Thanh
Tâm Tuyền
Tên
Thật: Dzư Văn Tâm
Bút hiệu khác: Đỗ Thạch Liên
Bút hiệu khác: Đỗ Thạch Liên
Sinh
13/03/1936 (Vinh). Qua đời lúc 11g30 ngày 22/03/2006 (Minnesota)
Hưởng thọ 70 tuổi
Hưởng thọ 70 tuổi
Nhà
Thơ. Nhà Văn
Sẽ chết như sao rơi vào bất tận
Sẽ mãi yêu như giọt nước hân hoan
Thanh Tâm Tuyền
Sẽ chết như sao rơi vào bất tận
Sẽ mãi yêu như giọt nước hân hoan
Thanh Tâm Tuyền
pnfoto
Bút
tích Thanh Tâm Tuyền
Thanh
Tâm Tuyền là một trong những nhà thơ khởi xướng phong trào Thơ Tự Do
tại miền nam Việt Nam với tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc xuất bản
năm 1956.
Ông
di cư vào Nam khi còn rất trẻ.
Chủ
trương nguyệt san Lửa Việt năm 1954.
Sau
đó cùng với nhà văn Mai Thảo thành lập Tạp Chí Sáng Tạo từ 1956
đến 1960.
Nhập
ngũ năm 1962 và trở thành sĩ quan cấp úy trong quân lực Việt Nam Cộng
Hòa.
Bị
bắt học tập cải tạo 7 năm sau 1975.
Rồi
được thả và đi định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO năm 1990.
Ông
qua đời tại Minnesota năm 2006 vì bệnh ung thư phổi.
pnfoto
Những
bức thư gửi cho ... hòn đảo xa
"Mượn
Dấu Thời Gian" xin phổ biến các đoạn trích từ những bức thư của Thanh
Tâm Tuyền viết những năm 1972, 73, 74 và 1982 gửi cho một ... hòn đảo
xa, nơi tác giả tự ví mình như một Crusoé thất lạc.
"Mượn
Dấu Thời Gian" xin thất lễ với người đã khuất khi phổ biến những đoạn
thư khá riêng tư.
Việc
làm này không ngoài mục đích cung cấp cho các nhà biên khảo và phê bình
văn học, cũng như những người yêu mến ông, một khía cạnh khác của chân
dung nhà thơ.
Từ
phía đó, một số tác phẩm của Thanh Tâm Tuyền đã như "sao rơi vào bất
tận" trên khung trời văn học Việt Nam.
*
*
Công
bố ngày 22/03/2012
pnfoto
Những
đứa trẻ của Dickens
17.2.1973
Em
và anh thuộc loại máu lạnh ở xứ nóng không hợp thật. Mấy ngày em ở Sài
Gòn, tuy nói với em là vẫn làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả. Làm mấy
bài thơ thì có. Lúc nào anh cũng ngóng, biết em không đến, nhất là hai
bữa cuối trước ngày em đi. Em đi lần này không có anh đưa. Giả thử anh
có đưa chỉ làm em nặng thêm, máy bay nặng thêm. Bữa ấy - chắc là có cô
H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy nhẹ không?
Ngồi
trước mặt em, anh thật chẳng hiểu mình ra sao, mình muốn gì. Bởi anh
toàn nói bậy không. Lúc nào anh cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy
cùng vui lúc bấy giờ. Nhưng cái vui anh gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi :
tại sao đối với em, anh không làm như với những người khác, hay bình
thường là hai kẻ yêu nhau, như mọi người. Bữa em hỏi anh có sợ em
không, bây giờ anh thấy có lẽ anh sợ em. "Sợ" như cái mặc cảm anh biết
bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ: không bao giờ anh có được cái mà tất
cả mọi người đều có. Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá sớm mà. Nó chỉ
nhìn đồ chơi bày trong tủ kính, nhìn đồ chơi những đứa khác chơi, nó
chẳng có, chẳng ai nghĩ đến cho nó. Em có biết anh đọc Le Petit Chose
năm nào không? Năm học lớp ba và từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó
là anh rồi. Những đứa trẻ của Dickens đều vậy, lớn lên khá hơn nhưng
rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.
Cháy
Thoáng
một ngày mưa lạ xong Sài gòn lại theo nhịp cũ. Nắng kinh. Nắng gợi cho
anh cái ý một truyện ngắn: tình yêu bị nắng Sài Gòn đốt cháy tiêu. Bữa
qua cũng đã loay hoay, ngồi quán gần nhà in, định viết cho em lá thư
nữa, xong ồn quá lại đứng lên đi tìm bạn hẹn nhậu.
.............................................................
Trong
khu vườn của tòa nhà phía trong chỗ anh làm việc em chưa vào tới, anh
đã đi dạo thẩn thơ hoài dưới bóng cây xuyên đầy ánh trăng. Đã bảo em
làm anh thành "poet" mà. Độ này thao thức nhiều, đầu cứ bạc mau thêm,
hè em về chắc thấy anh tóc trắng xóa chưa biết chừng.
Flamme
seule, je suis seul
Bruler
seule, rêver seul
Grand
symbole, double symbole incompris
Le
premier pour la femme,
toute
brulante, doit rester seule, sans rien dire;
Le
second pour l'homme taciturne qui n'a qu'une solitude à offrir.
Trong
một đêm anh đọc đoạn trên trong một quyển sách mỏng của Bachelard, chép
lại cho em đọc đỡ buồn. Câu đầu là thơ của Tzara. Đoạn sau quãng diễn
của Bachelard - philosophe già, tóc trắng xóa, tâm trí thơ mộng vô
cùng. Anh có ý lấy đoạn này để cho Mắt Bão. Em thích không ?
Mắt
Bão
Sài
gòn, 8.3.1973
Thư
trước báo cho em biết đi dậy học từ ngày 15.2, thư này báo đã bỏ dậy
học 28.2. Bất định quá. Vào lớp chán quá, mặc dầu được học trò thương.
Chắc anh khó có thể trở lại nghề cũ. Xem bộ anh thấy mình khá hơn xưa :
chẳng còn cần đến những ánh mắt, nụ cười ngưỡng mộ tôn kính nữa. Khỏi
khoác một bộ vó chẳng ra gì. Chẳng hiểu đúng không? Hết là thứ "ông
giáo làng" phải không em?
Còn
gì nữa ? Anh nghĩ đến Mắt Bão. Hồi đầu anh tưởng tượng người
đàn ông chết, người đàn bà mất tích. Hôm qua anh tưởng tượng câu chuyện
sẽ được kể lại sau khi người đàn ông chết bằng chính người đàn ông.
Trước mặt mọi người, người đàn ông chết hẳn hòi, có đám táng linh đình,
đông đủ bà con thân hữu. Nhưng đó là trò lừa của hai người. Sau khi
người đàn ông đã chết, do người đàn bà giết, hai người trở lại ngôi nhà
cũ bên hồ trong những ngày cuối cùng của cuộc đời nhìn lại quãng đã
qua. Chương mở đầu gọi là Hẹn nhau sau khi chết. Anh còn đang
phân vân nên để cho người đàn bà đến nơi hẹn chăng. Hay từ đầu chí cuối
quyển tiểu thuyết là sự chờ đợi. Bởi khu nhà của người đàn bà ở trong
cái khu như cù lao phía bên kia hồ.
Hồi
anh viết Cát Lầy, anh đã có ý ấy nhưng sau bỏ vì nghĩ nó tàn
nhẫn, trêu cợt người ta quá. Trong Cát Lầy, Người
đàn bà tên Thuận tự tử nằm bên trong ngôi nhà khóa trái cửa một đêm
giông mà Trí kêu gào bên ngoài trước khi ra bến xe đi với Diệp sáng hôm
sau, thực sự không chết. Anh định kết Cát Lầy bằng đoạn Trí
tìm thấy Hiệp và Thuận ở nơi khác, lại đến thăm ngồi với hai người này
một buổi tối, xong mới đi hẹn với Diệp, nhưng rồi sau anh bỏ ý ấy, "kỳ"
quá phải không em ? Vì Trí còn trẻ, Diệp còn trẻ
.........................................
Sinh
Nhật
13.3.1973
Hôm
nay sinh nhật anh đây. Nhận được một lúc 3 thư. Mở đọc chẳng biết cái
nào trước cái nào sau. Đọc ào ào. Rồi chiều đọc lại. Coi như món quà
mừng. Yên tâm vì thư không thất lạc. Mình đã là thứ thất lạc rồi, mà
thư của mình thất lạc nữa thì là thất lạc của thất lạc...
Chỉ
biết hôm nay sinh nhật, anh đến ngồi hai buổi ở sở. Không làm gì. Nghe
những chuyện lẩm cẩm chật ních cả hai tai. Buổi sáng gặp một anh chàng
làm thơ trẻ ngoài Pagode, hắn cho biết mới ngã ngửa ra là hai câu thơ
"trời còn đêm nay còn mãi mãi" mà anh tưởng không có đoạn tiếp hóa ra
anh đã làm một bài từ hồi nào, có đăng rồi mà quên .......
Gối
đầu lên đám bèo
14.3.1973
...
Anh kín mít bởi lẽ đúng anh không được phép nói bất cứ một điều gì nữa.
Mai Thảo hắn bảo với anh như vậy, hôm tối thứ bẩy. Hắn nói khi anh tới
sát bờ vực, xong anh lui lại trong khi có những người nhắm mắt đưa chân
tới thì anh không còn quyền để nói, không được nói bất cứ điều gì. Bởi
rõ ràng anh còn và người khác thì đã mất. Hôm ấy anh thật say, anh ứa
nước mắt, chảy nước mũi ròng ròng. Anh cười, anh thua nó, anh bảo je
suis la^che, c'est comme ca. Nhưng thật ra anh khóc mùi. Chạy xe về
trong phố đêm anh vẫn còn thấy nước mắt mình ròng ròng. A, đây là lần
thứ ba anh khóc trước mặt người khác. Mới đầu, hình như bao giờ cũng
vậy, với ai anh cũng tưởng anh phải chăm lo cho kẻ ấy - kể cả Mai Thảo
- anh sợ người ta sẩy chân, nhưng sau cùng hóa ra chính anh là kẻ bám
víu vào người ta. Tối hôm thứ bẩy, Mai Thảo nó nhất định không bỏ dở
câu chuyện, nó nhất định phanh phui đến cùng, nó nhất định ném anh đứng
trơ vơ ra đó, nó bắt anh thú nhận rằng anh không hơn nó, anh đừng có
giọng kẻ cả, "đắc thắng". Người thứ ba trong bàn là Phan Lạc Phúc chịu
trận hai thằng như chịu hai tên khùng. Nhưng dường như anh cũng sung
sướng, mãn nguyện, biết rằng thật ra mình chẳng là cái gì, chẳng ai cần
đến mình, mà chính mình nhu nhược cần đến người khác quá nhiều.
.............................................................
Viết
kể với em, lúc này anh nhớ đến một câu thơ của Milozs : Je suis plus
mort que les morts de Lofoten. Nhảm. Mai Thảo nó bảo: ca, c'est de la
littérature, sống không như vậy. Điều đó chính anh vẫn nói. Anh cũng
chẳng hiểu tại sao lại mang kể cho em? Có lẽ cũng chỉ cốt để nói hình
như anh cũng đang bám víu vào em. Một kẻ chết đuối bám vào một kẻ chết
đuối. Nguy hiểm. Em hiểu tại sao nhiều lúc anh muốn thôi viết cho em -
có thể sau thư này - anh bất định quá.
Mới
đây, Nguyễn Mạnh Côn kể với anh về cái lần hụt chết của anh ta. Đó là
bữa anh ta bơi ở Hồ Tây, bị vọp bẻ cứng cả tay chân, anh ta lật mình
nằm ngửa coi như xong, không ngờ thế nào lại gối đầu lên được một đám
bèo. Nhờ đó mà anh ta thoát chết. Anh quen với anh ta cũng đã lâu,
nhưng rất ghét không ưa trò chuyện với anh ta bao giờ - sở dĩ có cuộc
nói chuyện lần này vì anh ta viết cho Tập San Quốc Phòng anh phải đến
nhà lấy bài ................
Em
thấy không, chỉ một đám bèo giữa hồ rộng và người ta sống. Dễ sợ. Mình
là đám bèo của nhau. Lúc này anh chỉ còn tin là em là kẻ duy nhất nghe
được những gì vang động nơi anh.
Đó
khúc nhạc của mình đó, em yêu.
Hậu
sinh nhật
21.3.1973
Sinh
nhật anh 13 không phải 15. Anh mang con số xui mà, không hiểu ngày ấy
có phải là thứ sáu không ? Nếu phải là vendredi nữa thì hết nói. Đâu
được như em sinh vào ngày rằm trăng tròn. Tháng tới sinh nhật em đây,
đúng chưa? Hôm qua thấy xổ số ra đúng ngày sinh nhật em, chỉ tiếc về
Sài Gòn chẳng chịu đánh số nữa. Không thì đã trúng.
Chủ
Nhật đang ngồi viết Một Chủ Nhật Khác cho Mr Khoan, thật ngon
trớn, chiều ngồi vào bàn đột nhiên quyết định dứt ngang xương. Mọi
người sẽ chưng hửng. Kể cả tác giả của nó. Có lẽ tác giả bí. Cứ viết
truyện tình là y như bí. Kéo lòng dòng chẳng biết đi về đâu. Bèn chấm
một cái. Cho xong đi. Nhẹ người. Mang cất vào một chỗ những cái còn lại
cho riêng mình nhấm nháp như bữa nay chẳng hạn.
Mới
đó trời đã xập tối. Thật mau. Mùa mưa sắp đến. Hình như hôm nay còn
trăng. Chốc nữa anh lại ra ngồi ngoài bệ đá, dưới bóng cây. Cứ thế
thôi. Mắt bão mà. Mình tự làm ma nhát mình chơi. Vì chẳng còn cái gì
khác có thể nhát mình nữa có chán không ?
....................................................................................
Có
lẽ mùa mưa sắp tới. Mấy chiều nay trời xỉn khác lạ. Mùa mưa Sài Gòn dơ
bẩn nhưng còn dễ chịu. Anh rất thích những trận mưa ở đây. Ào ạt rồi
thôi. Không dầm dề, nẫu người như mưa Huế và cũng không hung dữ như mưa
Đà Lạt. Những trận mưa núi thật tán đởm. Vậy mà em tưởng tượng hai năm
trên ấy đã nhiều lần anh chạy xe gắn máy trong mưa như vậy. Cả trong
đêm nữa. Nghĩ lại bắt rùng mình, nhưng sướng vì chạy trong một trận mưa
như vậy mình như thể tan thành nước, thành bão chẳng còn một chút nghĩ
ngợi nào.
Phan
Thiết, chân dung tự họa
20.11.1973
Quyển
thứ hai anh bắt đầu viết là chuyện về một thành phố "hạnh phúc" khuất
náu, gần biển với khá nhiều nhân vật ngồ ngộ : một con bạc nhà nghề,
một cô nữ quân nhân, một nhà nghệ sĩ trẻ tuổi của thời đại, người đàn
bà được "bao", một cặp đào kép cải lương nổi danh và những nhân vật của
thành phố ấy. Anh nhớ Phan Thiết nơi anh đã sống khoảng một năm
khi anh từ Bắc vào, sau đó mới di cư dần vào Biên Hòa rồi Gia Định Sài
Gòn. Đó là cái thành phố lạnh nhạt không ai ghé chơi, không biến động.
Quốc lộ 1 chạy ngang nhưng thiết lộ thì không. Tàu đến ga Mường Mán rồi
từ đấy những người đi Phan Thiết phải chuyển tầu đi khoảng ngót
30 cây số nữa, nếu anh nhớ không lầm. Anh từ Hà Nội vào đến ga Mường
Mán lúc nửa đêm. Anh nhớ mãi. Thành phố ấy có Bích Khê và có bài Lầu
Ông Hoàng của Hàn Mặc Tử với những câu như: Ôi một trời Phan Thiết,
Phan Thiết. Mà tang thương còn lại mảnh sao rơi. Ta đến nơi nàng đã mất
lâu rồi. Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ. Thành phố có con sông
Mường Mán, cây cầu Mường Mán ngăn đôi thành phố: khu buôn bán bình dân
với chợ và khu hành chánh với nhà ga. Có hai bãi biển tắm. Bãi Tây và
bãi ta. Nơi ấy anh hút những điếu thuốc lá đầu tiên năm 8, 9 tuổi khi
được thả rong chơi với một thằng bạn tây lai "ma cà bông, ma cà cúi,
lúi húi đầu chợ". Nơi ấy anh bị lột trần truồng đuổi ra khỏi nhà và
nhất định bỏ nhà đi. Nơi ấy anh xem cô Phùng Há đóng Mạnh Lệ Quân thoát
hài. Nơi ấy anh chứng kiến tấn tuồng đứa con trai mới lớn - con của
người đàn ông lấy mẹ anh - tằng tịu với chị người ở nhà hàng xóm. Nơi
ấy anh nghe lứa tuổi lớn hơn hát One Day, Suối Mơ ... Nhiều, nhiều
chuyện không thể kể hết. Chót cuối là nơi ấy khi anh leo lên chiếc xe
vận tải để vào Nam theo mẹ, anh được một đứa bạn gái ở gần nhà tặng một
bộ bài - anh nhớ anh gọi là bài "học trò" vì có một cây mang tên ấy -
hao hao như bài tam cúc - khổ nhỏ hơn tam cúc nhưng lại lớn hơn bài tứ
sắc - đặc biệt bài in có hình vẽ nhưng chỉ có trắng và đen không có mầu
như tam cúc và tứ sắc. Thường ngày anh vẫn chui sang chơi bài với nó,
nó học trường nhà nước anh học trường tư - tạm bợ mà. Đó là món quà đầu
tiên trong đời anh. Anh chưa biết đặt tên quyển tiểu thuyết này là gì.
Hoặc là anh sẽ cố tả anh qua thành phố, không qua người.
Tự
truyện
24.11.1973
Sáng
nay anh nẩy ý có lẽ rồi anh viết tự truỵên. Vì em đấy. Chưa biết lúc
nào thực hiện, có thời giờ thực hiện không. Nhiều lúc thì trống huếch
trống hoác, nhiều lúc thì nghẹt ứ dồn cục. Anh có biết bao điều muốn
làm. Rồi anh bỏ cho trôi qua. Với em bây giờ, anh ráng bình tâm làm
việc dần dần. Tự truyện của anh chắc chắn miên man không thể tưởng. Có
thề là bộ sách dầy. Có lẽ vì thế mà anh ngán chăng? Hoặc vì từ trước
đến nay chẳng ai đếm xỉa muốn biết, anh cũng thấy chẳng cần cho ai
biết? Anh muốn phanh phui với em lúc này chăng? Có lẽ, chắc thế. Cứ ném
từng mảnh đầu Ngô mình Sở làm em chẳng thấy đầu cua tai nheo đâu. Anh
sẽ viết, khi anh có thời giờ, dần dần ngày một hai trang cho đến bao
giờ dứt thì thôi. Đó không phải là một công cuộc đáng chú tâm? Anh trở
lui, đúng nghĩa, trở lui để em thấy. Anh đã thấy quyển thứ nhất sẽ được
dành cho những năm đầu cho đến khi bố chết - năm đó mới có sáu tuổi.
Ghê chưa. Ngán quá. Không hiểu đủ kiên nhẫn không?
Em
có ngại đọc những sách dầy kiểu đó không? Có khi anh cốt "hù" em chơi,
đừng sợ.
Chuyến
du hành mùa đông
9.1.1974
Anh
vẫn cố trụ tâm viết quyển sách thứ hai cho nhà xuất bản mặc dầu nhà
xuất bản vừa điện thoại cho biết "tương lai đen tối" lắm. Lúc ký
hợp đồng anh tưởng mình là kẻ bội ước, lo ghê chỉ dám hứa 1 năm, cái
điệu này thì chính nhà xuất bản bội ước chứ không phải anh. Anh thế mà
giỏi. Phải không? Anh đã tạm ngưng cái tiểu thuyết về anh chàng đánh
bạc rong và cặp đào kép nổi tiếng, từ một tháng nay anh viết lại "Chuyến
du hành mùa đông" viết hồi còn trên Đà Lạt, trước khi gặp em, mà
một đoạn là "Đêm gió" trích đăng hồi xuân Nhâm Tý ở Văn mà em đã
đọc. Anh viết như kẻ lẩn thẩn, sau cơn say cứ ợ chua mà không chiụ nuốt
ngồi nhai nghiền lại những đồ ăn đã nát ngướu. Chỉ làm thơ là sướng
thôi. Và viết kịch nữa.
Vẫn
em
Thơ
tình ở Sài Gòn
Vẫn
em đồi trăng phơi mờ hoặc
Tóc
buông giải thẫm xóa canh thâu
Vẫn
em rừng lũng khuya trốt lộng
Ngút
đen mắt lạc ruỗi tin trăng
Vẫn
em đồng sông sao trời lạ
Phập
phồng tan nát lượng thời gian
Vẫn
em dáng cây nghiêng nẻo khuất
Sương
muộn ham mê thức lá buồn
Vẫn
em ngực thở vùi cơn bão
Trải
niềm không, xô sát niềm không
Vẫn
em trận mưa giông vách núi
Mở
buốt mông lung cửa đất trời
Vẫn
em thoáng trắng mây hiền hậu
Ngẩn
ngơ soi mặt biển điêu linh
Vẫn
em đóa quỳnh run hoảng nở
Hương
thầm choàng riết cõi đêm ta
21.4.1973
Thơ tình trong tù, Vĩnh Phú - K2. Tân Lập
Vẫn
em của thuở trăng nào
Đêm
hôm nở đóa chiêm bao xanh ngần
Vẫn
em tình của trăm năm
Đoan
trang nét hạnh thâm trầm dáng thơ
Vẫn
em mối kết thiên thu
Vẫn
em xoa dịu sầu tư cõi này
8.1980
Tình
ca
Tình
ca của người tình của Cu Nghệ
Sự
trôi chảy không ngừng nghỉ không dời đổi
Trở
về mãi mãi những đêm xuân
Hạt
máu đọng thời gian ngủ ngoan qua mùa đông
Đừng
sợ, đừng sợ con sẽ lớn lên sau những nụ hôn lạnh lẽo phản bội
Tình
ca của đảo
Tình
tôi như đốm lửa xanh xao huyền hoặc
Anh,
gió khô khan độc địa không ngớt vùi dập
Ôi
gió tối tăm gió gầm trời nào
Thổi
bùng thành đám cháy không thể tắt
18.4.1982
Công
bố ngày 11/03/2012
pnfoto
Hậu
đường ngôi nhà mặt tiền
15.9.1972
Chiều
viết cho em xong lá thư, định ra phố gởi thì trời đổ mưa. Nghe tin bão.
Ngại không buồn đi, nhờ một người đi qua bưu điện bỏ hộ. Không rõ em có
nhận được chưa? Mưa tầm tã. Ngồi mãi Hội Quán định trở về phòng viết
tiếp thư vì nhớ dường như nói còn sót ý, anh Cường sang chơi, khen mấy
bài thơ đăng trên Văn. Anh ngạc nhiên hỏi sao biết là thơ của anh thì
bảo trông thấy tên. Anh chưa thấy tờ báo nhưng như thế chứng tỏ là Mai
Thảo đã không làm theo ý anh, ký tên thật một tiếng thôi. Anh đoán
chừng ý Mai Thảo hắn không muốn anh đổi tên vì muốn cột anh vào luôn
với hắn không cho anh thay đổi và có lẽ cũng nghĩ như mọi người là anh
nhát sợ hoặc tức giận những kẻ thường công kích mình mà tự chối bỏ. Em
nghĩ thế nào về chuyện này ?
Chính
khi ghi chép bài thơ Ngôi nhà đỏ, anh đả có ý bảo em chọn lấy một tên
lạ nào đó ký, rồi gửi cho anh từ ngoài vào (với điều kiện không phải
chữ em chép vì chúng cũng có thể nhận ra) để anh xem thử bài thơ được
tiếp đón thế nào. Anh không ngờ em đã "khổ" vì bức điện mấy chữ. Ngay
hôm ấy anh cũng đã ra bưu điện, tính đánh trả lời : OK, comme tu
voudras ngay nhưng đến nơi lại bỏ ý định. Anh cầm cự ghê lắm, nhớ là
những lúc anh cầm cự thường làm em tức. Nhưng tức thì chuột nhắt ráng
chịu.
Anh
bảo em nên lúc trống trải thử viết một quyển tiểu thuyết. Tốt nhất một
quyển tiểu thuyết không phải về mình. Như thế sẽ cần chăm chú, theo dõi
người khác và sẽ quên được mình rất nhiều. Anh nghĩ thế và hiện anh
đang sửa soạn làm vậy. Anh tin chắc là anh sẽ thành " nhà văn lớn" mà.
Mưa
cũng đã tạnh. Anh viết thư này cho em, trong yên tĩnh. Mấy lá thư kia
đều viết trong giờ làm việc, có người ra vào. Anh cũng chịu anh không
thể tưởng tượng ra em đang làm những gì ngoài ấy. Đúng là đảo xa mù mịt
trông chẳng thấy bóng.
Anh
đang mong em đã nhận được thư trước của anh và cũng đang viết trả lời
anh. Chịu khó viết nhiều cho anh đọc. Chừng nào biết đích xác ngày về
Sg anh sẽ đánh điện báo em rõ, lúc ấy em hãy ngưng gửi thư về địa chỉ
này. Nhớ chưa ?
Ngôi
nhà đỏ, bis
2.10.1972
Anh
vừa qua một ngày đầy, đầy thật đầy. Hiếm. Đầy mà không thấy mứa. Không
phải "blue monday" mà là một ngày thứ hai đủ màu. Sáng vẫn dậy sớm như
thường lệ. Đầu đau ê ẩm. Nhớ hồi 11 giờ đêm qua, Hải đập cửa phòng mang
bánh mì về gọi dậy ăn. Nín thinh làm bộ ngủ. Bụng vẫn ọc ạch. Ngồi lầm
lì trước bàn không buồn rửa mặt ngay như thói quen. Hải dậy sớm, săn
đón, tưởng giận vì chuyện hắn về muộn bỏ đói hôm trước (đâu có biết
mình được mời ăn cơm ngon). Vẫn cứ lầm lì chẳng buồn mở miệng. Nhưng
thay vì thường lủi thủi xuống Hội Quán một mình thì nhẩn nha ngồi đợi
hắn. Hắn không biết anh đang rượt theo hai cái âm "đuối nhớ, nhớ đuối".
Mang theo xuống Hội Quán quyển Espagnol cũng chẳng thèm mở đọc. (Ngày
26.8 em lên Đà Lạt anh đã đọc đến bài số 18. Bây giờ anh đến bài 20. Cứ
mấy bữa rượu, mấy bài thơ theo ám hoài). Tưởng ngày bắt đầu như vậy kể
như hư rồi.
Trở
về phòng làm việc, ngồi vào bàn làm việc là bắt đầu "đuối nhớ nhớ
đuối". Tất cả công việc của anh trong một ngày là buổi sáng đọc mấy tờ
báo, kiểm tin. Nhưng sáng nay báo không có chỉ vì lẽ ngày chủ nhật nhân
viên phụ trách đi lấy báo đùn nhau rốt cuộc người nọ tin người kia
chẳng ai lấy cả. Không phải đọc báo hàng ngày đã sướng, nhưng sướng hơn
là vì không có báo nên phòng đỡ đông chật các bạn đồng nghiệp đến xem
ké vào buổi sáng. Thảnh thơi đóng cửa mà "nhớ đuối". Làm được đâu 3,4
khúc cái bụng lại ọc ạch róc rách. Nhớ thư viết hôm qua đã dán chưa
gửi. Mượn xe Jeep, một mình ra phố. Ghé bưu điện bỏ thư. Ghé tiệm thuốc
mua một ống Direxiode. Xong trở về lại ngồi vào bàn. Làm xong bài thơ
chưa hết buổi sáng. Đi dạo một vòng, uống thuốc chặn bụng. Về ăn cơm
với vợ chồng người bạn không con.
Trở
về phòng ngủ, yên bụng. Trong giấc ngủ nghe lại những thanh âm của vài
câu chưa ổn. Thức dậy, ngồi vào bàn ...
Ngôi
nhà đỏ đồi trăng hồng đuối nhớ
Thở
hơi sương run rẩy. Ngã trong trời
Nhòe
gió bấc, ngựa mây dồn dập vó,
Tiếng
nhạn đen. Thả bổng quạnh hiu rơi
Đồi
bập bềnh trôi lũng biển trắng
Mái
nhà ôm, trở ngọn hú gào người
Người
gắng gượng rõi dáng hình lãng đãng
Hồn
như đêm lóng cóng. Cắn môi.
Những
bực đá lấp chìm, đá rét mướt,
Dâng
dưới chân, đợt sóng nổi chông chênh.
Người
hẳn tiếc những khuya trời ngỏ mở
Đá
nhún mình nâng gót nhẹ thênh.
Bụi
hoa trắng ngó tìm trên đầu dốc
(Hoa
ngời trông. Rạng hiện lối đơn sơ
Hoa
cừu địch. Cười ý cuồng lảo đảo)
Rũ
rượi buông cánh sũng. Quãng mờ.
Đèn
vàng lụn như đầu diêm xòe tắt
Lửa
thuyền xa. Đom đóm dạt phiêu bồng.
Tình
rầu rĩ kêu tiếng trầm cắn đắng,
Bóng
vang hư. Thoáng lịm như không
Kìa
tóc ướt tựa gờ tường đay nghiến
Bám
vịn trên cánh gỗ sượng sùng.
Thềm
hiên gió rập rờn xô huyễn hoặc,
Đầu
buốt mê tiếng gõ đập kinh hoàng.
....rồi
lướt đọc nhanh thư em.
Bao
giờ cũng vậy, giống như ngửa mặt phơi gió mặc cho thổi không nghĩ ngợi.
Những
buổi sáng dưới hỏa diệm sơn
3.10.1972
Nói
đến thư trễ, anh nhớ anh vừa đọc xong trong tuần trước một quyển tiểu
thuyết thật tuyệt, Under the volcano của Malcolm Lowry . Một
truyện tình của một anh chàng say. Có những bức thư tình xếp xó không
gửi, những bức thư gửi đến được cất ở quán rượu không được trả lời và
một cái carte postale đến trễ cả hai năm trời, đến vào lúc hai người đã
gặp nhau vào cái ngày của quyển tiểu thuyết. Thật tuyệt. Thật thơ.
Lowry được so sánh với Joyce với Eliot. Em tìm trong các thư viện, đọc
thử xem.
Anh
thích những buổi sáng không thể tưởng. Ở Sài Gòn có nhiều bữa anh ra
đường khi trời chưa rạng, chạy xe kiếm một quán cà phê chệt ngồi. Buổi
sáng khi Pagode vừa mở cửa thường khi anh là người khách đầu tiên lúc
còn làm ở Tiền Tuyến. Ở đây không thể ra ngoài. Sợ lạnh vả lại trong
trại binh đi lang thang bậy bạ nguy hiểm không chơi. Hồi còn yên, mới
vô lính, 4 giờ sáng dậy đi tuần xong chạy từ Cầu Kinh qua xa lộ vào Sài
Gòn. Nhớ hoài những buổi sáng. Anh chỉ mới đón em, gọi dậy có mỗi một
buổi sáng thôi. Buổi sáng của anh khó có người chia xẻ. Dường như các
bạn thân thiết của anh chẳng có ai dậy sớm cả. Buổi sáng sớm chẳng bao
giờ làm người ta chán đời cả. Sáng sớm dậy, thở, đi ngửa mặt khoan
khoái thấy sống tỏa tràn trề không hề nghĩ ngợi bậy bạ nhảm nhí.
Lần
ra Huế anh cũng còn nhớ những buổi sáng ở bên Hương Giang lắng nghe
tiếng chợ họp dấy bên kia sông. Nhớ con đường hẹp như đường làng từ hồ
Tịnh Tâm ra con đường phố trổ ra cửa Thượng Tứ hàng cây trồng cách sao
mà ngả đầu vào phía trong như ngửa ưỡn người. Khu Gia Hội anh cũng đã
sang. Đã ăn một bữa tối ở tiệm ăn Tầu bàn bầy ngoài vườn, chẳng hiểu có
còn không (cùng phía với rạp hát bóng, đi quá lên trên).
Anh
lại vừa nhớ đến những buổi sáng thức dậy trong Sở Thú. Hồi Tết Mậu
Thân, tái ngũ, làm ở Tiền Tuyến, trong đợt tấn công thứ 2 vào Sg, cứ 4
tối anh lại bị một đêm dẫn lính qua nằm phục bên Sở Thú. Ngủ trên bãi
cỏ dưới tàn cây. Ngủ trong nhà chòi bát giác sát bờ sông Thị Nghè. Ngủ
dưới chân cái patio thẳng cổng chính vào trông thấy. Ngủ trong cái quán
nước đã dẹp bàn ghế. Nửa đêm ve kêu râm ran. Sáng dậy nghe khỉ nghe voi
kêu. Mời hết cả đám lính đi với mình mỗi người một ly cà phê sữa cho
tỉnh trước khi về trại. Năm đó anh nhớ anh đánh bạc quanh năm, được
liên tu bất tận. Về vứt ống súng là chạy ra Pagode ngồi đến 9 - 10 giờ
về làm việc. Bây giờ thì buổi sáng chong đèn - luật phòng thủ tối kỵ -
viết thư. Viết ba lăng nhăng, chẳng ra đâu vào đâu. Và nếu cứ viết kiểu
này hoài, chắp lại dám thành quyển tiểu thuyết tình dầy. Có khác chi
Under the volcano?
Khúc
Presto, mùa hè rực rỡ
6.10.1972
Từ
đầu tuần đến giờ anh gặp toàn chuyện xui. Khỏi cái bụng đến cái đầu.
Hết cái đầu phía sau đến cái đầu phía trước. Số là bữa qua anh bị tai
nạn kỳ cục. Từ Hội Quán về phòng không có gì lạ. Vào bàn ngồi đọc báo
mở nhạc nghe. Nghe "Tứ Thời Khúc" của Vivaldi. Hết sức hứng chí. Tới
nỗi ông sếp phải vô phòng yêu cầu vặn nhỏ bớt vì đang giờ làm việc. Lúc
nào anh nghe khúc Presto của mùa hè cũng thấy xốn xang rưng rưng. Tắt
nhạc ở khúc ấy, bước qua phòng bên. Không hiểu anh choáng váng hay do
nhân viên lúi húi xếp gì trong góc cửa đẩy cánh mở, lúc quay ra anh va
trán vào cạnh sắc của cánh cửa. Cái đầu ăn trầu. Tá hỏa tam tinh. Ôm
cái trán qua bệnh xá, nằm cho người ta khâu hai mũi. Anh chàng y tá nói
tuần nữa qua tháo giây, chắc chắn có vết sẹo trên trán. Anh trở về
phòng bảo cái anh chàng đã gián tiếp gây tai nạn : Trước khi tôi rời Đà
Lạt anh để thẹo cho tôi làm kỷ niệm nghe. Trong khi ôm đầu chạy trong
mấy hành lang, gặp người hỏi thăm, mặc dù xây xẩm anh còn kịp đùa: đánh
lộn, đánh lộn.
Suốt
ngày qua cái đầu đau đằng trước, đau đằng sau. Mất chút xíu máu ngây
ngất bàng hoàng quá trời. Một thứ say thiếu máu. Sáng nay hơi hơi tỉnh.
Chiều nhận được thư. Đọc hai lần, chậm rãi, ngay tức khắc. Rồi đi ra
ngoài nắng. Rồi đi dài ra khỏi vòng trường. Xuống khu vườn ở dưới lũng
nơi đặt hoa viên để cho sinh viên sĩ quan tiếp thân nhân vào các ngày
nghỉ. Vườn trong mùa mưa gai góc mọc đầy. Rồi đi ra ngồi dưới tàn trắc
bách diệp của cái quán trông sang bến xe, trông sang cái trạm gác đầu
cầu đêm nào có lửa cháy để sưởi, ngoảnh đầu thấy bờ hồ, ngửa mặt thấy
dốc lên Hòa Bình, ngó ngoái thấy những hàng cây xanh um của những con
đường đã đi qua. Cùng với Tòng, nhậu. Nhậu và ngậm miệng. Chiều xuống
ớn lạnh. Khỏi cần lá ngô đồng. Nội cái thư em đủ cho anh thấy mùa
thu. Lại còn thêm cái chớm gió ngoài hồ thổi tới. Dập hết khúc Presto.
Dập luôn bài thơ anh vừa viết sáng nay, trưa nay về ngôi nhà đỏ và mùa
hè rực rỡ, mới chỉ được mấy câu:
Ngôi
nhà đỏ trên đồi trăng hồng tía
Cửa
thiên thanh nóc xoãi ngủ sậm nâu
Cây
biếc lục trời tím than núi sững
Phố
rực vàng huyên náo những triền sâu
Hạ
đen thắm ngỡ ngàng đôi mắt sắc
Nắng
khắp ngày trải tấm thảm ham mê
Mở
rộng cửa, mở thời gian ủ dột
.......................................................
Quãng
lặng
7.10.1972
Bid
me not speak, bid me still
because
my secret is my writ;
to
show you all my heart would be my will
but
fate does not permit.
In
time dispels the sun's eternal course
the
gloomy night, and it submits to dawn;
the
rigid rock itself must burst perforce
that
hidden wells break out into the thirsty law.
In
friend's embrace all agony is healed
and
weary souls can be restored to hope;
alas,
an oath keeps my lips ever sealed,
and
but a god has power to break them open.
Goethe
Em
đọc bài thơ có thấy ghê không?
chép
em đọc chơi bài nữa, bù không có thơ của anh. Bài còn khiếp hơn.
You
whom I don't tell that I lie awake
at
night and weep,
whose
being, like a cradle, makes
me
tired and tender;
you
who don't tell me when for my sake
you
cannot sleep:
what
if we endure this splendor
and
let it ache
without
relieving?
Look,
when the lovers start
confiding
the thoughts of their heart,
how
soon they're deceiving.
You
make me alone. You only I can exchange.
And
while it is you, then a noise that seems strange,
or
it is a fragrance without endeavor.
All
whom I held in my arms did not remain,
but
you are reborn again and again:
because
I never held you, I hold you forever.
Rainer Maria Rilke
Nude,
trắc
1.11.1972
Những
ngày này nhộn nhạo tứ bề. Vậy mà anh tĩnh lặng. Quả có thể gọi là vô
tâm. Tuần sau anh đã về Sài Gòn. Cho đến bữa nay vẫn chưa sửa soạn tí
gì. Hôm qua đi gửi thư cho em. Hôm qua trời thật thu với mưa lay bay
từng quãng. Nhớ đến cái đề của em " ngôi nhà đỏ trên đồi trăng hồng
khỏa". Nghĩ thấy cần trổ tài với em, anh viết bài này bằng vần trắc,
dùng làm bài chót cho tập "ngôi nhà đỏ, trăng hồng" (Biến khúc quanh
một bài thơ cổ).
Ngôi
nhà đỏ trên đồi trăng hồng khỏa
Trời
sương lam. Núi ngây rừng gió lạ
Cây
ngà say. Đêm heo hút ngoài khơi
Mùa
ngã độc. Rười rượi buồn cỏ lá.
Im.
Rớt im. Nhánh khô ròn. Bước động
Ngói
lệch xô bàng hoàng che giấu mộng
Chàng
quay lưng mỏi mệt ngắm phố chìm
Cửa
đóng bít. Rào vây. Mắt ngõ trống
Trăng
chợp lay. Nhỏ to vẳng tiếng hát
Mùa
hạ vàng rực rỡ và bát ngát
Đêm
ơi đêm còn khúc điệu nào chăng
Vỗ
về chàng. Trời yếu đau ngăn ngắt
Mỗi
bực cấp, bước leo đầm hiu quạnh
Thở
chênh chao. Hồn tả tơi sóng sánh
Đá
muộn phiền tẩm thẫm mầu lãng quên
Lối
mờ tỏ. Mưa giông khuya ngất tạnh
Hãy
đắm đuối, chàng Orphée khờ dại
Đừng
ngoái nhìn. Đừng ngoái nhìn. Bờ bụi
Trổ
đầy gai. Vườn hoang phế. Ảnh nàng
Trôi
tan tác trong hành lang rợp tối
Cửa
đang ngó trong nỗi mù dằng dặc
Hoa
hé trông gửi niềm riêng nghi hoặc
Đừng
ngoái nhìn. Đừng ngoái nhìn. Chàng si.
Trăng
ngỡ sáng. Trăng ngậm sương trầm mặc.
Mùa
trở gió, nhà nín hơi lẩn lút
Đồi
rì rào. Cây sượng sần lá trút
Đừng
ngoái nhìn. Nàng núp trốn cùng đêm
Đừng
ngoái nhìn. Trăng khỏa thân xanh mướt
Crusoé
về chốn thị thành
Liên,
đêm,
14.11.1972
Vẫn
viết cho em từ Gia Định. Ngày mốt mới đi làm lại. Cuối tuần sẽ ra bưu
điện kiếm thư. Ngày mai đi cắt tóc cạo râu. Còn tắm thì ngày nào cũng
tắm rồi. Anh không nhớ là Crusoé ở đảo bao lâu. Riêng anh sau hai năm
rưỡi sống ở Đà Lạt, và những ngày cuối cùng, anh trở về ngơ ngáo - xa
lìa như người tỉnh một giấc ngủ hai chục năm, đúng như ý muốn. Gặp lại
người thân, bạn bè thấy vẫn vậy - nhòa bớt đi ở mình. Cái xóm ở 18 năm
vẫn vậy. Xóm anh ở như cái túi, người và vật vẫn y nguyên. Những đứa
trẻ lớn lên, những người lớn già đi. Bọn con gái lấy Mỹ trở về lo làm
ăn lại, bọn con trai đi lính lừ đừ về thăm, bọn nhỏ hơn ghiền ma túy
làm du đãng. Đây là xóm lao động bình dân không lịch sự như xóm nhà em.
Nhà vách ván nên tối ngày anh nghe nhạc từ máy nhà hàng xóm, nghe tivi
nhà trước nhà sau. Anh không thể nghe nhạc của anh. Anh có một chiếc
võng trên gác ván phía đằng sau để nằm lúc sáng sớm và chiều tối, đêm,
trông thấy một khoảng trời một bóng cây xanh giữa các mái nhà. Khu này
anh cũng đã ở từ năm 45, cô Liên ở đây những năm ấy. Sáng nay anh đi
vòng vòng những con đường cũ nhận ra những nhà cũ và mới, các lối xóm
xưa được sửa sang dung mạo. Ở đây sót lại một cô bạn học từ năm lớp ba
lớp nhì, đã thành bà - tất nhiên. Hai người biết nhau vậy nhưng chẳng
có gì nói. Nhìn cô bạn học cũ, anh phát giác em chơi với anh mệt vì anh
không còn sống tới mà lui. Chập chờn như chiếc bóng. Rõ ràng thế. Sống
tới với anh bây giờ chỉ còn nẻo duy nhất : điên. Anh không ưa. Em cần
sống tới, khổ cho em.
...................................................................................
Mấy
bài thơ về ngôi nhà, già Vượng khăng khăng yêu cầu ký tên "thật". Anh
nhường. Nghĩ cho cùng cái sự anh muốn thủ tiêu hắn cũng chẳng ra quái
gì. Anh đã biết từ lâu nó sẽ đeo dính lấy mình mà. Nó chẳng là của
mình, nó là của kẻ thù và bè bạn mình nữa. Kẻ thù thì chẳng hệ, nhưng
bè bạn đành nhường. Về đến nhà thấy quyển sách mới của Doãn Quốc Sỹ gửi
từ tháng trước - Quyển Cúi Đầu - với một truyện đề tặng. Trông thấy cái
tên in trên truyện của người khác nghe lạ lạ ...
Công
bố ngày 01/03/2012
pnfoto
Quan
Âm, Tề Thiên Đại Thánh
Đà
Lạt, 26.12.1972
Từ
chiều hôm qua anh bắt đầu công việc sửa soạn rời Đà Lạt. Trả mùng mền,
áo lạnh cho nhà kho, trả sách mượn cho thư viện, thanh toán tiền bạc
với Hội Quán Sĩ Quan ...v...v... phải đi khắp các phòng sở cho người ta
ký nhận là mình không có mắc món nợ gì của trường, có hoàn tất đầy đủ
thủ tục mới có thể rời đơn vị được. Thật là mất công, phải hôm nay nữa
mới xong. Trả sách thư viện, anh đã đền 450$ để giữ lại tập Rubaiyat
của Omar Khayam, tập thơ say của ông thi sĩ Ba Tư hồi thế kỷ XIV. Bản
in quý, có tranh vẽ, thật đẹp không ngờ lại rẻ thế - nhờ là in hồi đầu
thế kỷ, truy trong mục giá đề có 95 xu thôi. Anh đã giữ tập thơ này cả
năm nay, gối đầu giường đọc hoài không chán. Đó là tất cả kỷ niệm hai
năm hơn ở trường Võ Bị.
Hôm
qua cũng say một bữa khá ở nhà người bạn không con. Lúc say vẫn thấy
nửa đầu phía sau có cái niềng sắt nịt bóp. Nhớ hồi xưa đi học nghe ông
thầy giảng về Pascal nói Pascal cũng mắc bệnh đau đầu, để có thể suy
nghĩ được Pascal đã phải làm cái niềng có chốt vặn siết đeo trên đầu,
mỗi khi nào đau quá thì siết cho cái niềng bóp giữ thật khít. Chẳng
hiểu có đúng không, hồi học anh cho là ông thầy bịa chuyện tán tụng vì
quá mê Pascal. Bây giờ anh tin. Đau đầu mà cứ nghĩ kiểu Pascal thì quả
là dại. Việc gì nghĩ lẩn thẩn cho mất công. Để trị cái con khỉ lí lắc
phá trời phá đất là Tôn Ngộ Không, Phật Bà Quan Âm cũng tròng cho nó
một cái niềng sắt bao quanh đầu. Anh là Tôn Ngộ Không, còn không hiểu
ai là Phật Bà Quan Âm? Em đoán xem.
Tuy
nhiên về phòng, nằm thẳng cẳng, khỏi cần mùng - thành thói quen rồi -
ngủ say. Không uống thuốc, rất ghét thuốc. Vạn bất đắc dĩ anh mới dùng
thuốc. Sáng nay dậy thật sớm, thấy êm. Bây giờ thì lúc nào cũng thường
xuyên thấy ê nặng nửa đầu sau nghĩa là bị cảnh cáo coi chừng có đeo
niềng sắt đấy, hễ bị niệm chú là lăn lộn bưng đầu hết thước chữa. Chiều
bữa qua nhận được thư ngày 24 của em mới biết nửa tháng nay đau không
hay trời đất cũng là vì bị "hầm hè". Đêm qua ngủ ngon chắc là nhờ không
bị niệm chú.
Sau
đây là công trình mấy ngày lạnh:
1.
Nàng
nghe hết thẩy âm thanh trong trời đất
Hết
thẩy dư vang khuất lấp đời ta
Nàng
hóa thân một tiếng ngã rớt
Bay
dò thăm thẳm suốt hồn ta
2.
Tay
xòe đóa sen
Mày
nổi vầng đêm
Nghiệt
súc, trời lồng lộng thanh thản
Mỗi
búp tay mỗi đỉnh non
3.
Mắt
khép mặc tình ta nhẩy nhót
Nhan
dâng hồng nguyệt vợi thinh không
Ta
cơn trốt bụi sao cuồng khấu
Hạnh
nguyện nàng rong ruỗi chập chùng
4.
Hỗn
mang trời biển sơ khai
Xuân
thu chia giạt bến mê dài
Vời
xa gió ngọn chan cô tịch
Ánh
cười rạng nở phôi thai
5.
Dưới
núi nằm sấp hầu nghe chừng
Hồn
tinh hang hốc bặt hồi âm
Giấc
đá nghiêm sâu vỡ thoát kiếp
Mộng
ẩn thâm u bồ tát nàng
Chắc
rồi còn nữa. Tán hoài không hết. Chẳng rõ em ngán chưa? Ngán thì bảo.
Noel vui không? 25 tính sang thăm nhưng ngại lỡ tầu như 24. Tối 25 thì
gió đùng đùng lại thôi. Cả ngày làm thơ miết....
Trái
tim ngậm trong miệng
3.11.1972
Anh
không ngờ em biết vẽ mà lại vẽ đẹp nữa. Em không thấy em hơn hẳn anh
một nguồn thú tuyệt vời sao? Vẽ là cái món anh dở nhất. Dở không thể
tưởng. Hồi đi học cái môn dessin là đứng bét. Ngay như anh học toán mà
chẳng bao giờ anh vẽ được một đường thẳng cho ngay dù có thước, chẳng
bao giờ vẽ nổi một vòng tròn cho khít dù xài compas. Tay vụng. "Hậu
đậu" lúc bé cứ bị nhà mắng vì hay làm vỡ đồ vật, giống như anh chàng Le
Petit Chose vậy. Viết là dở nhất, vẽ và nhạc là tuyệt. Anh thích chơi
với mấy người vẽ và nhạc là vì anh coi trọng họ hơn là người viết. Khi
em vẽ, em vừa làm việc bằng chân tay, vừa làm việc trên chất liệu cụ
thể, những chất liệu khó bị làm cho hư ngụy (chữ nghĩa ai muốn hiểu sao
thì hiểu, chứ còn đỏ là đỏ - xanh là xanh) và những gì em tạo ra nó
hiện hình sờ sờ nguyên vẹn là của em. Anh chơi rất thân với Duy Thanh -
Ngọc Dũng, phục tài một hồi - nhiều năm trước - bị lây anh cũng đòi vẽ
nhưng chịu chết. Chẳng thể nào anh tạo ra cái hình thù gì cả.
Hôm
kia ra phố trông thấy cái bìa của Duy Thanh là anh nhận thấy ngay tức
khắc. Nét vẽ của mấy người bạn anh để đâu anh cũng nhận ra. Anh yêu sự
giản dị, khỏe mạnh, trữ tình của DT không thể tưởng. Kỳ triển lãm đầu
tiên của anh ấy ở SG năm 55 phần lớn tên tranh là anh đặt tên, anh còn
nhớ vài cái tên như: Đường hoang đầy - Biết gửi về đâu - Chiều với ngó
đỉnh cây - Mai về tình thơ hôm nay. Em có thấy cái tranh vừa rồi của
anh ấy dễ thương không? Cái nền hồng thật mát. Mầu hồng trong các bài
thơ của anh là cái mầu hồng đúng như thế. Còn cái hình dòm anh có cảm
tưởng anh ấy nghĩ đến anh, vẽ anh. Cái đầu nhìn nghiêng của đứa con
trai giống hệt mấy cái anh ấy vẽ anh trong tập Tôi Không Còn Cô Độc.
Đứa con trai hôn trái tim có đường rạch vu vơ phía sau và những giọt lệ
đá xanh (hay những chiếc lá?). Anh có chủ quan không? Anh mà hỏi anh
ấy, chắc chắn sẽ được trả lời lừng khừng: Chắc thế, không nhớ nữa. Bữa
nào em gửi cho anh xem một bức vẽ của em đi.
Công
bố ngày 25/02/2012
pnfoto
Mais
désespérément
Sài
Gòn 4.11.1973
Anh
cũng vậy. Anh cũng tuyệt vọng.
....................................................................
Mặc
dù nghĩ nhiều phần em không đến, chiều nay anh vẫn chờ, đứng dáo dác
ngoài cổng cho đến khi người ta kéo rào sắt cô lập khu vực và cổng Vườn
Thú đóng. Vào đọc lại thư em. Rồi mở thư viết tiếp. Anh có ý định đưa
thư này trao tay như em vẫn làm nhưng số nó nặng nợ với bưu điện. Chốc
về ăn cơm anh sẽ bỏ hộp thư vậy. Em tránh gặp anh để khỏi làm phiền,
tránh viết cho anh này nọ để anh khỏi đau đầu, giống hệt như anh vậy,
anh cũng lẩn tránh thế. Thật tâm có lúc anh mong em quên được anh cho
em nhẹ mình, em cũng nghĩ thế phải không? Nhưng thôi không nói những
chuyện tầm phào ấy, em lo chữa bệnh xong đã. Ưu tiên một đấy. Còn anh
cứ đành làm thơ và viết nhăng. Sáng nay ngồi trực anh làm nhiều việc
lắm. Trước tiên là làm phần mở đầu của một bài thơ có tựa "lập dị" Mais
désespérément. Mais désespérément, anh mê mấy cái âm vớ vẩn đó và sẽ
làm một bài thơ xuân theo commande của Mai Thảo cho Văn. Em thừa nghe
thấy bài thơ thế nào, nó sẽ quay quanh cái thème "khi em trở lại", đại
khái như:
Khi
em trở lại, anh mơ hồ giữa rừng tuyệt vọng thao thức
Những
lao xao trăn trở gọi mùa
Khi
em trở lại anh mở bừng mắt giữa chiêm bao bối rối
Vô
vàn cô đơn ấp úng
Sài
Gòn, 5.11.1973
.............................................................................
Còn
lẽ nữa, nếu em để ý từ hôm sáng thứ bẩy đó em thấy, anh mất bình tĩnh.
Anh đang lơ lửng giữa không trung. Anh đang bắt đầu "Mắt Bão" mà. Mỗi
lần bị hớp vào trong trí tưởng tượng là y như rằng anh múa may kỳ cục.
Em biết không anh phải tạm đổi Mắt Bão thành Kẻ Bại Vong hoạc Kẻ Vong
Tình. Có thể sẽ còn đổi nữa. Và trước lúc em ngồi trong ghế bành, anh
phải bỏ ra ngoài vì chịu không nổi cái đầu óc. Trên tờ giấy ghi anh mới
chỉ viết nổi hai giòng: La Narratrice - Thành phố cũ. Anh cố nhìn sự
vật bằng mắt của em, của người đàn bà. Quyển sách sẽ thành hình trong
nhãn quan ấy. Điều anh chưa từng làm. Em thấy anh dáo dác có phải
không? Gặp em anh sung sướng nhưng cũng cực nhọc vì sự vụng về lơ đãng
của mình. Sáng chủ nhật làm thơ, dịch thơ, viết thư sung sướng nhất.
Hóa ra em cứ như bị "tế sống", anh buồn thêm vì thế. Đó là sự sung
sướng hết sức ích kỷ. Em cũng thấy vậy phải không?
Em
đang làm nhòa mình để đến với anh và anh đón em bằng cách đẩy em bật
trở lại.
Ôi
thôi, nói hoài chẳng hết. Anh xin lỗi, cám ơn, xin lỗi hoài không hết.
Thành ra "nghề của chàng" là xin lỗi.
Sài
Gòn, 22.11.1973
Sáng
nay trời trở lạnh. Anh bắt đầu thấm, cảm cúm, khan cổ. Đi làm mặc áo
dài tay. Nghĩ em đến bữa nay hoặc mai. Nhưng cũng nghĩ luôn là em thấm
mệt, thấm trận mưa bữa đó. Đúng không? Buổi sáng làm xong bài thơ bỏ dở
từ đêm chủ nhật em tới. Chép cho em đọc đỡ buồn trước khi chép cho Văn.
Mais
désespérément
Khi
trời tuôn những trận mưa mù
Gió,
gió quỷ quyệt
Qua
những vùng xanh biến tích
Gió,
gió hú trời lưu lạc
Buổi
tàn đông
Mờ
bạc sông xa
Đứng
giữa cỏ hèn giá
Ngọn
kiêu trơ
Rụng
cuống lá chót
Ngã
trên đất mủn rời
Khi
chỏm núi cao tạc tượng ác
Giấu
mặt mây đùn
Mặt
lở lói phế khuyết phô cổ đại
Rừng
trăn trở lao xao
Mùa
cay nghiệt
Chim
nào sống sót
Ngậm
tiếng than sau cùng
Giọt
nắng hè rực máu
Đồng
lụt bão bải hoải mênh mông
Nước
cuốn tuyệt vọng
Con
thú nào buốt cóng vẫy vùng
Giữa
mắt chiêm bao thức
Em
trở lại, bắt buộc trở lại. Em vô vàn cô đơn ấp úng
Dù
mùa xơ xác tan hoang
Em
trở lại hãi hùng thất sắc
Lửa
chụm cành mục lìa
Cành
góp lượm
Nhánh
trụi gẫy
Khóc
mịt mờ nước mắt dàn dụa
Trong
mưa khép nép bình minh
Em
kêu: em trở lại em trở lại
Thấy
không lửa đơn sơ lung lay
Phụt
tắt
Lửa
xanh xao rồi xỉu ngất
Theo
gió bay bờ bãi tiêu sơ
Em
trở lại , bắt buộc trở lại. Em biết bao khốn đốn
Lập
cập ngoài lau lách tả tơi.
Em
trở lại run rẩy cùng cực
Những
lối mòn bối rối gió mê man
Nín
lặng tha ma nín lặng khắp
Nơi
xóm làng nơi phố phường
Nơi
trốn lũ
Nơi
mộ địa bằn bặt khóc
Em
kêu: em trở lại em trở lại
Thấy
không nổi dậy những hoa phô
Ánh
sáng khiếp đảm tươi
Nhắc
nhở nhắc nhở mãi
Mạch
ngầm ứa lệ lộc non nhú
Sinh
huyễn đời côn trùng
Bóng
trời tá hỏa trầm
Bóng
trời xanh hoảng hốt
Khúc
hát vang lừng xuân tự ải
Khi
sông gọi biển trời gọi mùa thầm thì anh gọi em
Giải
sông trắng lấp trời, biển vỗ ru huy hoắc em trở lại
Hãy
ẩn mình trong chấn động tàn rơi
Hôn
em. 12g15'
Công
bố ngày 20/02/2012
pnfoto
Khúc
cầm xanh
Đà
Lạt, 27.10.1972
Đảo
xa,
Trong
cuốn băng có một mặt của Bach và một mặt của Beetho. 5 khúc của Bach
anh chọn cho em nghe đều là 5 khúc anh thích và thường nghe vào sáng
sớm hoặc lúc chiều bỗng rực hiu quạnh. Khúc dạo mở đầu tưng bừng. Khúc
đàn dây du dương ngọt ngào (khúc này trích trong suite số 3 của Bach -
đoạn 2) dàn nhạc do Pablo Casals hướng dẫn. Tên Pablo Casals có nhắc
nhở em nhớ gì không? Espagnol, tay đàn đại hồ cầm nhất thế giới vừa ăn
mừng sinh nhật thứ 90 năm ngoái năm kia gì đó. Tất cả các tay kéo đại
hồ cầm trên thế giới đã kéo nhau đến tụ họp, mừng tuổi cụ, mỗi người
mang theo cây đàn của mình và hòa tấu cùng với cụ. Pablo này cũng vĩ
đại như Pablo Picasso bên hội họa. Hai Pablo năm 7, 80 tuổi đều còn
nồng nàn và đều lấy vợ, vợ khoảng 20 tuổi. Một người vẫn còn kéo đàn và
một người vẫn còn vẽ. Anh có được nghe một bộ đĩa quý gồm những tác
phẩm của Bach do Casals tình cờ lục kiếm thấy, một mình Pablo đàn và
thỉnh thoảng nghe nổi giọng ngâm nga của Pablo theo tiếng đàn của mình.
Tuyệt. Em có thích tiếng đại hồ cầm không? Anh mê. Đêm qua anh đã thu
vào băng 7 biến khúc cho Piano và đại hồ cầm của Beetho trên một thème
của Mozart nhưng lại phải xóa đi vì thiếu chỗ. Nếu em thích lần
sau anh mua cuốn băng 90 và sẽ thu cho em nghe những khúc đại hồ cầm
của Beeth. Anh cũng có một cuốn băng ru mình ngủ. Pablo Casals độc tấu
những điệu ru ngắn.
Khúc
thứ 3 - Sleepers awake - cũng như khúc trám sau Sonate của Beetho
- Jesus, Joy of Man's desiring - có tính cách tôn giáo. Tuy nhiên nghe
thoáng, bổng, mát mẻ và trầm tĩnh nhường nào. Có phải không em? Nhưng
tuyệt nhất là khúc Toccata and Fugue. Anh nghe hoài không chán những
Fugue của Bach. Tuyệt đỉnh nghệ thuật của Bach và cách viết Fugue
(nghĩa là có bao nhiêu giọng đều cùng trổi hết vẻ của mình, tưởng như
ganh đua hỗn độn mà hòa hợp tài tình) là cái Bach mang đến cho âm nhạc.
Nghe Fugue mới thấy tràn trề, yêu đời, nồng nàn, cởi mở nghĩa là đúng
như em nghĩ " hạnh phúc túy lúy". Nhưng em nhớ, Bach mập lắm "túy lúy"
mà vẫn vững vàng oai vệ không hề "lảo đảo" "hụt hơi" "chân nam đá
chân xiêu" thảm hại đâu. Em nghe kỹ xem.
Trước
khúc Toccata and Fugue, là Little Suite. Đúng là little. Nhỏ nhẹ, dễ
thương, gọn gàng, giản dị hết sức. Nhưng đâu có kém đằm thắm. Bach
thường viết ngay lập tức dễ dàng những exercices để dậy con. Chắc đây
cũng là bài Bach viết buông bút, không chút cầu kỳ.
Chỉ
có thu đến Beeth là anh mệt. Đêm qua anh đã thức đến 2 giờ sáng chỉ vì
loay hoay chọn bài. Thu xong xóa, rồi nằm nghe lại những bài định chọn,
chừng mệt thiếp anh trùm mền ngủ luôn khỏi giăng mùng. Sáng nay ở Hội
Quán về, thấm mệt, mắt mờ, nhưng cố thu cho xong. Khất hẹn hoài lại bị
riễu là ba đía. Mới đầu anh chỉ tính thu toàn Bach cho em, nhưng cả hai
mặt bande lại dư mỗi mặt vài phút.........
..............................
Rồi
anh sẽ thu cho em Sonate à Kreutzer để em so sánh. Cũng vẫn chỉ hai cây
đàn, nhưng viết về sau này với đầy đủ đặc tính của Beetho - kỹ thuật
cũng như xúc cảm - Em có đọc cái truyện ngắn của Tolstoi lấy nhan đề
bài Sonate này chưa? ( Anh thì chưa đọc vì anh vốn ghét Tolstoi)
Tối
qua thu nhạc, nghe no - kể từ bữa ốm dậy - trông cảnh cũng khác thường.
Trời mưa lây rây, chớp lóe thật nhiều. Khoảng 10 giờ xuống Hội Quán
uống cà phê với Cường trở về, cái áo khoác dầy em đã từng trùm, bám
ướt. Ho lụ khụ, uống thuốc như ông lão. Nửa đêm mưa dứt, trăng xanh lè
chiếu vào phòng. Thấm lạnh. Tưởng thế nào sáng dậy cũng có chầu khặc
khừ. Vậy mà 6 giờ sáng đã nhỏm dậy, nghe trước Khúc Mùa Xuân rồi mới đi
ăn sáng. Mệt, nhưng là cái mệt của người đã khỏe.
Đà
Lạt, 30.10.1972
........................................................................................................
Sáng
nay trở dậy 05 giờ sáng. Vừa để nhạc thu vừa viết cho em đây. Bây giờ
là 7 giờ, đã có nắng. Đã thu xong mặt gồm mấy cái Sonates cho cello và
piano và đang mở nghe lại. Còn mặt kia sẽ thu Sonate à Kreutzer. Chắc
ngày mai có thể đi gửi cho em cùng với thư này.
Cùng
với những ngày thu này, chắc là anh sẽ đầy rượu chát và nhạc. Nghe
Beeth no nê. Trưa chủ nhật ở phố về, mua kim mới, anh cũng đã nằm nghe
suốt buổi cho đến giờ hẹn với hai vợ chồng người bạn. Sonate à Kreutzer
khỏi nói em nghe cũng sẽ thấy rõ cái chất của Beeth. Riêng mấy cái
Sonates cho cello và piano, anh đã chọn cho em mấy bản thủ thỉ dễ chịu.
Sonate Op. 69 vào cái thời Beeth còn chịu ảnh hưởng của Haydn, Mozart,
chưa phá. Sonate Op.102 số 1 đã thấy cái mầm mống của những tác phẩm
đặc Beeth sau này. Kế đó là 7 biến khúc trên một thème của Mozart là sự
hòa hợp thú vị. Em biết Mozart là một tâm hồn nghệ sĩ thuần trời cho,
bay bổng tự nhiên không hề có chút vướng mắc, nghe Mozart chẳng hề thấy
bợn chút bụi trần. Chỉ vào khoảng cuối đời, ở mấy cái symphonies
39-40-41 của ông mới thấy tỏ lộ tính bi thảm của trần thế. Beeth là một
tâm hồn đối cực, lãng mạn hùng vĩ, đó là con phượng hoàng bị tên ghim
đầy mình vẫn bay vút được đến chín tầng trời tung tiếng kêu thảm thiết
bồi hồi xuống nhân thế. Mozart chính thống trữ tình, Beeth chính thống
lãng mạn. Beeth khép mình vào cung bậc của Mozart, đẩy sự tung tăng vô
tư của người trước vào những lối nồng nàn hệ lụy. Rồi anh sẽ thu tiếp
cho em nghe thêm 12 biến khúc khác cũng trên một thème khác và những
biến khúc trên một thème của Haydn. Em hãy lắng nghe tiếng cello- trầm,
nặng, đầy nam tính. Em hãy nghe lúc vào khuya, lúc hiu quạnh nhất. Em
nghe và cam đoan em không phải thở đâu. Em sẽ thiếp đi trong bàng
hoàng, trong heo hút. Em sẽ nghe như anh đã nghe trong những đêm lồng
lộng của anh đây.
Anh
cũng gửi theo cho em bài Tạp ghi thứ 2. Bài thứ 1 anh không có. Từ ngày
ấy anh cũng chẳng viết thêm bài nào nữa. Tửng tửng hoài anh cũng đã
chán. Anh sẽ nghiêm trang hơn. Để viết quyển truyện tình của anh -
không cứ bị em chê hoài, kỳ quá. Nghe em đọc bài của H.P.A xong chê anh
bậy, bậy, anh lại thấy thích mới chết. Bởi chính anh đọc bài ấy cũng
thấy ngộp.Thường anh chẳng hề chú trọng coi xem người ta nghĩ gì về
mình, phê bình gì về mình, bởi mỗi lần ngó thấy anh đều thấy như mình
bị đóng đinh. Anh đã là như thế nhưng anh còn có thể khác chứ. Sao cứ
bắt anh như vậy hoài. Cho nên anh chẳng bao giờ xúc động lâu về những
điều đàm tiếu, thị phi hết. Em đọc bài Tạp ghi chắc thấy rõ khởi từ đâu
anh viết nó. Phải không?
Thôi
bắt đầu chóng mặt. Ngừng đây. Viết cho anh như anh đang viết cho em.
Công
bố ngày 07/02/2012
Hải đảo
Trên
biển mù sóng cuộn
Ngày
lộng tuôn như máu loang khô
Sóng
thảng thốt dập vùi hải đảo
Cửa
ngàn trùng gió mở toang
Nâng
niu máu rỉ cườm tay nhỏ
Thời
khắc câm tiếng nỉ non
Hải
đảo xa vời em
Trên
miền non cao rừng rú
Gió
gào giận khốn tù
Trong
cõi mộng hung tàn
Một
mùa đông dài bão táp
Đêm
qua ác điểu đậu cành khuya
Thả
rớt trái tim ác độc
Trong
một tiếng tang thương
Đêm
qua gió cắp mộng lên non trốn chạy
Rồi
gió hú van
Trong
hành lang tối ám giờ lâm tử
Hải
đảo xa vời em
Trời
chuyển màu chớp xé
Cánh
chim bay cánh chim bay
Vào
mùa hư không trôi nổi
Khi
bóng đảo chìm
Tâm
Vang
vang bài thơ trăng
30.09.1972
Mon
ile,
Đã
hết tháng chín. Thêm bài "Ngôi nhà đỏ" nữa. Thế có lãng mạn quá không?
Bài thơ thứ ba, thứ tư nếu kể cả bài Đảo. Hình như còn nữa. Giống như
họa sĩ đứng trước ngôi nhà vẽ vài chục bức, với màu sắc ánh sáng bố cục
thay đổi. Giống như nhạc sĩ có một cái "thème" và nhiều "variations".
Chưa bao giờ anh nghe mình du dương lạ thế. Anh nghe vang hoài "ngôi
nhà đỏ trăng hồng..." và anh chỉ việc thêm vào chữ chót rồi theo rõi cả
ngày, cả tuần những lúc quạnh hiu. Đã có trăng hồng hạ, trăng hồng lạ,
trăng hồng lả... Còn những trăng hồng gì nữa anh sẽ thấy. Có thể anh
viết hết cả xấp giấy này cho những bài trăng hồng chưa chừng. Ráng mà
đọc nghe.
26.10.1972
Ngôi
nhà đỏ đồi trăng hồng vằng vặc
Cửa
xanh xao. Xoãi ngủ mái nâu.
Cây
biếc lục. Trời tím than. Núi sững.
Phố
bật vàng tuôn chảy dưới triền sâu.
Hạ
đen mướt long lanh đôi mắt sắc
Cơn
sốt ngày. Nắng trải thảm ham mê
Đẩy
tung cửa nhốt thời gian ủ dột
Gió
miên man lùa rạng rỡ đêm hè.
Chàng
thở vội hương bay trên đầu dốc,
Ngực
cồn cào. Trống hụt những âm quên
Bực
đá gọi - tinh sương mùa thảo mộc
Gọi
trắng trong. Lãng đãng. Chuông rền
Trên
lối tưởng, đứng ngây. Mắt ứa lệ
Đêm
xưa, trời si dại, biệt tăm.
Tường
giãi im. Nàng ngửa đầu, chợp mộng.
Thềm
hoang đầy. Xanh miết miết trăng.
Chốt
lỏng gẫy. Cửa ngỏ không. Mờ hoặc
Chàng
là ai? Ghế mộc quỵ rời chân.
Trăng
dọi lối quanh co. Ngách lắng tiếng.
Chàng
là ai? Chim kêu lạc. Tần ngần.
Nàng
hớt hải ngoài vườn. Ngày huyễn ảo.
Thu
lượm cành. Đốt lửa. Xốn xang trăng.
Nhà
lảo đảo trên vòng xoay đám hội.
Gió
khắp đồi. Lửa rực sáng như băng.
Mấy
bài thơ về ngôi nhà này chừng đăng anh sẽ đề là "Biến điệu quanh một
bài thơ cổ" Anh nhớ bài thơ của Thôi Hộ:
Tích
niên kim nhật thử môn trung
Phấn
diện đào hoa tương ánh hồng
Phấn
diện kim niên hà xứ khứ
Đào
hoa y cựu tiếu đông phong.
Và
anh sẽ đề tặng vợ chồng Nguyễn Tuấn Kiệt - vì chính họ mới là chủ nhân
của ngôi nhà đỏ.
Quyển
tiểu thuyết sẽ viết trong quá khứ
25.10.1972
Đảo
xa,
............................................................
Anh
vẫn chưa viết một chữ nào. Cái máy chữ đặt trên chiếc bàn con ngay kế
sau lưng bám bụi, cùng với cái cassette còn lắp cuốn băng Vivaldi nghe
từ hôm bị đụng đầu. Hơn tháng không nghe nhạc, tại mải nghe những lóc
cóc trong đầu mình, nghe những cơn gió lửa và tuyết thổi qua thân mình.
Thật là tơi tả.
Anh
chưa biết là quyển tiểu thuyết sẽ viết ở ngôi thứ mấy. Cũng chưa biết
gọi nó là cái gì. Có hai cái tên có thể tạm dùng được thì bị hư rồi.
"Ung thư" thì đã viết đăng tùm lum, đã đưa cho nxb An Tiêm lấy tiền
tiêu mà vẫn chưa chịu cho in. Bây giờ mà đặt tên ấy nhất định là ông sư
Thanh Tuệ sẽ đòi in và mình chẳng có đồng xu bản quyền nào nữa. Tên thứ
hai là "Nỗi chết không rời" - hồi đi Thủ Đức trích đăng ở Bách Khoa đã
dùng - sau bị ông Trần Phong Giao lấy xài ngang xương cho một tập
truyện của 2 anh em ông Duy Lam mất. Bí ngay từ cái tên. Nhưng thôi cứ
gác đó chưa vội gì.
Truyện
anh định viết là một truyện tình. Truyện tình của hai kẻ không chỉ sống
riêng với nhau trong một thế giới. Họ đều là những kẻ chịu chằng chịt
những ràng buộc với xung quanh và mối tình chẳng bao giờ là của riêng
họ. Họ sống với nhiều người, sống với hư tưởng bao trùm cả một đời. Và
tình yêu sẽ như thế nào trong hoàn cảnh ấy? Anh đang chiêm nghiệm. Câu
truyện tình của anh mang đầy những tham vọng. Nó sẽ cho người ta thấy
những con người, một xã hội và một lịch sử nào đó. Tấn thảm kịch của
hai người cũng là tấn thảm kịch của VN mấy chục năm trở lại đây.
Người
đàn ông lúc bấy giờ gần 40 tuổi, xuất thân từ một gia đình "cách mạng".
Ông bố là một cụ Cử, theo tây học, tiêm nhiễm từ sớm xã hội chủ nghĩa.
Con cái nghỉ hè về làng là cụ bắt đi làm công việc đồng áng. Cụ tổ chức
ngôi làng - mà cụ là kẻ có uy tín và thế lực- theo quan niệm xã hội.
Con của cụ mang tên Tô - Nga - Đại - Đồng. Cháu của cụ mang tên Việt -
Nam - Xích - Hóa. Trong những năm 1925 - 26 phong trào để tang cụ
Tây Hồ, người anh cả trong gia đình bị đuổi khỏi trường học, bị cấm
thi, một buổi chiều đã cắt đứt mạch máu ở cổ tay và chạy băng trên cánh
đồng làng cho đến khi kiệt sức. Nhân vật chính là kẻ đã chạy theo anh
ta trong buổi chiều ấy. Đó là cái background của nhân vật. Đại khái là
vậy. Từ năm 45 anh ta đứng về phe QG và không tin tưởng chút nào -
nhưng anh ta vẫn hoạt động.
Còn
người đàn bà? Đó là một nhà văn. Một nhà văn nữ giới cách đây vài chục
năm, em hãy tưởng tượng. Em có biết bà Thụy An không? Em đã đọc bà ta
bao giờ chưa? Hồi còn ở Hà Nội anh đã trông thấy bà một vài lần trong
thư viện. Đó là nhân vật thứ hai. Họ đã yêu nhau từ ngày xưa và bây giờ
họ gặp lại nhau. Trong thành phố Hà Nội, năm 54, những ngày sau Hiệp
định Genève. Cuối một mùa hè rực rỡ và một mùa thu hoang vắng.
Nhân
vật chính của anh là người đặt chất nổ phá sập Chùa Một Cột vào một
ngày thu. Và một buổi sáng lạ lùng ấy, người ta tìm thấy hắn bị ám sát
chết trong một gian nhà hiu quạnh bên hồ nơi hắn và người đàn bà đã
sống những ngày hạnh phúc đầu tiên trong đời của cả hai. Người đàn bà
biệt tích. Đại cương truyện là như vậy. Có vẻ như truyện trinh thám.
Trước khi Hà Nội được chuyển giao cũng đã xẩy ra vụ án ly kỳ với hai
nhân vật là bà Thụy An và ông Đỗ Đình Đạo. Đỗ Đình Đạo bị giết chết. Đỗ
Đình Đạo không phải là nhân vật của anh. Anh chỉ giữ lại bà Thụy An
thôi.
Chính
yếu là anh sẽ cố sức giữ cho không lạc, mặc dầu những sức lôi kéo và
thu hút ở ngoài, là anh sẽ viết một truyện tình. Mọi thứ khác chỉ là
bầu không khí. Anh sẽ cố sức viết quyển truyện tình này và anh hy vọng
nó sẽ soi sáng cho anh nhiều thứ lắm. Em có nghĩ như thế không? Sẽ
không hề có chút chi anh và em nơi đó, nhưng rồi em sẽ nghe thấy đủ cái
âm vang của mùa hè và mùa thu mình đang sống đây ở đó. Điều quan trọng
là em sẽ nghe thấy, anh sẽ phải làm sao cho em nghe thấy những điều anh
không hở môi, cũng như anh sẽ phải làm cho anh thấy rõ hình bóng của em
mà anh bắt gặp qua những bóng vang ở ngoài. Đầy tham vọng phải không?
Anh hứa anh sẽ không làm biếng và lần này sẽ không bỏ cuộc như từ trước
anh vẫn ưa bỏ cuộc. Anh bằng lòng làm nhà văn thực sự mà. Bởi anh có
làm được gì khác nữa đâu, phải không?
Có
lẽ về đến Sài Gòn anh sẽ bắt đầu làm việc. Những ngày còn ở Đà Lạt, anh
vẫn cứ tiếp tục lững thững rõi theo cái thời tiết khó kiếm lại và chắc
còn lâu mới mong thấy. Và anh sẽ vẫn tiếp tục làm thơ cho em coi. Bình
tĩnh như chẳng có gì đáng kể, mà cứ kể hoài. Phải không em?
pnfoto
Những
bài thơ chưa bao giờ phổ biến,
lần
đầu tiên được công bố trên "Mượn Dấu Thời Gian"
Công
bố ngày 30/01/2012
pnfoto
Thơ
làm trên xe taxi
Trên
taxi trở lại Sài Gòn một mình, anh làm được mấy bài thơ sau:
Bài
thơ dài nhất đời
Lời
nói rụng không cùng
Căn
cớ chi chàng nói mãi?
Liên
hoàn
Chàng
đắm trong một vài phút giây
Mơ
màng đời khánh kiệt.
Tiếp
tục
Em
thấy em thấy
Nỗi
thẳm hiện phô phang.
Tái
tục
Trời
đất nào chứng giám
Khi
ta hoảng kinh phá đám đời ta.
Hậu
Kìa
tóc cỏ phơi mưa
Rì
rào hát lời tận số.
28.09.1973
Công
bố ngày 08/01/2012
pnfoto
Thơ
Tình
Je voudrais que
mon amour meure
et qu'il pleuve
sur le cimetière
et les ruelles où
je vais
pleurant celle
qui crut m'aimer
Mourning the
first and the last to love me.
S.Beckett
I.
Gọi em dậy
Gọi
em dậy trời mờ trên đồi
Hớt
hải mai xa ngựa nẹt đuôi
Lông
bờm mướt, da căng, gõ móng mặt đất nhớ
Mai
còn trăng, úa lững thững tuần trăng.
Trở
về, trở về trên dấu cỏ sương
Gọi
em dậy hoang mang mưa nhỏ
Rã
rượi mai phố xám tường cổ thành
Hào
rêu bèo, cầu đá, tường long lở
Mai
ngu ngơ trăng soi giữa đầm trời
Trở
về, trở về theo luống heo may
Gọi
em dậy ngày còn lạ sảng
Bay
trong vườn hơi hướng đêm thu
Rừng
mắc cở mắt nghiêng tóc lả tả
Mai
tinh mơ chết lửng tay hờn.
Trở
về, trở về trả lốt tịch dương
Gọi
em dậy Gọi em dậy
Nhìn
tuốt chiêm bao cười cợt gió
Đỉnh
núi ngất xanh khắc tình sầu
II.
Chiều lặng thinh ngoài
Chiều
lặng thinh ngoài, chiều thân thiết
Chiều
chưa bao giờ
Như
nụ hôn ủ
Của
thinh không chết điếng
Cây
khờ trong gió chao
Tình
một đóa thắm
Bỗng
một mùa giông
trong
đêm hè khánh kiệt
Náu
mình bên ghềnh đá
Nghe
tiếng thác nhòa
hát
Vi
vu khúc mùa đông
Khiếp
đảm đời kiếp kiếp
Đợi
gió thổi tan chiều
Và
nỗi thờ ơ bảng lảng
Pourquoi
survivre poètes décus
Que chaque verbe conduit au suicide?
A.Bosquet
III.
Thổi biệt mù tới
Thổi
biệt mù tới
Thổi
ta đi.
Chim
kêu líu lo
Trong
bão táp
chẳng
nín.
Thổi
lặng ngắt xứ xôn xao
Thổi
tan vỡ
Hạnh
phúc những chùm lá reo
Đá
mê thiếp
Miếng
hôn đau bằn bặt
Thổi
mờ mặt mũi ta
Lênh
đênh thể dạng.
Đồi
tở mở ngây
Đêm
cồn cào
Lũng
dâng tàn lửa
Thổi
vang huyên náo
Thổi
trống dư thừa
Đốm
sao nhào biệt
Cõi
trời góa
trên
giải sông trầm
Thổi
em đến ta
Thổi
ta mất tích.
IV.
Chúng
ta đứng hong phơi. Mưa dìu dặt. Gió xô vỗ sau lưng, lao đao dưới
vực.
Đứng
mê man như cây ẩm, lá sũng trong tối.
Thành
phố nào đã xa rời ? Bật sáng đèn đóm trong khuôn các cửa nhà.
Thành
phố nào đó ? Đâu bóng chúng ta ? Chập chùng đáy lũng lượn lờ triền
đồi.
Thành
phố không dưng kể lể. Có nghe ? Có nghe nỗi niềm cao thấp chênh vênh
?
Có
nghe biền biệt giữa trời nổi gió ?
Chúng
ta. Này vẫn chúng ta. Từ bao lâu ? Còn chúng ta ư ? Như thể mọi mảnh
gió cuốn. Như thể tẩn liệm trong băng, kết khối. Chàng như tượng đá
trồng sườn non. Giống nàng cô phụ. Nàng cười rộn theo mưa rũ tóc.
C'est
formidable, c'est ridicule, c'est merveilleux, c'est toi ...
Mưa
thêm cũ kỹ. Chúng ta cũng cũ kỹ và huyền hoặc. Thành phố lập lòe rền
chấn động. Những luồng sóng truyền nứt rạn ôm kín. Ruột đá nát. Chàng
thấy biển nhấp nhô hèn mọn. Một mùa mưa cổ kính phiêu bạt theo đêm thu
muộn ru chàng.
Mộng
lẩn vào rừng. Mưa bay tìm lối. Lối nào đâu ? Lối nào đâu ?
Trong
giấc ngủ đầy của sự thể, gió động miền hoang dã. Mộng đâu ? Mộng đâu ?
Gió gọi. Mưa lay. Gọi đứa trẻ lưu lạc giữa chiều nắng quái ngoài đồng,
đứa trẻ bó gối buổi mai bên bờ nhìn hồ sương phủ, đứa trẻ lang thang
theo con chó đói ghẻ lở vừa đi vừa liếm vết thương trưa nắng trên hè
thành phố. Thành phố xụp đổ.
Gọi
đứa trẻ hãi hùng tuôn chạy xa tiếng gọi.
Mưa
còn đó không ? Mưa dìu dặt. Biển sóng nguôi ngoai ôm thành phố lặn
chìm. Chàng đã hư hao và rộn rã. Còn nàng ? Nàng vẫn cười như mưa thấp
thoáng. Nàng vui vầy như mưa và cỏ rối và đêm và trống trải. Phải chăng
?
Nàng
bật khóc như mưa.
Tháng 8.72
Tâm
Công
bố ngày 22/12/2011
pnfoto
Nằm
Võng Những Ngày Cuối Năm
Mắc
võng ngang hai đầu sinh tử
Dưới
trời sương bẩn, lớp mưa thưa.
Cây
yên khuất thần sầu quỷ khốc
Nắng
cạn niềm bải hoải sau xưa
Ngày
choáng váng nôn nao tịch diệt
Năm
hồi sinh chóng mặt im trơ
Đong
đưa sóng thảm chiều im lặng.
Cùng
kiệt trôi rực rỡ bóng thừa.
Mắc
võng bên bìa rừng thâm hiểm
Quạnh
trăm năm, trời đất xanh xao
Chim
bay mỏi, chông chênh sa lạc
Đồng
bãi nghiêng, bằn bặt âm hao.
Lá
phủ rợp, nồng ngây thảo dã
Tình
ơi tình, say mứa chiêm bao
Bổng
chìm heo hút quanh vòm bẫy
Cây
gọi cây, lạnh ngất lửa sao.
Mắc
võng trên đỉnh khuya mờ gió,
Trời
tuôn bay, thấp thỏm đáy sâu.
Đá
quặn ruột, đá hờn kết tụ.
Cỏ
buông hơi, cỏ kén thâm u.
Rễ
níu sững sờ tim cổ đại
Mỏm
khờ hai hớp giấc thiên thu
Thơ
ơi thơ rũ cuồng cơn chết
Lồng
lộng non xa thở tuyệt mù.
Mắc
võng ngang biển gào vô lối
Ào
ào cô quạnh ngõ môn sinh.
Đất
lênh đênh, sóng tàn hơi đuổi
Thốt
tiếng không, đảo dạt lặn chìm
Tình
đắm hoang mang, lời huyễn dụ
Đêm
chưa đêm, vật vã sơ sinh.
Bọt
lả tả, ngày còn biến mặt
Trời
tinh khôi, trắng xóa nhịp kinh.
Mắc
võng trong vườn hoang kiếp phế
Nghe
em về, hấp tấp mê hoan.
Đón
cửa nẻo, lưới giăng bắt mộng.
Lá
xum xuê, xô rạt bàng hoàng
Buổi
khốn lụy đưa chân thảng thốt
Thưở
xa vọng hiện bước canh tàn.
Đừng
khóc. Võng đu ngoài cõi biếc
Chợt
đứt rơi, thoảng tiếng gẫy ròn.
6/2/73
pnfoto
Tắm
Giếng Đêm Trăng
Trời
còn đêm nay còn mãi mãi
Sao
như lệ ướt không muốn rơi.
Hồn
đuối trăng nghiêng trăng bờ bãi,
Thả
đắm dung nhan giữa giếng khơi.
Cười
vắng riêng mình, tuôn nước dội.
Thân
nhẹ mênh mông rực sáng ngời.
Tản
thần em mọc túa hắt hủi,
Xõa
tóc làm ma cợt ghẹo người.
04/10/1972
pnfoto
Attenzione *
Trong trời gió xô mây chạy hoảng
Rừng thông cao như đám ngựa quần.
Ngựa bị buộc cơn giông khô tối
Hí vang rần sóng lớp bạt ngàn
Trăng nhỏ thó nhấp nhô huyễn hoặc
Chạy theo mây thở dốc khốn cùng
Hơi giá ướt đẩy chân bấn loạn
Ngựa lạc bầy đốc chứng hớp trăng
Hú dùm ta còi dài thảm thiết
Mối bi thương nhốn nháo cười hoài
Hú dùm ta gọi nàng lồng lộng
Kìa hố riêng nhào tới té lăn
Tâm
* Tác giả có vẻ như đã viết nhanh bài thơ này trên một mảnh giấy ghi vài lời
" lưu ý " của một hãng thuộc da Italie.
Tác
phẩm đã xuất bản:
Tôi
Không Còn Cô Độc
(Thơ.
nxb Người Việt. 1956)
http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=57367D8BF998BFE28F4ACFC67E616BA6?action=viewArtwork&artworkId=4564
http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=57367D8BF998BFE28F4ACFC67E616BA6?action=viewArtwork&artworkId=4564
Liên,
Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy
(thơ.
Sáng tạo. 1964)
http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=4571
http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=4571
Khuôn
Mặt
(Tập
truyện ngắn, nxb Sáng Tạo 1964)
http://motsach.info/story.php?story=khuon_mat__thanh_tam_tuyen&chapter=002
http://motsach.info/story.php?story=khuon_mat__thanh_tam_tuyen&chapter=002
Bếp
Lửa
(tiểu thuyết)
(nxb Nguyễn Đình Vượng. SG, 1957)
http://4phuong.net/ebook/69754562/bep-lua.html
(tiểu thuyết)
(nxb Nguyễn Đình Vượng. SG, 1957)
Thơ
Ở Đâu Xa
(thơ. Trầm Phục Khắc xuất bản. 1990 . Hoa Kỳ)
http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/ThanhTamTuyen/TTTuyen-amvc.htm
(thơ. Trầm Phục Khắc xuất bản. 1990 . Hoa Kỳ)
http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/ThanhTamTuyen/TTTuyen-amvc.htm
Một
Chủ Nhật Khác
(tiểu
thuyết . nxb Văn. 1975)
Ung Thư
Du Ngoạn Mùa Đông
Tiểu
luận
Sống, Viết
Sống, Viết
Thơ
Thanh Tâm Tuyền
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Phạm Duy phổ nhạc:
Bài Ngợi Ca Tình Yêu
Dạ Tâm Khúc
Đêm
Màu Hồng
Lệ Đá Xanh
Lệ Đá Xanh
Phạm Quang Tuấn phổ nhạc
http://tienve.org/home/music/viewMusic.do?action=viewArtwork&artworkId=390
Nửa Hồn Thương Đau
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Phạm Duy phổ nhạc:
Bài Ngợi Ca Tình Yêu
Dạ Tâm Khúc
Lệ Đá Xanh
Lệ Đá Xanh
Phạm Quang Tuấn phổ nhạc
http://tienve.org/home/music/viewMusic.do?action=viewArtwork&artworkId=390
Nửa Hồn Thương Đau
Tham
khảo thêm về nhà thơ Thanh Tâm Tuyền
Nguyễn Lương Vỵ: Thanh Tâm Tuyền - Âm Vang Khác
http://www.gio-o.com/NguyenLuongVy/NguyenLuongVyThanhTamTuyen.htm
Thụy Khuê: Thanh Tâm Tuyền
http://thuykhue.free.fr/tk06/TTTuyen.html
Bùi Bảo Trúc: Thanh Tâm Tuyền
Nguyễn Lương Vỵ: Thanh Tâm Tuyền - Âm Vang Khác
http://www.gio-o.com/NguyenLuongVy/NguyenLuongVyThanhTamTuyen.htm
Thụy Khuê: Thanh Tâm Tuyền
http://thuykhue.free.fr/tk06/TTTuyen.html
Bùi Bảo Trúc: Thanh Tâm Tuyền
Võ
Kỳ Điền: Thanh Tâm Tuyền, Tỉnh Bình Dương và những ngày dạy học
http://vanhoanghean.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe/nguoi-xu-nghe/910-thanh-tam-tuyen-di-tim-tieng-noi.html
Đặng Tiến: Dòng Thơ Văn Thanh Tâm Tuyền
http://www.xuquang.com/cms/index.php?option=com_content&task=view&id=343&Itemid=48
Dương Nghiễm Mậu: Thanh Tâm Tuyền và những người bạn trước khi có tạp chí Sáng Tạo
http://dungtranho.blogspot.com/2011/02/duong-nghiem-mau-thanh-tam-tuyen-va.html
Khế Iêm: Thanh Tâm Tuyền Nhìn Lại Một Thời
http://thotanhinhthuc.org/tho/Title/hoso_thanhtamtuyen/hs_ttt_kheiem.html
Ngô Văn Tao: Một Chủ Nhật Khác truyện của TTT
http://www.gio-o.com/NgoVanTaoThanhTamTuyen.html
Thường Quán: Vài cảm nghĩ về thơ Thanh Tâm Tuyền
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16432
Hoàng Xuân Sơn: Đọc lại Thanh Tâm Tuyền qua E.E
http://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=C7E3288DB6E8B49FD48ABCC97459BEF0?action=viewArtwork&artworkId=15955
Đặng Tiến: Dòng Thơ Văn Thanh Tâm Tuyền
http://www.xuquang.com/cms/index.php?option=com_content&task=view&id=343&Itemid=48
Dương Nghiễm Mậu: Thanh Tâm Tuyền và những người bạn trước khi có tạp chí Sáng Tạo
http://dungtranho.blogspot.com/2011/02/duong-nghiem-mau-thanh-tam-tuyen-va.html
Khế Iêm: Thanh Tâm Tuyền Nhìn Lại Một Thời
http://thotanhinhthuc.org/tho/Title/hoso_thanhtamtuyen/hs_ttt_kheiem.html
Ngô Văn Tao: Một Chủ Nhật Khác truyện của TTT
http://www.gio-o.com/NgoVanTaoThanhTamTuyen.html
Thường Quán: Vài cảm nghĩ về thơ Thanh Tâm Tuyền
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16432
Hoàng Xuân Sơn: Đọc lại Thanh Tâm Tuyền qua E.E
http://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do;jsessionid=C7E3288DB6E8B49FD48ABCC97459BEF0?action=viewArtwork&artworkId=15955
Thanh
Tâm Tuyền . 1966
Duy
Thanh, Trần Lê Nguyễn, Thanh Tâm Tuyền, Ngọc Dũng
(trái)
Trần Lê Nguyễn, Mai Thảo, Thái Tuấn,
Thanh
Tâm Tuyền, Cao Mai Hoa,
Nguyễn
Sỹ Tế, Ngọc Dũng, Trần Thanh Hiệp.
(Đám
cưới Thanh Tâm Tuyền & Cao Mai Hoa)
04/07/1964
Bùi
Giáng & Thanh Tâm Tuyền
Phạm
Kiều Tùng, Thanh Tâm Tuyền, Thái Tuấn . 1982
Thanh
Tâm Tuyền, Cung Tiến, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng
Thanh
Tâm Tuyền, Đinh Cường, Ngọc Dũng . 199? Mỹ
Thanh
Tâm Tuyền . 199? Mỹ
Thanh
Tâm Tuyền par PN
Mộ
phần thi sĩ Thanh Tâm Tuyền tại Minnesota ( Hoa Kỳ)