*

Phỏng Vấn






Huy Cận

nguồn: vnn.vn

     Cuộc trò chuyện sau đây của Huy Cận, Viện sĩ Viện Hàn lâm thế giới, với hai nhà thơ thế hệ sau là Trần Đăng Khoa và Trần Anh Thái đề cập tới những vấn đề thú vị chung quanh Phong trào thơ mới 1932 - 1945, mà ông là một đại biểu đặc sắc.

 

Nhà thơ (NT) Trần Anh Thái:

Thưa nhà thơ Huy Cận, ở nước ta có một thời kỳ người ta ghẻ lạnh với "cái tôi". Cho tới nay vẫn có người cho rằng "cái tôi" trong thơ mới là "cái tôi" chủ yếu chịu ảnh hưởng của thơ Pháp. Theo ông, đâu là nguồn mạch dân tộc, đâu là sự ảnh hưởng? 

Nhà thơ Huy Cận:

Người ta đã bàn khá nhiều về nguồn gốc, giá trị của Thơ mới. Đó là cuộc cách mạng lớn của thơ ca Việt Nam ở thế kỷ 20, sự ảnh hưởng của nó sẽ còn phát sáng sang đầu thế kỷ 21. Về nguồn gốc Thơ mới, ai đó cho rằng nó chủ yếu chịu ảnh hưởng của thơ Pháp là sai, là xuyên tạc. Thơ mới trước hết nhận ảnh hưởng trực tiếp thơ ca dân tộc, thấm đẫm văn hóa Việt Nam, sau đó là văn hóa cổ Á Đông: Trung Quốc, Ấn Độ và sau nữa mới đến ảnh hưởng thơ Pháp, Anh, Đức với những tác giả như Shakespeare, Gớt, Ranh-bo, Véc-len, Bô-đờ-le... 

NTmTrần Anh Thái:

Như vậy theo nhà thơ, trước khi xảy ra cuộc cách mạng, Thơ mới đã có sự manh nha? 

NT Huy Cận:

Đúng như vậy. Sự ra đời chữ "tôi" ở Việt Nam vốn tiềm tàng từ trước những năm ba mươi của thế kỷ 20. Chính "cái tôi" ấy là động lực thúc đẩy cái tôi trong thơ ca phát triển. Có một điều mà ít người phân biệt là chữ "tôi" Việt Nam khác chủ nghĩa cá nhân phương Tây thời Phục Hưng. Cá nhân thời Phục Hưng ra đời đồng thời với chủ nghĩa tư bản; nó ăn khớp, máu thịt với chủ nghĩa tư bản. Khái niệm cá nhân ở nước ta ra đời sau, và nó bắt nguồn từ tinh thần dân tộc được hâm nóng lại bằng các cuộc hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, và cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Trong bối cảnh tinh thần dân tộc được hâm nóng, mỗi người đều gắn bó máu thịt với dân tộc, nó làm thức dậy tinh thần văn hóa dân tộc, thúc đẩy ý thức về nền quốc học Việt Nam. Đến đây có thể thấy, "cái tôi" Việt Nam không phải một cá nhân đơn lẻ mà là Cái tôi - Việt Nam; Cá nhân - dân tộc. 

 NT Trần Đăng Khoa:

Ở ta, có một số nhà thơ ảnh hưởng thơ Pháp. Ví như Xuân Diệu chẳng hạn. Còn Huy Cận thì không. Thơ Huy Cận vẫn thuần hồn cốt dân tộc, nếu có chút phảng phất đâu đó thì có thể là thơ Đường chăng? Câu thơ "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" gợi cho người đọc nhớ đến câu thơ Đường "Yên ba giang thượng sử nhân sầu...". 

 NT Huy Cận: Hồn dân tộc! 

 NT Trần Đăng Khoa:

"Lửa thiêng" là tập thơ hay nhất của Huy Cận. Tập thơ ấy có rất nhiều bài đặc sắc. Tôi thích nhất là bài "Tràng giang". Bài thơ có thể xem là toàn bích. Trong "Tràng giang" có một câu khá gần với một câu thơ Đoàn Văn Cừ. Tả bãi bờ trong lúc đang đi bên sông, Đoàn Văn Cừ viết: "Cồn xanh bãi tía kề liên tiếp". Câu thơ thật thà và có phần hơi vụng. Cũng ý ấy, Huy Cận viết: "Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng" thì óng nuột hơn nhiều... 

 NT Trần Anh Thái:

Còn các nhà thơ khác. Thời kỳ Thơ mới có nhiều lớp sóng, thí dụ "lớp sóng" Hàn Mặc Tử. Trước đây người ta chê cũng nhiều, khen cũng không ít, gần đây lại có khuynh hướng đề cao, nhà thơ có nhận xét gì? 

NT Huy Cận:

Hàn Mặc Tử là người có tài. Gia đình ông ba đời theo đạo Thiên Chúa. Thơ Hàn Mạc Tử bắt nguồn từ hai nguồn cảm hứng: Đời và Đạo. Hàn Mạc Tử có niềm tin về đạo, có nhiều thơ về đạo, có bài hay như bài: Ave Maria... còn một số bài viết về đạo đi hơi xa "nằm ngoài cảm xúc, ngoài thơ". Thơ đời Hàn Mặc Tử nhiều bài hay hơn. "Trường tương tư" là bài tôi mê. Cái bài "Giữa trời sầu", "Mùa xuân chín", "Gái quê" là những bài hay. Riêng bài "Bẽn lẽn" Hàn Mặc Tử viết là "Trăng nằm bẽn lẽn trên cành liễu", đăng trên báo Phong Hóa, Thế Lữ sửa lại: "Trăng nằm sõng soài trên cành liễu". Theo tôi thơ đời Hàn Mặc Tử sẽ còn lại nhiều. Ông là người rất có tài, đóng góp xứng đáng vào Thơ mới. Hiện nay có khuynh hướng đề cao quá, tôi không có ý kiến gì. 

NT Trần Đăng Khoa:

Chung quanh Hàn Mặc Tử có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Cả khen và chê đều có phần thái quá, tôi có cảm giác nhiều khi sự khen chê này lại nằm ngoài văn học. Dừng lại ở đánh giá của Hoài Thanh là chuẩn nhất. Hàn Mặc Tử có khoảng bảy bài hay, trong đó có bốn bài đạt đến độ toàn bích. Còn lại là những câu thơ thiên tài. Những câu thơ này, phi Hàn Mặc Tử, không ai có thể viết nổi. Tiếc là những câu thơ ấy lại nằm trong những bài thơ còn rất nhiều xộc xệch... 

 NT Trần Anh Thái:

Còn Xuân thu nhã tập (XTNT), đã có một thời người ta bỉ báng. Nhưng lại cũng có ai đó cho rằng: Thơ chỉ có hay và dở chứ không có thơ trung bình. Nếu quan niệm như vậy nhà thơ đánh giá thế nào cho thỏa đáng về tính cách tân của XTNT? 

 NT Huy Cận:

Một trong những đại biểu của nhóm XTNT là Nguyễn Xuân Sanh - bạn tôi. Vào thời ấy có một số nhà thơ gồm cả Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc... muốn đẩy thơ đi xa hơn nữa. Nghĩ rằng muốn có một cái gì mới hơn Thơ mới. Báo chí đã có nhận xét về XTNT "Chí cao - tài mọn". Tôi cho rằng ý đồ tìm tòi của XTNT không rõ. Câu thơ, bài thơ chủ yếu dùng cách đảo câu, đảo chữ; triết lý không rõ ràng, không gắn với truyền thống văn hóa dân tộc, vì vậy mà thành đạt ít. Ngay một số bài được coi là thành công như "Giọt sương hoa" của Phạm Văn Hạnh, đọc thì thích nhưng lửng lơ không rõ; còn bài "Mầu thời gian" của Đoàn Phú Tứ là bài hay. 

 NT Trần Đăng Khoa:

Tôi không thích bài thơ này lắm. Vì nó vẫn nghiêng về phía hình thức. Quá dụng công thường làm mất đi sự tự nhiên. Thơ lại rất cần sự giản dị, hồn nhiên. Hình thức phải do nội dung ứa ra. Bài thơ này không phải như vậy. Tôi ngờ lời bình bài thơ này trong "Thi nhân Việt Nam" là của chính Đoàn Phú Tứ viết. Hoài Thanh "đồ" lại. Vì hơi văn không phải hơi Hoài Thanh. Và lời bình cũng không hay. Văn Hoài Thanh là thứ văn siêu thoát. Ông thường nắm bắt hồn vía bài thơ chứ không lẩn mẩn sờ sịt từng con chữ cụ thể. Tất nhiên bài thơ và lời bình bài thơ này có mặt trong "Thi nhân Việt Nam..." lại làm đẹp cho Hoài Thanh. Nhờ nó mà cuốn sách Hoài Thanh đa dạng. Người đọc thấy cái "tông" của ông rất rộng...

NT Huy Cận:

Đúng là bài bình ấy của Đoàn Phú Tứ tự viết. Rồi Hoài Thanh đưa vào tập "Thi nhân Việt Nam"...

NT Trần Anh Thái:

Trở lại với tập thơ "Lửa thiêng". Trên bìa sách tập thơ này có vẽ hình ngọn lửa và người đàn bà khỏa thân, điều này có ý nghĩa gì?

NT Huy Cận:

Hồi ấy tôi nhờ Tô Ngọc Vân vẽ bìa. Lúc đầu Tô Ngọc Vân vẽ người phụ nữ nằm, mặc váy dài. Tôi nói: Tên tập thơ là "Lửa thiêng" - ngang; Xuân Diệu viết lời tựa - ngang; bây giờ đến người đàn bà nằm thì có tới ba ngang. Tôi nghĩ đã có mấy cái ngang thì phải có một cái đứng. Hơn nữa người đàn bà tượng trưng cho sự sáng tạo phải là người đàn bà đứng. Vả lại, tôi thích chiêm ngưỡng người phụ nữ ở tư thế đứng, nó đẹp, lung linh hơn! 

 NT Trần Đăng Khoa:

Bài thơ "Buồn đêm mưa" của nhà thơ sao không bỏ chữ "buồn", vì nỗi buồn tự nó nói ra, thêm "buồn" vào làm gì.

NT Huy Cận:

Tôi viết bài thơ ấy năm 1938 ở đê Yên Phụ. Lúc ấy tâm trạng rất buồn: "Tai nương nước giọt mái nhà; Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn; Nghe đi rời rạc trong hồn; Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi...".

NT Trần Anh Thái:

Còn bài thơ "Với bàn tay ấy" đăng báo Phong Hóa vào mùa hè 1935 Xuân Diệu có tặng đề Ranh-bo Véc-len. Huy Cận và Xuân Diệu là hai người bạn thân, lời đề tặng ấy có ý nghĩa gì?

 NT Huy Cận:

Vào tháng 9-1936, tôi mới gặp Xuân Diệu ở trường Quốc học Huế, khi ấy mới biết nhau. Vì tôi thích bài thơ ấy nên Xuân Diệu tặng tôi chứ không dính dáng gì đến tình bạn của chúng tôi!

NT Trần Anh Thái:

Gần đây một số tờ báo công bố những câu thơ, đoạn thơ Huy Cận tặng Xuân Diệu. Điều này có người bảo là tốt, có người cho là hạ thấp Xuân Diệu, theo nhà thơ?

NT Huy Cận:

Các nhà thơ tặng thơ, sửa thơ, góp ý về thơ cho nhau là chuyện bình thường. Thí dụ trong bài "Với bàn tay ấy" Xuân Diệu viết câu thơ "Một tối đầy". Thế Lữ sửa lại là "Một tối đây". Từ "đây" hay hơn hẳn. Một lần Xuân Diệu viết một bài thơ "Thu". Câu đầu của khổ thứ hai là "gió thầm, mây lặng, dáng thu xa" đến câu thơ thứ hai thì Xuân Diệu bí quá nên đề tạm là "tí tị, ti ti tỉ tĩ tì", cốt để giữ âm điệu rồi ông tiếp tục viết câu thứ ba, thứ tư. Huy Cận góp ý: "Diệu cứ đọc một câu mà mình nghĩ theo ý muốn vào câu thứ hai". Thế là Xuân Diệu đọc: "Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà". Và khổ thơ trọn vẹn là: 

Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa
Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà
Buồn ở sông xanh nghe đã lại
Mơ hồ trong một tiếng chim qua. 

Huy Cận nghe xong thốt lên: "Hay rồi!". Lúc ấy Xuân Diệu còn chưa tin đó là câu thơ hay, nhưng hai ngày sau Xuân Diệu công nhận là câu thơ ấy hay thật.

NT Trần Anh Thái:

Trong tập "Lửa thiêng" chỉ có tám bài thơ lục bát, bài nào cũng toàn bích, nhà thơ có bí quyết gì? 

 NT Huy Cận:

Ấy là bản năng thơ, tôi không có bí quyết gì, không có lý luận gì, thơ là thiên bẩm. 

 NT Trần Anh Thái:

 Cảm ơn nhà thơ Huy Cận!

THÁI VIỆT ghi

(Báo Quân đội nhân dân)