*

 





There’s something else in my past that I only recently realized contributed to my perseverance in writing poems, and that is my love of chess. I was taught the game in wartime Belgrade by a retired professor of astronomy when I was six years old and over the next few years became good enough to beat not just all the kids my age, but many of the grownups in the neighborhood. My first sleepless nights, I recall, were due to the games I lost and replayed in my head. Chess made me obsessive and tenacious. Already then, I could not forget each wrong move, each humiliating defeat. I adored games in which both sides are reduced to a few figures each and in which every single move is of momentous significance. Even today, when my opponent is a computer program (I call it “God”) that outwits me nine out of ten times, I’m not only in awe of its superior intelligence, but find my losses far more interesting to me than my infrequent wins. The kinds of poems I write—mostly short and requiring endless tinkering—often recall for me games of chess. They depend for their success on word and image being placed in proper order and their endings must have the inevitability and surprise of an elegantly executed checkmate.

Why I Still Write Poetry
Charles Simic

Còn điều này nữa trong quá khứ mà chỉ mới đây thôi tôi mới nhận ra, nó đóng góp vào cái sự “dai như đỉa”, kiên trì mần thơ, đó là tình yêu của tôi dành cho môn chơi cờ. Tôi học chơi cờ vào thời gian chiến tranh ở Belgrade, sư phụ là 1 vị giáo sư thiên văn về hưu, tôi khi đó 6 tuổi, và chỉ vài năm tiếp theo, tôi trở thành một cao thủ, nghĩa là, chơi đủ bảnh để hạ không chỉ tất cả đám con nít cùng tuổi,  mà còn rất nhiều đấng trưởng thành lối xóm. Những đêm mất ngủ đầu tiên trong đời, tôi nhớ lại, thì đều là do những ván cờ bị thua hành, khi tôi chơi lại chúng ở trong đầu. Cờ ám tôi và biến tôi trở thành ngoan cố, kiên cường. Ngay từ lúc còn bé tí như thế đó, mà tôi đã không thể nào quên nổi một nước cờ đi lầm, một trận cờ thất bại nhục nhã. Tôi cực mê những trận cờ mà đôi bên cùng lâm vào cái thế gọi là “tàn cờ”, mỗi bên chỉ còn vài quân, và mỗi nước đi, vào lúc đó, mới cực kỳ ý nghĩa làm sao. Ngay cả bây giờ, khi đối thủ của tôi là một chương trình máy tính (tôi gọi nó là “Thượng Đế”), đánh bại tôi 9 trong 10 trận, tôi không chỉ kinh sợ cái thông minh trên cơ của nó, nhưng còn nhận ra, những lần thua của tôi mới thú vị làm sao so với những lần thắng hiếm hoi. Những thứ thơ mà tôi viết, phần lớn là ngắn, và đòi hỏi sửa đi sửa lại, chắp chắp, vá vá hoài hoài, bất tận – thường gợi lên ở nơi tôi những trận cờ. Sự thành công của chúng tùy thuộc từ ngữ và hình ảnh được đặt đúng thứ tự, và những kết thúc của chúng thì không tránh được, và ngạc nhiên, như một cú chiếu bí lịch lãm.
NQT dịch

 

Một điều nữa trong quá khứ mà tôi chỉ gần đây mới phát giác đã giúp tôi kiên trì làm thơ, đó là nỗi đam mê cờ vua. Vào thời chiến ở Belgrade, năm tôi lên sáu, một giáo sư thiên văn học về hưu đã dạy tôi cách chơi cờ vua và trong nhiều năm sau đó tôi đã đủ giỏi để đánh bại không chỉ đám lỏi tì cùng lứa với tôi, mà ngay cả nhóm người lớn trong khu phố. Những đêm mất ngủ đầu tiên trong đời, tôi nhớ, là do các ván cờ tôi đã thua và chơi lại trong đầu. Cờ vua làm tôi bị ám ảnh, thành ngoan cường. Ngay lúc còn bé, tôi không thể quên mỗi nước đi sai, mỗi thất bại nhục nhã. Tôi say mê những ván cờ lúc hai bên chỉ còn lác đác mấy quân cờ và mỗi nước đi là cả một quyết định trọng đại. Thậm chí ngày nay, khi đối thủ của tôi là một chương trình máy tính (tôi gọi nó là "Thượng Đế") đánh bại tôi chín trong mười bận, tôi không chỉ bái phục trí thông minh vượt trội của nó, mà cũng thấy rằng những ván thua của tôi thú vị gấp trăm nghìn lần những ván thắng hiếm hoi. Các loại thơ tôi sáng tác – phần nhiều là thơ ngắn và thường đòi hỏi những duyệt sửa bất tận – gợi cho tôi những ván cờ vua. Sự thành công của những bài thơ phải dựa trên vị trí ngôn từ và hình ảnh được đặt theo đúng thứ tự; kết thúc của chúng cũng phải có sự chắc nịch nhưng bất ngờ không khác một cú chiếu bí tuyệt xảo.

Tại Sao Tôi Vẫn Làm Thơ?
Charles Simic
Chuyển ngữ: Đinh Từ Bích Thúy
 

PRODIGY 

I grew up bent over
a chessboard.

I loved the word endgame.

All my cousins looked worried. 

It was a small house
near a Roman graveyard.
Planes and tanks
shook its windowpanes. 

A retired professor of astronomy
taught me how to play. 

That must have been in 1944. 

In the set we were using,
the paint had almost chipped off
the black pieces. 

The white King was missing
and had to be substituted for. 

I'm told but do not believe
that that summer I witnessed men
hung from telephone poles. 

I remember my mother
blindfolding me a lot.

She had a way of tucking my head
suddenly under her overcoat. 

In chess, too, the professor told me,
the masters play blindfolded,
the great ones on several boards
at the same time. 

Người Phi Thường

 

Tôi lớn lên, trên
một cái bàn cờ 

Tôi mê cái từ tàn cuộc 

Tất cả bà con họ hàng đều tỏ ra buồn lòng. 

Ðó là 1 căn nhà nhỏ
ở gần một nghĩa địa Ba Lan
Máy bay và xe tăng
lắc lắc mấy khung cửa sổ của nó 

Một vị giáo sư thiên văn về hưu
dạy tôi chơi cờ 

Hẳn là năm 1944

Bộ cờ của chúng tôi
Quân đen tróc sơn gần hết 

Tướng Trắng, mất
Phải thay bằng một mẩu gỗ 

Tôi nghe kể nhưng không tin
rằng mùa hè năm đó, tôi chứng kiến những người đàn ông
treo trên những cột điện thoại 

Tôi nhớ mẹ tôi đã
bịt mắt tôi khá nhiều lần

Bà luôn luôn có cái cách của bà
bất thình lình cuốn đầu tôi
trong chiếc áo khoác của bà 

Trong cờ tướng, thì cũng vậy, vị giáo sư biểu tôi
những bậc thầy chơi cờ mắt bịt kín,
những bậc đại sư phụ thường chơi,
cùng một lúc vài cuộc cờ.

Charles Simic

The very deliberate movement of this poem, its constant stopping and starting, seems to track the memory's discoveries, sudden bursts of brief recall. We recognize that the poem may draw on personal experience, but we also sense its suppression of personal emotion; the deadpan manner finally makes the emotional impact stronger, but it also serves to divert attention from personal experience and memory to the emerging pattern of chess game as refuge from (and mirror of) the world of tanks, planes, and executions, a world which also stretches out to include the history implied by a Roman graveyard and the realms studied by the professor of astronomy: several boards at once. The ending is wonderfully inconclusive, especially as it refers us back to the title: what kind of prodigy the boy is or will be is left open, and we duck out of his strange little world before we have answers.
What we'll retain is a strong sense of how firmly the mundane details of chess set and wartime have been elevated into a stunning design. Again, it is Simic the artist rather than Simic the refugee or deprived child who remains, as what I've called a responsible presence.

[Trích bài viết của David Young, điểm tập thơ Classic Ballroom Dances của Charles Simic, trong số báo Fields 24, mùa xuân 1981, sau được in trong Charles Simic, Essays on Poetry, Bruce Weigl biên tập, nhà xb The University of Michigan Press]

Cái chuyển động rất ư thong thả của bài thơ này, cái sự ngưng nghỉ, khởi động hằng hằng của nó, có vẻ như theo dõi, lần mò những khám phá của trí nhớ, những cú bật ra bất thình của một hồi ức ngắn, vụn. Chúng ta nhận ra bài thơ có thể sử dụng, khai thác kinh nghiệm cá nhân, nhưng chúng ta cũng cảm nhận ra, sự câu thúc, kìm kẹp, cố nén lại, cố dẹp bỏ, cảm xúc cá nhân, và chính cái bộ dạng bất cần, dửng dưng, làm mặt lạnh, đếch thèm vãi linh hồn [deadpan manner] sau cùng lại làm cho tác động tình cảm trở thành mạnh lên [“thánh nhân” vô tình coi… BHD như rơm rác, một đi không ngoái lại, mẹ già ba năm cũng đừng trông, chị thà coi như hạt bụi, em coi như hơi rượu cay…. là theo nghĩa này], nhưng còn được sử dụng để đánh lạc hướng, đừng nhìn về cái phía kinh nghiệm cá nhân, hay hồi ức, nhường chỗ cho sự trỗi dậy của những cuộc cờ, như là nơi ẩn trốn [một tấm gương của] cái thế giới của chiến xa, xe tăng, phi cơ, và những cuộc hành quyết, một thế giới vươn rộng ra, bao gồm lịch sử, một lịch sử  trong có cái nghĩa địa La Mã, và những “cõi trời” được nghiên cứu bởi vị giáo sư thiên văn: mấy cuộc cờ cùng một lúc, liền tù tì.
Cái kết thúc của bài thơ thì mới hững hờ, lửng lơ con cá vàng  tuyệt vời làm sao, đặc biệt là nó kéo chúng ta trở lại với cái tít của bài thơ: phi thường, thần đồng kiểu nào, cậu bé là, hay sẽ trở thành, câu hỏi này được bỏ ngỏ, và chúng ta chưa tìm thấy câu trả lời, thì bị cái kết của bài tống ra khỏi cái thế giới lạ thường nho nhỏ của cậu.

Cái còn lại mà chúng ta sẽ giữ được thì là một cảm quan mạnh mẽ: vững vàng làm sao, những chi tiết trần tục về một bộ cờ và thời chiến được đẩy lên thành một “design” [kiểu mẫu] tuyệt trần đời.
Lại ở đây là một thi sĩ Simic, một nghệ sĩ hơn là một Simic kẻ tị nạn, hay một đứa bé bị tước đoạt, một con người–cái còn lại, như tôi gọi: một hiện diện trách nhiệm.


Liu Xiaobo
Bi Khúc Bốn Tháng Sáu

Bi Khúc 3 [nguyên tác]

Memory

Under house arrest with the Public Security Bureau
in the northwest outskirts of Beijing, 613/1995
Sixth anniversary offering for 6/4

1 

Late in the night
suspended at a sheer edge
So often woken up
wanting to see what clearly
So often sleep's like facing an abyss
Thick fog spreads within the body
gentle wind, intermittent flash
a needle migrates through the veins
stitches together scattered fragments of words
Ideals' threads destroyed
like lovers torn apart
betrayed by one another's reproaches


THE CHURCHES OF FRANCE

For Czeslaw Milosz

The churches of France, more welcoming than its inns and its poems,
Standing in vines like great clusters of grapes, or meekly, on hilltops,
Or drowned in valleys, on the floor of a green sea, in a dry
    landscape,
Abandoned buildings, deserted barns
Of gray stone, among gray houses, within gray villages,
But inside pink or white or painted by the sun coming through
    stained glass.
Little Romanesque shrines with stocky frames, like craftsmen shaped
    by their labor,
Pascal's invisible church, sewn into canvas,
And slim cathedrals like herons above the cities, seen clearly from
    the highway, the loveliest is in Chartres,
Where stone stifles desire.
The mills of the Cistercians, turning water in Sunday streams, and
   their ponds,
Synagogues, elder sisters, betrayed and plundered so often, discreet,
The ruined abbey in Normandy, where among the raspberry
    bushes a black adder basks in the heat,
A small tree, growing on the roof of a village church, a young ash
    that will become a monk,
The basilica in Vezelay, belonging to Magdalene, pink as a wild
    strawberry's mouth.
Claudel's church, thickset, almost neckless, inspired, sometimes
    full of spite
And the church in Tournus, whose arches must make the Arabs
    proud too,
The moss-covered walls of modest chapels that have forgotten
    their names
And the fortified basilica in Albi, a masterwork of military art,
    sheathed in a dragon's skin,
And in the square the peddlers of nuts, holy pictures, and aniseed
    cakes.
But at night the peddlers vanish and only walls and windows,
    blind as kittens, remain,
And the vast night and much silence and sometimes a dying
    comet's roar.
Romanesque columns in cloisters, as if carved by brilliant children.
Meadows, where lovers meet.
The stone Jeremiah in Moissac, with a kind face.
The church of Maurice, who learned my language and lives in
    Warsaw among the poorest.
The churches of France, dark vessels, where the shy flame of a
    mighty light wanders.

Adam Zagajewski 

Nhà thờ xứ Tẩy

Gửi Czeslaw Milosz

Nhà thờ xứ Tẩy, niềm nở hơn so với quán, với thơ của nó,
Đứng ở trong đám nho, như những trùm trái, hay, nhu mì hiền lành, ở trên đỉnh đồi,
Hay dưới thung lũng, trên thảm biển xanh, trong phong cảnh khô,
Những tòa biu đinh hoang phế, những nhà kho tàn tạ
Bằng đá xám, giữa những ngôi nhà xám, trong những làng xóm xám,
Nhưng bên trong, hồng và trắng, hay là được sơn phết bằng ánh mặt trời xuyên qua những cửa kính đầy vết trầy.
Những miếu nhỏ Trung Cổ, chắc nịch, như những người thợ thủ công được khắc bằng cái dáng cần lao của họ,
Ngôi nhà thờ vô hình của Pascal, được khâu vào tấm vải bố,
Và những ngôi nhà thờ mảnh mai như những cánh hạc, ở bên trên thành phố,
Nhìn thật rõ từ đường cao tốc, đẹp nhất, đáng yêu nhất, là ở Chartres,
Nơi đá phủ kín niềm ao ước.
Những máy xay của dân làng Cîteaux, biến nước thành những con suối Chủ Nhật, và những cái ao của họ,
Những giáo đường, những nữ tu lớn tuổi, thường xuyên bị phản bội, cưỡng đoạt, kín đáo,dè dặt,
Tu viện hoang tàn ở Normandy, nơi, giữa những bụi  mâm sôi, một con rắn độc đen thui nằm trong cái nóng,
Một cái cây nhỏ, nhô lên từ mái ngôi nhà thờ làng, một cây tần bì còn non, chắc là sau này sẽ trở thành một tu sĩ
Tòa Basilia ở Vezelay, thuộc về Magdalene, hồng như miệng một trái dâu dại.
Nhà thờ của Claudel, dầy một cục, hầu như không có cổ, gợi hứng, đôi lúc làm giận tràn hông.
Và nhà thờ ở Tournus, những vòm của nó hẳn phải khiến những người Ả Rập cũng phải tự hào.
Những bức tường rêu phủ của những nhà thờ nhỏ đã quên cả cái tên của chúng.
Và tòa Basilica như 1 pháo đài ở Albi, đúng là một kiệt tác nghệ thuật nhà binh, lặn vào trong bộ da của 1 con rồng.
Và ở quảng trường, những người gánh rong bán trái hạch, những bức tượng thánh, và bánh hạt anít.
Nhưng về đêm, những người bán hàng rong biến mất, những bức tường, những cửa sổ, mù như những con mèo, còn lại.
Và đêm, rộng, và im lặng, nhiều, và đôi khi, tiếng gào của 1 ngôi sao chổi đang ngỏm.
Những cây cột La Mã, ở trong những tu viện, như được tạc bởi những đứa trẻ thông minh.
Những đồng cỏ, nơi những kẻ yêu nhau gặp nhau.
Khối đá Jeremiah ở Moissac, bộ mặt tử tế.
Nhà thờ của Maurice, người học ngôn ngữ của tôi, và sống ở Warsaw giữa những kẻ nghèo nhất
Những nhà thờ ở xứ Tẩy, những chiếc tầu u tối,
nơi ngọn lửa e thẹn của một thứ ánh sáng hùng vĩ,
lang thang.



Adam Zagajewski
Nhà thờ xứ Tẩy

Nhà thờ xứ Tẩy, niềm nở hơn so với quán, với thơ của nó.
Đứng ở trong đám nho, như những trùm trái, hay, nhu mì hiền lành, ở trên đỉnh đồi,
Hay dưới thung lũng, trên thảm biển xanh, trong phong cảnh khô,
Những biu đinh hoang phế, những nhà kho tàn tạ
Bằng đá xám, giữa những ngôi nhà xám, trong những làng xóm xám
Nhưng bên trong, màu hồng và trắng, hay là được sơn phết bằng ánh mặt trời xuyên qua cửa kính đầy vết trầy
Những miếu nhỏ Trung Cổ, chắc nịch, như những người thợ thủ công được khắc bằng cái dáng cần lao của họ.
Ngôi nhà thờ vô hình của Pascal, được khâu vào tấm vải bố.
Và những ngôi nhà thờ mảnh mai như những cánh hạc, ở bên trên thành phố, nhìn thật rõ từ đường cao tốc, đẹp nhất, đáng yêu nhất, là ở Chartres,
Nơi đá phủ kín niềm ao ước.
Những máy xay của dân làng Cîteaux, biến nước thành những con suối Chủ Nhật, và những cái ao của họ,
Những giáo đường, những nữ tu lớn tuổi, thường xuyên bị phản bội, cưỡng đoạt, kín đáo,dè dặt,
Tu viện hoang tàn ở Normandy, nơi, giữa những bụi  mâm sôi, một con rắn độc đen thui nằm phơi trong cái nóng

Một cái cây nhỏ, nhô lên từ mái ngôi nhà thờ làng, một cây tần bì còn non, chắc là sau này sẽ trở thành một tu sĩ

Cái bài này GCC tính dịch, và đã dịch được 1 khúc, coi lại, thấy mất tiêu.
Bây giờ thấy em này dịch, đọc, thấy không sai, không loạn, nhưng đếch phải của Charles Simic.
Mất đi chất tếu của ông.
Simic cực tếu, và cùng lúc, cực thê lương, đúng như cái nick người đời ban cho ông, nhà siêu hình trong bóng đêm.
Không… siêu hình, làm sao làm nổi câu thơ thần sầu, sau đây.

Simic has a beautiful two-line poem called "The Wind":

Touching me, you touch
The country that has exiled you. 

This is his vision: a man lives in apparent intimacy with the world surrounding him-touching and being touched by it and yet all the while knowing himself to be an exile, a stranger who can at best only pretend to be at home here. Either the poet or the wind could be the speaker, and still the point would be the same.
Robert Shaw 

Gió 

Mi sờ vô ta
Là mi sờ vô cái xứ sở đã biếm mi, đày mi,
Làm ngọn gió lưu vong
Charles Simic 

Nước mưa ở Mẽo chua như cứt mèo, như 1 anh Mít trong 1 truyện ngắn của NBT than thở.
Nó cũng là 1 tên Mít lưu vong 

Đây là viễn ảnh của anh ta: một người đàn ông sống trong 1 căn phòng, trong cái thân mật bề ngoài, với thế giới bao quanh anh ta - sờ và bị sờ bởi nó, tuy nhiên, anh ta biết, anh ta là 1 tên lưu vong, một kẻ tốt hơn hết thì phải làm ra vẻ đây là nhà của mình. Thi sĩ hay gió thì đều có thể là kẻ nói lên ở đây, và là gió hay là thi sĩ, thì cũng rứa.

GCC đã từng dịch bài “Bí mật của tôi”, cũng ngắn ngắn như bài “Tại sao tớ vưỡn mần thơ”, nhưng tếu hơn nhiều.

Bài “Tại sao” này cũng tếu, và cũng có cái gọi là "siêu hình", ở trỏng, nhưng em DM không nhận ra.
Đó là chi tiết, về bà mẹ, cuối đời, lắc đầu về ông con, nó khùng từ hồi còn nhỏ, già cũng chưa hết khùng.
Nói rõ hơn, chỉ những tên khùng mới làm thơ, đọc thơ, viết về thơ, và dịch thơ.
Và.. tán thi sĩ! Nữ thi sĩ!
Hà, hà!

Già rồi, vãi...  linh hồn hoài, không sợ con nít nó cười cho ư?
Thằng cha này, kiếp trước hẳn là 1 con đỉa.
Dai như đỉa!

Ta đâu có thì giờ?
Lo cho chồng, cho con, nhà thờ, chùa chiền.
Mần thơ nữa chứ.
Nhưng, thương hại mi, ta cũng ráng viết vài dòng.

Tks
Take care
NQT


Bruce Weigl
The Metaphysician in the Dark: An Interview
Nhà Siêu hình trong Bóng tối: Một cuộc phỏng vấn

BW: Liệu là do cuộc hành trình từ Yugoslavia, một cuộc hành trình sau cùng đưa ông tới New York, làm ông thành nhà thơ? Liệu kinh nghiệm di dân, 1 cách nào đó, thúc ép ông đề ra những câu hỏi mà chỉ thơ ca mới có thể trả lời?

Charles Simic: Có thể. Nhưng bố ai mà biết được, who can tell? Tôi biết những gã cùng một cái nền y chang, trở thành kỹ sư, thợ sửa máy bưu điện. Về một mặt khác, kinh nghiệm di dân quả là có thúc ép tôi hỏi, và tiếp tục hỏi, một vài câu hỏi về lịch sử thế kỷ 20.

BW: Làm sao mà ông hòa giải, reconcile, những hình thức lớn rộng hơn của lịch sử, và lời cầu nguyện về những điều ghê rợn, the litany of terrors (kể cả những điều mà ông chứng kiến khi còn là 1 đứa con nít trong chiến tranh ở Yugoslavia) với những hình thức dành riêng, độc nhất, là những hình thức nghệ thuật?

CS: Nhà thơ Holderlin đã hỏi như vậy rồi: Tại sao thi sĩ trong thời kỳ đốn mạt? Và Heidegger trả lời: Vào thời đại đêm đen của thế giới, hố thẳm phải được kinh nghiệm, và chịu đựng. Và để làm được điều này, thì phải có người xuống hố thẳm, reach into the abyss. Tôi tiếp tục tin là, thơ nói nhiều hơn về cuộc sống tâm linh của 1 thời đại hơn là bất cứ 1 nghệ thuật khác. Thơ là cái chỗ, ở đó những câu hỏi cơ bản khác được đưa ra, về phận người.

Bí mật của tôi

Cái thói quen nằm mần thơ của tôi bắt đầu từ khi còn con nít. Như bất cứ một đứa trẻ bình thường, khoẻ khoắn khác, tôi thường giả đò bịnh vào buổi sáng, khi tôi quên không làm bài, và bà mẹ tôi thì đang cuống lên vì sợ đi làm trễ. Tôi biết cách làm trò ma thuật với cái ống đo nhiệt độ khi bà giúi nó vào nách tôi, và khi nhìn thấy con số trên ống nhiệt, bà hoảng liền. “Nằm trên giường, nghe chưa!”; chưa kịp nói hết câu thì bà đã biến mất sau cánh cửa.
Rất ư là 1 đứa con ngoan, có ý thức, tôi thành thực làm theo lời mẹ dặn, trải qua hàng giờ hạnh phúc tới chỉ, mơ mộng lăng nhăng, tưởng nhớ lăng nhăng, mơ ngày, và ngủ nướng cho đến khi bà trở về vào buổi chiều.
Ôi bà mẹ đáng thương của tôi.
Chỉ là 1 sự tình cờ, sau khi bà mất, thì tôi biết, bà đã từng làm bạn với một nhà soạn nhạc Serbian ở Paris, thập niên 1930, và ông này có thói quen làm nhạc khi nằm trong bồn tắm.
Cái ý nghĩ tay này có thể là bố mình, thì làm tôi vừa khủng khiếp vì sợ, vừa sướng điên lên vì hạnh phúc! Tôi nằm dài trên giường hăm hở mần thơ, còn ông, trong bồn tắm loay hoay với 1 hoà tấu khúc, trong khi mẹ tôi la lớn, nè, bố con mi có ai rảnh không, xuống vác bao rác ra nhà xe.
Ngày xưa phòng ngủ không có máy điều hòa không khí, thành thử tha hồ nằm nướng, nhưng bây giờ, có biết bao nhiêu thú vui đang chờ, trong cũng như ngoài nhà, thành thử, với 1 gã như tôi, thật khó mà nướng hoài được hoài. Vào mùa hè, tôi có thể nằm dưới bóng cây, nghe chim hót, hoặc nghe lá hát, thứ âm nhạc của riêng nó, nhưng kẹt là ở chỗ đó, cảnh càng đẹp bao nhiêu tôi càng cụt hứng làm thơ bấy nhiêu. Để tôi nằm dài trên sân thượng khách sạn, nhìn ra Địa Trung Hải, vào lúc hoàng hôn, như anh chàng Camus chẳng hạn, là tôi chịu chết, không làm sao mần…. thơ.

Hai cõi thơ Adam Zagajewcki và Charles Simic là do GCC khám phá, giới thiệu với độc giả Mít. Một vị độc giả, cực kỳ mê thơ, nhận xét, có vẻ ông Gấu hợp với thơ Zagajewski hơn.

Quả thế.

Thơ Simic tếu thì tếu thật, nhưng thảm quá, thí dụ, cái bài Đọc Lịch Sử, dưới đây

Có thể nói, Brodsky cũng do GCC khám phá ra, không phải cái ông lần đầu tiên tới với độc giả Mít ở trong nước, đã từng xẻ dọc Trường Sơn diệt được không biết bao nhiêu là Mỹ Ngụy của nhà thơ nhà văn, nhà biên khảo dịch thuật Mít Butor cũng 1 thời bạn quí của GCC.

READING HISTORY
for Hans Magnus

At times, reading here
In the library,
I'm given a glimpse
Of those condemned to death
Centuries ago,
And of their executioners.
I see each pale face before me
The way a judge
Pronouncing a sentence would,
Marveling at the thought
That I do not exist yet. 

With eyes closed I can hear
The evening birds.
Soon they will be quiet
And the final night on earth
Will commence
In the fullness of its sorrow.

How vast, dark, and impenetrable
Are the early-morning skies
Of those led to their death
In a world from which I'm entirely absent,
Where I can still watch
Someone's slumped back,

Someone who is walking away from me
With his hands tied,
His graying head still on his shoulders,

Someone who
In what little remains of his life
Knows in some vague way about me,
And thinks of me as God,
As Devil.

Đọc Sử Ký
Gửi Hans Magnus

Đôi khi đọc ở đây
Tại thư viện
Tôi được đưa mắt nhìn
Những người bị kết án tử hình
Những thế kỷ đã qua
Và những đao phủ của họ
Tôi nhìn mỗi khuôn mặt nhợt nhạt
Cách ông tòa tuyên án
Lạ làm sao, là, tôi thấy mừng
Khi nghĩ rằng,
May quá, khi đó mình chưa ra đời! 

Với cặp mắt nhắm tít, tôi có thể nghe
Những con chim chiều tối
Chẳng mấy chốc, chúng sẽ mần thinh
Và đêm sau cùng trên trái đất
Sẽ bắt đầu
Trong trọn nỗi thống khổ của nó

Bao la, tối, không cách nào xuyên thủng,
Là những bầu trời sáng sớm
Của những con người bị dẫn tới cái chết của họ
Trong một thế giới mà tôi thì hoàn toàn vắng mặt
Từ cái chỗ của tôi, tôi vẫn có thể ngắm
Cái lưng lảo đảo,
Của một người nào đó,
Một người nào đó đang bước xa ra khỏi tôi
Với hai tay bị trói
Cái đầu xám của người đó thì vẫn còn trên hai vai 

Một người nào đó
Trong tí xíu thời gian còn lại của cuộc đời của mình
Biết, một cách mơ hồ về tôi
Và nghĩ về tôi, như là Thượng Đế
Như là Quỉ

GCC đọc bài này, là lại nhớ tới ông cụ của Gấu, bị chính 1 đấng học trò của ông, cho đi mò tôm.
Ở bên đó, ông sẽ nghĩ về Gấu, như là 1 tên Bắc Kít khốn nạn, hay là 1 tên Bắc Kít đã được Miền Nam… thuần hóa?



*

Nhớ không Thuần cánh cửa sổ
nhìn xuống con phố quận 13 Paris
mưa lầy lội mưa ướt thảm lá vàng mùa thu
đêm khuya đi chuyến métro về Porte d’ Ivry
những chuyến métro chưa quen
tiếng kèn buồn của người đàn ông
như đến từ các xứ Bắc Phi
nghe như ngọn gió thổi buốt trên sa mạc 

nhớ không Thuần cánh cửa sổ
khu chung cư ấy đêm về mở ra
bạn đứng phà hơi thuốc nhớ Nhã Hương
kêu điện thoại khó khăn bấm số thẻ dài dòng
có đêm nấu hai tô mì gói ghé mua ở chợ Tàu
thấy ngon, thêm mấy lon bia Heineken
bạn ưng uống bia hơn chát đỏ
Lê Tài Điển thì điểm tâm đã một chai La Fleur Pauillac… 

nhớ không Thuần cánh cửa sổ ấy
nhìn xuống con đường mưa
Paris gió lạnh, chiều lang thang trên đồi Montmartre
Place du Tertre như thấy lại mình trên đường bay nét cọ
chân dung thiếu nữ qua mấy nét chì than
ghé quán ngồi, Lê tài Điển nói đã ngồi đó với Ngọc Dũng
chúng ta còn đứng trên cầu Mirabeau
nhìn sông Seine mà nhớ sông Hương 

nhớ không Thuần cánh cửa sổ ấy
khu chung cư ấy ở quận 13 chúng ta đã ở
những đêm ngồi cùng bạn bè ở quán Monge về
bây giờ quán Monge đã đóng cửa
Paris và những chuyến métro chưa quen
tình bạn ấm cúng ở đó, làm sao chúng ta không trở lại … (1)

Virginia, 10 May 2012

Đinh Cường

Note: Cái quán thuốc lá, chủ quán, cũng có nhiều chuyện lý thú lắm.
Thêm bài thơ sau đây. Những nhà thờ của xứ Tẩy

*

Thiền Sư TTM, chủ quán thuốc lá, ngày nào với cái tên Lucky, thay vì như bây giờ
Quà & Thuốc

THE CHURCHES OF FRANCE

For Czeslaw Milosz

The churches of France, more welcoming than its inns and its poems,
Standing in vines like great clusters of grapes, or meekly, on hilltops,
Or drowned in valleys, on the floor of a green sea, in a dry
    landscape,
Abandoned buildings, deserted barns
Of gray stone, among gray houses, within gray villages,
But inside pink or white or painted by the sun coming through
    stained glass.
Little Romanesque shrines with stocky frames, like craftsmen shaped
    by their labor,
Pascal's invisible church, sewn into canvas,
And slim cathedrals like herons above the cities, seen clearly from
    the highway, the loveliest is in Chartres,
Where stone stifles desire.
The mills of the Cistercians, turning water in Sunday streams, and
   their ponds,
Synagogues, elder sisters, betrayed and plundered so often, discreet,
The ruined abbey in Normandy, where among the raspberry
    bushes a black adder basks in the heat,
A small tree, growing on the roof of a village church, a young ash
    that will become a monk,
The basilica in Vezelay, belonging to Magdalene, pink as a wild
    strawberry's mouth.
Claudel's church, thickset, almost neckless, inspired, sometimes
    full of spite
And the church in Tournus, whose arches must make the Arabs
    proud too,
The moss-covered walls of modest chapels that have forgotten
    their names
And the fortified basilica in Albi, a masterwork of military art,
    sheathed in a dragon's skin,
And in the square the peddlers of nuts, holy pictures, and aniseed
    cakes.
But at night the peddlers vanish and only walls and windows,
    blind as kittens, remain,
And the vast night and much silence and sometimes a dying
    comet's roar.
Romanesque columns in cloisters, as if carved by brilliant children.
Meadows, where lovers meet.
The stone Jeremiah in Moissac, with a kind face.
The church of Maurice, who learned my language and lives in
    Warsaw among the poorest.
The churches of France, dark vessels, where the shy flame of a
    mighty light wanders.

Adam Zagajewski

*

Phan Tấn Hải

Bùi Vĩnh Phúc, Cao Bá Minh, Cao Xuân Huy, Châu Văn Thọ, Đỗ KH, Đỗ Ngọc Yến, Hoàng Khởi Phong, Hoàng Phủ Cương, Hoàng Xuân Sơn, Hồ Đình Nghiêm, Hồ Minh Dũng, Khánh Trường, Khế Iêm, Khiêm Lê Trung, Lâm Chương, Lê Bi, Lê Thứ, Lê Thị Thấm Vân, Lê Thọ Giáo, Lưu Nguyễn, Lưu Hy Lạc, Luân Hoán, Mai Kim Ngọc, Mai Ninh, Nguyễn Đăng Thường, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Hương, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Đình Thuần, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Nguyễn Quí Đức, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Văn Sâm, Nhã Ca, Nhật Tiến, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Tiến Văn, Nguyễn Quốc Trụ, Phạm Trần, Phạm Phú Minh, Phạm Việt Cường, Phan Thị Trọng Tuyến, Phan Tấn Hải, Phùng Nguyễn, Tạ Chí Đại Trường, Thân Trọng Mẫn, Thảo Trường, Thường Quán, Trầm Phục Khắc, Trân Sa, Trần Dạ Từ, Trần Doãn Nho, Trần Vũ, Trịnh Y Thư, Trúc Chi, Triều Hoa Đại, Trương Vũ, Tưởng Năng Tiến, Tường Vũ Anh Thy, Vũ Huy Quang.

Trên đây là danh sách những nhà văn Mít hải ngoại ký tên vô cái thư gửi cho me-xừ Grass, đề nghị can thiệp cho vợ chồng nhà văn nhà thơ ra đi từ miền Bắc, và có ý chọn Đức làm quê hương thứ hai của họ, nhưng bị bác đơn. (1)

Danh sách trên, do thiền sư TTM phịa ra.
GCC đoán thế, bởi là vì có lần gặp BVP, nhắc tới nó, nhà phê bình ngạc nhiên, danh sách nào, và khi vỡ ra, anh cười, chắc là thiền sư nhớ ra tên ai là nhét vô, chứ cũng chẳng cần gọi điện thoại.
Lần đó, GCC gửi lá thư ngỏ cho Grass tới Việt Báo online, và thiền sư Phan Tấn Hải bèn "đi" liền, cùng lúc order Thân Trọng Mẫn lên cái danh sách như trên.
Thân Trọng Mẫn có ông anh ruột, là Thân Trọng Hinh, kỹ sư Bưu Điện,1 trong những ông thầy của GCC, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện. Kỹ sư thật, học ở Tây về, nhưng thực sự chẳng biết tí kỹ thuật; không chỉ ông, mà đa số như vậy. Sau Bưu Điện đành sử dụng ông vào chức Trùm Bảo Vệ Cơ Sở, và vì thế, những ngày nhốn nháo, hoảng loạn trước 30 Tháng Tư 1975, ông nhận được thư của đám VC nằm vùng, báo cho biết, ông có tên trong danh sách được làm thịt!
Hình như bạn ta, nhà thơ Du Tử… Cà [Lê không phải, Táo cũng không, thì Cà vậy, Cà Chớn!], thời gian đó, cũng nhận được “Lệnh Xé Xác” của VC?

Hà, hà!

Lần về Hà Nội, gặp Nguyên Đầu Bạc, anh cho biết, là người đầu tiên đọc lá thư, bèn lập tức copy 1 bản, đi một đường tới nhà của ông cụ/bà cụ của vị được nhắc tới.
Anh cũng đưa Gấu tới nhà hỏi thăm, và được mời ở lại ăn cơm, món ăn Bắc.

Danh sách trên không có đám ra đi từ Miền Bắc, bởi vì TTM không quen ai, chắc thế, nhưng giả như lọt vô 1 tên, thì….  sao?

Đẩy đến tận cùng câu hỏi, giả như 1 tên Bắc Kít, làm Bi Bi Xèo, hay… Sến, là tác giả bức thư, được chăng?
I don’t think so!
Đó là cái gọi là Cái Ác Bắc Kít đó.
Có 1 vị độc giả VHNT trên lưới, hình như quen với băng PCL, có gửi mail, tiếng Anh, cho GCC, khi đó, phán, một tài liệu tuyệt vời, a superb document!

Ce qui m'a le plus choqué dans les grands procès staliniens, c'est l'approbation froide avec laquelle les hommes d'État communistes acceptaient la mise à mort de leurs amis. Car ils étaient tous amis, je veux dire par là qu'ils s'étaient connus intimement, avaient vécu ensemble des moments durs, émigration, persécution, longue lutte politique. Comment ont-ils pu sacrifier, et de cette façon si macabrement définitive, leur amitié?
Kundera

Điều làm cho tôi cáu nhất, sốc nhất, tởm nhất, là thái độ gật gù chấp nhận, nếu không muốn nói là hài lòng của đám tinh anh Bắc Kít, khi Đảng đưa ra tòa những đấng bạn quí của họ, và sau đó, làm thịt.
Họ chẳng đã từng làm bạn tâm giao ư? Đã từng trải qua những giờ phút căng thẳng, cay đắng, gian khổ, trốn chạy, bách hại, cuộc chiến chính kiến dài. Làm sao có thể họ hy sinh tình bạn quí hiếm đến như thế, một cách thô bỉ, “ma cạp”, macabrement, đến như thế?

Chợ Cá, ngay khi vừa mở cửa, chào hàng, thì đã làm thịt, những đấng nhà văn VC sau đây, nhớ đại khái, không theo trình tự, Đỗ Minh Tuấn, Phạm Xuân Nguyên, Phan Huyền Thư…

Chưa từng khen 1 ai, hình như thế?

Khủng hơn nữa, Kundera đã tiên tri ra được điều trên, khi viết về Thượng Đế Đã Chết Trong Thành Phố, The Skin, La Peau, Làn Da, của Malaparte:

“Trận Dịch bùng ra tại Naples vào ngày 1 tháng 10 năm 1943, đúng cái ngày Đồng Minh tiến vào thành phố không may mắn, như là những kẻ giải phóng”
“The plague broke out in Naples on the first of October 1943, the very day when the Allied armies entered that unhappy city as liberators”

Chúng ta chỉ thay 1.10.1943 thành 30 Tháng Tư 1975, là ra số phận Miền Nam của nước Mít!

Hà, hà! 

 
 WHEN THERE IS TALK OF 1945

RYSZARD KAPUSCINSKI

the writer dreams of shoes, and shooting.

    But above all war lived on within us because for five years it had shaped our young characters, our psyches, our outlooks. It tried to deform and destroy them by setting the worst examples, compelling dishonorable conduct, releasing contemptible emotions. 'War,' wrote Boleslaw Micinski in those years, 'deforms not only the soul of the invader, but also poisons with hatred, and hence deforms, the souls of those who try to oppose the invader'. And that is why, he added, 'I hate totalitarianism because it taught me to hate.' Yes, to leave war behind meant to internally cleanse oneself, and first and foremost to cleanse oneself of hatred. But how many made a sustained effort in that direction? And of those, how many succeeded? It was certainly an exhausting and long process, a goal that could not be achieved quickly, because the psychic and moral wounds were deep.

When there is talk of the year 1945, I am irritated by the phrase, 'the joy of victory'. What joy? So many people perished! Millions of bodies were buried! Thousands lost arms and legs. Lost sight and hearing. Lost their minds. Yes, we survived, but at what a cost! War is proof that man as a thinking and sentient being has failed, disappointed himself, and suffered defeat.
    When there is talk of 1945, I remember that in the summer of that year my aunt, who miraculously made it through the Warsaw Uprising, brought her son, Andrzej, to visit us in the countryside. He was born during the uprising. Today he is a man in late middle-age, and when I look at him I think how long ago it all was! Since then, generations have been born in Europe who know nothing of what war is. And yet those who lived through it should bear witness. Bear witness in the name of those who fell next to them, and often on top of them; bear witness to the camps, to the extermination of the Jews, to the destruction of Warsaw and of Wroclaw. Is this easy? No. We who went through the war know how difficult it is to convey the truth about it to those for whom that experience is, happily, unfamiliar. We know how language fails us, how often we feel helpless, how the experience is, finally, incommunicable.
   
And yet, despite these difficulties and limitations, we should speak. Because speaking about all this does not divide, but rather unites us, allows us to establish threads of understanding and community. The dead admonish us. They bequeathed something important to us and now we must act responsibly, To the degree to which we are able, we should oppose everything that could again give rise to war, to crime, to catastrophe. Because we who lived through the war know how it begins, where it comes from. We know that it does not begin only with bombs and rockets, but with fanaticism and pride, stupidity and contempt, ignorance and hatred. It feeds on all that, grows on that and from that. That is why, just as some of us fight the pollution of the air, we should fight the polluting of human affairs by ignorance and hatred. +

Nhưng trên tất cả, chiến tranh sống hoài trong chúng ta, bởi vì trong 5 năm, nó tạo nặn tính tình tâm lý, tầm nhìn ra thế giới của chúng ta. Nó cố làm méo mó, phá huỷ chúng, bằng cách đưa ra những thí dụ tệ hại nhất, bắt phải noi gương một ông thầy dơ dáy nhất, phô ra những cảm xúc thô bỉ nhất. “Chiến tranh”, Boleslaw Micinski, trong những năm đó, viết, “làm méo mó không chỉ tâm hồn kẻ xâm lăng, nhưng mà còn tẩm độc nó, với hận thù, và từ đó, làm méo mó tâm hồn của cả những kẻ cố gắng chống lại kẻ xâm lăng”.
Và đó là lý do, ông nói tiếp, “Tôi thù ghét chủ nghĩa toàn trị, bởi vì nó dạy tôi thù hận”
Đúng như thế, để bỏ lại chiến tranh ở phía sau, có nghĩa là, tự làm sạch chính chúng ta, ở bên trong chúng ta. Và trước hết, trên hết, làm sạch hận thù. Nhưng có bao nhiêu người làm được sự cố gắng bền bỉ về phía đó?  Và trong số, có bao nhiêu người thành công?
Đúng là 1 cố gắng làm mệt nhoài, kéo dài dài, một mục tiêu thật hắc búa. Không thể nào có kết quả liền tù tì, bởi vì những vết thương tâm lý, đạo đức ăn sâu vào da vào thịt bạn, tới tận xương, tới tận đời sau:
Thử hỏi có đấng VC đời thứ nhì, thứ ba nào đã...  lành bệnh hận thù…. Lũ Ngụy?

Khi có những nói niếc về 1945 [10 năm thắm thiết, đoàn kết cái con khỉ gì đó, theo như nhà nhạc sĩ vĩ đại nhất xứ Mít], tôi nhớ mùa hè năm đó, cô tôi, kỳ lạ, thần tiên, phép màu, đã thoát chết trong cú nổi dậy Warsaw Uprising, đến thăm chúng tôi ở nhà quê cùng đứa con trai, sinh đúng trong cú nổi dậy đó. Bây giờ, là 1 chàng trai, ở cuối những năm 40 nửa đời người, và khi tôi nhìn anh ta là tôi cảm khái chi đâu, [bao nhiêu nước chảy qua cầu từ hồi đó rồi nhỉ, từ cái ngày mà 1 ông nhạc sĩ được Đảng ra lệnh sáng tác quốc ca Mít, nhưng, khoan đã, hãy đi làm thịt thằng Việt Gian: Thề phanh thây uống máu quân thù!]. Kể từ đó, bao nhiêu thế hệ Âu Châu đã ra đời, chẳng biết gì về chiến tranh. Nhưng những người đã trải qua thì đừng bao giờ quên, họ là nhân chứng. Nhân chứng về những người đã chết đều có thực, họ đã chết kế bên anh ta, hay trên đầu anh ta. Nhân chứng về trại tù, về làm cỏ, làm thịt những người Do Thái. Chuyện đó dễ dàng không? Không. Chúng ta, những kẻ đã qua cuộc chiến đó, cảm thấy thật là khó khăn khi nói về nó, khi chuyên chở sự thực về nó, tới những người mà với họ, kinh nghiệm này, may mắn thay, đếch quen, đếch thích nghe! Chúng ta biết, ngôn ngữ không làm chúng ta bằng lòng: nó “vấp ngã”, không làm sao chuyển tải, thứ kinh nghiệm không thể truyền tải.
Tuy nhiên, mặc những khó khăn, chúng ta phải nói. Bởi vì nói về cuộc chiến thì không làm cho chúng ra chia rẽ, [như VC thường rêu rao, xưa rồi Diễm ơi, bây giờ nói chuyện hòa hình, hàn gắn vết thương, hoà hợp hòa giải dân Mít], nhưng ngược lại, chính là nói về cuộc chiến Mít thì mới kếp hợp chúng ta thành một được, tạo ra được mối dây liên lạc thông cảm, cộng đồng cộng điệc. Những người đã chết nhắc nhở chúng ta. Họ để lại một điều gì đó quan trọng cho chúng ta, và bây giờ chúng ta phải hành động một cách có tránh nhiệm. Trách nhiệm tới mức độ mà chúng ta có thể, phải chống mọi chuyện khiến chiến tranh lại đội mồ sống dậy, khiến tội ác xẩy ra hàng ngày, tới thảm họa mất nước Mít cho anh Tẫu, thí dụ!
Bởi vì, chúng ta, những kẻ đã từng trải qua cuộc chiến đó, biết, cuộc chiến bắt đầu như thế nào, nó bắt đầu không phải bằng bom đạn, bằng hỏa tiễn, nhưng bằng dối trá, Cái Ác Bắc Kít, cuồng tín CS, kiêu hãnh chúng ông là Bắc Kít, là người Hà Lội, bằng ngu suẩn, khinh miệt, ngu dốt, và bằng hận thù.

Khi nói về 1945, "Một Mùa Thu Năm Qua Cách Mạng Tiến Ra", nói về 30 Tháng Tư 1975", "Niềm Vui Chiến Thắng", Đại Thắng Mùa Xuân",  tôi quê 1 cục, quê đến phát sùng!

Kít!

Niềm vui cái gì?

Ba triệu người chết để cho 1 thằng chăn trâu học lớp 1, tên giao liên ý tá dạo…  ngồi lên đầu dân Mít?
Ba triệu người chết, trong cuộc chiến, hàng triệu người sau đó, sau niềm vui chiến thắng, làm mồi cho cá biển Đông..
Hàng ngàn ngàn con người, thoát chết nhưng thương tích đầy mình, mù mắt, cụt chân….
Đúng, chúng ta đã sống sót, nhưng với 1 cái giá chua sót làm sao:
Đất nước phân ly từ ngày giải phóng thống nhất, từ niềm vui chiến thắng.


Akhmatova

Carlos Fuentes: Women
on
Sister Benedicta & Anna Akhmatova & Simone Weil

The word martyr, etymologically speaking, means witness.

Nếu vờ Osip Mandelstam đi, không tính tới, thì Anna Akhmatova (1889-1966) quả đúng là nhà thơ vĩ đại nhất của Nga, thế kỷ 20. Đàn ông mết bà, nhưng họ không hiểu được bà. Tất cả đám đực rựa cũng bẽn lẽn thú nhận điều này: Anna kiêu ngạo hơn, bảnh hơn, láu lỉnh hơn họ. Bên dưới cái vẻ mảnh mai, mảnh khảnh, là một ý chí sắt đá. Sự mảnh mai và ý chí sẽ mang đôi cánh đến cho những dòng thơ tuyệt vời của bà.
*

At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova-which explains her popularity and which, more importantly, enabled her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know.
She was, essentially, a poet of human ties: cherished, strained, severed. She showed these evolutions first through the prism of the individual heart, then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics anyway.
These two perspectives were brought into sharp focus through prosody, which is simply a repository of time within language. Hence, by the way, her ability to forgive - because forgiveness is not a virtue postulated by creed but a property of time in both its mundane and metaphysical senses. This is also why her verses are to survive whether published or not: because of the prosody, because they are charged with time in both those senses. They will survive because language is older than state and because prosody always survives history. In fact, it hardly needs history; all it needs is a poet, and Akhmatova was just that.
1982
Joseph Brodsky: The Keening Muse
Bài Intro cho tập thơ của Akhmatova, được in trong tập tiểu luận Less Than One, với cái tít trên, The Keening Muse [Bà Chúa Thơ Than Khóc].


Liu Xiaobo
Bi Khúc Bốn Tháng Sáu

Bi Khúc 2
Standing in the Curse of Time
 

Đứng trong Nguyền Rủa của Thời Gian

Nguyên tác chữ Hán

           

IV 

Tuyệt thực
Ngưng thủ dâm
Nhặt một cuốn sách từ trên đống đổ nát
Cảm thán sự khiêm nhường của thi thể
Mơ một giấc mộng đen đỏ
Ngay bên trong bụng muỗi
Lại gần lỗ giám sát (*) trên cánh cửa sắt
Đối thoại với quỷ hút máu
Giờ đâu cần phải cẩn trọng tỉ mỉ đến thế
Cơn co thắt dạ dày đột ngột
Ngay trước phút lâm chung, mang đến cho tôi dũng khí
Nôn ra một lời nguyền rủa:

Năm mươi năm huy hoàng
Chỉ có Đảng Cộng Sản
Không có nước Trung Hoa mới

Cái tít của bi khúc, “Thời Nguyền Rủa”, cho thấy sự tương phản giữa hai câu thơ

Câu chuyện đông phương cổ xưa ấy
Bỗng muốn nhỏ xuống từng giọt tươi rói

Liu Xiaobo

Giọt mưa trời khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt trên lưng bàn tay
TMT

Brodsky phán:

Xuyên suốt cuộc đời 1 người, Thời gian nói [address] với Con Người trong muôn vẻ, variety, ngôn ngữ; ngôn ngữ của sự ngây thơ, tình yêu, niềm tin, kinh nghiệm, lịch sử, ... Trong những ngôn ngữ đó, ngôn ngữ của tình yêu rõ ràng là một lingua franca, ngôn ngữ bắc cầu. Bộ từ điển của nó, its vocabulary hấp thụ, nuốt, absorb, tất cả những tiếng nói khác, other tongues, và sự phát ra của nó, its utterance, thí dụ, anh thương em, làm hài lòng, gratify, một chủ thể, a subject, cho dù vô tri vô giác, inanimate, cỡ nào. Bằng cách thốt ra như thế, anh thương em, chủ thể sướng điên lên, và cái sự sướng điên lên đó, nói lên, làm vọng lên, echoing, cả hai chiều: chúng ta cảm nhận những đối tượng của những đam mê của chúng ta, và cảm nhận Lời Chúa [Good Book’s suggestion], và Chúa là gì, as to what God is. Tình yêu thiết yếu là một thái độ được gìn giữ, maintain, bởi cái vô cùng đối với cái hữu hạn. Sự đảo ngược, the reversal, tạo nên, hoặc niềm tin, hay thi ca.

Đoạn trên, theo GCC, là cơ bản thiết yếu, của thơ Brodsky.
Nói rõ hơn, thơ của ông là thơ tôn giáo, thơ của một nhà thơ Ky Tô. Chính vì thế, GCC khó nhập vô thơ ông, vì là 1 tên ngoại đạo. GCC viết ra, để phúc đáp 1 vị độc giả, tại sao Gấu lèm bèm hoài về Brodsky mà không dịch thơ Brodsky!


*

Nhớ không Thuần cánh cửa sổ
nhìn xuống con phố quận 13 Paris
mưa lầy lội mưa ướt thảm lá vàng mùa thu
đêm khuya đi chuyến métro về Porte d’ Ivry
những chuyến métro chưa quen
tiếng kèn buồn của người đàn ông
như đến từ các xứ Bắc Phi
nghe như ngọn gió thổi buốt trên sa mạc 

nhớ không Thuần cánh cửa sổ
khu chung cư ấy đêm về mở ra
bạn đứng phà hơi thuốc nhớ Nhã Hương
kêu điện thoại khó khăn bấm số thẻ dài dòng
có đêm nấu hai tô mì gói ghé mua ở chợ Tàu
thấy ngon, thêm mấy lon bia Heineken
bạn ưng uống bia hơn chát đỏ
Lê Tài Điển thì điểm tâm đã một chai La Fleur Pauillac… 

nhớ không Thuần cánh cửa sổ ấy
nhìn xuống con đường mưa
Paris gió lạnh, chiều lang thang trên đồi Montmartre
Place du Tertre như thấy lại mình trên đường bay nét cọ
chân dung thiếu nữ qua mấy nét chì than
ghé quán ngồi, Lê tài Điển nói đã ngồi đó với Ngọc Dũng
chúng ta còn đứng trên cầu Mirabeau
nhìn sông Seine mà nhớ sông Hương 

nhớ không Thuần cánh cửa sổ ấy
khu chung cư ấy ở quận 13 chúng ta đã ở
những đêm ngồi cùng bạn bè ở quán Monge về
bây giờ quán Monge đã đóng cửa
Paris và những chuyến métro chưa quen
tình bạn ấm cúng ở đó, làm sao chúng ta không trở lại … (1)

Virginia, 10 May 2012

Đinh Cường

Note: Cái quán thuốc lá, chủ quán, cũng có nhiều chuyện lý thú lắm.
Thêm bài thơ sau đây. Những nhà thờ của xứ Tẩy

*

Thiền Sư TTM, chủ quán thuốc lá, ngày nào với cái tên Lucky, thay vì như bây giờ
Quà & Thuốc

THE CHURCHES OF FRANCE

For Czeslaw Milosz

The churches of France, more welcoming than its inns and its poems,
Standing in vines like great clusters of grapes, or meekly, on hilltops,
Or drowned in valleys, on the floor of a green sea, in a dry
    landscape,
Abandoned buildings, deserted barns
Of gray stone, among gray houses, within gray villages,
But inside pink or white or painted by the sun coming through
    stained glass.
Little Romanesque shrines with stocky frames, like craftsmen shaped
    by their labor,
Pascal's invisible church, sewn into canvas,
And slim cathedrals like herons above the cities, seen clearly from
    the highway, the loveliest is in Chartres,
Where stone stifles desire.
The mills of the Cistercians, turning water in Sunday streams, and
   their ponds,
Synagogues, elder sisters, betrayed and plundered so often, discreet,
The ruined abbey in Normandy, where among the raspberry
    bushes a black adder basks in the heat,
A small tree, growing on the roof of a village church, a young ash
    that will become a monk,
The basilica in Vezelay, belonging to Magdalene, pink as a wild
    strawberry's mouth.
Claudel's church, thickset, almost neckless, inspired, sometimes
    full of spite
And the church in Tournus, whose arches must make the Arabs
    proud too,
The moss-covered walls of modest chapels that have forgotten
    their names
And the fortified basilica in Albi, a masterwork of military art,
    sheathed in a dragon's skin,
And in the square the peddlers of nuts, holy pictures, and aniseed
    cakes.
But at night the peddlers vanish and only walls and windows,
    blind as kittens, remain,
And the vast night and much silence and sometimes a dying
    comet's roar.
Romanesque columns in cloisters, as if carved by brilliant children.
Meadows, where lovers meet.
The stone Jeremiah in Moissac, with a kind face.
The church of Maurice, who learned my language and lives in
    Warsaw among the poorest.
The churches of France, dark vessels, where the shy flame of a
    mighty light wanders.

Adam Zagajewski

*

Phan Tấn Hải

Bùi Vĩnh Phúc, Cao Bá Minh, Cao Xuân Huy, Châu Văn Thọ, Đỗ KH, Đỗ Ngọc Yến, Hoàng Khởi Phong, Hoàng Phủ Cương, Hoàng Xuân Sơn, Hồ Đình Nghiêm, Hồ Minh Dũng, Khánh Trường, Khế Iêm, Khiêm Lê Trung, Lâm Chương, Lê Bi, Lê Thứ, Lê Thị Thấm Vân, Lê Thọ Giáo, Lưu Nguyễn, Lưu Hy Lạc, Luân Hoán, Mai Kim Ngọc, Mai Ninh, Nguyễn Đăng Thường, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Hương, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Đình Thuần, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Nguyễn Quí Đức, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Văn Sâm, Nhã Ca, Nhật Tiến, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Tiến Văn, Nguyễn Quốc Trụ, Phạm Trần, Phạm Phú Minh, Phạm Việt Cường, Phan Thị Trọng Tuyến, Phan Tấn Hải, Phùng Nguyễn, Tạ Chí Đại Trường, Thân Trọng Mẫn, Thảo Trường, Thường Quán, Trầm Phục Khắc, Trân Sa, Trần Dạ Từ, Trần Doãn Nho, Trần Vũ, Trịnh Y Thư, Trúc Chi, Triều Hoa Đại, Trương Vũ, Tưởng Năng Tiến, Tường Vũ Anh Thy, Vũ Huy Quang.

Trên đây là danh sách những nhà văn Mít hải ngoại ký tên vô cái thư gửi cho me-xừ Grass, đề nghị can thiệp cho vợ chồng nhà văn nhà thơ ra đi từ miền Bắc, và có ý chọn Đức làm quê hương thứ hai của họ, nhưng bị bác đơn. (1)

Danh sách trên, do thiền sư TTM phịa ra.
GCC đoán thế, bởi là vì có lần gặp BVP, nhắc tới nó, nhà phê bình ngạc nhiên, danh sách nào, và khi vỡ ra, anh cười, chắc là thiền sư nhớ ra tên ai là nhét vô, chứ cũng chẳng cần gọi điện thoại.
Lần đó, GCC gửi lá thư ngỏ cho Grass tới Việt Báo online, và thiền sư Phan Tấn Hải bèn "đi" liền, cùng lúc order Thân Trọng Mẫn lên cái danh sách như trên.
Thân Trọng Mẫn có ông anh ruột, là Thân Trọng Hinh, kỹ sư Bưu Điện,1 trong những ông thầy của GCC, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện. Kỹ sư thật, học ở Tây về, nhưng thực sự chẳng biết tí kỹ thuật; không chỉ ông, mà đa số như vậy. Sau Bưu Điện đành sử dụng ông vào chức Trùm Bảo Vệ Cơ Sở, và vì thế, những ngày nhốn nháo, hoảng loạn trước 30 Tháng Tư 1975, ông nhận được thư của đám VC nằm vùng, báo cho biết, ông có tên trong danh sách được làm thịt!
Hình như bạn ta, nhà thơ Du Tử… Cà [Lê không phải, Táo cũng không, thì Cà vậy, Cà Chớn!], thời gian đó, cũng nhận được “Lệnh Xé Xác” của VC?

Hà, hà!

Lần về Hà Nội, gặp Nguyên Đầu Bạc, anh cho biết, là người đầu tiên đọc lá thư, bèn lập tức copy 1 bản, đi một đường tới nhà của ông cụ/bà cụ của vị được nhắc tới.
Anh cũng đưa Gấu tới nhà hỏi thăm, và được mời ở lại ăn cơm, món Bắc Kít.



*

Bi Khúc Thứ Nhất

I

Bia kỉ niệm từng hồi thổn thức
Đường vân đá hoa thấm từng vết máu
Niềm tin và tuổi xuân
Ngã sóng xoài dưới xích sắt xe tăng
Câu chuyện đông phương cổ xưa ấy
Bỗng muốn nhỏ xuống từng giọt tươi rói 

Thư tín:

Câu chuyện đông phương cổ xưa ấy
Bỗng muốn nhỏ xuống từng giọt tươi rói
DV

Ancient story of the East
leaks out new hope unexpectedly

Câu chuyện cổ của Đông Phương
Làm bật ra hy vọng mới một cách không ngờ [unexpectedly]

Trong câu này không có ý nào nói về hi vọng, mà chỉ nói lên một ý là : Câu chuyện cổ xưa của Phương Đông (những chuyện như giết chóc đổ máu, phần thư, khu nho...) như muốn nhỏ xuống, tươi roi rói như những giọt máu hôm nay.

Thử đọc, câu trong nguyên tác: 突 然 (đột nhiên) (tươi mới) 欲 滴 (dục tích : muốn/chực nhỏ xuống),
diễn đạt thành:
Bỗng muốn nhỏ xuống từng giọt tươi rói.  

Bác coi lại từng đoạn rồi trao đổi tiếp nghen bác.
Tks bác.

- Câu này có gì đó tương tự câu của Trần Mộng Tú: Giọt mưa trời khóc ngàn năm trước.....  :)
DV

Tks
NQT

Quả là có sự tương tự giữa,

Câu chuyện đông phương cổ xưa ấy
Bỗng muốn nhỏ xuống từng giọt tươi rói
Liu Xiaobo

Giọt mưa trời khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt trên lưng bàn tay
TMT

Tuy nhiên, có sự "khác biệt vô cùng khác biệt", liên quan tới thơ [TMT] và tới cái ác.

Để giải thích ý thơ của TMT, ta có câu trả lời của Brodsky: 

Chúng là một cách tái cấu trúc thời gian - ngàn năm trước nối lại với phút giây này, giây phút thần kỳ giọt lệ trời biến thành giọt lệ người: They are "a means of restructuring time". (1)

Trong bài giới thiệu tập thơ của Akhmatova, ông nói rõ hơn:

...  phép làm thơ, prosody, là “repository of Time within language” [nơi chôn cất, ký thác của Thời Gian ở trong ngôn ngữ]…. Chúng [những câu thơ] sẽ sống sót, bởi vì ngôn ngữ thì già hơn nhà nước, và phép làm thơ luôn sống sót lịch sử.
Có khi nó chẳng cần lịch sử [it hardly needs history]; tất cả những gì nó cần, là thi sĩ.

Bài Brosdky giới thiệu tập thơ Akhmatova, quả là thần sầu, với ai chưa biết, nhưng ít ra với GCC. Đọc 1 phát là GCC ngộ ra tình bạn quí của những đấng bạn quí dành cho Anh Cu Gấu, trong bao nhiêu năm trời, trước 1975 làm đệ tử Cô Ba, và sau 1975, làm tên viết muớn trước Bưu Điện Sài Gòn, hay tù đầy nơi Trại Tù VC, và, quá thế nữa, khi ra được hải ngoại, đọc "cái gọi là" Văn Học Miền Nam kéo dài, GCC ngộ ra, bài viết của Brodsky còn “tiên tri” mọi thái độ đối xử của những đấng nhà văn nhà thơ Mít chạy thoát VC ngay những ngày đầu sau 30 Tháng Tư 1975:

As a theme, death is a good litmus test for a poet's ethics. The "in memoriam" genre is frequently used to exercise self-pity or for metaphysical trips that denote the subconscious superiority of survivor over victim, of majority (of the alive) over minority (of the dead).
Joseph Brodsky:  Anna Akhmatova Poems' Introduction.

Như một đề tài, cái chết là “lửa thử vàng”, một thứ thuốc thử đạo hạnh của một nhà thơ. Cái giọng 'tưởng niệm', cái dòng văn chương ‘ai điếu’, thường được sử dụng để thực tập sự tự thương thân trách phận, hay là trong những chuyến đi siêu hình làm bật ra tính ưu việt tiềm ẩn của kẻ sống sót đối với nạn nhân, của đa số (người sống) đối với thiểu số (ngưòi chết).

Đinh ninh nhóm Sáng Tạo, trừ Mai Thảo, đều đã, hoặc sẽ chết, phải chết, trong Trại Tù VC, VHTQ của VP mới có giọng dè bỉu, khinh khi, miệt thị, đố kỵ...  khi viết về họ.

Cũng thế, Mai Thảo mới “lầm” TTT, với một anh thợ sắp chữ, và anh này còn hỗn láo dám hỏi xin ông một điếu thuốc lá!


I asked a nearby cuckoo to say
How many years I had left to live.
The tops of the pine trees started to sway,
Sunbeams poured down as if through a sieve,
But in the woods, not a sound was heard.
I'm walking homeward now,
And the cool wind, self-assured,
Soothes my fevered brow.

1919
Akhmatova 

Gấu hỏi chú chim cu cu gần đó, mấy năm nữa thì tớ ngỏm
Những ngọn thông bắt đầu lắc lư
Nắng đổ xuống như xuyên qua một cái xàng
Nhưng trong rừng đếch nghe một tiếng động
Gấu bi giờ đi về phía nhà Mít
Và ngọn gió mát, rất tự tin về chính nó,
Phán ngay bong về cái trán sốt hừng hực của Gấu

At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova-which explains her popularity and which, more importantly enabled her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of human ties: cherished, strained, severed. She showed the revolutions first through the prism of the individual heart, then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics anyway.
Brodsky

Vào một vài thời điểm lịch sử, chỉ có thơ là có thể đương đầu, ăn thua đủ, hay, lèm bèm với thực tại, bằng cách nén nó lại thành một điều gì gọn thon lỏn, điều mà cái đầu đầu hàng không làm sao cất giữ.

Đó cũng là điều nhạc sến làm được!


Cao Thoại Châu

Bài hành Tây Nguyên

* Gửi người mang hồn cốt Tây  Nguyên 

Con chim Ch'rao đậu cành Kơ nia
Em đậu hồn tôi là phải chỗ
Thuyền độc mộc tìm ra bến đỗ
Giọng em ngọt bùi như tiếng chim Ch'rao! 

Thời trai trẻ khinh đời ngạo mạn
Ta bị đời đày lên Tây Nguyên
Thuở ấy nơi này quê kệch lắm
Cả đất và người đều vô tâm 

Nhỏ như bàn tay bốn bề là núi
Chiều chưa buông khói đã giăng mù
Phi trường co ro như cái ghế
Cho ta ngồi nhìn biển dưới xa kia

Đêm nghe gió thấm vào thân lính thú
Dù ta không mặc áo trận bao giờ
Nhà mướn phía sau là vườn mít
Trái sần sùi như quỷ sứ yêu ma 

Không có điện ta đành thắp nến
Cháy mùng mền biết đã bao khi
Bất đắc dĩ phải cho hàng xóm biết
Họ bu quanh chật cả căn nhà 

Người tỉnh lẻ thường hay lắm chuyện
Bàn tán vì sao ta sống một mình
Có cô gái đến xin làm vợ
Bắt cái chồng kiếm rể cho Tây Nguyên 

Trời ạ, làm sao như thế được
Sự nghiệp vo tròn chưa đủ bàn tay
Công danh mới như hạt cà phê lép
Lông cánh còn chưa đủ chim bay 

Thuở ấy trái tim ta chưa chín
Chưa gặp đúng người nên chẳng yêu ai
Đã kiêu hãnh thì cần chi chia sẻ
Trần thân ra chịu án lưu đày

Rồi cũng qua cái án đày phát vãng
Về đồng bằng với khoảng trống to hơn
Lênh đênh theo những sông và rạch
Đục ngầu khác với nước Tây Nguyên 

Án đã xong và số ta chưa dứt
Gặp lại em mang hồn cốt Tây Nguyên
Giọng em hồn nhiên như giọng suối
Trái tim em rất xứng một bài hành!

1-5-2012

Nặc danh
May 2, 2012 09:23 PM

Ở Blog này, người đọc có thể cảm nhận được rất nhiều điều- đặc biệt là sự dụng công trong cách chọn từ ngữ, cách trau chuốt từ ngữ của tác giả.
Trân trọng cám ơn nhà thơ! 

Võ Thu Hương
May 3, 2012 11:44 PM

Thưa nhà thơ Cao Thoại Châu, bạn Nặc Danh nói rất đúng. Tôi yêu thơ cùa nhà thơ đã lâu chính vì như bạn Nặc Danh nói.
Thơ ông mềm như lụa mà chứa những nỗi đau thấm thía.
Xin được làm quen với nhà thơ.

GCC: Cũng 1 bài thơ về Pleiku:

Nhỏ như bàn tay bốn bề là núi
Chiều chưa buông khói đã giăng mù
Phi trường co ro như cái ghế
Cho ta ngồi nhìn biển dưới xa kia 

Chẳng thua những gì gì, Trời thấp thật gần / Đi đăm phút trở về chốn cũ…
Lại thêm biển nữa.

Mấy cái còm cũng thần sầu, của đúng những người yêu thơ.

GCC mới đọc một bài viết về thơ, nhờ link của giáo sư THD:

Why Afghan Women Risk Death to Write Poetry

Tại sao phụ nữ Afghan làm thơ, hay là chết?



Flags

Flags, overcoats, where nations
bivouac, tired, black with exhaustion,
flags, the crumpled sheets of heroes,
flags, stop shielding our eyes,

go back to the cotton fields,
go back to Asia.
Don't you know
that night is coming
and a tornado of stars
and the sequins grow uneasy?

Adam Zagajewski

 

Những lá cờ

Những lá cờ, áo choàng, nơi nhà nước
đóng quân, mệt mỏi, đen thui vì kiệt lực
những lá cờ, khăn trải giường nhàu nát của những vị anh hùng,
những lá cờ, hãy ngừng ngăn chặn cái nhìn của chúng ta.

hãy trở lại những cánh đồng bông,
trở lại Châu Á.
Tụi mi không biết là đêm đang tới
và một trận bão những vì sao
và những đồng tiền xe-quin trở nên khó chịu.


The Anger of Exile

By Colm Tóibín

The Hakawati
by Rabih Alameddine
Anchor, 513 pp., $16.00 (paper)
Cockroach
by Rawi Hage
Norton, 305 pp., $23.95

"Wherever I am, Germany is"
Thomas Mann

Gấu ở đâu Mít ở đó!

And I step ashore in a fine rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to explain.

But the hills are still the same
Grey-blue above
Belfast.
Perhaps if I'd stayed behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at last
And learnt what is meant by home.

Derek Mahon

Giận dữ lưu vong

Và tôi bước xuống bến tầu Xề Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn màng
Về với thành phố quá đỗi đổi thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà tôi đã từng lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích

Nhưng bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì vẫn mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế!

Có lẽ nếu tôi đừng đi, và cứ lì ở lại
Và sống với Xề Gòn từng trận hỏa tiễn VC réo ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh thành phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng thành
Và biết ‘nhà’ nghĩa là cái quái gì


Among the Exiles

One met former cabinet ministers,
University professors, defrocked priests and officers,
Feeding pigeons from a park bench,
Squinting into foreign newspapers
And telling anyone who happened to ask
Not to bother their heads about the truth 

On the use of murder to improve the world
They had many vivid memories
As they huddled in their dim kitchens,
Clipping supermarket coupons,
Shifting the loose dentures in their mouths
While waiting for the teakettle to boil. 

They ate in restaurants with waiters older than themselves,
Musicians whose fingers bled
As they picked at their instruments
Making some tipsy widow burst into sobs
On hearing a tune her husband the general loved,
The one who sent thousands to their deaths. 

Giữa đám Lưu Vong

Người ta gặp những cựu bộ trưởng
Giáo sư đại học, tu sĩ mất áo tu, sĩ quan mất quân phục,
Cho bồ câu ăn ở băng ghế công viên,
Liếc tờ báo chợ
Và biểu người nào tính hỏi,
Này, đừng có bực mình, lúc lắc cái đầu, khi biết sự thực

Về cái việc sử dụng sát nhân để cải thiện thế giới
Họ có nhiều kỷ niệm sống động
Khi quay mòng mòng trong căn bếp tối thui
Cắt cắt mấy cái phiếu siêu thị
Xốc xốc bộ răng giả trong miệng
Trong khi chờ ấm nước pha trà sôi

Họ ăn trong những tiệm bồi bàn già hơn họ
Nhạc sĩ bấm đàn bằng những ngón tay rướm máu (1)
Làm một bà góa ngà ngà say, khóc nức nở
Khi chơi một điệu nhạc mà ông chồng đại tướng ngày nào của bà thích nghe
Ông tướng này đã từng ra lệnh làm thịt hàng ngàn người 

Charles Simic: Master of Disguises 

(1)
Charles Simic chắc là có đọc Kiều rồi, nên thuổng, như đám mũi lõ thuổng nhạc Trịnh, “nghi án” đang gây chấn động trong giới giang hồ Mít ở trong nước: "bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay" !!!
Ui chao, Gấu lại nhớ đến cảnh nàng Kiều họ Trịnh hầu đàn Sáu Dân, Hồ Tôn Hiến, những ngày sau 30 Tháng Tư 1975

PAINTINGS

FOR ZBYLUT GRZYWACZ

Countless paintings hung on the walls
of the apartment on Krakow Street. (Why
Krakow Street in Krakow? The city
didn't know how to get home?)

None of it matters now-
the names of streets, your patriotic passion
for Kazimierz, your loyal photos
of old houses, dilapidated gates.

Even that apartment is gone now.
On canvases: human faces, women's bodies,
gray and pink, the world's yellow stains.
Drawings and sketches of acts, studies of aging,

natures mortes, some dust-covered
and doubly dead, others fresh
as fruit at market stands, gleaming
in June's remembered light.

In summer light strikes objects
directly, while in winter it hides
lazily in wardrobes, sleeps on the stove,
like minerals on museum shelves.

A champion talker, a fan of Caravaggio
you vanished after a few months of illness
of suffering and strength in dying.
Paintings and friendship remain,

canvases, which don't understand
their loneliness, their dusk,
and friendship, which of course
lives on-but as a widow now.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Họa phẩm

Hằng hà trên tường trong căn phòng
Ở Phố Sài Gòn
[Tại sao Phố Sài Gòn trong Sài Gòn?
Thành phố quên mẹ nó tên, hay quên mẹ đường về nhà?]

Mà bây giờ để ý làm chó gì -
Những tên đường, lòng đam mê ái quốc của bạn dành cho
Kazimierz,
Những bức hình trung thành của bạn về những căn nhà cổ,
Những cái cổng xiêu vẹo.

Ngay cả căn phòng thì bây giờ cũng đâu còn
Trên những tấm vải bố: những mặt người, những cơ thể đàn bà,
Xám và hồng, những vết màu vàng của thế giới.
Những vạch, những phác của những hành động,
Những nghiên cứu về già lão,

Tĩnh vật, một số bụi phủ
Và chết hai lần, những bức khác tươi mát,
Như trái cây ở chợ, long lanh trong ánh sáng tưởng nhớ của Tháng Sáu.
Mùa hạ ánh sáng đập thẳng thừng lên những đồ vật,
Trong khi mùa đông, nó ẩn náu một cách lười biếng ở trong tủ áo,
Ngủ ở trong lò,
Như khoáng vật trên những giá ở viện bảo tàng 

Vua đấu láo, đệ tử của Caravaggio
Bạn biến mất sau vài tháng bịnh
Chiến đấu kiên cường trong khi chờ đi xa
Tranh và bạn bè thì còn ở lại

Những tấm vải bố, chúng không hiểu nỗi cô đơn của chúng,
Buổi chạng vạng của chúng
Và tình bạn, lẽ tất nhiên
Tiếp tục sống – nhưng như là một góa phụ.