*
  Sebald

Norfolk

Sailing backwards
as a passenger with
banished time

A Louisianan
landscape populated
by invisible windmillers

Where the Egyptian
in his painted boat
sails between fields

W.G. Sebald: Across the land and the water 

Note: Norfolk

The physical (or, rather, metaphysical) attitude of the passenger, who is “sailing backwards with banished time”, is reminiscent of Walter Benjamin's "angel of history": the "storm [from Paradise] irresistibly propels him into the future to which his back is turned, while the pile of debris before him grows skyward" (Illuminations, trans. Harry Zohn, London: 1973 [p. 260]). The reason for the poem's description of Norfolk as a Louisianan landscape is obscure....

 

Norfolk

Dong buồm ngược
Như một hành khách
Mà thời gian bị biếm,

Một quang cảnh Louisina
Được cư ngụ bởi những chủ cối xay gió vô hình

Nơi người Ai Cập
Trong chiếc thuyền sơn của mình
Dong buồm giữa những cánh đồng

Cung cách thể chất (hay có thể nói, siêu hình) của một hành khách “du hành ngược lại…. với thời gian bị biếm”, làm nhớ đến “thiên thần lịch sử” của Walter Benjamin: Trận bão [từ Thiên Đàng] đẩy anh ta, không làm sao cưỡng lại được về tương lai, lưng anh ta quay lại, trong khi đống điêu tàn đổ nát trước mặt anh ta cứ thể mà ùn mãi lên, tới tận ngọn đỉnh trời (Illuminations).

Ghost Hunter

Eleanor Wachtel [CBC Radio’s Writers & Company on April 18, 1998]:

Sebald viết một kinh cầu cho một thế hệ, trong Di dân, The Emigrants, một cuốn sách khác thường về hồi nhớ, lưu vong, và chết chóc. Cách viết thì trữ tình, lyrical, giọng bi khúc, the mood elegiac. Ðây là những câu chuyện về vắng mặt, dời đổi, bật rễ, mất mát, và tự tử, người Ðức, người Do Thái, được viết bằng 1 cái giọng hết sức khơi động, evocative, ám ảnh, haunting, và theo cách giảm bớt, understated way. Di dân có thể gọi bằng nhiều cái tên, một cuốn tiểu thuyết, một tứ khúc kể, a narrative quartet [Chắc giống Tứ Khúc BHD của GCC!], hay, giản dị, không thể gọi tên, sắp hạng. Ông diễn tả như thế nào?

WG Sebald:
Nó là một hình thức của giả tưởng văn xuôi, a form of prose fiction. Theo tôi nghĩ, nó hiện hữu thường xuyên ở Ðại lục Âu châu hơn là ở thế giới Anglo-Saxon, đối thoại rất khó chui vào cái thứ giả tưởng văn xuôi này….

EW: Một nhà phê bình gọi ông là kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, ông có nghĩ về mình như thế?

WGS: Ðúng như thế. Yes, I do. I think it’s pretty precise…

Qua Sông & Nước

*

April 5, 2012
W. G. Sebald’s Poetry of the Disregarded
Posted by Teju Cole

Thơ của những kẻ bị bỏ đi, chẳng ai thèm để ý đến, của W.G. Sebald

Xuyên suốt nghiệp viết của mình, W.G. Sebald làm những bài thơ, lạ làm sao, thật gần gụi, thật như văn xuôi của ông. Giọng điệu của ông, trong cả hai thể loại thì luôn luôn được nén xuống, kìm lại, nhưng làm sao giấu nổi đỉnh cao của chúng, là của 1 thứ kinh cầu, tưởng niệm, thương tiếc. Thêm vào đó, là sự kiện này: ông xóa nhòa, làm mờ đi, những đường ranh phân biệt những thể loại văn thơ, và thực thế, hầu như tất cả những gì ông viết, không chỉ thơ và văn xuôi, thì còn bao gồm lịch sử, hồi ký, tiểu sử, phê bình nghệ thuật, những tuyệt chiêu về học giả, kinh điển, và sáng kiến, phát minh. Một chuyên gia thuộc loại tổ sư trong cái việc trộn lẫn vào nhau những thể loại văn học như ông, thì đã được truyền nghề từ những bậc thầy rầu rĩ của thế kỷ 17, là Robert Burton and Thomas Browne, và những câu văn dài thòng, quấn quít vào nhau, thành những vòng tròn giống như những cái thòng lọng, của Sebald, thì cũng còn là một hình thức tưởng nhớ đến những nhà văn tiếng Đức thế kỷ 19, như Adalbert Stifter và Gottfried Keller.
Nhưng mạnh hơn nữa, là sự gần gụi của văn phong của những tác phẩm của riêng ông, với những tác phẩm có trước chúng, của những tác giả như
Robert Walser và Thomas Bernhard.
Đối với chúng ta, những kẻ đọc tác phẩm của ông, qua bản dịch tiếng Anh, tất cả tạo thành, cái gọi là, có tính Sebald [Sebaldian].
Tiếng tăm của Sebald trụ vào bốn cuốn tiểu thuyết—“Vertigo,” “The Emigrants,” “The Rings of Saturn,” và “Austerlitz”— tất cả chúng, những suy tưởng về lịch sử của bạo lực nói chung, và về di sản của Lò Thiêu nói riêng. Cảm quan của chúng ta về sự thành tựu này còn được giầu có thêm nhờ những tác phẩm khác: những tác phẩm xb khi ông còn sống (những bài diễn thuyết “Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt, và bài thơ dài “After Nature”), và những tác phẩm xb sau khi ông mất (trong có tập tiểu luận “Campo Santo”, những tập thơ ngắn “Unrecounted” và “For Years Now”).
Vóc dáng của Sebald, giống của Roberto Bolaño, đưa ra ảo tưởng, cả hai đều sản sản xuất khoẻ lắm, khoẻ lạ thường, và “Qua Đất và Nước”, "Across the Land and the Water”, tập thơ tuyển 1964-2001, khi trình làng không làm người đọc ngạc nhiên. Mười năm đã qua, vậy mà như ông vẫn còn sống, vẫn đang viết.
"Qua Đất và Nước” khác hẳn mọi cuốn sách khác của Sebald ở điểm cực bảnh, thật đáng nể này: nó có cái phần viết đầu tay của ông. Bởi vì thành công văn học của ông đến muộn (ông được năm bó khi cái đầu tiên của những tác phẩm của ông được dịch qua tiếng Anh), và cái ông Sebald mà chúng ta biết đó, là 1 ông chín,“mature” rồi, lừng lững một đấng rồi. Một trong những cực thú của tập hiện đang, present,  là ở trong cách nó chỉ cho chúng ta thấy, sự phát triển của giọng thơ của tác giả trên dòng thời gian trên mười năm, bắt đầu thập niên 1960, khi ông là một sinh viên.

Một trong những mẩu thơ đầu đời này, viết:

Glass in hand
They come and go
Stop still and expect
The metamorphosis of hawthorn
In the garden outside
Time measures
Nothing but itself.

'Trực'[giống 'loạn']dịch:

Ly trong tay
Tới và đi
Đứng và mong
Cây táo gai biến hình
Ngoài vườn
Thời gian đo,
Chính nó.


Norfolk

Sailing backwards
as a passenger with
banished time
A Louisianan
landscape populated
by invisible windmillers
Where the Egyptian
in his painted boat
sails between fields

W.G. Sebald: Across the land and the water 

Note: Norfolk

The physical (or, rather, metaphysical) attitude of the passenger, who is “sailing backwards with banished time”, is reminiscent of Walter Benjamin's "angel of history": the "storm [from Paradise] irresistibly propels him into the future to which his back is turned, while the pile of debris before him grows skyward" (Illuminations, trans. Harry Zohn, London: 1973 [p. 260]). The reason for the poem's description of Norfolk as a Louisianan landscape is obscure....

Poemtrees 

For how hard it is
to understand the landscape
as you pass in a train
from here to there
and mutely it
watches you vanish. 

A colony of allotments
uphill into the fall.
Dead leaves swept
into heaps.
Soon-on Saturday-
a man will
set them alight. 

Smoke will stir
no more, no more
the trees, now
evening closes
on the colors of the village.
An end is come
to the workings of shadow.
The response of the landscape
expects no answer. 

The intention is sealed
of preserved signs.
Come through rain
the address has smudged.
Suppose the "return"
at the end of the letter!
Sometimes, held to the light,
it reads: "of the soul."
 

Thật là cơ khổ làm sao
Để mà hiểu phong cảnh
Khi bạn ngồi trên xe lửa
Đi từ đây đến đó
Và lặng câm, nó theo dõi bạn
Biến mất

Một thuộc địa của những mảnh đất được phân cấp
Chạy tới đồi rồi rớt xuống
Lá chết quần tụ thành đống
Chẳng bao lâu – vào Chủ Nhật
Một người sẽ đốt chúng

Khói sẽ quấy trộn
Chẳng còn nữa, chẳng còn nữa,
Cây cối, bây giờ
Buổi chiều tối đóng lại
Trên những màu sắc của thôn làng.
Một sự tận cùng sẽ tới
Với những công việc của cái bóng
Đáp ứng của phong cảnh
Không mong trả lời

Ý định bị đóng khằn
Bởi những ký hiệu được bảo tồn
Tới dưới mưa
Địa chỉ bị mờ
Chắc là từ “return, trả lại”
Ở cuối thư!
Đôi khi soi dưới ánh lửa
Thì lại ra “of the soul, của linh hồn”.

Những ghi chú sau đây không thể làm những bài thơ trở nên dễ hiểu, comprehensive, chúng cũng không đề nghị "giải thích" những bài thơ, hay làm lộ ra, disclose, những bí mật của chúng. Mục đích của những ghi chú, thì gập hai, twofold: chỉ cho thấy nguồn của những bài thơ tập thơ này lấy từ đó, và giọi tí ánh sáng về những ám chỉ, allusions, của Sebald, về phong cảnh, nghệ phẩm, tác phẩm văn học, và những chất liệu khác về quan tâm lịch sử, other matters of historical interest.

Ghi chú của dịch giả