|
Thơ
Mỗi Ngày
DOOMSDAY
It will be
when the trumpet sounds, as Saint John the
theologian
writes.
It was in
1757, according to Swedenborg.
It was in
Israel (when the she-wolf nailed the flesh of Christ
to the
cross) but not only then.
It happens
with every heartbeat.
There is no
moment that can't be the pit of Hell.
There is no
moment that can't be the water of Paradise.
There is no
moment that isn't a loaded gun.
At any
second you could be Cain or the Buddha, the mask or
the face.
At any
second Helen of Troy could reveal her love for you.
At any
second the rooster could have crowed three times.
At every
second the water clock lets fall the final drop.
-S.K.
J.L. Borges: Poems
of the Night
Tận Thế
Nó sẽ xẩy ra
khi tiếng kèn rú lên, như Saint John nhà thần học viết
Đó là vào năm
1757
[xém thì viết lộn thành 1975, hà hà!],
theo như Swedenborg.
Đó là ở
Israel, (khi nữ sói đóng đinh Chúa Ky Tô lên cây thập tự), nhưng không
chỉ khi đó.
Nó xẩy ra với
mọi cú tim đập
Chẳng có khoảnh
khắc nào mà không có thể gọi là “hố Địa Ngục”
Chẳng có khoảnh
khắc mà không thể gọi là “nước Thiên Đàng”
Chẳng có khoảnh
khắc nào mà không thể là “súng đã nạp đạn”
Bất cứ giây
khắc nào bạn cũng có thể là Cain hay Đức Phật, cái mặt nạ hay là bộ mặt.
Bất cứ giây
khắc nào Người Đẹp thành Troy cũng có thể bật mí Nàng yêu bạn.
Bất cứ giây
khắc nào thì con gà trống cũng có thể gáy ba phát.
Bất cứ giây
khắc nào thì cũng có thể, giọt nước cuối cùng của cái đồng hồ nước, rớt
xuống.
TTT dịch
Bài thơ tên,
số 10, trong nhiều bài, làm thành 1 chương có tên là Thời gian và Vĩnh
cửu, Time and Eternity.
Bài thứ 17,
rất hay được nhắc tới:
Part Four:
Time and Eternity
X
I DIED for
beauty, but was scarce
Adjusted in
the tomb,
When one who
died for truth was lain
In an
adjoining room.
He
questioned softly why I failed?
“For
beauty,” I replied.
“And I for
truth,—the two are one;
We brethren
are,” he said.
And so, as
kinsmen met a night,
We talked
between the rooms,
Until the
moss had reached our lips,
And covered
up our names.
XVII
I never saw
a moor
I never saw
the sea;
Yet I know
the heather looks,
And what a
wave must be.
I never
spoke with God,
Nor visited
in heaven
Yet certain
am I of the spot
AS if the
chart were given (1)
Thơ
Mỗi Ngày
Début et fin
de la neige
L'ÉTÉ ENCORE
J'avance
dans la neige, j'ai fermé
Les yeux,
mais la lumière sait franchir
Les paupières
poreuses, et je percois
Que dans mes
mots c'est encore la neige
Qui tourbillonne,
se resserre, se déchire.
Neige,
Lettre que
l'on retrouve et que l'on déplie,
Et l'encre
en a blanchi et dans les signes
La gaucherie
de l'esprit est visible
Qui ne sait
qu'en enchevêtrer les ombres claires.
Et on essaye
de lire, on ne comprend pas
Qui s'intéresse
à nous dans la mémoire,
Sinon que
c'est l'été encore; et que l'on voit
Sous les
flacons les feuilles, et la chaleur
Monter du
sol absent comme une brume.
Beginning
and End of the Snow
SUMMER AGAIN
I walk on,
through the snow. I've closed
My eyes, but
the light knows how to breach
My porous
lids. And I perceive
That in my
words it's still the snow
That eddies,
thickens, shears apart.
Snow,
Letter we
find again and unfold:
The ink has
paled, and the bleached-out marks
Betray an
awkwardness of mind
That makes
their lucid shadows just a muddle.
We try to
read, but we can't grasp who this is
In our
memory who's taking such an interest
In
ourselves, except it's still summer; and we see
The leaves
behind the snowflakes, where the heat
Still rises
from the absent ground like mist.
Yves
Bonnefoy: New Poetry and Prose,
1991-2111
Translated by Hoyt Rogers
Four Poems
by Charles
Simic
Let Us
Be
Careful
More could
be said
of a dead fly
in the
window
of a small
shed,
and of an
iron typewriter
that hasn't
lifted a key
in years
both in
delight
and dark
despair.
Merrymakers
A troop
oflate night revellers,
most likely
shown the door
at some
after-hours club
or a party
in the.neighbourhood,
still
whooping it up
as they
stagger down the street
with a girl
in a wedding dress
walking
pigeon-toed far behind them,
and calling
out in distress:
'Hey, you!
Where the fuck
do you think
you're going?'
Passing
Through
An
unidentified,
inconspicuous
someone,
smaller than
a flea
snuck over
my pillow last night,
unbothered
by me,
in a big
rush, I bet,
to get to
his church
and thank
his saints.
In Its Own
Sweet Time
That one
remaining, barely moving leaf
The wind
couldn't get to fall
All winter
long from a bare tree -
That's me!
Thinks the old fellow,
The one they
roll out in a wheelchair
So that he
can watch the children
Play in the
park, their mothers
Gossip all
day about their neighbours
While
pigeons take turns landing
And taking
off from a newly arrived hearse
Parked in
front of the parish church,
Dragging his
gaze along as they do.
London
Review of Books 9 May 2013
AS YOU COME
OVER THE
HILL
You'll see
cows grazing in a field
And perhaps
a chicken or a turtle
Crossing the
road in their sweet time,
And a small
lake where a boy once
Threw a girl
in who couldn't swim,
And many
large maple and oak trees
Offering
ample shade to lie in,
Their
branches to hang yourself from,
Should you
so desire,
Some lazy
afternoon or evening
When
something tells the birds to hush,
And the one
streetlight in the village
To keep a
few moths company
And the
large old house put up for sale
With some of
its windows broken.
-Charles
Simic
Khi bạn đi lên
đồi
Bạn sẽ thấy bò
gặm cỏ trên đồng
Và có lẽ, một
chú gà con, hay một con rùa
Băng qua đường
trong cái khoảng thời gian
Ui chao thật là ngọt ngào của chúng
Và một hồ nhỏ,
nơi có lần một đấng con trai
Ném cô gái của
mình xuống đó
Cô gái, tất
nhiên, đếch biết bơi!
Hà, hà!
Và rất nhiều
cây phong to tổ bố, và sồi
Xoè cái váy
của chúng ra,
Là cái bóng dâm rộng lùng thùng là những tầng lá
Để bạn nằm lên
đó
Còn những cành
cây, là để bạn treo tòng teng bạn lên
Thì cứ giả
như bạn đang thèm
Một buổi xế
trưa lười biếng hay,
Quá tí nữa, 1 buổi chiều.
Khi một
điều
gì đó nói, bầy chim, im đi
Và ngọn đèn đường
độc nhất ở trong làng,
Giữ mấy con bướm đêm làm bạn đường
Và ngôi nhà
thật rộng, cũ mèm, để biển bán
Với mấy cửa
sổ bể, gãy, tan hoang.
Bài thơ có bề
ngoài giống y chang 1 bài ca dao, thí dụ bài “Trèo lên cây bưởi hái
hoa”, ở đây,
là lên đồi ngắm cảnh. Những “tỉ” những “hứng” có đủ cả…
Nói theo Kim Dung,
thì chúng là những đòn gió, chỉ để bất thình lình ra đòn sau cùng, đòn
chí tử, là
khổ thơ chót.
Đọc sao mà thê lương chi đâu:
When
something tells the birds to hush,
And the one
streetlight in the village
To keep a
few moths company
And the
large old house put up for sale
With some of
its windows broken.
Quái làm
sao, câu thơ đầu, “khi một điều gì đó nói lũ chim câm đi”, làm Gấu nhớ
đến cái
mail chót, của 1 nữ thi sĩ, “mi làm phiền ta quá”… “kiếp trưóc mi đúng
là con đỉa”….
Hà hà!
Nhưng
cái mail kế chót thì thật là tuyệt vời.
Em quả có tí thương [hại] Gấu!
"These
poems are like self-developing Polaroids, in which a scene,
gradually assembling itself out of unexplained images,
suddenly clicks into a recognizable whole."
-Helen
Vendler, THE
NEW YORK REVIEW OF BOOKS
In
this new collection
of sixty-two poems, Charles Simic paints exquisite and shattering word
pictures
that lend meaning to a chaotic world. It is a world populated by
insects,
bridal veils, pallbearers, TV sets, and parrots. Suffused with hope yet
unafraid to mock his own credulity, Simic's searing metaphors unite the
solemn
with the absurd. His raindrops listen to each other fall while
collecting
memories; his wild flowers are drunk with kissing the breezes; and his
God is a
wheeler-dealer,
a wire-puller. In this latest lyrical gathering, Simic continues to
startle his
fans with the powerful and surprising images that are his
trademark-slangy images
of the ethereal, fantastic visions of the everyday, foreign scenes of
the
all-American-and moments full of humor and full of heartache.
"A
master of the surreal, Simic packs his poems full of horror movies,
bleak
jokes, savage ironies and the things an insomniac notices on the
ceiling .... A
gem." -PEOPLE
"Charles
Simic is a contemporary master of the short lyric [who] makes an art
out of
clarity of vision .... Simic is as good as it gets. And as different."
-Charles
Wright, THE AMERICAN POET, SPRING 1999
Thường ra, mỗi
lần đọc thơ Simic, là mỗi lần Gấu sờ sợ, cái cú ra đòn bất thình lình
của ông.
Không làm sao mà đoán, hay chuẩn bị được, đúng như đám phê bình gia
phán, trên:
những giọt mưa nghe ngóng lẫn nhau trong lúc rơi, cùng lúc nhặt nhạnh
những hồi
ức, tất nhiên, đếch phải của chúng.
Một bậc thầy
của siêu thực. Những bài thơ giống như những bức hình Polaroid tự biên
tự diễn,
tự rửa tự hiện hình, trong đó, một xen, tự nó lắp ráp chính nó, từ
những hình ảnh không
làm sao giải thích được, bất thình linh click 1 phát, thế là trọn vẹn
cái thấu hiểu
xuất hiện – thí dụ, lịch sử, như trong bài “Đọc lịch sử”:
READING
HISTORY (1)
for Hans
Magnus
At times,
reading here
In the
library,
I'm given a
glimpse
Of those
condemned to death
Centuries
ago,
And of their
executioners.
I see each
pale face before me
The way a
judge
Pronouncing
a sentence would,
Marveling at
the thought
That I do
not exist yet.
With eyes
closed I can hear
The evening
birds.
Soon they
will be quiet
And the
final night on earth
Will
commence
In the
fullness of its sorrow.
How vast,
dark, and impenetrable
Are the
early-morning skies
Of those led
to their death
In a world
from which I'm entirely absent,
Where I can
still watch
Someone's
slumped back,
Someone who
is walking away from me
With his
hands tied,
His graying
head still on his shoulders,
Someone who
In what
little remains of his life
Knows in
some vague way about me,
And thinks
of me as God,
As Devil.
Đọc Sử Ký
Gửi Hans
Magnus
Đôi khi đọc ở
đây
Tại thư viện
Tôi được đưa
mắt nhìn
Những người
bị kết án tử hình
Những thế kỷ
đã qua
Và những đao
phủ của họ
Tôi nhìn mỗi
khuôn mặt nhợt nhạt
Cách ông tòa
tuyên án
Lạ làm sao,
là, tôi thấy mừng
Khi nghĩ rằng,
May quá, khi
đó mình chưa ra đời!
Với cặp mắt
nhắm tít, tôi có thể nghe
Những con
chim chiều tối
Chẳng mấy chốc,
chúng sẽ mần thinh
Và đêm sau
cùng trên trái đất
Sẽ bắt đầu
Trong trọn nỗi
thống khổ của nó
Bao la, tối,
không cách nào xuyên thủng,
Là những bầu
trời sáng sớm
Của những
con người bị dẫn tới cái chết của họ
Trong một thế
giới mà tôi thì hoàn toàn vắng mặt
Từ cái chỗ của
tôi, tôi vẫn có thể ngắm
Cái lưng lảo
đảo,
Của một người
nào đó,
Một người
nào đó đang bước xa ra khỏi tôi
Với hai tay
bị trói
Cái đầu xám
của người đó thì vẫn còn trên hai vai
Một người
nào đó
Trong tí xíu
thời gian còn lại của cuộc đời của mình
Biết, một
cách mơ hồ về tôi
Và nghĩ về
tôi, như là Thượng Đế
Như là Quỉ
GCC đọc
bài
này, là lại nhớ tới ông cụ của Gấu, bị chính 1 đấng học trò của ông,
cho đi mò
tôm.
Ở bên đó,
ông sẽ nghĩ về Gấu, như là 1 tên Bắc Kít khốn nạn, hay là 1 tên Bắc Kít
đã được
Miền Nam… thuần hóa?
Thơ
Mỗi Ngày
Qua
sông qua nước
April 5,
2012
W. G.
Sebald’s Poetry of the Disregarded
Posted by
Teju Cole
Thơ của
những kẻ bị bỏ đi, chẳng ai thèm để ý đến, của
W.G. Sebald
Xuyên suốt
nghiệp viết của mình, W.G. Sebald làm những bài thơ, lạ làm sao, thật
gần gụi,
thật như văn xuôi của ông. Giọng điệu của ông, trong cả hai thể loại
thì luôn
luôn được nén xuống, kìm lại, nhưng làm sao giấu nổi đỉnh cao của
chúng, là của
1 thứ kinh cầu, tưởng niệm, thương tiếc. Thêm vào đó, là sự kiện này:
ông xóa
nhòa, làm mờ đi, những đường ranh phân biệt những thể loại văn thơ, và
thực thế,
hầu như tất cả những gì ông viết, không chỉ thơ và văn xuôi, thì còn
bao gồm lịch
sử, hồi ký, tiểu sử, phê bình nghệ thuật, những tuyệt chiêu về học giả,
kinh điển,
và sáng kiến, phát minh. Một chuyên
gia thuộc loại tổ sư trong cái việc trộn lẫn vào nhau những thể loại
văn học như
ông, thì đã được truyền nghề từ những bậc thầy rầu rĩ của thế kỷ 17, là
Robert Burton and Thomas Browne, và những câu văn dài thòng, quấn quít
vào
nhau, thành những vòng tròn giống như những cái thòng lọng, của Sebald,
thì cũng
còn là một hình thức tưởng nhớ đến những nhà văn tiếng Đức thế kỷ 19,
như Adalbert
Stifter và Gottfried Keller.
Nhưng mạnh hơn nữa, là sự gần gụi của văn phong của
những tác phẩm của riêng ông, với những tác phẩm có trước chúng, của
những tác
giả như Robert Walser và Thomas
Bernhard.
Đối với chúng
ta, những kẻ đọc tác phẩm của ông, qua bản dịch tiếng Anh, tất cả tạo
thành, cái
gọi là, có tính Sebald [Sebaldian].
Tiếng tăm của
Sebald trụ vào bốn cuốn tiểu thuyết—“Vertigo,” “The Emigrants,” “The
Rings of
Saturn,” và “Austerlitz”— tất cả chúng, những suy tưởng về lịch sử của
bạo lực
nói chung, và về di sản của Lò Thiêu nói riêng. Cảm quan của chúng ta
về sự thành
tựu này còn được giầu có thêm nhờ những tác phẩm khác: những tác phẩm
xb khi ông
còn sống (những bài diễn thuyết “Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt, và
bài thơ dài
“After Nature”), và những tác phẩm xb sau khi ông mất (trong có tập
tiểu luận “Campo Santo”, những tập thơ ngắn “Unrecounted” và “For Years
Now”).
Vóc dáng của Sebald, giống của Roberto Bolaño, đưa ra ảo
tưởng,
cả hai đều sản sản xuất khoẻ lắm, khoẻ lạ thường, và “Qua
Đất và Nước”, "Across the Land and the Water”, tập thơ tuyển 1964-2001,
khi trình làng không làm
người đọc ngạc nhiên. Mười năm đã qua, vậy mà như ông vẫn còn sống, vẫn
đang viết.
"Qua
Đất và Nước”
khác hẳn mọi cuốn sách khác của Sebald ở điểm cực bảnh, thật đáng nể
này: nó có
cái phần viết đầu tay của ông. Bởi vì thành công văn học của ông đến
muộn (ông
được năm bó khi cái đầu tiên của những tác phẩm của ông được dịch qua
tiếng
Anh), và cái ông Sebald mà chúng ta biết đó, là 1 ông chín,“mature”
rồi, lừng lững một đấng rồi. Một
trong những cực thú của tập hiện đang, present, là ở trong cách
nó chỉ cho
chúng ta thấy, sự phát triển của giọng thơ của tác giả trên dòng thời
gian trên
mười năm, bắt đầu thập niên 1960, khi ông là một sinh viên.
Một
trong những
mẩu thơ đầu đời này, viết:
Glass
in
hand
They
come
and go
Stop
still
and expect
The
metamorphosis of hawthorn
In
the
garden outside
Time
measures
Nothing
but
itself.
'Trực'[giống 'loạn']dịch:
Ly trong tay
Tới và đi
Đứng và mong
Cây táo gai
biến hình
Ngoài vườn
Thời gian đo,
Chính nó.
Norfolk
Sailing
backwards
as a
passenger with
banished
time
A Louisianan
landscape
populated
by invisible
windmillers
Where the
Egyptian
in his
painted boat
sails
between fields
W.G. Sebald: Across
the land and the water
Note: Norfolk
The
physical
(or, rather, metaphysical) attitude of the passenger, who is “sailing
backwards
with banished time”, is reminiscent of Walter Benjamin's "angel of
history": the "storm [from Paradise] irresistibly propels him into
the future to which his back is turned, while the pile of
debris before him grows
skyward" (Illuminations, trans.
Harry Zohn, London: 1973 [p. 260]). The reason for the poem's
description of Norfolk as a Louisianan landscape is
obscure....
NYRB May 9,
2013
AS YOU COME
OVER THE
HILL
You'll see
cows grazing in a field
And perhaps
a chicken or a turtle
Crossing the
road in their sweet time,
And a small
lake where a boy once
Threw a girl
in who couldn't swim,
And many
large maple and oak trees
Offering
ample shade to lie in,
Their
branches to hang yourself from,
Should you
so desire,
Some lazy
afternoon or evening
When
something tells the birds to hush,
And the one
streetlight in the village
To keep a
few moths company
And the
large old house put up for sale
With some of
its windows broken.
-Charles
Simic
Khi bạn đi lên
đồi
Bạn sẽ thấy bò
gặm cỏ trên đồng
Và có lẽ, một
chú gà con, hay một con rùa
Băng qua đường
trong cái khoảng thời gian
Ui chao thật là ngọt ngào của chúng
Và một hồ nhỏ,
nơi có lần một đấng con trai
Ném cô gái của
mình xuống đó
Cô gái, tất
nhiên, đếch biết bơi!
Hà, hà!
Và rất nhiều
cây phong to tổ bố, và sồi
Xoè cái váy
của chúng ra,
Là cái bóng dâm rộng lùng thùng là những tầng lá
Để bạn nằm lên
đó
Còn những cành
cây, là để bạn treo tòng teng bạn lên
Thì cứ giả
như bạn đang thèm
Một buổi xế
trưa lười biếng hay,
Quá tí nữa, 1 buổi chiều.
Khi một điều
gì đó nói, bầy chim, im đi
Và ngọn đèn đường
độc nhất ở trong làng,
Giữ mấy con bướm đêm làm bạn đường
Và ngôi nhà
thật rộng, cũ mèm, để biển bán
Với mấy cửa
sổ bể, gãy, tan hoang.
Harper's April 2013
Vô đề
Tất cả những
gì tớ muốn
Là nhậu với
bà xã của tớ
Một ly rượu đỏ
không bao giờ cạn
Cả hai trên
sàn nhà
Những tên cà
chớn sẽ nghĩ thế nào?
Khi nhìn hai
đứa tớ?
Đời của hai
đứa mi mới thê thảm làm sao
Chán chường
và lầm lạc
Khi bà xã tớ
phải đi ra phố
Và tớ ở nhà
Tớ chỉ muốn
khóc
Trăng kia,
trên tàng cây
Sao ánh trăng
chua xót đến như thế
Chẳng có cuốn
sách nào
Hôn tớ được
như bà xã tớ hôn tớ.
Bài này mà tặng
"Ngày Của Vợ", giống như “Ngày Của Mẹ", nhỉ?
*
Trong bài
thơ Vô Đề,
Theo K cái câu có chữ "squares" có nghĩa là :
"Kệ cha mấy tên cà chớn chê cười tụi mình . Đời tụi nó trông mà chán
chết
."
Hà hà
Tks a lot.
Take care,
both of U
NQT
Thơ
Mỗi Ngày
Đọc lại thơ Adam Zagajewski
Out Walking
Sometimes
out walking, on a country road
or in a
quiet green forest,
you hear
scraps of voices, perhaps they're calling you,
you don't
want to believe them, you walk faster,
but they
catch up quickly,
like tame
animals.
You don't
want to believe them, then later
on a busy
city street
you're sorry
you didn't listen
and you try
to summon up
the
syllables, the sounds, and the intervals between them.
But it's too
late now
and you'll
never know
who was
singing, which song,
and where it
was drawing you.
Adam
Zagajewski: Mysticism for Beginners
Dã Ngoại
Đôi khi tản
bộ ngoài trời, trên con đường quê
Hay trong 1
cánh rừng xanh im ắng
Bạn nghe như
có tiếng người, giống như những mảnh vụn,
và những tiếng nói đó đang gọi bạn
Bạn không muốn
tin và bạn bước nhanh hơn lên
Nhưng chúng
bắt kịp bạn thật lẹ
Như những
con vật đã được thuần hóa
Bạn không muốn
tin, và sau đó,
Trên một con
phố bận rộn
Bạn than thở,
bạn xin lỗi,
rằng bạn đã không chịu lắng nghe
Và bạn cố chắp
nối, vá víu, những mảnh vụn,
Những âm thanh, những quãng ngừng giữa chúng
Nhưng quá trễ
mất rồi
Và bạn sẽ chẳng
bao giờ biết
Ai hát, và bài
hát nào,
Và nó kéo bạn
đi đâu.
AIRPORT IN AMSTERDAM
In memory of my mother
December rose, pinched desire
in the dark and empty garden,
rust on the trees and thick smoke
as if someone's loneliness were burning.
Out walking yesterday I thought again
about the airport in Amsterdam-
the corridors without apartments,
waiting rooms filled with other people's dreams
stained with misfortune.
Airplanes struck the cement
almost angrily, hawks
without prey, hungry.
Maybe your funeral should have
been held
- here-hubbub, bustling crowds,
a good place not to be.
One has to look after the dead
beneath the airport's great tent
We were nomads again;
you wandered westward in your summer dress,
amazed by war and time,
the moldering ruins, the mirror
reflecting a little, tired life.
In the darkness final things
shone:
the horizon, a knife, and every rising sun.
I saw you off at the airport, hectic
valley where tears are for sale.
December rose, sweet orange:
without you there can be
no Christmases.
Mint leaves soothe a migraine
...
In restaurants you always
studied the menu longest ...
In our ascetic family
you were the mistress of expression,
but you died so quietly ...
The old priest will garble your
name.
The train will halt in the forest.
At dawn snow will fall
on the airport in Amsterdam.
Where are you?
There where memory lies buried.
There where memory grows.
There where the orange, rose, and snow lie buried.
There where ashes grow.
Adam Zagajewski:
Without End
*
Phi
trường AMSTERDAM
Tưởng nhớ Mẹ
Hoa hồng vào Tháng Chạp, ước
muốn trái khoáy
trong khu vườn tối thui, trống trơn,
gỉ sét ở trên đám cây và khói dầy đặc
như thể nỗi cô đơn của ai đó đang cháy
Trong lúc lang thang ở ngoài
trời ngày hôm qua,
tôi lại nghĩ
về phi trường Amsterdam -
những hành lang không phòng ốc,
những phòng đợi đầy ắp những giấc mộng của những người khác,
những giấc mộng đầy tì vết của vận rủi
Phi cơ cào xiết trên nền xi măng
giận dữ, những con chim ưng
không có mồi, đói meo
Có lẽ đám tang của mẹ nên được
tổ chức
tại đây - những đám đông ồn ào, bát nháo
đúng là một nơi chốn tốt, bỏ uổng.
Một
con người nên lo lắng đến những người đã chết
ở bên dưới tấm lều lớn ở phi trường.
Chúng ta lại là những kẻ du mục;
Mẹ lãng đãng đi về phía tây trong cái áo dài mùa hè,
ngỡ ngàng vì chiến tranh, và thời gian,
những điêu tàn vụn nát, tấm gương
phản chiếu một cuộc đời nhỏ nhoi, mệt mỏi.
Trong bóng tối, những sự vật
sau chót sáng chói:
chân trời, một con dao nhỏ, và mọi mặt trời mọc
Mẹ rời phi trường, bề bộn
thung lũng là nơi nước mắt bán xôn.
Hồng tháng Chạp, cam ngọt:
Không có mẹ chẳng có Giáng Sinh.
Những chiếc lá bạc hà làm dịu
cơn nhức đầu...
Ở tiệm ăn mẹ luôn luôn nghiền ngẫm tờ thực đơn thật lâu....
Trong gia đình khổ hạnh của chúng ta
mẹ là bà chủ của diễn đạt
nhưng mẹ chết thật thầm lặng....
Vị linh mục già sẽ lắp bắp
xướng tên mẹ.
Xe lửa sẽ ngưng ở cánh rừng.
Bình minh tuyết sẽ rơi
ở nơi phi trường Amsterdam
Mẹ ở nơi đâu?
Nơi hồi ức vùi lấp.
Nơi hồi ức nẩy nở.
Nơi trái cam, bông hồng, và tuyết vùi lấp.
Nơi tro than nẩy nở.
Adam Zagajewski
Without End
[Note:
Bài thơ này, nguyên được in trong Mysticism for Beginners]
RESURRECTION
Poetry slips
into dreams
like a diver
in a lake.
Poetry,
braver than anyone,
slips in and
sinks
like lead
through a
lake infinite as Loch Ness
or tragic
and turbid as Lake Balaton.
Consider it
from below:
a diver
innocent
covered in
feathers
of will.
Poetry slips
into dreams
like a diver
who's dead
in the eyes
of God.
Tái sinh
Thơ
chui vô mộng
Như người lặn lao xuống hồ.
Thơ, can đảm hơn bất cứ ai,
Lặn và chìm
Như chì
Qua 1 con hồ vô cùng như hồ Loch Ness
Hay bi thương và đục như Hồ Balaton
Hãy nhìn từ dưới đáy:
Một người lặn
Ngây thơ
Phủ đầy lông chim
Là ước muốn của mình.
Thơ tuồn vô mộng
Như người lặn chết
Trong con mắt Chúa.
THE ROMANTIC
DOGS
Back then,
I'd reached the age of twenty
and I was
crazy.
I'd lost a
country
but won a
dream
As long as I
had that dream
nothing else
mattered.
Not working,
not praying
not studying
in morning light
alongside
the romantic dogs
And the
dream lived in the void of my spirit.
A wooden
bedroom,
cloaked in
half-light,
deep in the
lungs of the tropics.
And
sometimes I'd retreat inside myself
and visit
the dream: a statue eternalized
in liquid
thoughts,
a white worm
writhing
in love.
A runaway
love.
A dream
within another dream.
And the
nightmare telling me: you will grow up.
You'll leave
behind the images of pain and of the labyrinth
and you'll
forget.
But back
then, growing up would have been a crime.
I'm here, I
said, with the romantic dogs
and here I'm
going to stay.
Helen
Vendler Lecture
The Ocean,
the Bird, and the Scholar
"Poetry is
the scholar's art."
Wallace
Stevens, Opus Posthumous
Poetry and Criticism: Helen Vendler
Helen
Vendler là Bà Trùm phê bình thơ. “Góc độ thơ” của Bà phải nói khủng
khiếp,
nhưng cái đó chỉ là… phụ. Phải có cái gì đó của riêng bà khi đọc
thơ.
“Thơ
ca là nghệ thuật của những nhà tiến sĩ khoa bảng”, bà trích dẫn câu
trên, trong
bài diễn văn khi nhận giải thưởng thi ca. TV sẽ dịch bài này, sure, để
xác định điều, cái trò tự cao tự ngạo của giới viết lách, thì ai cũng
biết,
nhưng, bạn càng bảnh tới đâu, thì cái sự kiêu ngạo của bạn, của nghệ
thuật của
bạn, càng khó nhận ra đến đó.
IN VALLEYS
And the
lovely Garonne, which passes
through
drowsy villages each night
like a
priest with the last sacrament.
Dark clouds
grow in the sky.
The
Visigoths live on, in certain faces.
In summer
the empire of insects spreads.
You consider
how not to be yourself:
is it only
on journeys, in valleys,
which open
others' wounds?
In a
bookshop the salesclerk calls
the author
of "To the Lighthouse"
Virginia. As
if she might
turn up at
any minute, on a bicycle,
with her
long, sad face.
But Paul
Valery (of the Academy) thought
history
didn't exist. Perhaps he was right.
Perhaps
we've been taken in. When he was dying,
General de
Gaulle tried to find him
penicillin.
Too late.
-Adam
Zagajewski
(Translated,
from the Polish, by Clare Cavanagh)
Trong thung lũng
Và
Garonne đáng
yêu
Đi qua những
làng mạc ngủ gà ngủ gật mỗi đêm
Như vì tu sĩ
ban lễ phước lần cuối
Mây đen quần
tụ trên trời
Những Visigoth
tiếp tục sống, trong vài khuôn mặt.
Mùa hạ, đế
quốc côn trùng trải ra
Bạn tính làm thế nào để không là chính mình:
Phải chăng chỉ
những cuộc lữ trong thung lũng,
Mở ra những
vết thương của những người khác?
Trong tiệm sách,
người bán hàng gọi tác giả Tới Ngọn
Hải Đăng, bằng Virginia
Như thể bà có
thể xuất hiện bất cứ lúc nào, trên chiếc xe đạp
Với bộ mặt dài,
buồn.
Nhưng Paul
Valéry [một ông Hàn] nghĩ lịch sử không hiện hữu.
Có thể ông ta có lý.
Có thể chúng
ta bị bỏ vô đó. Khi ông ta nằm hấp hối chờ đi xa,
Đại tướng de Gaulle cố kiếm trụ
sinh cho ông.
Quá trễ.
Thì thầm làm
nên thơ
Summer 2013
IN MAY
As I walked
at dawn in the forest,
in May, I
kept asking where you are, souls
of the dead.
Where are you, the young ones
who are
missing, where are you,
the
completely transformed?
Great
stillness reigned in the forest,
and I heard
the green leaves dream,
I heard the
dream of the bark from which
boats,
ships, and sails will arise.
Then
slowly, birds joined in,
goldfinches,
thrushes, blackbirds
on the
balconies of branches, each of them spoke
differently,
in his own voice, not asking for anything,
with no
bitterness or regret.
And I
realized you are in singing,
unseizable
as music, indifferent as
musical
notes, distant from us
as we are
from ourselves.
Zagajewski: Without End
Tháng Năm
Tháng Năm, bình
minh, tản bộ trong rừng
Tôi hỏi hoài,
bây giờ ở đâu,
Những linh hồn
người đã chết.
Ở đâu,
Những người
trẻ tuổi đã mất tích,
Ở đâu,
Những người đã hoàn
toàn chuyển kiếp?
Một Tĩnh Lặng
Lớn ngự trị rừng
Và tôi nghe
những chiếc lá xanh mơ mộng
Tôi nghe giấc
mơ của vỏ cây từ đó
tầu, thuyền
và ghe buồm sống lại
Rồi thì từ từ
chim gia nhập
Chim sẻ cánh
vàng, chim hét
Trên những
bao lơn cành lá,
Mỗi con nói khác nhau,
Bằng giọng
riêng của nó
Không hỏi bất
cứ chi
Cũng không chua
sót, hay ân hận
Và tôi nhận
ra các bạn đang hát
Không làm
sao nắm bắt
Như âm nhạc
Dửng dưng như
nốt nhạc
Xa vời chúng
tôi
Như chúng tôi
xa vời
Chính mình.
Thơ
Mỗi Ngày
SQUARE
D'ORLEANS
A place
where pain and beauty
mingled
once-two substances
that have
long been acquainted.
A bank now
occupies this space;
dapper
gentlemen enter and exit,
each one
slim as a new banknote.
Chopin lived
here once.
His fingers
struck the keyboard, matter, in a rage.
Impassioned
poetry once lived here.
Peace and
quiet now prevail, while nearby
insurance
agents flourish, and the doctor
receives his
patients at appointed hours.
Dusk falls;
apartment houses stand
like worried
herons on the century's rubble
(the distant
whistle of the city sounds).
In the
center of the square a little fountain
shyly raises
up two braids of water,
reminding us
of what life really is.
We sit on
the steps as nothing happens.
It's also
impossible to say
that we feel
anything like sorrow.
Anxiety and
frenzy (two
younger
nations) have given way
to classical
restraint.
The
September evening slowly darkens,
a gentle
wind traverses Paris
like an
elderly Kabuki actor
playing the
ingénue's part.
If anything
upsets us-but nothing
does-it's
only emptiness.
Quảng trường
Orleans
Một nơi chốn,
nơi đau và đẹp,
trước có thời
là hai, nay trộn vào nhau,
Một ngân
hàng bây giờ chiếm chỗ đó,
những bậc
phong nhã lanh lẹ ra vô,
ông nào thì
cũng mảnh mai như tờ ngân phiếu mới.
Chopin đã một
thời sống ở đây.
Những ngón
tay của ông giận dữ gõ lên phím đàn
Thơ tha thiết
thiết tha đã từng sống ở đây,
bình an, trầm
lặng bây giờ là tất cả, trong khi gần đó,
những nhân
viên bảo hiểm nở rộ,
và vị bác sĩ
nhận bịnh nhân vào những giờ có hẹn trước.
Hoàng hôn,
những căn phòng, những căn nhà đứng sững,
như là những
con diệc buồn phiền lo lắng trên đống gạch vụn của thế kỷ
(có những tiếng
huýt sáo của thành phố từ xa).
Ở giữa quảng
trường có một cái vòi nước nhỏ,
e thẹn vọt
ra hai dải nước, nhắc nhở chúng ta, đời sống thực sự là gì
Chúng ta ngồi
ở những cái bực, như thể chẳng có gì xẩy ra.
Thật cũng
khó mà nói,
rằng chúng ta cảm thấy một điều gì đó,
có tên là buồn
phiền.
Xao xuyến và
cuồng điên (hai đất nước non trẻ hơn)
đã xô dạt đi
cái thói kiềm chế,
thắt lưng buộc
bụng cổ điển.
Buổi chiều
Tháng Chín dần dà tối đậm,
một cơn gió
dịu dàng, lịch sự thổi qua Paris
như là một
nghệ sĩ Kabuki già
chơi cái phần
thơ ngây của vở kịch
Cứ giả như
có điều gì làm chúng ta bực –
làm chó gì
có cái thứ chó đó –
thì đó, tất
nhiên, là, sự trống rỗng.
Zagajewski: Without End
TRY TO
PRAISE THE MUTILATED WORLD
Try
to praise the mutilated world.
Remember
June's long days,
and wild
strawberries, drops of rose wine.
The nettles
that methodically overgrow
the
abandoned homesteads of exiles.
You must
praise the mutilated world.
You watched
the stylish yachts and ships;
one of them
had a long trip ahead of it,
while salty
oblivion awaited others.
You've seen
the refugees going nowhere,
you've heard
the executioners sing joyfully.
You should
praise the mutilated world.
Remember the
moments when we were together
in a white
room and the curtain fluttered.
Return in
thought to the concert where music flared.
You gathered
acorns in the park in autumn
and leaves
eddied over the earth's scars.
Praise the
mutilated world
and the gray
feather a thrush lost,
and the
gentle light that strays and vanishes and returns.
Hãy cố mà ca
ngợi thế giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ những
ngày dài Tháng Sáu
và những
trái dâu dại, những giọt rượu vang hồng
Những cây tầm
ma mọc um tùm một cách có hệ thống
những trại ấp
bỏ hoang của những người lưu vong.
Bạn phải ca
ngợi thế giới bị tùng xẻo.
Bạn ngắm những
chiếc du thuyền, những chiếc tầu kiểu cách
một trong
chúng thì có một chuyến đi dài phía trước mặt,
trong khi sự
lãng quên đẫm vị mặn của muối chờ đợi những chiếc còn lại.
Bạn đã nhìn
thấy những người tị nạn chẳng có 1 nơi chốn nào để mà tới
Bạn đã nghe
đám đao phủ hát một cách thật là sảng khoái.
Bạn nên ngợi
ca thế giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ khoảnh
khắc mà chúng ra cùng bên nhau
Trong căn
phòng trắng và tấm màn xốn xang.
Hãy để cái đầu
của mình trở về buổi hòa tấu khi âm nhạc bừng lên.
Chúng ta nhặt
trái sồi ở công viên vào mùa thu
và những chiếc
lá xoay xoay ở bên trên những vết sẹo trên mặt đất.
Hãy ngợi ca
thế giới bị tùng xẻo
Và chiếc
lông xám con chim hét đã mất
Và ánh sáng
dịu dàng lang thang, biến mất, rồi trở lại.
Bài thơ “Hãy
ca ngợi một thế giới bị tùng xẻo”, lần thứ nhất được đăng trên số báo
“đen” hậu-11/9,
của tờ Người Nữu Ước.
When I read
it I was struck, first, by an awareness that, far from lecturing his
reader,
the speaker was speaking to himself; his use of "You" (a Zagajewski
trademark) a welcome change from the self-important I-deology of so
many
contemporary poets. It struck me, then, that he had brilliantly obeyed
his own
imperatives - "Remember .... Remember .... Return .... Praise" - and
had made me do the same. More generally, I was arrested by the
authority of the
voice, the courage and wisdom of a call to praise in a time (like any
other) of
mutilation: praise, a word with Christian associations, repeated with
increasing urgency in the refrain, acquiring the force of a liturgical
response, a prayer. Behind the distinctive new voice, one can hear a
voice
heard in Auden's "Musée des Beaux Arts" ("About suffering they
were never wrong / The Old Masters"), juxtaposing "miraculous
birth" with "dreadful martyrdom" in which "the
torturer" plays a part. At some level, Zagajewski remembers this as
well
as his own love, a fluttering curtain (in a window Auden had opened),
and a
"mutilated world" where "the executioners sing joyfully".
Surely, too, Auden's "expensive delicate ship" must be one of
Zagajewski's "stylish ships" - perhaps one heading for the
"salty oblivion" that awaits Icarus in the Bruegel painting on which
Auden's poem is based.
Khi đọc bài
thơ “Hãy cố ngợi ca thế giới bị tùng xẻo”, tôi bị chấn động, thứ nhất,
từ nỗi
quan hoài, thay vì lên giọng với độc giả thì nhà thơ lại nói với chính
mình;
cách sử dụng đại từ “You”, "Bạn", một thương hiệu của Zagajewski, quả
là một sự chuyển đổi thật tuyệt, tách ra khỏi cái thói tự quan trọng
mình của rất
nhiều nhà thơ đương thời. Rồi tôi còn bị chấn động bởi sự kiện, nhà thơ
thật
thông minh, thật duyên dáng tuân theo những mệnh lệnh của chính mình -
Hãy nhớ...
Hãy nhớ... Hãy trở lại.... Hãy ngợi ca – và tôi cũng làm như vậy.
Nói chung
là, tôi còn bị chấn động hơn thế nữa, bởi giọng quyền uy, sự can đảm và
tính
minh triết của một lời kêu gọi, hãy ngợi ca vào 1 thời [như bất cứ mọi
thời] của
sự tùng xẻo: ca ngợi, praise, một từ với những gia nghĩa mang tính Ky
tô giáo,
được lập đi lập lại với cường độ của sự khẩn thiết cứ thế tăng dần, ở
điệp
khúc, đòi hỏi một sức mạnh của 1 đáp ứng mang tính tế lễ, một lời cầu
nguyện,
khẩn cầu, cầu xin, a prayer.
Đằng sau giọng
thơ mới mẻ một cách thật rành rẽ, phân biệt này, chúng ta nghe ra một
giọng thơ
cũ, của một bậc thầy, của Auden, trong "Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật:: "Về
đau khổ họ chẳng hề bao giờ lầm/Những Vị Thầy Cũ", và, chồng lên, sự
“ra đời
thần kỳ, giống như là 1 phép lạ”, là, sự "tuẫn nạn đáng sợ, chết chóc”
trong đó, “tên đao phủ, kẻ tra tấn, tên hành hạ”, cũng có phần đóng góp
của nó,
vai trò của nó. Ở một mức độ nào đó, Zagajewski nhớ rõ điều này như
tình yêu của
riêng ông, bức màn xốn xang (nơi cửa sổ Auden mở), và một ‘thế giới bị
tùng xẻo’,
nơi “những tên đao phủ hát hớn hở”. Cũng chắc chắn, “con tầu sang
trọng, lịch
lãm” của Auden phải là một trong những con tầu kiểu cách “stylish
ships” của
Zagajewski – có lẽ là con tầu hướng về "biển mặn, biển nhớ, biển chờ,
biển
lãng quên".. TCS, ấy chết.... Icarus, trong bức họa của Brugel mà bài
thơ
của Auden dựa trên nó.
*
Nhờ bài điểm
trên TLS mà chúng ta nắm được phần nào ý nghĩa bài thơ hũ nút trên,
nhưng câu
thơ “and the gray feather a thrush lost”, Gấu chẳng hiểu nó nói về cái
quái gì.
Cầu cứu sư phụ, sư phụ cũng chịu thua:
K. không biết
dịch sao cho đúng , nhất là bài thơ ấy là một bài thơ dịch từ tiếng Ba
Lan qua
tiếng Anh . Nhưng K. tìm được bài thơ sau đây mà K. thấy cũng có chút
gì liên
quan . Bài thơ được viết vào mùa đông giữa hai thế kỷ 19 và 20 (1900) ,
với giọng
bi quan . Giữa trời đất xám buồn áo não, chợt nghe tiếng hót ngập tràn
hạnh
phúc của một con chim già nhỏ bé tả tơi :
The Darkling
Thrush
by Thomas
Hardy
I leant upon
a coppice gate
When Frost
was spectre-gray,
And Winter's
dregs made desolate
The
weakening eye of day.
The tangled
bine-stems scored the sky
Like
strings of broken lyres,
And all
mankind that haunted nigh
Had sought
their household fires.
The land's
sharp features seemed to be
The
Century's corpse outleant,
His crypt
the cloudy canopy,
The wind
his death-lament.
The ancient
pulse of germ and birth
Was
shrunken hard and dry,
And every
spirit upon earth
Seemed
fervourless as I.
At once a
voice arose among
The bleak
twigs overhead
In a
full-hearted evensong
Of joy
illimited;
An aged
thrush, frail, gaunt, and small,
In
blast-beruffled plume,
Had chosen
thus to fling his soul
Upon the
growing gloom.
So little
cause for carolings
Of such
ecstatic sound
Was written
on terrestrial things
Afar or
nigh around,
That I could
think there trembled through
His happy
good-night air
Some blessed
Hope, whereof he knew
And I was
unaware.
“Ngày dài
tháng Sáu”, thì chắc là nhiều người biết, nếu ai đã từng coi Ngày Dài Nhất, thì
lại càng biết.
Ui chao
lại
nhớ Sài Gòn! Gấu đã từng dịch Ngày
Dài Nhất, cho ông Nhàn, nhà xb Vàng Son,
nhưng do đúng lúc đó, Sài Gòn đang chiếu Ngày Dài Nhất, nên ăn theo cái tít,
bởi
vì thực sự cuốn Gấu dịch là Cuộc Đổ
Bộ [Normandie]. (1)
A TALE
The poet
imitates the voices of birds
he cranes
his long neck
his
protruding Adam's apple
is like a
clumsy finger on a wing of melody
when singing
he deeply believes
that he
advances the sunrise
the warmth
of his song depends on this
as does the
purity of his high notes
the poet
imitates the sleep of stones
his head
withdrawn into his shoulders
he is like a
piece of sculpture
breathing
rarely and painfully
when asleep
he believes that he alone
will
penetrate the mystery of existence
and take
without the help of theologians
eternity
into his avid mouth
what would
the world be
were it not
filled with
the
incessant bustling of the poet
among the
birds and stones
Zbigniew
Herbert
Một câu chuyện
Thi sĩ bắt
chước tiếng chim
anh ta dướn
cái cổ dài
trái táo
Adam lồi hẳn lên
như 1 ngón
tay vụng về trên cánh giai điệu
khi hát, anh
thực tin
anh đi trước
mặt trời mọc
bài ca ấm áp
là nhờ vậy
cũng nhờ vậy,
sự tinh khiết của những nốt nhạc cao
thi sĩ bắt
chước giấc ngủ của những hòn đá
cái đầu của anh
ta tụt vô vai
trông anh chẳng
khác chi một mẩu điêu khắc
thở, hiếm
hoi và đau đớn làm sao
khi ngủ, anh
ta nghĩ chỉ mình anh ta
nhập vô được
sự bí mật của hiện hữu
và đợp được
vĩnh cửu vào trong
cái miệng thèm thuồng của mình
đếch cần sự
trợ giúp của mấy đấng thần học
thế giới sẽ
ra làm sao
nếu không được
làm đầy bằng những tiếng lèm bèm
không ngừng của thi sĩ Gấu Cà Chớn
giữa chim và
đá.
Tuyệt!
Gấu
có cuốn do Seamus Heany tuyển chọn, nhưng cuốn mới này đầy
đủ
hơn.
Sẽ từ từ giới thiệu độc giả Tin Văn.
Này,
nhìn này, bé
Rượu đỏ
thì vô bằng miệng
Yêu, bằng mắt
Đó là tất cả chúng ta sẽ biết về sự thực ở đời
Trước khi chúng ta trở nên già và chết
Ta cầm ly rượu lên miệng
Nhìn bé, và thở dài đánh sượt 1 phát (1)
30.
4. 2013
Thơ Tháng Tư
30.4.2008:
Người xa vắng biết đâu nấm nhà
buồn?
(1)
Người
về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày
Người về từ
cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt
Người về từ
cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy
Một năm sau
còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi
Ba năm còn
nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối
Một hôm có kẻ
nhìn trân trối
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi
Giật mình,
một cái vỗ vai
Hoàng Hưng
Audrey
Hepburn
Thơ
Mỗi Ngày
Requiem
Under the
wide and starry sky
Dig the
grave and let me lie:
Glad did I
live and gladly die,
And I laid
me down with a will.
This be the
verse you grave for me:
Here he lies where he
long'd to be;
Home is the sailor, home from sea,
And the hunter home from the hill.
Robert Louis
Stevenson [1850-1894], in
Best Remembered Poems
Edited
and Annotated by Martin Gardener
Kinh Cầu
Dưới bầu trời
rộng, đầy sao
Đào cái hố
Để Gấu nằm
xuống đó:
Vui Gấu sống,
và vui, Gấu đi
Và Gấu nằm đó,
với lời ước của Gấu.
Nơi đây Gấu
yên nghỉ,
Nơi vừa bò
ra đời, là Gấu đã mong cầu
Nhà của tên
thuỷ thủ, nhà, khi rời biển
Nhà của tên
thợ săn, nhà, khi xa ngọn đồi.
Elegy
I open the
first door.
It's a large
sunlit room.
A heavy car
passes in the street
and makes
the porcelain tremble.
I open door
number two.
Friends! You
drank the darkness
and became
visible. (1)
Door number
three. A narrow hotel room.
Outlook on a
backstreet.
A lamp
sparking on the asphalt.
Beautiful
slag of experiences.
Tomas
Transtromer: the great enigma, new
collected poems
Bi Khúc
Tôi mở cánh
cửa thứ nhất
Một căn phòng
rộng, rạng rỡ ánh mặt trời
Một chiếc xe
hạng nặng chạy ngoài đuờng
Chiếc bình sành
rung rinh
Tôi mở cửa số
hai
Bạn! Bạn uống
bóng đen
Và trở thành nhìn rõ mồn một
Cửa số ba. Một
căn phòng khách sạn chật hẹp
Nhìn ra
con
phố sau
Một ngọn
đèn
loé lên trên mặt đường nhựa
Cái gỉ
sét
tuyệt vời của kinh nghiệm.
(1) Cái hình
ảnh “uống bóng đen trở thành nhìn thấy" này, quá tuyệt.
Gấu đã từng
lờ mờ nhận ra nó, khi đọc thơ Hoàng Hưng.
Câu thơ
"Muời năm còn quen ngồi một mình
trong bóng tối" làm nhớ một chi tiết về một nhà thơ trong nhóm Nhân
Văn,
[không nhớ là ai, NMG có nhắc tới trong một số Văn Học], ông quen ngồi
một mình
đến nỗi bóng in lên tường, thành một cái vệt, thời gian không làm sao
xóa mờ.
Nếu như thế, một người quen ngồi một mình trong bóng tối, cái bóng của
người đó
in lên tường mới khủng khiếp làm sao. Không ai có thể nhìn thấy nó, để
mà hỏi
thử, thời gian, khi nào xoá mờ!
IF THERE IS
NO GOD
If there is
no God,
Not
everything is permitted to man.
He is still
his brother's keeper
And he is
not permitted to sadden his brother,
By saying
that there is no God.
Nếu không có
Chúa
Nếu không có
Chúa
Không phải
chuyện gì con người cũng được phép
Nó vẫn là
người chăn giữ thằng em
Và nó đâu được
phép làm buồn thằng em
Khi nói không
có Chúa
HIGH
TERRACES
Terraces
high above the brightness of the sea.
We were the
first in the hotel to go down to breakfast.
Far off, on
the horizon, huge ships maneuvered.
In King
Sigismund Augustus High School
We used to
begin each day with a song about dawn.
I wake to light
that warms
My eye
And feel
Almighty God
Nearby.
All my life
I tried to answer the question, where does evil come from?
Impossible
that people should suffer so much, if God is in Heaven
And nearby.
Sân thượng
trên cao
Sân thượng
cao hơn cả vùng sáng của biển
Chúng tôi là
những người khách đầu tiên của khách sạn
Đi xuống
dùng điểm tâm
Xa tít xa, ở
nơi đường chân trời, những con tầu lớn
loay hoay vận hành
Ở trường
trung học King Sigismund Augustus High School
Chúng tôi
thường bắt đầu mỗi ngày bằng 1 bài hát về rạng đông
Tôi thức dậy
sưởi ấm mắt bằng ánh mặt trời
Và cảm thấy
Thượng Đế Cao Cả
Ở ngay kế
bên
Cả đời tôi,
tôi cố trả lời câu hỏi, cái ác, cái quỉ ma đến từ đâu
Thật không
thể, nếu con người đau khổ như thế đó, mà lại có một đấng Thượng Đế ở
Thiên
Đàng
Hay
Ngay kế bên (1)
Czeslaw
Milosz: Selected Poems 1931-2004
NYRB April
25, 2013
ORWELL'S
ALBUM
He didn't
manage his life very well a certain Eric Blair
on every picture his face is
extraordinarily melancholy.
A top student at Eton-Oxford-then colonial service
during
which he cut the sum total of elephants by one.
He was witness to the hanging
of some unruly Burmese
and described it in detail. War in Spain with the
anarchs.
There's a picture: fighters in front of the Lenin barracks
in the
background he stands too tall and entirely alone.
Sadly
there's no photo of his period of poverty studies
in Paris and
London. A gap allowing for speculation.
And then
finally late fame-more than that-wealth:
we see him
with dog and grandson. Two pretty wives
a country
house in Banhil where he lies under a stone.
Not one holiday
snapshot-tennis shoes a sunlit yacht
the courting
of amusement. Good. Luckily no photo
of him in
hospital. The bed. The white flag of a towel
held to a
bleeding mouth. But he will never surrender.
And he goes
off like a pendulum patient and suffering
to a certain
encounter.
Zbigniew
Herbert: The Collected Poems
Note:
Herbert
nhắc đến con voi mà Orwell làm thịt, khi phục vụ Nữ Hoàng Anh ở Ấn Độ.
Trong số báo Animals có bài
viết của Orwell, kể lại biến cố này.
Nhân tiện đi luôn, khúc chót:
….. Afterward,
of course, there were endless discussions about the shooting of the
elephant.
The owner was
furious, but he was only an Indian and could do
nothing. Besides, legally I had done the right thing,
for a mad elephant has to be killed, like a mad
dog, if its owner fails to control it.
Among the
Europeans, opinion was divided. The older men
said I was right; the younger men said it was a
damn shame to shoot an elephant for killing a
coolie, because an elephant was worth more than any
damn Coringhee coolie. And afterward I was very
glad that the coolie had been killed; it put me
legally in the right and it gave me a sufficient
pretext for shooting the elephant. I often wondered
whether any of the others grasped that I had done
it solely to avoid looking a fool.
"Shooting
an Elephant. » Orwell took a post with the Imperial
Police in Burma in 1922-an experience that most notably informed this
essay, “A
Hanging," and Burmese Days-and
resigned' five years
later. In 1937 he
went to report on the civil war in Spain, where he joined the
Republican
militia, rose to the rank of second lieutenant, and sustained a serious
wound, later
noting that "the whole experience of being hit by a bullet is very
interesting. "Orwell published Animal Farm in 1945 and Nineteen
Eighty-four in 1949. He died at the
age of forty-six in 1950.
A SMALL
HEART
To Jan Jozef
Szczepanski
the bullet I fired
during the great war
went around the globe
and hit me in the back
at the least suitable moment
when I was already sure
I had forgotten it all-
his transgressions and mine
after all I like anyone else
wanted to erase the memory
of countenances of hatred
history consoled me
-I was battling violence
but the Book told me
-I was battling Cain
so many patient years
so many years in vain
I washed soot blood
hurt in mercy's stream
so that noble beauty
the glory of existence
perhaps even the good
might have a home in me
after all I like anyone else
had a longing to return
to the bay of childhood
the country of innocence
the bullet I fired
from a low-caliber
gun
despite laws of gravity
went around the globe
and hit me in the back
if it wished to tell me
nobody gets anything –
for free
so now I sit in solitude
on a sawed-off tree trunk
in the exact center point
of the forgotten battle
gray spider I spin
bitter meditations
on memory too large
and a heart too small
Zbigniew
Herbert: The Collected Poems 1956-1998
Note: Bài
thơ này, gửi theo TTT, thì thật là tuyệt.
Thi sĩ đã từng làm thơ “tự trào”, chưa từng bắn 1 phát súng, trong cuộc
chiến vừa
qua.
Gấu có bắn rồi. Thời gian “quân sự hóa” học đường, phải lên bãi tập,
cầm khẩu
súng lóng ngóng chĩa về phía huấn luyện viên, anh ta hoảng quá, nằm bò
ra mặt
đất, hét lớn, thằng ngu kia, chĩa súng lên trời, đừng bao giờ chĩa về
phía nào
hết!
Gấu tin là TTT cũng đã
từng bắn súng nhiều lần rồi, thời gian huấn
luyện, khi
bị gọi động viên.
Ông phán chưa từng bắn, là theo kiểu chưa từng chĩa vô ai, để
đòm 1 phát!
Một
trái tim nhỏ bé
Viên đạn mà tớ bắn
Trong cuộc chiến lớn
Đi lòng dòng địa cầu
Đợp trúng lưng tớ.
Vào cái lúc cà chớn nhất
Khi mà tớ đinh ninh
Tớ quên mẹ nó rồi –
Cả tội lỗi của viên đạn, lẫn của tớ.
Nói cho cùng thì ai mà chẳng
như vậy
Đều muốn tẩy sạch hồi nhớ
Khỏi tất cả hận thù
Lịch sử an ủi
tớ,
-Mi uýnh lộn với bạo lực
Nhưng Cuốn Sách thì lại biểu
-Mi làm thịt thằng em của mi,
Thằng em Nam Bộ tên là Cain.
About
History
1
One day in
March I go down to the sea and listen.
The ice is
as blue as the sky. It is breaking up under the sun.
The sun that
also whispers in a microphone under the covering of ice.
It gurgles
and froths. And someone seems to be shaking a sheet far out.
It's all
like History: our Now. We are submerged, we listen.
2
Conferences
like flying islands about to crash ...
Then: a long
trembling bridge of compromises.
There shall
the whole traffic go, under the stars,
under the
unborn pale faces,
outcast in
the vacant spaces, anonymous as grains of rice.
3
Goethe
traveled in Africa in '26 disguised as Gide and saw everything.
Some faces
become clearer from everything they see after death.
When the
daily news from Algeria was read out
a large
house appeared with all the windows blackened,
all except
one. And there we saw the face of Dreyfus.
4
Radical and
Reactionary live together as in an unhappy marriage,
molded by
each other, dependent on each other.
But we who
are their children must break loose.
Every
problem cries in its own language.
Go like a
bloodhound where the truth has trampled.
5
Out on the
open ground not far from the buildings
an abandoned
newspaper has lain for months, full of events.
It grows old
through nights and days in rain and sun,
on the way
to becoming a plant, a cabbage head, on the way to being
united with
the earth.
Just as a
memory is slowly transmuted into your own self.
Tomas
Transtromer: Bells and Tracks in the
great enigma
Về
Lịch Sử
1
Một ngày Tháng Ba tôi đi xuống
biển và lắng nghe
Băng xanh như màu trời. Nó vỡ ra dưới nắng
Mặt trời cũng thầm thì vô 1 cái micro ở bên dưới mặt băng
Nó kêu ùng ục và sủi bọt. Và một người nào đó hình như lắc lắc một
tờ giấy một cách kỳ cục
Tất cả thì giống như Lịch sử: “Bây giờ” của chúng ta. Chúng ta ngập
chìm và lắng nghe
2
Những hội nghị thì giống như
những hòn đảo bay sắp vỡ vụn ra…
Thế rồi thì là, một cây cầu dài, run rẩy của những thỏa hiệp
Trọn giao thông theo đó mà đi, dưới những vì sao
Dưới những bộ mặt nhợt nhạt
Kẻ xa lạ, bên ngoài, vô gia cư điền vô những chỗ trống, vô danh như
những hạt gạo.
3
Goethe du lịch Phi Châu vào năm
1926, hóa trang thành Gide, và nhìn
thấy mọi chuyện.
Một vài khuôn mặt trở nên sáng sủa hơn so với mọi điều mà họ nhìn
thấy sau cái chết.
Khi những tin tức hàng ngày được đọc lên
Một căn nhà lớn xuất hiện với mọi cửa sổ đen thui
Tất cả, trừ một. Và họ nhìn thấy ở đó, bộ mặt của Dreyfus.
4
Cấp tiến và Phản động sống với
nhau trong một hôn nhân không hạnh
phúc
Vặn vẹo theo nhau, nương tựa vào nhau
Nhưng, chúng ta, lũ con cái của họ, phải phá xiềng
Mọi vấn đề la lên bằng ngôn ngữ riêng của nó
Hãy đi như 1 con chó săn, tới nơi sự thực trà đạp
5
Bên ngoài, trên mảnh đất không
xa tòa nhà
Một tờ nhật báo nằm lây lất hàng bao năm tháng, đầy những tin tức,
biến động
Nó trở nên già đi qua đêm ngày dưới mưa nắng
Trên đường trở thành cái cây, cái bắp cải, trên đường đoàn tụ với
đất
Y chang 1 hồi ức, chầm chậm chuyển hóa, và nhập vào với cái tôi của
riêng bạn.
Fire and Ice
Some say the
world will end in fire,
Some say in
ice.
From what
I've tasted of desire
I hold with
those who favor fire
But if it
had to perish twice,
I think I
know enough of hate
To say that
for destruction ice
Is also
great
And would
suffice.
Robert Frost
(1874-1963)
Lửa và Băng
Có đấng phán
thế giới tận thế bằng lửa
Lại có đấng phán, băng.
Bằng khẩu vị
của mình
Tớ đứng về
phe lửa.
Nhưng giả như
được tận thế hai lần,
Và, do rất rành
về thù hận
Thì tớ lại
ngộ ra rằng
Tận thế bằng
băng
Cũng tới đỉnh
cao chói lọi
Và như vậy cũng quá bảnh rồi!
First Fig
My candle
burns at both ends;
It will not
last the night;
But ah, my
foes and oh, my friends-
It gives a
lovely light.
Edna St.
Vincent Millay (1892-1950)
Mẩu đầu
Ngọn đèn
cầy của tớ cháy
hai đầu
Chẳng đặng
cho đêm
Nhưng, ui
chao, coi kìa,
Bạn quí,
Kẻ thù cũng
quí của Gấu Cà Chớn
Ngọn lửa mới
tuyệt cú mèo làm sao!
Thời Tưởng
Niệm
REMORSE FOR
ANY DEATH
Free of
memory and hope,
unlimited,
abstract, almost future,
the dead
body is not somebody: It is death.
Like the God
of the mystics,
whom they
insist has no attributes,
the dead
person is no one everywhere,
is nothing
but the loss and absence of the world.
We rob it of
everything,
we do not
leave it one color, one syllable:
Here is the
yard which its eyes no longer take up,
there is the
sidewalk where it waylaid its hope.
It might
even be thinking
what we are
thinking.
We have
divided among us, like thieves,
the treasure
of nights and days.
-W.S.M.
J.L. Borges
Ân hận vì bất
cứ 1 cái chết
Thoát ra khỏi
cả hồi ức lẫn hy vọng
Không giới hạn,
trừu tượng, xém 1 tí thì là tương lai
Thi thể của
ai đấy thì đếch phải là ai đấy: Nó là cái chết.
Như Chúa Tể
của những thần bí gia,
Kẻ đếch ai có
thể thay thế, theo đám đệ tử này năn nỉ,
Người chết đếch
là ai cả, ở đâu đâu thì cũng thế
Chẳng là cái
chó gì hết, mà chỉ là mất mát, vắng mặt, ra khỏi thế giới.
Chúng ta lột
sạch tất cả, từ "nó": "cái gọi là người chết đó"
Chúng ta chẳng
để lại, một màu sắc, một âm, một tiết, một… :
Đây là cái
vườn mà những con mắt của nó hết còn để mắt tới nữa
Đây là lối
đi, nơi hy vọng của nó đã từng đặt để
Nó chẳng từng
đã từng suy tư, như chúng ta đang suy tư?
Như những tên
trộm,
Chúng ta
chia sẻ, cấu xé, giành giựt,
Giữa chúng
ta,
Kho tàng của
những ngày
Và những đêm.
J.L. Borges
Thơ Mỗi Ngày
A POEM BY
MIGUEL HERNANDEZ
The poet and
playwright Miguel Hernandez (1910-1942) was born into a peasant family
in
the province of Alicante in southeast Spain and died from tuberculosis
in a prison
hospital there at age thirty-one. For much of his life he worked, like
his
father, as a shepherd. As a soldier and cultural ambassador for the
Republican
Army during the Spanish civil war, Hernandez read his poems and plays
on the
radio and on the front lines. When the war ended in 1939, he was
arrested and
sentenced to death (commuted to thirty years in prison).
In various
jails, Hernandez wrote many poems that were included in letters to his
friends and family, particularly his wife, losefina Manresa-a
seamstress from
his hometown Orihuela, with whom he had two sons. "Everything Is Filled
with You" was written during this time of imprisonment and was
published in
1958 in his final collection of poems, Cancionero y romancero de
ausencias
(Songs and Ballads of Absence).
-Jeffrey
Yang
Everything
is filled with you,
and
everything is filled with me:
the towns
are full,
just as the
cemeteries are full
of you, all
the houses
are full of
me, all the bodies.
I wander
down streets losing
things I
gather up again:
parts of my
life
that have
turned up from far away.
I wing
myself toward agony,
I see myself
dragging
through a
doorway,
through
creation's latent depths.
Everything
is filled with me:
with
something yours and memory
lost, yet
found
again, at
some other time.
A time left
behind
decidedly
black,
indelibly
red,
golden on
your body.
Pierced by
your hair,
everything
is filled with you,
with
something I haven't found,
but look for
among your bones.
-Miguel
Hernandez
(Translated
from the Spanish by Don
Share)
NYRB,
April 4, 2013
Một bài thơ
của Miguel Hernandez
Thi sĩ và nhà
soạn kịch Miguel Hernandez (1910-1942) sinh ra trong 1 gia đình nông
dân ở 1 tỉnh
lỵ thuộc vùng Alicante, phía Nam Tây Ban Nha, và mất vì bịnh phổi trong
một bịnh
viện nhà tù ở đó, khi 31 tuổi. Cả cuộc đời của ông thì hầu hết làm
việc, như ông
già của ông, như 1 người chăn cừu. Là 1 người lính và đại sứ văn hóa
cho lực lượng
cộng hòa, trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, Hernandez đọc thơ và kịch
của ông
trên đài phát thanh và ở nơi tiền phương. Khi cuộc chiến chấm dứt vào
năm 1939,
ông bị bắt và bị kết án tử hình (sau đổi thành 30 tù).
Trong nhiều
nhà tù khác nhau, Hernandez viết nhiều thơ và những bức thư gửi cho gia
đình, đặc
biệt cho người vợ, Josefina Mansera – làm thợ may tại thành phố quê
hương của ông
Orihuela, họ có hai con trai.
“Mọi điều thì
đầy bạn”, “Everything Is Filled with You” được viết khi ông ở trong tù,
và được
xb năm 1958, trong tập thơ chót của ông, “Những bài ca và ballads của
sự vắng mặt”,
“Songs and Ballads of Absence”.
Mọi thứ thì
đầy với bạn
Và mọi thứ
thì đầy với tôi:
Thành phố thì
đầy,
y chang nghĩa
địa thì đầy
với anh, tất
cả những căn nhà thì đầy với tôi, tất cả những cơ thể.
Tôi lang
thang xuống phố mất những điều mà tôi thu gom trở lại:
những phần đời
của tôi
chúng ló ra,
từ xa, thật xa.
Tôi xoay mình
vào cơn hấp hối
Tôi thấy tôi
bị kéo
Qua 1 cái cửa
Qua những vùng
sâu âm ỉ của sáng tạo
Mọi thứ thì
đầy với tôi:
với một điều
gì đó của bạn và hồi ức bị mất
tuy nhiên kiếm
thấy lại ở một thời khác.
Một thời bị
bỏ lại
Đen thui, hẳn
nhiên là thế
đỏ không làm
sao tẩy xóa đi được
vàng choé trên
cơ thể bạn
Bị chọc thủng
bằng tóc của bạn
mọi thứ thì
đầy với bạn,
với một điều
gì đó mà tôi không kiếm thấy
nhưng tìm kiếm,
ở trong những khúc xương của bạn.
AN ADVENTURE
1.
It came to
me one night as I was falling asleep
that I had
finished with those amorous adventures
to which I
had long been a slave. Finished with love?
my heart
murmured. To which I responded that many profound discoveries
awaited us,
hoping, at the same time, I would not be asked
to name
them. For I could not name them. But the belief that they existed-
surely this
counted for something?
2.
The next
night brought the same thought,
this time
concerning poetry, and in the nights that followed
various
other passions and sensations were, in the same way,
set aside
forever, and each night my heart
protested
its future, like a small child being deprived of a favorite toy.
But these
farewells, I said, are the way of things.
And once
more I alluded to the vast territory
opening to
us with each valediction. And with that phrase I became
a glorious knight
riding into the setting sun, and my heart
became the
steed underneath me.
3.
I was, you
will understand, entering the kingdom of death,
though why
this landscape was so conventional
I could not
say. Here, too, the days were very long
while the
years were very short. The sun sank over the far mountain.
The stars
shone, the moon waxed and waned. Soon
faces from
the past appeared to me:
my mother
and father, my infant sister; they had not, it seemed,
finished
what they had to say, though now
I could hear
them because my heart was still.
4.
At this
point, I attained the precipice
but the
trail did not, I saw, descend on the other side;
rather,
having flattened out, it continued at this altitude
as far as
the eye could see, though gradually
the mountain
that supported it completely dissolved
so that I
found myself riding steadily through the air-
All around,
the dead were cheering me on,
the joy of
finding them obliterated
by the task
of responding to them-
5.
As we had
all been flesh together,
now we were
mist.
As we had
been before objects with shadows,
now we were
substance without form, like evaporated chemicals.
Neigh,
neigh, said my heart,
or perhaps
nay, nay-it was hard to know.
6.
Here the
vision ended. I was in my bed, the morning sun
contentedly
rising, the feather comforter
mounded in
white drifts over my lower body.
You had been
with me-
there was a
dent in the second pillowcase.
We had
escaped from death-
or was this
the view from the precipice?
-Louise
Gluck
The New Yorker April 1, 2013
GOOD FRIDAY
"Remember me, when You go to your Kingdom
Remember me, when You go to your Kingdom..."
Chia sẻ,
TV
http://www.youtube.com/watch?v=TOmZ66lIzJA
Tks. NQT
Memory
One had a
lovely face,
And two or
three had charm,
But charm
and face were in vain
Because the
mountain grass
Cannot but
keep the form
Where the
mountain hare has slain
Yeats
Hồi nhớ
Một có khuôn
mặt đẹp
Hai, hay là
ba, có sự quyến rũ
Nhưng quyến
rũ, và mặt thì cũng vô ích
Bởi là vì trên
mặt cỏ núi
Chỉ có dấu vết
của con thỏ để lại.
The Four
Ages of Man
He with body
waged a fight,
But body
won; it walks upright.
Then he
struggled with the heart;
Innocence
and peace depart.
Then he
struggled with the mind;
His proud
heart he left behind.
Now his wars
on God begin;
At stroke of
midnight God shall win.
W.B. Yeats
Bốn Tuổi Đời của Gấu Cà Chớn
Hắn và cơ thể
của hắn uýnh lộn,
Cơ thể của hắn
thắng,
Nó hùng dũng
đi, bằng hai, thay vì bốn chân.
Rồi hắn chiến
đấu với trái tim của mình,
Sự ngây thơ
và thanh bình bỏ đi.
Rồi thì hắn
chiến đấu với cái đầu,
Trái tim hãnh
diện của hắn bị bỏ lại.
Bây giờ là
những cuộc chiến của hắn với… Chúa
[Mi làm đếch
gì có Chúa, GCC!]
Nửa đêm, Ngài
gõ cửa: Mi thua!
Mystic Life
lifetime's
solitary thread
for CHARLES
WRIGHT
It's like
fishing in the dark,
If you ask
me:
Our thoughts
are the hooks,
Our hearts
the raw bait.
We cast the
line over our heads,
Past all
believing,
Into the
starless midnight sky,
Until it's
lost to sight.
The line's
long unravelling
Rising in
our throats like a sigh
Of a long-day's
weariness,
Soul-searching
and revery
Charles
Simic
Đời Bí Ẩn
Như câu
trong đêm
Nếu bạn tính
hỏi Gấu:
Tư tưởng chúng ta thì là lưỡi câu
Trái tim, mồi
sống.
Chúng ta có
thể quăng sợi dây câu
Qua quá đầu
Quá tất cả
niềm tin
Tới bầu trời,
nửa đêm, không 1 vì sao
Quá tầm nhìn.
Sợi dây
câu mới
dài làm sao
Từ cổ họng của
chúng ta bò ra
Như tiếng thở
dài
Chán ngắt
Ngày dài
Mò tìm linh
hồn
Và mơ mộng.
TROIA
Ruined Troy
lay promiscuous among
findspot and
tell, breastworks and ditches
like nine
gold bracelets at a Turkish wedding,
in
twenty-two karats, mined outside Pergamum.
Schliemann's
trench was a wound through the whole thing:
at the
Scaean Gate he was offby twelve hundred years,
where the
mourning doves sang compulsively,
vulgar-throated.
In the music's pause
near two
stone griffins, a feral tabby
warmed
herself on a broken plinth, almond blossom
made a
blizzard in the orchard nearby,
and the
spokes of wild fennel crossed with the sun's rays.
The
Scamander River was nowhere to be seen,
having
wandered off across
the rich
alluvial plain. Nothing more would happen,
that was the
spirit and the sum:
nothing
would happen here ever again-
that, a
taste of fennel, and the goat bells' tinnitus.
-Karl
Kirchwey
The New
Yorker, March 25, 2013
The Rose of
the World
Who dreamed
that beauty passes like a dream?
For these
red lips, with all their mournful pride,
Mournful
that no new wonder may betide,
Troy passed
away in one high funeral gleam,
And Usna's
children died.
We and the
labouring world are passing by:
Amid men's
souls, that waver and give place
Like the
pale waters in their wintry race,
Under the
passing stars, foam of the sky,
Lives on
this lonely face.
Bow down,
archangels, in your dim abode:
Before you
were, or any hearts to beat,
Weary and
kind one lingered by His seat;
He made the
world to be a grassy road
Before her
wandering feet.
W.B. Yeats
Này, nhìn
này, bé
Rượu
đỏ
thì
vô bằng miệng
Yêu, bằng mắt
Đó là tất cả
chúng ta sẽ biết về sự thực ở đời
Trước khi
chúng ta trở nên già và chết
Ta cầm ly rượu
lên miệng
Nhìn bé, và
thở dài đánh sượt 1 phát
|
|