Thơ mỗi ngày
Những con chim én ở Auschwitz
Trong sự trầm
lặng của những doanh trại
trong sự im lặng của một buổi Chủ Nhật mùa hè
tiếng chim én chát chúa
Có thực sự đó là tất cả những gì còn lại
của tiếng người ?
Adam Zagajewski
Eternal Enemies
*
TRAVELING
BY TRAIN ALONG THE HUDSON
TO
BOGDANA CARPENTER
River
gleaming in the sun-
river,
how can you endure the
sight:
low crumpled train cars
made of steel, and in their
small windows
dull faces, lifeless eyes.
Shining
river, rise up.
How can
you bear the orange
peels,
the Coca-Cola cans, patches
of dirty snow that
once was pure.
Rise
up, river.
And I
too drowse in
semidarkness
above a library book
with someone's pencil marks,
only half living.
Rise
up, lovely river.
Đi xe lửa dọc sông Hudson
Dòng
sông lấp lánh trong ánh mặt
trời –
sông
ơi, làm sao mi chịu nổi cảnh
tượng:
những chiếc xe xe lửa lùn, nhầu
nát,
làm bằng thép, và ở những
khung cửa sổ nhỏ của chúng
là những khuôn mặt đần độn,
những cặp mắt vô hồn.
Sông
sáng kia ơi, hãy nhô lên,
nhô lên.
Làm sao
sông chịu nổi những vỏ
cam,
vỏ Coca-Cola, những mảng tuyết
dơ
có một thời trắng ngần.
Nhô
lên, sông ơi
Và tớ
thì ngủ gật, trong
tranh tối tranh sáng,
bên trên một cuốn sách thư viện
mà ai đó đánh dấu bằng viết
chì,
nửa đời nửa đoạn.
Nhô
lên, con sông đáng yêu
kia ơi.
Adam Zagajewski
Eternal Enemies
*
26.6.1965
Gấu xơi 2 trái mìn VC tại nhà
hàng nổi Mỹ Cảnh
12.1966
TTD dịch xong Sa Đọa ở Paris
*
1969
Gombrowicz
died; Americans
walked on the Moon,
hopping cautiously, as though it might break.
Erbarme dich, mein Gatt, one black woman
sang
in a certain church.
Summer scorched us,
the lake
water was warm and sweet.
The cold war dragged on, the Russians
occupied Prague.
We met for the first time
that year.
Only the grass, worn and
yellow, was immortal.
Gombrowicz died. Americans walked on the Moon.
Have
mercy, time. Have mercy, destruction.
1969
Gombrowicz chết; Người Mẽo đi
bộ trên Mặt Trăng
Nè, bước nhè nhẹ coi chừng bể!
Erbarme dich,
mein Gatt, một người đàn bà
da đen hát
trong 1 nhà thờ nào đó
Mùa hè làm sém thịt sém da chúng
ta
Nước hồ thì ấm và ngọt
Cuộc chiến lạnh kéo dài mãi
Người Nga chiếm đóng Prague
Chúng ta gặp nhau lần đầu năm
đó.
Chỉ có lũ cỏ, mòn ra, vàng đi,
là bất tử
Gombrowicz chết. Người Mẽo đi
bộ trên Mặt Trăng
Cám ơn mi, Thời gian. Cám ơn
mi, Huỷ diệt.
Adam
Zagajewski
Without End
1969
Cõi
Khác
Chúng ta gặp nhau
lần đầu năm đó.
Tuyệt!
Đúng là me xừ Adam này tả giùm GNV, cũng gặp cô bạn năm đó, và viết ra
được cái
mẩu Cõi Khác, và còn có thêm được cái khúc 1996 sau này!
Cám ơn mi, thời gian!
Đếch cám ơn mi, huỷ diệt!
AIRPORT IN AMSTERDAM
In memory of my mother
December rose, pinched desire
in the dark and empty
garden,
rust on the trees and
thick
smoke
as if someone's
loneliness
were burning.
Out walking yesterday I
thought again
about the airport in Amsterdam-
the corridors without
apartments,
waiting rooms filled with
other people's dreams
stained with misfortune.
Airplanes struck the cement
almost angrily, hawks
without prey, hungry.
Maybe your funeral should
have been held
- here-hubbub, bustling
crowds,
a good place not to be.
One has to look after the
dead
beneath the airport's great
tent
We were nomads again;
you wandered westward in your
summer dress,
amazed by war and time,
the moldering ruins, the
mirror
reflecting a little, tired
life.
In the darkness final things
shone:
the horizon, a knife, and
every rising sun.
I saw you off at the airport,
hectic
valley where tears are for
sale.
December rose, sweet orange:
without you there can be
no Christmases.
Mint leaves soothe a migraine
...
In restaurants you always
studied the menu longest ...
In our ascetic family
you were the mistress of
expression,
but you died so quietly ...
The old priest will garble
your name.
The train will halt in the
forest.
At dawn snow will fall
on the airport in Amsterdam.
Where are you?
There where memory lies
buried.
There where memory grows.
There where the orange, rose,
and snow lie buried.
There where ashes grow.
Adam Zagajewski
Without End
*
Phi trường AMSTERDAM
Tưởng nhớ Mẹ
Hoa hồng vào Tháng Chạp, ước
muốn trái khoáy
trong khu vườn tối thui, trống
trơn,
gỉ sét ở trên đám cây và khói
dầy đặc
như thể nỗi cô đơn của ai đó đang
cháy
Trong lúc lang thang ở ngoài
trời ngày hôm qua, tôi lại nghĩ
về phi trường Amsterdam -
những hành
lang không phòng ốc,
những phòng đợi đầy ắp những giấc mộng của những người
khác,
những giấc mộng đầy tì vết của vận rủi
Phi cơ cào xiết trên nền xi măng
giận dữ, những con chim ưng
không có mồi, đói meo
Có lẽ đám tang của mẹ nên được
tổ chức
tại đây - những đám đông ồn ào, bát nháo
đúng là một nơi chốn tốt, bỏ uổng.
Một con người nên lo lắng đến
những người đã chết
ở bên dưới tấm lều lớn ở
phi trường.
Chúng ta lại là những kẻ du mục;
Mẹ lãng đãng đi về phía tây trong cái áo dài mùa hè,
ngỡ ngàng vì chiến tranh, và thời gian,
những điêu tàn vụn nát, tấm gương
phản chiếu một cuộc đời nhỏ nhoi, mệt mỏi.
Trong bóng tối, những sự vật sau chót sáng
chói:
chân trời, một con dao nhỏ, và mọi mặt trời mọc
Mẹ rời phi trường, bề bộn
thung lũng là nơi nước mắt bán xôn.
Hồng tháng Chạp, cam ngọt:
Không có mẹ chẳng có Giáng
Sinh.
Những chiếc lá bạc hà làm dịu
cơn nhức đầu...
Ở tiệm ăn mẹ luôn luôn nghiền ngẫm tờ thực đơn thật lâu....
Trong gia đình khổ hạnh của
chúng ta
mẹ là bà chủ của diễn đạt
nhưng mẹ chết thật thầm lặng....
Vị linh mục già sẽ lắp bắp xướng
tên mẹ.
Xe lửa sẽ ngưng ở cánh rừng.
Bình minh tuyết sẽ rơi
ở nơi phi trường Amsterdam
Mẹ ở nơi đâu?
Nơi hồi ức vùi lấp.
Nơi hồi ức nẩy nở.
Nơi trái cam, bông hồng, và
tuyết vùi lấp.
Nơi tro than nẩy nở.
Adam Zagajewski
Without End
SELF-PORTRAIT
Between the computer, a
pencil, and a typewriter
half my day passes. One day
it will be half a century.
I live in strange cities and
sometimes talk
with strangers about matters
strange to me.
I listen to music a lot:
Bach, Mahler, Chopin, Shostakovich.
I see three elements in
music: weakness, power, and pain.
The fourth has no name.
I read poets, living and
dead, who teach me
tenacity, faith, and pride. I
try to understand
the great philosophers-but
usually catch just scraps of their precious thoughts.
I like to take long walks on Paris
streets
and watch my fellow
creatures, quickened by envy,
anger, desire; to trace a
silver coin
passing from hand to hand as
it slowly
loses its round shape (the
emperor's profile is erased).
Beside me trees expressing
nothing
but a green, indifferent
perfection.
Black birds pace the fields,
waiting patiently like
Spanish widows.
I'm no longer young, but
someone else is always older.
I like deep sleep, when I
cease to exist,
and fast bike rides on
country roads when poplars and houses
dissolve like cumuli on sunny
days.
Sometimes in museums the
paintings speak to me
and irony suddenly vanishes.
I love gazing at my wife's
face.
Every Sunday I call my
father.
Every other week I meet with
friends,
thus proving my fidelity.
My country freed itself from
one evil. I wish
another liberation would
follow.
Could I help in this? I don't
know.
I'm truly not a child of the
ocean,
as Antonio Machado wrote
about himself,
but a child of air, mint, and
cello
and not all the ways of the
high world cross paths with the life that-so far-
belongs to me.
Adam Zagajewski
Without End
Chân Dung Tự Họa
Giữa cái PC, cây viết chì, và
cái máy đánh chữ
nửa ngày của tôi
trôi qua.
Một ngày nào nó sẽ là nửa thế kỷ.
Tôi sống trong
những thành phố
lạ và thỉnh thoảng lèm bèm
với những người lạ
về những
gì lạ với tôi.
Tôi nghe nhạc hơi
bị nhiều: Bach,
Mahler, Chopin, Shostakovich.
Tôi nhìn thấy ba
thành phần ở
trong nhạc: yếu đuối, quyền uy, và đau đớn.
Thành phần thứ tư
thì không có
tên
Tôi đọc những thi
sĩ, còn
sống hay đã chết, họ dậy tôi
sự kiên trì, niềm
tin, và
lòng tự hào. Tôi cố hiểu
những triết gia
lớn – nhưng
thường chỉ vớ được
tí mẩu vụn của
những tư tưởng
quí báu của họ.
Tôi thích những
chuyến đi dạo
dài ở trên những đường phố Paris,
nhìn đồng loại của
tôi, vội vã bởi ham muốn, giận dữ, và ước muốn;
theo dõi một
đồng bạc, chuyền từ tay người này qua tay người nọ,
và đồng bạc mòn
dần đi, mất luôn
cái dáng tròn tròn của nó
(cái mặt nhìn
nghiêng của vị hoàng đế in trên
đồng bạc thì cũng mòn mất tiêu)
Bên cạnh tôi cây
cối vô tình
đối với tôi, vì chẳng thấy chúng biểu hiện hay ấn tượng gì cả,
thay vì vậy, thì
là một mầu xanh tuyệt hảo, dửng dưng tuyệt hảo.
Những con chim đen
bao phủ
những cánh đồng
kiên nhẫn đợi, như
những góa phụ Tây Ban Nha.
Tôi thì chẳng còn
trẻ nữa,
nhưng luôn luôn có 1 thằng cha nào đó già hơn tôi.
Tôi thích một giấc
ngủ sâu,
khi tôi ngưng hiện hữu,
và những chuyến
đạp xe đạp thật nhanh, trên những con
đường quê,
khi những cây
dương và những nhà cửa tan biến, nhạt nhòa đi
như những đám mây
trong những ngày nắng.
Đôi khi, trong
viện bảo tàng, những bức họa nói với tôi,
và sự tiếu lâm bất
thình lình biến mất.
Tôi mê nhìn mặt bà
xã mình.
Mỗi chủ nhật tôi
đều goi điện
thoại cho ông già của tôi.
Mọi chủ nhật khác
tôi gặp bạn
hữu,
để chứng tỏ lòng
trung thuỷ
của tôi.
Xứ sở của tôi tự
nó rũ ra khỏi
một cái ác. Tôi cầu chúc
một cuộc giải
phóng khác sẽ tiếp theo.
Liệu tôi có làm
được cái gì
trong vụ giải phóng sau này đó? Tôi không chắc lắm đâu.
Tôi thực sự không
phải là 1
đứa con của biển,
như Antonio Machado viết về anh ta,
nhưng mà là 1 đứa
con của không khí, của bạc hà, và đại hồ cầm,
và không phải tất
cả những con đường của thế giới cao, cho tới giờ này
đụng với những con
đường của cuộc đời thuộc về tôi
*
… thích nhất
mấy
bài của Adam Zagajewski, câu:
Gió tháng Chạp giết hy vọng, nhưng đừng để nó lấy mất...
niềm hứng khởi của
GNV!
DV
*
Đa tạ.
NQT
*
A FLAME
God, give us a long winter
and quiet music, and patient
mouths,
and a little pride-before
our age ends.
Give us astonishment
and a
flame, high, bright.
Một ngọn lửa
Chúa ơi, cho GNV một mùa đông
dài
và nhạc trầm lặng, những cái
miệng nhẫn nại
và một tí phách lối - trước
khi những ngày già của hắn ta chấm dứt!
Hãy cho Gấu Già sự ngỡ ngàng,
kinh ngạc
và một ngọn lửa, cao, sáng.
Adam Zagajewski
Without End
FOR YOU
It's not the only poem-are
you asleep now
in a cloud of woolen
dreams-I've written for you.
For you, triumphant, smiling,
lovely,
but also for you, conquered
and subdued,
(although I've never
understood
who could defeat you!),
for you, mistrustful and
uneasy,
I've written poem after poem,
as if hoping one day-like the
tortoise
– to reach, by way of faulty
words
and images, the place where
you have been so long,
where life's lightning carried you.
Cho Em
Đây không phải là bài thơ độc
nhất – em lúc này thì đang ngủ
ở giữa một
đám mây của những giấc mơ mượt mà – anh viết cho em.
Cho em, thắng thế, mỉm chi, đáng
yêu,
và cũng vẫn cho em, bị chinh
phục, và chịu trận
(mặc dù anh chẳng bao giờ
hiểu
được,
ai có thể đánh bại em),
cho em, chẳng đáng tin cậy, và
cũng thật khó khăn
anh viết bài thơ này tới bài thơ khác
như thể, để hy vọng, có 1
ngày
nào,
đài gương soi đến dấu bèo-
hay,
như 1 con rùa
– bò tới được -
bằng những từ ngữ và hình ảnh không hoàn hảo,
– lâu đài em hằng ngự,
nơi ánh
sáng cuộc đời nâng niu em.
Adam Zagajewski
Without End
Thơ mỗi ngày
November 18, 2010 5:49:49 AM
Kính bác Gấu:
Thơ
mỗi ngày mỗi dày đặc, trên Tản Viên,
nhưng thơ thứ thiệt, thì bao nhiêu cho đủ? Hầu như bài nào cũng hay,
thích nhất
mấy bài của Adam Zagajewski, câu:
Gió tháng Chạp
giết hy vọng, nhưng đừng để nó lấy
mất... niềm hứng khởi của GNV!
À, từ đầu đến cuối thấy bác
lèm bèm hoài hoài về Brodsky, sao không giới thiệu thơ của ông?
Rất cảm ơn sự miệt mài của
bác.
DV
*
Tks
Tôi thích giới thiệu những
essays của Brodsky hơn. Chúng có gì liên quan tới cái xứ Bắc Kít ngày
nào của tôi.
Hồi mới ra được hải ngoại, tôi biết đến Brodsky là nhờ đọc Coetzee viết
về ông
trên tờ NYRB, 1 bài viết về những tiểu luận của B. Khi đó, vốn liếng
tiếng Anh
quá ít ỏi, đọc cái được, cái mất, bây giờ, đọc lại, cũng là để mong có
hứng viết
về xứ Bắc Kít, những ngày đi tù VC của tôi "vs" của Brodsky!
Nhưng trên TV cũng có 1 bài
thơ thật là tuyệt vời của Brodsky, gửi cô con gái.
Post lại ở đây, trong khi chờ
hứng, dịch tiếp Phận lưu vong
Thân
NQT
To
My Daughter
Give
me another life, and I”ll be singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the former.
Yet
partly because no century from now on will ever manage
without caffeine or jazz, I’ll sustain this damage,
and through my cracks and pores, varnish and dust all over,
observe you, in twenty years, in your full flower.
On
the whole, bear in mind that I'll be around. Or rather,
that an inanimate object might be your father,
especially if the objects are older than you, or larger.
So keep an eye on them always, for they no doubt will judge you.
Love
those things anyway, encounter or no encounter.
Besides, you may still remember a silhouette, a contour,
while I'll lose even that, along with the other luggage.
Hence, these somewhat wooden lines in our common language.
1994
Joseph Brodsky
Gửi
Con Gái Tôi
Cho
tôi một đời khác, và tôi sẽ hát
ở Caflè
Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng
ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường
hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng cuộc đời trước.
Mà có lẽ, một phần, là còn do
điều này:
không một thế
kỷ nào kể từ nay, mà lại có thể xoay sở, nếu thiếu cà-phê-in và
nhạc jazz,
bố sẽ cố chịu
chuyện đó, như cái bàn cái ghế, với những vết nứt, nẻ, véc ni, mớ
bụi bặm trên mình,
ngắm con gái
của bố, trong hai mươi năm, nở hết những cánh hoa, và trở thành một
đóa hoa rạng rỡ.
Thôi
thì thôi, cũng thế thôi, nhưng hãy nhớ điều này,
rằng bố
vẫn quanh quẩn bên con,
cái bàn
cái ghế vô hồn, bất động,
có thể
là bố đó
nhất là
khi chúng già nua, cồng kềnh, kịch cợm hơn con
Vậy thì
hãy để mắt tới chúng
bởi vì,
không nghi ngờ chi, chúng sẽ cân nhắc mọi chuyện giùm cho con,
[hoặc
cau mày nhắc nhở con, một điều gì đó].
Yêu
mọi điều, mọi chuyện ở trên đời, dù gì đi chăng nữa, dù gặp hay không
gặp.
Ngoài ra còn điều này:
Con vẫn còn nhớ một hình bóng, một dáng vẻ,
Trong khi bố mất tất cả, cùng với cả một hành lý khác.
Thí dụ như là những dòng đời khô héo,
của cái tiếng nói chung,
của cha con ta...
Trang
Joseph
Brodsky
Bài Gửi Con Gái Tôi của Brodsky, qua bản tiếng Việt của bác,
đọc lần
đầu đâu như hồi năm ngoái, quả rất tuyệt, thỉnh thoảng tôi cũng đọc đi
đọc lại,
cảm xúc thật lắng đọng...
Cảm ơn bác!
DV
*
Đa tạ. Bài thơ của B. đã gợi
hứng cho GNV viết ra được cái thư gửi cô Xì Lô, cô gái út của tụi này,
vào cái
ngày 30 Tháng Tư hình như đầu tiên ở hải ngoại, và được đăng trên 1 tờ
báo địa
phương, ký tên Quách Tường, là nick của Gấu Cái phu nhân!
*
Xì Lô thân thương,
Xì Lô,
cô Út sinh ngày 13 tháng 4 năm 1975.
Sau này những lúc gia đình quá khổ sở, bố mẹ cô vẫn thường than thở,
phải chi
không có cô chắc là gia đình đã đi Mỹ từ những ngày tháng Tư năm đó
rồi. Bữa
nay sinh nhật thứ 21, bố mẹ chỉ có cô ở bên. Mấy anh chị của cô ở quá
xa, biết
ngày nào gặp lại. Bố mẹ chỉ còn biết cầu nguyện tất cả đều khỏe mạnh,
an lành.
Bố mẹ chỉ mong Xì Lô được hạnh phúc.
Người ta nói, những đứa trẻ
sinh ra từ một gia
đình vợ chồng không hòa hợp, nói rõ hơn, những đứa trẻ bất hạnh thường
dễ thành
công trên đường đời nếu chúng vượt qua được những mặc cảm tuổi thơ. Có
lần cô
nói, từ khi con qua đây, mới đó mà đã gần nửa năm, gạt nỗi nhớ anh chị
qua một
phần trái tim, mỗi lần thấy bố mẹ vui đùa con ứa nước mắt vì sung
sướng. Suốt
tuổi thơ chúng con chưa hề biết đến những giọt nước mắt hân hoan hạnh
phúc đó.
Thật
cũng may, cuối cùng bố mẹ lại tìm thấy
nhau, cho dù bố mẹ biết rất rõ, nếu cuộc đời được làm lại từ đầu, thì
mọi
chuyện vẫn y nguyên như vậy. Chắc là bố sẽ lo cho mẹ thêm một chút xíu,
nhờ vậy
mẹ sẽ bớt đi một chút, niềm tủi thân.
Như con biết đấy, gia đình
mình, ngoài chú Sĩ
đã tử trận, bố còn một người chị và một đứa em trai út ở miền Bắc.
Trong những năm
chống Mỹ cứu nước, chú Bảo bị qui thành phần có mẹ và anh di cư nên
không được
quyền đi bộ đội, sau đó chú làm công nhân cho nhà máy đường Việt Trì,
nhờ vậy
mà còn sống. Bá Hiền lấy chồng có được một đứa con gái. Chồng vào Nam
chiến đấu
mất tích. Qua đây gần một nửa thế kỷ, bố mới nhận được tin tức của chị
và em.
Đúng là nửa thế kỷ, bởi vì khi ông Nội mất tích ngay từ năm 1945 vì tai
họa
đảng phái, bà Nội phải đem mấy đứa con gửi mỗi đứa một nơi, bố không
gặp bá
Hiền, chú Bảo kể từ ngày đó.\
Con đã đọc thư chú Bảo thì biết gia đình mình
ở ngoài Bắc. Đó là quê hương mà bố phải từ bỏ, theo bà Nội vào Nam,
và khi chú
Sĩ chết, bố tự nhủ sẽ chẳng khi nào trở về. Đấy là một phần lý do tại
sao bố
lấy mẹ. Bố muốn các con có một quê hương Miền Nam,
các con sẽ cần tới nó như bố
cần tới mẹ vậy.
Trước
tháng tư năm 75, ngoài công việc của một
công chức, bố còn làm thêm cho một hãng thông tấn nước ngoài. Khi hiệp
định Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam
được ký kết, bố thôi làm cho
họ, tính bỏ Sài-gòn đưa gia đình về một tỉnh lỵ. Nhưng biến cố 30 tháng
4 năm
75 đã xóa sạch mọi dự tính. Ngày 28 hay 29 tháng 4 bố không còn nhớ rõ,
thành
phố đang trong cơn hỗn loạn, bố gặp lại người sếp cũ, lúc này làm cho
tờ báo
Time, tới Sài-gòn làm phóng sự về cuộc di tản. Lúc đó cơ quan DAO của
Mỹ đã
đóng cửa, không còn máy bay C.130, anh ta bảo chỉ có thể đi bằng trực
thăng ra
Đệ Thất Hạm Đội, và như vậy chỉ một mình bố đi được thôi. Bố không thể
bỏ mẹ và
các con trong lúc mấy chục binh đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang chờ sẵn ở
ngoại ô
thành phố và viễn tượng biển máu đang chờ đợi người dân Sài-gòn. Chết
một đống
còn hơn sống một người, Bá Hiền viết thư qua cho biết, ngày xưa bà Nội
đã nói
với Bá như vậy, lần về đón Bá cùng đi vào Nam, nhưng Bá không đi vì còn
mê
phong trào. Bố đã ở lại. Phải chi ngày đó bố chạy theo người Mỹ, gia
đình mình
đã không gặp những cảnh ngộ đói khổ, tủi nhục như hầu hết những gia
đình Miền Nam
khi Cộng
Sản Bắc Việt thắng trận. Nhưng chính những ngày tháng sống dưới chế độ
Cộng
sản, những ngày tù đầy, những nỗi đói khổ mà gia đình mình đã trải qua
khiến bố
mẹ hiểu nhau hơn. Vả lại, sự thành đạt ở nước người nhiều khi phải trả
một giá
quá đắt. Chắc chắn một điều, con không thể quên tiếng Việt. Đó là khí
giới hữu
hiệu nhất để chống lại sự tha hóa mà đôi khi người ta lầm lẫn là hội
nhập. Và
để chống lại sự cô đơn, niềm lãng quên, và tuyệt vọng.
Hôm nay
là sinh nhật của con, đúng ra chẳng
nên nhắc chuyện đau buồn nhưng tháng Tư vẫn luôn luôn làm những ngưòi
như bố mẹ
cảm thấy bứt rứt. Có lẽ đã đến lúc bố mẹ đem cất kỹ lá cờ phủ trên quan
tài chú
Sĩ vào một nơi thật yên ổn, thật thiêng liêng là trái tim của mình...
Nguyễn Quốc Trụ
*
A Book
Full of Pictures
Father
studied theology
through the mail
And this was exam time.
Mother knitted. I sat quietly
with a book
Full of pictures. Night fell.
My hands grew cold touching
the faces
Of dead kings and queens.
There
was a black raincoat
in
the upstairs bedroom
Swaying from the ceiling,
But what was it doing there?
Mother's long needles made
quick crosses.
They were black
Like the inside of my head
just then.
The
pages I turned sounded
like wings.
"The soul is a
bird," he once said.
In my book full of pictures
A battle raged: lances and
swords
Made a kind of wintry forest
With my heart spiked and
bleeding in its branches.
Một Cuốn
Sách Đầy Hình
Ông cụ
học thần học qua ‘meo’
Và lúc này là thời gian trả bài.
Mẹ đan. Tôi ngồi im lặng với cuốn sách
Đầy những hình. Đêm xuống.
Tay tôi mỗi lúc một thêm lạnh khi sờ vô mặt
Của những vì vua, những bà hoàng
hậu.
Có một
cái áo mưa đen
ở phòng
ngủ trên lầu
Cái áo mưa đen lắc la lắc lư
từ trên trần nhà,
Nhưng mà nó làm cái gì thế?
Những cây kim đan dài của Mẹ đi vội
mấy đường chéo,
Những đường chéo đen,
Như ở trong đầu tôi lúc đó.
Những
trang sách sột soạt như
tiếng cánh vỗ
“Linh hồn là một con chim”, có
lần ông nói
Trong cuốn sách của tôi đầy
những hình
Một trận đấu thật dữ dằn: gươm
và giáo
Một rừng gươm giáo lạnh lẽo
Với trái tim của tôi bị đóng đinh
ở trên những cành cây,
máu chảy ròng ròng.
Charles Simic
Simic trả lời phỏng vấn
Ông tới Mẽo khi còn là 1 đứa
con nít. Ông bật mí cho biết cái mánh hội nhập nó ra làm sao?
Phiến diện mà nói, tôi hội nhập
cũng khá nhanh. Tiếng Anh cháo húp quanh, nhờ vậy mà đọc sách, có thêm
bạn, lậm vô xã hội mới, văn hóa phổ thông... Cũng mất đâu chừng hai, ba
năm. Cái
còn lại thấm từ từ khi sống cùng 1 cái đời như những người đương thời.
Tôi vô quân đội,
rồi Cuộc Chiến Mít [như ông Gấu nói], rồi thì thập niên 1960 etc… 40
năm dòng
dã tại xứ sở này, và tôi cảm thấy hoàn toàn ở nhà.
Ông nhận được "bố cu" giải thưởng,
kể cả Pulitzer. Nhiều như thế có ảnh hưởng gì tới ông?
Ảnh hưởng khỉ gì. Thơ của tôi
bán bảnh hơn nhiều. Chúng xâm nhập nhiều trường trung học qua những
tuyển tập.
Mọi người nghĩ, thằng chả khôn lắm! Không, tôi
không phải như vậy. Nói 1 cách rốt ráo, thì như… châm ngôn: “Mọi phép
lạ
chỉ kéo dài được 3 bữa”!
Tới một mức độ nào, ở Mẽo, nếu
nói về cái sự thăng bằng giữa, 1 bên là những nguyên lý vật chất, và 1
bên là những
nguyên lý về tinh thần?
Chẳng có mắc mớ gì giữa hai món đó. Mẽo không
phải là 1 xứ sở; nó là 1 đại lục
được cư ngụ bởi chồng chất những truyền thống, văn hóa, tín ngưỡng, một
nơi chốn
đầy những mâu thuẫn, ngược ngạo. Cái mâu thuẫn, ngược ngạo nhất, theo
tôi, là
chúng tôi bằng 1 cách nào đó, cứ sống bên nhau hoài hoài như thế. Hay,
nói
như 1 ông
VC nào đó, cầm tay nhau đi dưới bảng hiệu Mẽo!
Và đó là cái viễn ảnh hợp
nhất độc nhất. Một lý tưởng về 1 dân tộc, thống nhất, và khác biệt.
[suite]
Nguồn
*
Dưới đây là bài thơ tiếng Anh
đầu tiên mà Gấu biết, và hiểu được, thời gian ở trại tị nạn Thái Lan.
Bài này, như
trên net cho thấy, là 1 trong 500 bài số 1 của thế giới.
Stopping
by Woods on a Snowy
Evening
Dừng ngựa
bên rừng buổi chiều
tuyết rụng
Rừng này của ai tôi nghĩ tôi
biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng
ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng
Ngựa của tôi chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung
quanh chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng
băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm
Nó bèn khẩy khẩy cái chuông
nhỏ
Như để nói với chủ của nó,
này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng
mỏng của hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp, tối, và sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa
phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Source