâu
chứ không phải ở chỗ của tôi, không dính gì đến ngành này, nghề này.
Trong
trường hợp Simenon, may mắn thay, tôi còn Gide và mọi người ở cùng phe,
thành
thử tôi chẳng tốn chút can đảm, khi dám tuyên bố, ông ta là một trong
những tác
giả hiện đại quan trọng nhất. Nhưng nếu có một người nào nói Zane Grey,
là như
vậy đấy, và người này sống với niềm đam mê đó, và sưu tập, và nghiên
cứu; tôi
nói: hoan hô! Đó là một linh hồn, và thật an toàn, cho sự cứu rỗi.
Nhưng một
người hỏi, ai là những người thắng giải, ai là những người thành công
trên thị
trường chứng khoán, đâu là chỗ nên đầu tư : không, không, không! Vậy
thì vâng,
tình yêu là chính đối với tôi. Đúng là một thời đại cay đắng, một trong
những
thời đại cay đắng nhất về văn hóa ghen tị, và có rất nhiều người thuộc
loại bự
trách nhiệm về điều này. Mỗi lần Leavis mở miệng ra, là để nói rằng có
năm tác
phẩm cổ điển, rằng cái còn lại đều là đáng nguyền rủa, đồ tầm phào, và
chớ có
đọc, không đáng tiền giấy bỏ ra in. Có những nhà phê bình của hận thù
trong
thời đại của chúng ta. Có rất nhiều vị thầy về thù hận, có quyền năng
và có ảnh
hưởng. Tôi chẳng có gì giống họ.
-Trong Những Hiện
Diện Thực, ông tham chiếu về những tương
thông (transactions) giữa nghệ sĩ và thính chúng (audience), trong mẫu
mực thù
tiếp. Ông nói, người đọc thì chào đón, còn người nghe thì đưa giai điệu
kia vào
thâm tâm, vào ngôi nhà hữu thể của mình.
-Đó chính là điều
chúng ta đang bàn: cortesia, lòng lại gặp
lòng, tâm hồn mở rộng (welcome). Thí dụ thì nhung nhúc ở trong đầu
những người
sẵn sàng phô trương, bằng dè bỉu, và những kẻ đã hoàn toàn khô kiệt
(chính họ
đã được khử trùng). Một nhà phê bình lớn là một nhà văn bất mãn. Một
nhà phê
bình lớn biết anh ta chỉ là cái bóng của một viên quan hoạn, so với kẻ
sáng
tạo. Bạn tin rằng một người nào đó sẽ viết những cuốn sách về
Dostoevsky nếu
anh ta có thể viết được, chỉ một trang cuốn Lũ Người Quỉ Ám? Tôi đã
từng véo
mũi cả đống những người đồng thời với tôi, ở trong giới đại học, và họ
chẳng
tha thứ cho tôi.
-Âm nhạc hình như
ngày càng là một phần quan trọng trong cả
cuộc sống lẫn công việc viết lách của ông. Tại sao?
-Câu trả lời đầu
tiên, từ những điều người ta ngộ ra, khi
mái tóc điểm sương, rằng âm nhạc ngày càng quan trọng đối với những kẻ
sống
trọn đời mình cho ngôn ngữ: anh ta/chị ta dần dần bớt đọc, lắng nghe
nhiều hơn.
Mặc dù tôi mới biết, nhưng có vẻ như đây là một hiện tượng tâm lý. Nếu
nó thực
mười mươi, nếu nó không phải là một huyền thoại - tâm lý học và những
nhà tâm
lý thì đầy những huyền thoại – tôi chỉ còn một cách, là phấn khởi hò
theo.
Nhưng còn nhiều điều
liên quan tới chuyện mê nhạc của tôi.
Nếu bạn dí người tôi vào tường, nếu bạn đá tôi một cái thật mạnh, tôi
may ra có
thể hiểu, bằng cách nào một vài nhà thơ lớn [có thể] làm thơ. Tôi biết
tôi
không thể đẻ ra, chỉ một dòng như thế, nhưng ít ra, tôi có thể tưởng
tượng,
rằng một con người như chính tôi có thể [làm tới đâu]. Nhưng thật vô
ích, khi
ngó lên những người như là Mozart, Bach, Beethoven, trên tất cả là
Schubert;
đối với tôi, ông đã ở trung tâm điểm, với tất cả những tác phẩm lớn lao
vào lúc
cuối đời của ông. Tôi không hiểu được, okay? Tôi không hiểu được.
Lévi-Strauss
nói, sự phát minh ra giai điệu là một "bí mật tối thượng", nhưng
không phải chỉ giai điệu là điều tôi không hiểu. Tôi không hiểu tại sao
Bach có
thể tạo ra được bốn mươi tám dạo khúc (preludes), chỉ với một mô típ
bốn-thanh
(a four-note motif). Tôi không hiểu bằng cách nào Wagner có thể khư khư
ôm riết
lấy vòng cung, từ tiếng tơ đồng mở đầu Ring, cho tới tiếng chót. Hay là
một tứ
khúc của Beethoven.
Vậy thì, trước hết,
tôi thấy mình đứng trước mảnh đất chưa
hề biết tới, nói về tiến trình sáng tạo. Thứ là, tôi không biết âm nhạc
làm gì
tôi. Tôi biết, nó làm tất cả đối với tôi. Trong những cuốn sách của
tôi, tôi
thường nói về câu hát mở đầu của Edith Piaf: Không, tôi không hối tiếc
gì cả
(Non, Je ne regrette rien.) Tôi lạnh cứng, tôi nóng hổi, tôi sẽ bỏ
phiếu cho
Ông Le Pen, tôi sẽ gia nhập Đội Quân Lê Dương (Foreign Legion). Tất cả
những
điều phi lý một cách tuyệt vời theo sau những thang âm mở đầu đó. Chúng
ta đều
biết âm nhạc ảnh hưởng thế nào tới tính khí. Plato ngờ là nó quá hung
hiểm.
Chúng ta biết, nó được dùng trong y học, trong tâm thần trị liệu. Âm
nhạc làm
gì, bên trong chúng ta?Và cái đáp ứng với nhạc, là cái gì?
Thứ nữa, tôi luôn
luôn bị kết án - cũng đúng, đúng thôi - là
hoàn toàn lạc điệu về mặt văn hóa, có người còn bảo tôi thuộc thứ tiền
sử.
Nhưng tôi luôn luôn - với niềm vui và tôi hy vọng, với sự hiểu biết
chân thực -
cố gắng theo kịp âm nhạc hiện đại, thứ khó khăn nhất. Có những nhà soạn
nhạc
hiện giờ đang còn sống - Nono, Berio, Ligeti, Kurtag, Elliot Carter,
Brian
Ferneyhough, Zimmerman - những người mà tôi luôn luôn tới nghe, bất kỳ
khi nào
họ có một tác phẩm mới, và sướng run lên khi được đi nghe họ. Nhạc hiện
đại
thật là quá lớn lao đối với tôi. Tôi chẳng gặp khó khăn gì với nó.
Nhưng tôi
gặp khó khăn với nhạc rock. Không phải với nhạc jazz: jazz có vẻ thật
gần gụi
với nhạc cổ điển. Tôi học Đại học Chicago
vào những năm Dizzy Gillespie bắt đầu chơi nhạc tại quán Beehive, và
khi
Charlie bắt đầu là một huyền thoại. Như vậy là tôi có một khởi đầu tốt.
Nhưng
tôi nghĩ, rock ở phía bên kia bờ nhân loại.
-Nhưng như vậy nghĩa
là gì?
-Nó làm ù, làm điếc;
nó hoàn toàn sa đích; nó có ý lăng
nhục. Tôi cho nó cùng xuồng với điều gọi là tận cùng cảm quan của chúng
ta về
một sự hài hòa của cuộc sống. Nếu thống kê học đúng, vào năm 2100, con
số người
sống trên trái đất lớn hơn tất cả những người đã chết, hơn cả con số
phỏng đoán
tính từ thời người tiền sử Neanderthal. Đúng là một con số thống kế ghê
sợ, nếu
nó đúng. Cái chết thật gần gụi với điều mà tôi gọi là âm nhạc thực: một
ý nghĩa
nào đó, về sự tận cùng thời gian và cuộc sống cá nhân. Rock là một điều
hoàn
toàn khác biệt. Có thể nó là nhạc của sự vô cùng cứ thế trẻ mãi (the
music of
the infinity of the living young). Chắc là họ thực sự cảm thấy điều đó.
Nó nối
kết với ma túy, với cực khoái (ecstasy), nhưng trên tất cả, với lòng
căm thù niềm
im lặng; trong nhạc cổ điển thứ tuyệt nhất, và trong nhạc jazz, im lặng
giữ một
vai trò rất lớn.
Vậy thì là, với tôi,
âm nhạc có vẻ là một hoạt động hứng
khởi nhất, mang tính nhân bản cốt lõi chưa được biết rõ. Chỉ có chừng
năm, sáu
người nói được một điều gì đó về ý nghĩa của âm nhạc: Thánh Augustine,
Boethius, Rousseau, Nietzsche, Schopenhauer, Adorno. Nó thật là khó.
Một
Copernicus tương lai (the next Copernicus) có thể có điều gì để nói cho
chúng
ta về âm nhạc làm gì bên trong chúng ta và nó được làm ra như thế nào.
Trên tất
cả, âm nhạc minh họa cho tôi, rằng cõi ý nghĩa đó, bạn không thể chuyển
dịch,
không thể bàn ra tán vào, không thể dùng từ ngữ khác để mà diễn tả, tuy
nhiên
nó thì cực kỳ có nghĩa. Nếu tôi lao vào bất cứ một suy nghĩ nào, như
tôi đang
làm, với những Bài Giảng Gifford mới này, về "nghĩa của nghĩa", âm
nhạc nói với tôi: "Hãy động não hơn nữa.
-Nếu kiểu mẫu cơ bản
của ông về ý nghĩa, là chuyển dịch
(translation), như vậy là âm nhạc là một cái gì không thể chuyển dịch?
-Vâng, không thể tán
rộng, không thể siêu đoạn (nor
paraphrased nor metaphrased). Ý nghĩa là cái gì? Tại sao chúng ta biết,
rằng âm
nhạc có nghĩa? Bạn tính nói gì, với cái gọi là ý nghĩa của âm nhạc?
-Và câu trả lời là:
có một nối kết nào đó, với siêu việt?
-Với tôi, tôi thực sự
chắc chắn, rằng vùng đất về những gì
mà chúng ta chưa biết lớn vô cùng, so với khu đất của những gì đã biết,
rằng
cái phong cảnh nho nhỏ của chúng ta thì quá nhỏ bé so với tổng số hiện
hữu. Khi
có ai hỏi làm sao một người có thể thật thâm cảm ý nghĩa mà người đó
không hiểu
được, câu trả lời là quay về âm nhạc. Đó là lý do tại sao tôi luôn luôn
đưa ra
một giai thoại rất quan trọng về Schumann, nó là trung tâm sự giảng dậy
của
tôi. Nhạc sĩ đã chơi một tập khúc (etude) rất khó, và một trong những
sinh viên
hỏi: thầy có thể giải thích, "Được chứ" , và ông chơi lại. Điều này
thật cơ bản đối với tôi, và đó là lý do tại sao tôi cố học hỏi, bằng
cách học
thuộc lòng, cứ trở đi trở lại mãi một bản văn với những người sinh viên
của
tôi: play it again, chơi lại đi. Âm nhạc là sự đánh giá của tôi, là cái
âm thoa
của tôi, về trọn niềm cảm nhận, về điều rất thiêng (the mysterium
tremendum)
trong nghệ thuật.
-Ông có bao giờ chơi
nhạc?
-Không. Trung-chân,
hạ-chân, và thượng-chân (Middle-fi,
low-fi, and high-fi), như anh hề Bob Hope đã nói. Một câu trả lời hay.
-Hãy cho tôi quay qua
một câu hỏi khác, nhân tiện đây. Những
người thầy quan trọng nhất của ông, là những ai?
-Tôi thật sung sướng
được trả lời. Một vài người là thầy
giáo. Khi tôi ở trong một trường mẫu giáo Pháp, chúng tôi mặc đồng phục
mầu
xanh, khoác theo túi đồ ăn trưa, và đứng nghiêm, khi thầy bước vô lớp.
Vậy là
thầy giáo bước vô – tôi nhớ tên ông tới ngày này – nhìn những đứa năm,
sáu
tuổi, nói: "Thưa quí vị, hoặc quí vị làm thầy, hoặc là tôi."
(Gentlemen,
it’s you or I?). Tôi hiểu thế nào là trọn cả một lý thuyết về việc
giảng dậy:
"Là anh hay là tôi?". Bất cứ khi nào tôi nghe về những ông thầy đại
học ở Mỹ, là tôi cười một cách mỉa mai, bởi vì nghệ thuật giảng dậy
[với mấy
ông] giản dị chỉ là hiểu, câu (sentence) nghĩa là gì. Bây giờ, chẳng
phải bàn
cãi làm chi, tại Chicago,
tôi đã gặp những con người sống tư tưởng (lived thought). Richard
McKeon là một
trong những người đó. Tôi không hiểu rất nhiều điều những nhà khoa học
nói với
tôi, nhưng tôi biết – một điều thật khó diễn tả – một niềm vui xác thịt
trong
những gì mà họ đang làm, trong cái gọi là những ngày mai đang được phơi
mở ra,
từ ngành học của họ. Allen Tate là một ông thầy lớn lao, dè dặt, khó
khăn,
những lời châm biếm (ironies) của ông làm cho người ta thúc thủ, tuy
nhiên, cứ
hăm hở trở lại, đòi thêm nữa.
Rồi tôi gặp một số
những người khác, không hẳn là những ông
thầy chính thức, nhưng là những ông thầy của cuộc đời tôi. Những liên
hệ đặc
quyền nhất mà tôi có, là với Gershom Scholem. Tôi có trải qua một thời
gian với
ông, ở Thụy Sĩ.
-Khi nào?
-1972 tới 1976. Ở đó,
tôi biết điều hiếm hoi nhất, về những
kết hợp: sự bác học chi li tinh tế về văn bản và cổ ngữ, dựa trên tư
tưởng –
nhìn qua thấu kính vĩ đại - rằng Thượng Đế là ở trong chi tiết – một
điều tôi
tán mộ nhưng vô vọng, vì chính bản thân tôi làm không nổi. Xung quanh
tôi, là
những anh lùn đầy ác ý, những kẻ nghĩ rằng, là một chuyên gia, tự nó,
là con
đường tới với Thượng Đế. Đúng là ma quỉ hiện hình! Housman đã nói gì
nhỉ?
"Sự uyên thâm thứ thiệt còn hiếm hoi hơn thiên tài thi ca". Scholem
làm cho tôi hiểu câu này nghĩa là gì. Những anh lùn quanh chúng tôi làm
điều
gọi là sự bác học xấu về những vấn đề nho nhỏ, nhỏ nhoi, chúng chẳng
mắc mớ gì
tới sự chuyên biệt.
Rồi, Jacob Bronowski,
tôi chỉ gặp đôi ba lần, nhưng mỗi lần
gặp gỡ đúng là một biến động lớn. Tình yêu của ông với thi ca lãng mạn,
chính
trị cấp tiến, nền khoa học, lý thuyết của ông về văn hóa: ông thuộc cỡ
mà lập
luận "hai văn hóa" [khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn cách biệt
nhau] chẳng có một ý nghĩa gì. Trong cả hai, ông đều là một con người
sáng tạo.
Rồi tới một người, không được biết đến đối với công chúng Mỹ, ông vừa
mới mất,
giáo sư về triết-thần học ở đây, một người gốc Tô Cách Lan, tên là
Donald
McKinnon. Tôi sùng kính ông. McKinnon là một nhà học giả tuyệt vời về
Aristotle
và Kant. Một người chứng nghiệm cuộc sống trong một tờ nhật báo, đến
từng hàng
từng chữ. Tôi sẽ nói với bạn về ông ta, và tại sao tôi tin tưởng đây là
cách
thức mà bạn nên giảng dậy. Ông tìm thấy một đề mục nhỏ trên tờ Thế
Giới; ông
kiểm tra coi có thực không, và đúng như vậy. Viên chỉ huy đội quân nhẩy
dù Pháp
ở Algeria, một viên Đại Tướng Massu nào đó, chính ông ta để cho lính
của mình
lột quần áo, trói lại, và cột dây điện dương vật, và cho họ tra tấn ông
tới chỉ
trong ba giờ đồng hồ. Khi xong xuôi, ông ta nói, "Nạn nhân khiếu nại là
cường điệu", rằng, chuyện này thật không vui, nhưng có thể chịu đựng
được.
Donald McKinnon đọc mẩu tin và, khăn đóng áo chùng như bất cứ một ông
thầy nào
những ngày đó, ông bước phòng giảng chật cứng sinh viên, và giảng về
Kant và
đạo đức học. Ông nói với những sinh viên rằng, nhìn theo quan điểm của
mẩu tin,
ông không thể tiếp tục giảng dậy Kant, và đạo đức, rằng sinh viên,
trong những
bài giảng kế tiếp, sẽ xem xét những hàm ý (implications) về cái ác
tuyệt đối,
trong mẩu tin chuyện đó, về một người đàn ông như thế. Ông khai triển
mẩu tin,
tới mọi lối dẫn tới thần học, và triết học, nói, một mẩu tin chuyện như
thế có
ý nghĩa gì, nói về mặt đạo đức. Đó là đường lối giảng dậy của ông. Ông
và tôi
đã quen nhau thật thân. Tôi rất hân hạnh là mới đây được người ta yêu
cầu nói
chuyện ở đại học Cambridge
để tưởng niệm ông.
Nhưng tôi còn những
vị đại sư khác nữa. Ông Whittaker, của
tờ The New Yorker, hồi thoạt kỳ thủy của tờ báo này. Biệt hiệu "Ông
Frimbo", ông là vị chủ bút của tôi trong hai mươi năm đầu ở đó. Ông
Whittaker coi sự không chính xác, về cú pháp (syntax), hay về chấm câu,
là nhơ
bẩn, theo một nghĩa, phải nói là đạo đức. Nếu một câu không tuyệt đối
chính
xác, nếu nó lòng thòng, nếu bạn để một cái dấu phẩy vào chỗ đúng ra là
phải để
một cái dấu chấm phẩy, như vậy là bạn đang vấy dơ: lên độc giả của bạn,
lên
ngôn ngữ, và tối hậu, lên chính bạn. Điều này còn dẫn tới những cú gọi
viễn
liên, mà bạn không có thể ngờ được. Ông ta sẽ nói, "Ông Steiner – luôn
luôn Ông, lẽ dĩ nhiên – Tôi nghĩ điều ông thực sự muốn nói, là…", Và
bạn
sẽ trả lời, "Ồ, đúng nó là như vậy," và ông ta sẽ nói, "không,
không, không phải vậy. Bạn lắng nghe tôi nói lại", và ông đọc lại, và
dần
dần bạn nhận ra rằng ông ta đúng, rằng điều [mà bạn tính nói] không
thực sự như
là đã nói. Một tấm tình như thế thật là phi thường đối với sự phong phú
của
tiếng Anh, đối với những sắc thái vô tận trong lối chấm câu của tiếng
Anh: nó
thật khác thường. Ông Whittaker là một ông thầy tuyệt vời; cũng vậy, là
Ông
Shawn: những chăm lo về chi tiết, đã trở thành huyền thoại trong suốt
cuộc đời
ông. Họ là những ông thầy thực sự mà bạn mong cùng làm việc.
Vâng, tôi thực là may
mắn. Hãy cho tôi quảng diễn một trong
rất nhiều dụ ngôn Hasidic [Hassidim: một giáo phái thần bí thuộc Do
Thái Chính
Thống, thành lập vào thế kỷ 18, dựa trên KABBALA] và nói rằng tôi hy
vọng tôi
sẽ có can đảm, và nghị lực, đi chân trần, trên đường dài, cùng với một
người
đàn ông hay người đàn bà, mà người đó có thể dậy cho tôi một điều gì
đó. Tôi
thực biết ơn vô cùng.
-Ai là người mà ông
nghĩ là đã gây những ảnh hưởng mạnh nhất
lên việc làm, lên tầm nhìn, lên việc viết của ông?
-Trường phái Frankfurt.
Walter Benjamin sẽ là người viết cuốn Sau Babel thực sự vĩ đại, nếu ông
ta còn
sống. Tôi bị ám ảnh, vì biết rằng cuốn sách đáng lẽ là của ông, và như
thế, nó
sẽ tuyệt vời biết là bao. Rồi còn Adorno, mười bẩy cuốn viết về âm nhạc
của ông
sẽ sống sót, sau khi lý thuyết phê bình của trường phái Frankfurt biến
mất;
Ernst Bloch, một nhà không tưởng Mác-xít mang tính sứ giả; Lukacs, nhà
phê bình
lớn về văn học Mác-xít. Truyền thống Do Thái Trung Âu – sứ điệp, đa
ngữ, ở
trung tâm của nó là Goethe, Pushkin, Shakespeare, và âm nhạc – đã có
một ảnh
hưởng thật lớn lao lên tôi: những kẻ sống sót Do Thái, dân tộc Do Thái
liên can
vô, những cá nhân Do Thái tạo nên những lầm lẫn lịch sử lớn lao, những
người
Mác-xít Do Thái, những sứ giả Do Thái, những tiên tri Do Thái, những
người Do
Thái đã sống thế kỷ này.
Không gì ngu ngốc,
khô héo, kém hiệu lực, bị thiến, hơn là
kiểu viết khoa bảng ở Mỹ hiện thời, về trường phái Frankfurt; những
người viết
này chưa từng nghe thấy một cuộc hỗn loạn trên đường phố, chưa từng
ngửi mùi
nhà tù, chưa hề biết một trại tập trung nghĩa là gì, chẳng thể hiểu dù
chỉ một
điều, về sự kiện: rằng những người [thuộc trường phái Frankfurt] đã
sống những
trừu tượng của họ (their abstractions) đến tận xương, tận máu, tận
ruột, tận dạ
dầy, rằng họ đã sống thế kỷ này, trong khi những quan viên khôn khéo
của chúng
ta không sống. Những cuộc luận bàn kiểu Mỹ này về những sắc thái của
cái nghĩa
trong xã hội học của Adorno vào lúc trung niên, chúng làm dựng tóc gáy.
Họ sẽ
tọng cho Adorno tính mỉa mai, hoang mang, và một đầu óc thất bại.
Ở trong căn phòng của
Lukacs, là ở trung tâm trận bão của
thế kỷ chúng ta. Ông bị quản thúc tại gia, khi tôi tới gặp ông ở Budapest. Tôi
thì còn quá
trẻ, và sướt mướt không thể tin được, và khi tôi phải rời đi, nước mắt
tôi ràn
rụa: ông bị quản thúc tại gia còn tôi thì đi về với an toàn, với tiện
nghi ở
Princeton hay bất cứ một thứ gì. Tôi phải đưa ra một nhận xét nào đó,
và sự
khinh miệt hằn trên khuôn mặt ông. Ông nói, "Bạn chẳng hiểu gì hết, về
mọi
điều chúng ta nói. Trong cái ghế này, chỉ ba mươi phút nữa thôi, sẽ là
Kadar," tên độc tài đã ra lệnh quản thúc tại gia đối với ông. "Hắn ta
là sinh viên của tôi. Chúng tôi đã cùng làm việc, qua từng câu, từng
câu, cuốn
Hiện Tượng Luận của Hegel. Bạn không hiểu được đâu." Thực như vậy, tôi
đã
không hiểu, tôi "đã" đã không hiểu. Chỉ mỗi câu chuyện này không thôi
đã cải tạo tôi về cái thế giới mê cung kỳ quái của tầng lớp trí thức
Mác-xít,
và sự độc ác, và tính nghiêm trọng theo đó mọi trò như thế này diễn ra.
R.P. Blackmut là một
ảnh hưởng lớn lao khác: văn phong viết
tiểu luận, cách nói gián tiếp, cách nghe, giác quan khủng khiếp về cách
thức
làm sao cho những ý tưởng tự chúng biến thành điều gọi là "dạng điều
hành" (executive form), biến thành chuyển động mang tính trình diễn
(performative motion); tiểu luận về Dante, Henry Adams, James của ông.
Rồi còn
một người nào đó mà ở Mỹ chẳng ai đọc. Ô, họ đọc Derrida của họ,
Foucault của
họ, rồi họ quì mọp vì ngưỡng mộ, và khi tôi hỏi họ, có đọc Kenneth
Burke, và họ
nói: "Ai nhỉ?" Burke có một ảnh hưởng đáng kể lên tôi: Một Văn Phạm
của Duyên Do, Một Tu Từ của Duyên Do (A Grammar of Motives, A Rhetoric
of
Motives), nghiên cứu về Ngôi Lời (Logos) trong tác phẩm của Milton và
những bản
viết tôn giáo. Bạn đâu biết, tôi không thể nào có được một ấn bản in
lại tác
phẩm của Burke về tu từ trong những bài diễn văn sớm sủa của Hitler.
Chính
Burke đã đưa ra bản phân tích đầu tiên, tra hỏi cấu tạo ngôn ngữ [ở
trong đó]
là gì, con người này là gì. Có một tiểu luận ghê gớm của Burke, gần như
không
thể nào tìm mua được, về bạo động và chủ nghĩa phát xít về ngôn ngữ,
trong kịch
bản Coriolanus của Shakespeare, qua đó, ông đã làm bật ra giải cấu trúc
và ký
hiệu học và chủ nghĩa hậu-hiện đại. Chuyện người ta giúp tôi tìm đọc
một tác
giả như C.S. Peirce là quá trễ rồi: tôi coi ông như là triết gia Mỹ lớn
lao
nhất. Ông mở bung ra trọn ngôn ngữ hiện đại, triết học, ký hiệu học, ý
nghĩa
học.
I.A. Richards cũng
thật quan trọng đối với tôi. Nhưng nếu
chỉ một cuốn sách, như vậy Cấu Trúc Phức Từ (Structure of Complex
Words) của
Empson, sẽ là cuốn mà tôi sẵn sàng đánh đổi toàn bộ tác phẩm của
Derrida cho
bạn, để đổi lấy nó, với tất cả sự kính trọng Derrida. Đây có thể là một
trong
những hành động tối thượng của việc đọc, của việc đọc xít xao (close
reading).
Việc ông nhập tâm hầu như trọn lịch sử thi ca Anh, toàn bộ pho từ điển Oxford [20 tập],
và sinh
mệnh của mỗi từ, thật là đồ sộ. Vậy kể như là những ảnh hưởng của tôi
là một
nhóm rất biến thiên (very varied group). Tôi cứ thêm vô mãi theo thời
gian. Chuyện
tôi khám phá Heidegger, thí dụ vậy, là khá trễ, khi tôi bắt đầu lao vào
việc
viết cuốn Antigones, cách đây chỉ hai chục năm, và kể từ đó, ông chẳng
bao giờ
rời bỏ tôi. Trước khi hoàn toàn câm miệng, tôi muốn tới gần hơn nữa,
với câu
hỏi: tại sao Plato, Heidegger, Sartre lại ve vãn, trong thẳm sâu, với
cõi phi
nhân. Tôi có những linh cảm về vấn đề này. Nhưng chúng vẫn còn rất tạm
bợ.
-Tư tưởng trừu tượng
chắc hẳn bị đám đông quần chúng trên
đường phố rù quyến, một cách nghịch thường, có lẽ vậy?
-Nói như vậy, chỉ là
để cho rằng, có sự khát khao hành động,
nhập vào bùn nhơ, từ trên chót vót của trừu tượng, trong cuộc sống trí
thức
tuyệt đối thuần túy. Có thể nó chỉ là tiềm thức, nhưng hầu như tuyệt
vọng. A.
J. Ayer cho rằng, ông chỉ hạnh phúc khi coi đá banh (fooball); với
Wittgenstein, thì là phim cao bồi Viễn Tây: cứ mỗi xuất trưa, là ông
phải mò đi
coi, vẫn một phim cao bồi này, hay là một phim trinh thám khác. Chỉ để
nghỉ,
tôi nghĩ vậy, chỉ để xả hơi. Và nghỉ xả hơi là có thể trở thành Nazism;
hay như
trong trường hợp của Sartre, trở thành tất cả những lời dối trá
Stalinist; với
Plato, là bạo chúa Dionysus mà ba lần Plato mong mỏi được làm thủ
tướng. Nghỉ
xả hơi kiểu đó thật là quá đắt, nhưng tôi nghĩ họ chẳng có một cách nào
khác.
-Nếu không tính những
đoạn trích dẫn trong Cái Chết của Bi
Kịch, ông chưa cho xuất bản một tác phẩm dịch thuật nào của riêng ông.
Điều này
có vẻ hơi ngạc nhiên, đối với một người biết quá nhiều ngôn ngữ, và lại
quá
quan tâm tới ý nghĩa của việc dịch thuật. Liệu có thể có một ý nghĩa
nào đó,
theo đó, cứ mỗi lần ông viết tiếng Anh là ông đang dịch?
-Ông nói đúng: Tôi
quyết tâm để việc dịch thực sự cho những
người khác. Và vâng: có một nghĩa, theo đó, tôi tự chuyển dịch vào
trong tiếng
Anh. Tôi quyết tâm liên tục chuyển dịch chính mình, từ phía bên trong.
Để diễn
tả hiện tượng này, tôi đã dùng từø "magma" (nham thạch), là hỗn hợp
trong lòng núi lửa (volcanic mixture), nếu nói về cõi thâm sâu, gốc gác
đa ngữ.
Tôi rất hay gặp tình trạng là, khi tôi loay hoay tìm kiếm một từ đúng
trong một
ngôn ngữ, [thế là] những từ của những ngôn ngữ khác xen vô, như thể
chúng đúng
hơn, hay như thể chúng cho tôi nhiều cơ may hơn, để nói ra điều muốn
nói. Rất
nhiều người đã phản đối, rằng trong văn xuôi tiếng Anh của tôi, họ cảm
thấy một
sự cộng hưởng nào đó, rằng nó không phải thứ tiếng Anh bản địa, nó
không có
tính bản năng. Điều này hoàn toàn đúng. Tiếng Pháp và tiếng Đức thì
liên tục ở
trong tôi và bây giờ, lần đầu tiên tôi sẽ giảng dậy bằng tiếng Ý, với
sự thích
thú, "con amore" ["con": cùng, "amore": tình
yêu]. Tôi biết, trước khi cái bóng đèn bật sáng, trước khi sức nóng ùa
vô, sợi
tóc điện ở dạng đa ngữ, là một hỗn hợp (a mixture); và câu tiếng Anh là
một
thỏa hiệp (compromise) với ý hướng phong phú hơn, vốn mang tính đa ngữ.
Nói một cách xấp xỉ,
kể từ thập niên 1890, chúng ta bắt đầu
có một dòng văn chương lớn mang tính đa ngữ. Tôi coi Oscar Wilde - ông
viết
cuốn Salome bằng tiếng Pháp – là một trong những khuôn mặt biểu thị
nhất trong
tất cả văn chương hiện đại. Hiện tượng - từ ngoại địa Ái Nhĩ Lan tới
tiếng Anh
– thật là quan trọng, mang tính quyết định. Chúng ta không biết Beckett
xào nấu
(composed) bằng ngôn ngữ nào, hay những ngôn ngữ nào, hay nham thạch
(magma)
nào. Chẳng bao giờ ông bàn về vấn đề này. Borges là một người đa ngữ.
Ông ta
nói đi nói lại hoài, rằng ông gần gụi với tiếng Anh hơn là tiếng Tây
Ban Nha.
Trên tất cả là trường hợp Nabokov: tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh, và
tiếng
Anh của người Mỹ: nó đâu có ‘y chang’ tiếng Anh? Những cuốn tiểu thuyết
bằng
tiếng Anh của người Anh (‘English’ English), như Cuộc Đời Thực của Kỵ
Sĩ
Sebastian (The Real Life of Sebastian Knight) và Mời Dự Cuộc Chặt Đầu
(Invitation to a Beheading) chúng rất khác với Lolita, chẳng hạn vậy.
Vậy là
ông đã chuyển đổi ngôn ngữ bốn lần, biết đâu còn nhiều hơn. Nhiều người
cho
rằng, cuốn sách vĩ đại độc nhất, trong thi ca Anh, là tác phẩm của
Milton theo
văn bản năm 1667, trong đó bao gồm tiếng Do Thái Hebrew, tiếng Hy Lạp,
tiếng Ý,
tiếng La Tinh, và tiếng Anh.
Chúng ta quên. Điều
kiện đơn ngữ là một ám ảnh của thời kỳ
Lãng Mạn. Herder và Hamann tin tưởng là bạn đóng rễ, trong máu và trong
xương,
một ngôn ngữ. Cả hai người đều đúng, và không đúng. Do Thái giáo hoàn
toàn
không như vậy, bởi vì nếu nó vượt quá cả tiếng Do Thái Hebrew, đó là do
nó rời
bỏ căn nhà bản địa của nó (its native home) và trở thành một kẻ lang
thang lớn
qua nhiều ngôn ngữ. Nhưng đây là những xuất lộ cho những bậc thầy thực
sự. Với
những con người nhỏ bé như tôi, đa ngữ là một giới hạn, phần nào. Thật
rõ ràng,
có những mức độ về điều gọi là "ở nhà mộng du", somnambular
at-homeness, (từ hợp thời trang ở Cambridge
hiện nay là hướng nội, inwardness), tôi chẳng bao giờ tới được cõi này.
Về mặt
khác, thấy mình là một kẻ đa ngữ là một sự giầu sang không bờ bến của
tôi; nó
là cái cửa sổ tôi nhìn ra không biết bao nhiêu là phong cảnh. Nó cho
phép những
kẻ ở bên ngoài phán đoán, [điều kiện] đa ngữ làm hại hay làm tốt cho
tác phẩm
của tôi. Như tôi hiện giờ, một thành viên của Viện Hàn Lâm Văn Chương
Đức
(German Academy of Literature), một người bạn của Hội Hoàng Gia Văn
Chương tại
Anh (Royal Society of Literature in England), của Viện Hàn Lâm Nghệ
Thuật và
Khoa Học Mỹ (The American Academy of Arts and Sciences); tôi khai mạc
hội chợ
Salzburg, bằng tiếng Đức, lẽ dĩ nhiên, và khán thính giả coi tôi như là
một
người bản địa đối với họ. Chung quanh bàn thảo luận của tôi tại Đại học
Geneva,
trong hai mươi năm trời, thường xuyên là có cỡ chừng mười lăm hay hai
chục ngôn
ngữ được nói ra, chuyện đương nhiên là phải như vậy, bởi vì sự hiện
diện của
tất cả những sinh viên Slavonic, và Trung Đông, trong số những sinh
viên của
tôi. Ngày 21 tháng Mười năm ngoái (1994), tôi đọc diễn văn nhân dịp kỷ
niệm 200
năm trường Cao Đẳng Sư Phạm ở Paris (École Normale in Paris), và chẳng
ai ngờ,
tôi không phải là người Pháp. Họ nghĩ rằng tôi chỉ lang bang một cách
lập dị ở
trong những miền đất Anglo-Saxon man rợ, như một kẻ truyền giáo, và rồi
lại về
nhà, ở Paris. Năm nay, tôi sẽ có đặc ân, là giảng dậy bằng tiếng Ý, ở
Sienna.
Tôi mắc nợ đủ thứ, từ
cơ may tuyệt vời, là điều kiện rất đa
dạng đó. Trái ngược với những nhà xã hội học và tâm lý học của tờ
Reader Digest
– họ muốn chúng ta tin rằng, dậy cho trẻ con một vài ngôn ngữ là khơi
động
chứng thần kinh phân liệt – may cho tôi, được biết bằng xương bằng máu,
rằng
đây là một lời dối trá tuyệt đối. Đúng ra là, nó khơi động sự giầu có
tuyệt vời
của kinh nghiệm của con người; và có thể, một khả năng sống sót, khi
bạn phải
bỏ chạy. Bởi vậy, những người muốn làm cho nước Mỹ ngày một trở thành
một xứ sở
đơn ngữ, sẽ phải trả một giá rất cao. Tôi biết tiếng Mỹ gốc Anh (Anglo
American) đang bao trùm trái địa cầu, trở thành một thứ Thế Giới Ngữ
(Esperando). Nhưng đây đâu có thể là một điều kiện vĩnh viễn? Nó có thể
lại
nhạt nhòa. Và rồi còn vấn đề, thế nào là địa phương tính của linh hồn?
Đổi ngôn
ngữ là một điều xiết bao kỳ diệu, được sống một đời sống khác, được
biết rằng,
ở Anh "bread" là bánh mì; đối với người Mỹ da đen, "bread"
có nghĩa là tài sản, và với tiếng Pháp, "pain" là bánh mì,
"pain" là cái gì bạn thiếu, và bạn làm cách mạng để có nó; hoặc biết
rằng - có lẽ điều này cũng phải cám ơn ông Trời - chẳng thể nào dịch
được, từ
Heimat [quê nhà] của tiếng Đức, chẳng có tiếng nào để dịch trên Thế
Gian này;
và biết rằng con người chịu chết vì "Heimat", bất kể từ này nghĩa là
gì, hay biết rằng, trong mỗi hội ngộ tình ái với một ngôn ngữ khác, là
có một
Thần Tình Ái khác, rằng có một chủ nghĩa Don Juan về ngôn ngữ, có thể
còn hoang
dại hơn, kích thích hơn là một chủ nghĩa Don Juan riêng cho xác thịt.
-Ông có thể nói thêm
về liên hệ giữa dục tính (eros) và ngôn
ngữ?
-Vâng, chúng ta ngày
càng học thêm được rất nhiều [về vấn đề
này]. Trong hệ thống thần kinh đối-cảm (the parasympathetic nervous
system),
khi vô thức và ý thức trộn lẫn, những cơn đau bụng bắt đầu được ý thức,
những
chứng ung sang dạ dầy có thể được chữa trị bằng trầm tư và tự-thôi miên
(mediatation and self-hypnosis). Đó là khởi đầu, và được coi như thể là
một khu
vực quan trọng, nơi chúng ta gọi là "tư tưởng’, và gọi là "cơ thể",
chúng đan dệt vào nhau. Cõi Dục (Sexuality) có thể nằm trên đường phay
thẩm
thấu này (the osmotic fault line): cương cứng, xuất tinh nửa phần là ý
thức,
nửa phần là vô thức, tùy thuộc vô cùng vào sự kích thích bằng lời lẽ
trong hầu
hết mọi người. Mỗi ngôn ngữ vạch vẽ những đường cấm kỵ (taboo lines),
tại những
nơi chốn hoàn toàn khác biệt. Có những điều trong ngôn ngữ này được coi
là đặc
quyền hoang dại tột cùng ở chốn phòng the, lại gần như là điều công
cộng, trong
một ngôn ngữ khác, và ngược lại. Nhịp ngôn từ mà một người sử dụng thì
hoàn
toàn khác biệt, trong những ngôn ngữ khác biệt. Ngay cả cách nín hơi và
thở ra,
cũng khác biệt, trong những ngôn ngữ khác biệt, và điều này thật quan
trọng
trong việc làm tình và trong lúc dạo tình (foreplay). Đây là một vùng
tuyệt đối
chưa được khai phá, và nếu chúng ta biết thêm về nó, chúng ta sẽ học
được rất
nhiều về tương tác (interaction) của ngành sinh thể học: đời sống và
thân thể,
ngữ nghĩa học và thân xác (semantics và somatic), ký hiệu học và chủng
tử (the
semiotic và the seed), cách thức chúng tương tác. Ngôn ngữ đồng tính
luyến ái
của nam và nữ chẳng hạn, phải tác động sâu xa ở nơi bản chất của việc
làm tình.
Chúng ta có mọi thứ để mà học. Một Copernic tương lai là kẻ nói: "Hãy
vứt
bỏ mớ tự vựng hồn-xác là thứ nhị nguyên sơ khai" Tôi tuyệt đối tin
tưởng,
một Einstein tương lai sẽ là một người tái suy nghĩ cho chúng ta về cái
điều mà
bây giờ [là] mớ tự vựng cổ xưa và hoàn toàn vô dụng.
-Thế còn chủ nghĩa
nhị nguyên theo đó, cõi văn của mấy ông
đối nghịch với cõi văn của mấy bà?
-Làm gì có chủ nghĩa
nhị nguyên, trong mấy thứ viết lách tối
hảo, của mấy bà. Nếu nói về ẩn danh, bạn làm sao có thể chỉ ra "nữ
tính", trong một trang của George Eliot, của George Sand; may lắm thì
ánh
lên, một thoáng quần hồng, ở Brontes; nhưng chắc chắn là mù tịt, với
Jane
Austen: bà rõ ràng "đạt" hơn nhiều, so với bất cứ một đấng mày râu
viết văn. Không phải khác hơn, mà đạt hơn: chân xác, sắc sảo, khôi hài,
hóm
hỉnh, châm biếm, cô đọng hơn. Bây giờ khác hẳn. Bây giờ, điều đó trở
thành một
lý do, một sự trả thù, một hy vọng được ý thức cao. Tôi chắc chắn có
những sự
khác biệt quan trọng. Điều này thực hết sức bất hạnh, bởi vì chỉ có
viết hay,
chỉ có viết dở, vậy thôi.
-Đây là thời điểm đặc
biệt quan trọng đối với ông, khi đảm
trách chức vụ giáo sư (the Weidenfeld Chair). Liệu có một ý nghĩa đặc
biệt, qua
sự kiện này: đây là chức vụ đầu tiên tại Oxford
về văn chương so sánh?
-Rất đúng như vậy.
Oxford không muốn tạo nên những nghiên
cứu Âu Châu, họ cảm thấy hoàn toàn chính đáng, rằng phần lớn cái gọi là
liên-ngành nghề thì không đáng kính trọng, rằng có cả một khối không
khí nóng
bỏng được phát ra từ những chương trình như thế, trong liên-văn hóa
này,
liên-văn hóa nọ. Nhưng họ cũng đã ý thức, họ không thể cứ tiếp tục như
trước
đây, đặc biệt dưới ánh sáng của cơn khủng hoảng căn cước của Anh Quốc,
liên
quan tới cả lục địa [Âu Châu], và chính nó. Anh Quốc là Âu Châu, hay nó
không
phải là Âu Châu? Con Đường Hầm xuyên qua biển Manche đúng là một trong
những
thời điểm khó khăn nhất, mang tính biểu tượng, cho người Anh chung
chung, để
lên tiếng ủng hộ. Vì vậy, Oxford quyết
định tạo
nên một chức vị về lịch sử trí thức, để vinh danh [triết gia] Isaiah Berlin, và chức
vị này,
về văn chương so sánh Âu Châu, theo tôi được biết, được tạo nên, với
hậu ý, tôi
sẽ là người khởi động.
Lịch sử văn chương so
sánh là một lịch sử bi đát của những
người tị nạn Do Thái. Những nguồn gốc của nó, là trong Vụ Dreyfus
(Affair) [một
sĩ quan Do Thái trong quân đội Pháp, bị vu cáo phản quốc], vốn thường
xuyên
không được nhận ra. Tôi sẽ nói tới điều này, trong bài diễn văn mở đầu
khóa
học, trong đó, tôi cho rằng văn chương so sánh không hẳn là một ngành
học, mà
là một đường lối cảm nghĩ, kể từ khi mọi người so sánh, khi họ đọc. Vậy
thì,
đối với Oxford,
đây đúng là một thời điểm, mặc dù không phải là một thời điểm dễ chịu,
nếu nói
về tất cả sự tôn kính. Tiếng Anh là một ngôn ngữ thế giới. Dân tộc Anh
cảm thấy
văn chương Anh là giầu có nhất, so với tất cả, chẳng cần chi, may ra
thì chỉ
một chút xíu, từ bên ngoài. Nếu bạn có Shakespeare, họ nghĩ, như vậy
đâu cần
chi khác nữa? Nếu bạn có Newton và Shakespeare, Hạ Viện và Luật Pháp
Anh, nó
bao trùm cả trái địa cầu, tất cả những thứ khác là những cái chi chi?
Nhiệm vụ
của tôi thì không dễ dàng và nó đòi hỏi, có lẽ, những kỹ năng ngoại
giao, đây
vốn là nhược điểm của tôi. Đó là lý do tại sao tôi trông mong rất nhiều
ở nó.
-Nếu phải tiên đoán,
vào giờ này, trong những tác phẩm của
ông, tác phẩm nào sẽ ‘trường tồn’?
-Câu trả lời mang
tính hiện thực sẽ là: chẳng có tác phẩm
nào. Nhưng lẽ dĩ nhiên, ai nói ra câu đó mà chẳng có một chút "thiếu
chân
thành" ở trỏng? Chẳng ai nên thử cân đo đong đếm, làm cái chuyện nhất
bên
trọng nhất bên khinh, với chính những tác phẩm của mình. Tòa Lâu Đài
của Yêu
Râu Xanh - trong đó tôi đưa ra những nghịch lý về chủ nghĩa man rợ và
văn hóa –
và một số tiểu luận trong Ngôn ngữ và Câm lặng, chúng có vẻ gây ấn
tượng lớn.
Tác động chủ yếu mang tính kinh viện và đề thuyết của tôi, là Sau
Babel, và tôi
thật vui khi thấy nó đang tái xuất hiện, được coi lại, được cập nhật
hoá, và
được mở rộng thêm. Cuốn Cái Chết của Bi Kịch lúc nào cũng được sử dụng;
được
trích dẫn rộng rãi, và có vẻ như rất ăn khách. Tôi thật là may mắn.
Trong số
muời lăm tác phẩm, mười một cuốn đang được in, đúng là một chuyện hầu
như không
thể xẩy ra vào những ngày này, và hầu hết đều ở dạng bìa mỏng. Bạn đã
trực tiếp
tham dự trong việc xuất bản trọn một số báo The Keynon Review dành cho
tác phẩm
The Portage. Nếu hai đoạn độc thoại dài – của Lieber, người Do Thái săn
tìm
Hitler và của chính Hitler – cả hai đều biến mất, tôi sẽ buồn lắm. Tôi
nghĩ
chúng nói lên được một số điều mà tôi chưa từng nói ra được, ở bất cứ
nơi nào,
và theo một đường hướng không nói ra được, ở bất cứ đâu đâu.
-Ngoài chuyện đọc và
viết và âm nhạc, ông còn mê những gì
nữa?
-Tôi đọc, đọc, đọc,
và đọc. Vâng, tôi là một loài sách (a
book creature). Nhưng tôi phải có một số những đam mê khác. Tôi có thể
là một
tay chơi cờ dở nhất, nhưng lại là một tay chơi đam mê, và tôi đã viết
một cuốn
sách về trận đấu giữa hai kỳ thủ Spassky và Fischer. Tôi theo dõi môn
cờ tướng
một cách rất là xít xao, chơi cờ mỗi khi có thời giờ, và sưu tập những
bộ cờ
tướng (chess). Hiện giờ, tôi đang trong tình trạng sa sút tinh thần, do
cái
chuyện máy điện toán đánh bại kỳ vương Kasparov. Tôi chơi lại trận đấu
bốn lần,
và không có một lỗi lầm nào, về phía Kasparov. Thật là một trận đấu
tuyệt vời,
và [nó cho thấy một điều là] bộ máy không thể suy nghĩ, đã nhìn sâu hơn
là cái
đầu mãnh liệt nhất. Bỏ ra ngoài những câu chuyện tiếu lâm, đây là một
trấn đấu
mà tôi mong, nếu mình có mặt ở trên cõi đời này, là để không phải chứng
kiến
một trận đấu như vậy.
Tôi cũng mê cảnh núi
non, và với nó, là niềm vui được sống
hai mươi năm ở Thụy Sĩ, và hiện có một căn cứ tại đây: chỉ để dạo giữa
những
đồi, chỉ đi dạo, chỉ ngó nhìn. Một khác biệt khác nữa, nếu phải so với
những
bản năng dân chủ của Mỹ: tôi không phải là một loài biển (marine
ctrature), một
người yêu dân chủ bãi biển (a lover of the democracy of beaches). Núi
non là
những kẻ kén chọn gay go. Càng leo cao, càng ít gặp. Chắc chắn, cô đơn
là cái
thử nghiệm. Là xem mình có đáng sống với chính mình không? Tôi không
thể hình
dung ra - ngay cả trong cõi sâu thẳm, rối rắm của tình yêu, của giao
hợp – cái
cung cách, mình tìm thấy riêng mình. Như với cái chết. Những xã hội
tiêu thụ và
không tưởng nhằm đánh đồng mọi con người, đã cố gắng xóa bỏ sự kiện
này. Với
tôi, chuyện này luôn luôn có vẻ hiển nhiên. Cái chết sẽ thú vị, tôi cảm
thấy
như vậy. Đây không phải là điều thú vị để mà chia sẻ, tôi ngờ thế.
Ronald A. Sharp
Nguyễn Quốc Trụ
chuyển ngữ.
Chú thích:
(1). G. Steiner là
người đầu tiên tại Phương Tây khai sáng
hai phân khoa cho đại học, văn chương so sánh (comparative literature),
và dịch
thuật học (translation studies), tại Thụy Sĩ. Ngữ học thế kỷ 20 có hai
trung
tâm quan trọng, một là Trung tâm Ngữ học Hình thái (formalism), của
Nga, và hai
là Trung tâm Ngữ học Praha, ở Tiệp. Cả hai đều do một đại biểu kiệt
xuất, Roman
Jakobson, là vận động chính. Ở Nga, thời kỳ sau Lênin (sau 1924), và ở
Praha,
sau khi Hitler lên cầm quyền (1933), những cải cách này đã không được
hỗ trợ.
Lúc đó, ở Thụy Sĩ (nhờ là một nước trung lập về chính trị), và ở London
(nhờ
truyền thống đón nhận những trí thức tị nạn chính trị, trốn tránh Quốc
Xã), đã
thành hình Trung tâm Ngữ Học Geneva, với Fernidand de Saussure, là vị
tị tổ khai
sáng ngành ngữ học đại cương, với tác phẩm Cours de Linguistique
Générale,
giảng dậy trong những năm 1907-1911, được hai môn đệ ghi lại và xuất
bản vào
năm 1915. Ludwig Wittgenstein (1889-1951, triết gia Áo), bỏ Vienne qua
học Cambridge,
được coi như
tinh thần khai sáng môn triết học phân tích, mà cốt lõi là suy nghiệm
về ngữ
học. Trường phái cơ cấu luận ở Pháp với những tác giả như Roland
Barthes, là
cũng từ lò Saussure mà ra.
(2) The Portage to
San Cristobal of A.H. (Cuộc di chuyển
A.H. tới San Cristobal), tiểu thuyết của Steiner, viết về một toán biệt
kích Do
Thái, 30 năm sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, đã bắt được một ông già
trong
rừng sâu ở Amazone. Ông già này chính là Adolf Hitler. Họ thông báo về
Jerusalem bằng mật mã dựa trên Cựu Ước; nhưng ở những thành phố lớn
trên thế
giới như London, Paris, Hoa Thịnh Đốn, Moscow đã bắt được tín hiệu, và
giải mã
được thông điệp. Trong khi cả thế giới đổ dồn về San Cristobal, toán
biệt kích
đã trải qua một cuộc hành trình gian nan, khắc khoải, nhằm đưa được Đệ
Nhất Ác
Nhân ra khỏi rừng sâu, về với thế giới văn minh đang nóng nẩy đợi chờ...
(3) Georges Simenon,
người Bỉ, viết văn bằng tiếng Pháp, tác
giả chừng trên 300 cuốn tiểu thuyết trinh thám mang chất văn chương,
tâm lý
hình sự, cha đẻ nhân vật thần kỳ, thanh tra Maigret.
(4) Jacques Derrida,
trong bài viết (bản dịch tiếng Anh)
Whom to Give to (Knowing Not to Know), về tác phẩm Fear and Trembling
(Sợ và
Run) của Kierkegaard, đã dịch là: Niềm bí ẩn đáng sợ, một bí mật làm
bạn run
rẩy (A frightful mystery, a secret to make you tremble). Cũng trong bài
viết,
ông giải thích: Thượng Đế là nguyên nhân của (God is the cause of the)
mysterium tremendum.
(5) Macbeth, nhân vật
trong vở kịch cùng tên của
Shakespeare, giết chồng vì ghen tuông. (Ngụ ý, bao nhiêu người đọc
Macbeth, và
trở thành sát nhân như nhân vật mang tên này).
(6) Plato dùng dụ
ngôn, con người trong đời sống, giống như
kẻ ở trong hang, chỉ thấy bóng của thực tại chiếu trên vách, và tưởng
đó là cõi
thực. Chỉ có cõi ý niệm thuần túy mới là cõi thực, còn chúng ta chỉ
sống trong
ảo ảnh. Có thể so sánh với quan niệm của Phật giáo, có hai cõi, cõi
chân đế
(không còn tạp niệm), và cõi tục đế (đời sống tâm viên ý mã của con
người phàm
phu tục tử). (7) William Styron, nhà văn người Mỹ, sinh năm 1925, tác
giả những
cuốn như "Những lời thú tội của (The Confessions of) Nat Turner"
(1967, giải thưởng văn chương Pulitzer), viết về cuộc nổi dậy, tại
Virginia,
của dân nô lệ da đen, cầm đầu bởi Nat Turner; và "(Chọn Lựa của)
Sophie’s
Choice", viết về Lò Thiêu (cuốn này, mới gần đây, đã được dịch tại Việt
Nam, dịch giả Huỳnh Phan Anh.)
(8) Theo tôi, phim
Đời thì Đẹp (Life is Beautiful), của đạo
diễn người Ý Roberto Benigni, có thể đã làm được điều này.
(9) Trong bài Work in
Progress, viết về Paris
của Walter Benjamin (The Arcades
Project), đăng trên tờ TLS (December 3, 1999), Steiner coi "chưa hoàn
tất" là mật khẩu tới chủ nghĩa hiện đại (incompletion is the password
to
modernism). Trích dẫn Adorno, "toàn thể là bố láo" (totality is a
lie), ông chỉ ra, tất cả những tác phẩm lớn sau thời kỳ Ánh Sáng, đều
chưa hoàn
tất: tác phẩm của Proust, Cantos của Pound, Moses und Aron của
Schoenberg… Tác
phẩm "đại diện" cho thế kỷ, của Heidegger, Thời gian và Hữu thể (Time
and Being), thiếu phần ba đầy hứa hẹn. Steiner tự hỏi: đâu là những
toàn thể
mang tính hình thái (formal totalities), trong những tác phẩm của triết
gia
Wittgenstein?
(10) Khi được hỏi về
chuyện này, Picasso trả lời, đại khái:
như vậy, đâu có gì là lạ. Lạ, là một người nào lấy bộ mặt con bò, và
hai cái
sừng, biến chúng thành chiếc xe đạp…
(11) Marx cũng đã
từng nói về giai điệu ỉ ôi, của thế giới
tỉnh lẻ.
(12) Chuyện ở Việt
Nam: sau 1975, một phóng viên nước ngoài
tiếp xúc với Phạm Xuân Ẩn, sĩ quan tình báo Bắc Việt nằm vùng tại Miền
Nam, lúc
này sống tại một biệt thự, ở làng Đại Học Thủ Đức, giữa một đàn chó mà
ông rất
cưng. Vào năm 1975, chức vụ của ông là Đại Tá Công An Hà Nội. Vào năm
1954,
Phạm Xuân Ẩn di cư vào Nam;
thời Ngô Đình Diệm, từ Sài Gòn đi du học tại Hoa Kỳ, ở ngay Orange County
(Quận Cam). Sau đó về Sài Gòn, thời chiến tranh Việt Nam, thập niên
1960-1970,
làm ký giả, staff, cho tạp chí Time nên quen biết hầu hết giới quân
sự và
chính trị Hoa Kỳ cũng như Việt Nam Cộng Hòa. Trong cuộc nói chuyện với
nhà báo
Mỹ kể trên, Phạm Xuân Ẩn cho biết, vào những giờ phút cuối cùng của Sài
Gòn,
ông đã đưa bác sĩ Trần Kim Tuyến (phụ trách mật vụ thời ông Diệm) ra
sân bay
Tân Sơn Nhất,[13] để thoát ra nước ngoài. Một bạn văn, và còn là một
quân y sĩ
(người viết vì chưa được phép, nên không thể nêu tên ở đây), cho biết,
cũng vào
những ngày cuối cùng trước khi thành phố thất thủ, và sau đó, anh phải
đi cải
tạo ("mười ngày ở Thiên Thai là năm, mười niên, ở trần thế"), anh đã
ngồi với Cao Bồi (biệt hiệu của Phạm Xuân Ẩn), tại quán Givral, ở đường
Tự Do.
Cao Bồi hỏi: Tại sao mấy bạn không đi đi? Người viết không hiểu, Cao
Bồi, lúc
đó đã linh cảm, "một giải pháp chót", cho đám ngụy, sẽ xẩy ra? Ngay
tháng Tư 1975, Phạm Xuân An đã cho vợ con qua Hoa Kỳ, (chắc là) với ý
đồ, nếu
cần sẽ nằm vùng bên đó. Phạm Xuân Ẩn được lệnh ở lại, và sau 30 tháng
Tư, đã
yêu cầu Hoa Kỳ cho vợ con ông trở về Việt Nam. Hãy so sánh trường hợp
Phạm
Xuân Ẩn, với của Tô Hoài: trong cuốn Chiều Chiều, hồi ký viết lúc chót
đời, ông
còn đưa ra nhận xét là những người làm công tác đưa người ra Bắc vào
năm 1954
(chiến dịch Tập Kết), đã "bỏ sót" hai người, Lam Giang (một trong
những đảng viên thuộc hàng ngũ lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng), và Võ
Phiến
(một người theo Việt Minh những ngày đầu, sau bị ghép tội phản động, và
đã về
thành, nhân hiệp định Genève 1954).
Phụ chú
13. PXA đưa TKT lên trực thăng, tại một trong những trụ sở của CIA ở
Sài Gòn. Xem
loạt bài về PXA trên Tin Văn