|
Qua
Sông & Nước
Theo tin từ
gia đình, nhà thơ Hà Thượng Nhân, (tức Trung tá Phạm Xuân Ninh, nguyên
Giám đốc
Nha Vô tuyến truyền thanh thời kỳ Đệ nhất VNCH, nguyên Chủ nhiệm Nhật
báo Tiền
Tuyến của Tổng cục Chiến Tranh Chính Trị), đã từ trần tại San Jose,
Califonia
lúc 7 giờ 45 phút chiều Thứ Ba, ngày 11 tháng 10, 2011, thọ 91 tuổi.
(Tin VHA.)
Blog DTL
GCC có 1 kỷ
niệm với Hà Chưởng Môn, là cái lần cận Tết, được ông cho tháp tùng,
cùng 1 số
anh em thuộc tòa soạn TT, đi ăn món tái chó, do 1 đệ tử của ông trổ tài
nấu nướng.
Nhớ hoài.
Lạ thế.
Sau biến cố
1975, như mọi nhân viên các cấp Quân Cán
Chính đã từng phục vụ trong chế độ VNCH, ông phải trình diện để đi “học
tập cải
tạo”. Thời gian ở trại Long Giao ông đã sáng tác bài thơ “Mưa Buồn Long
Giao” như để thay mọi
người, nói lên tâm trạng chung của họ lúc đó là chán
chường, tuyệt
vọng, không lối thoát…
Blog DTL
Phán như thế
thì đúng là... nhảm thật.
Nên nhớ là
thời gian Long Giao, đám VNCH vẫn còn tin… VC,
chỉ 10 ngày phù du, rồi lại được về với vợ
con cùng cả nước xây cái nhà Mít bằng trăm ngàn lần to hơn trước.
Chán chường
tuyệt vọng “không lối thoát” cái con khỉ.
Lo lắng cho
vợ con ở nhà thì có!
Thơ ở đâu xa của TTT, mở ra bằng
mấy bài thơ Long Giao, xin
post ở đây, để rộng đường
suy luận
Long
Giao
ngày đến
Tinh mơ xe đến
Long Giao
Đón người
đám cỏ tranh cao bên đường
Trông lên đồi
núi mờ sương
Mây bay tất
tưởi, mưa rong tần ngần
Tiêu điều
ngơ ngác trại quân
Đất lầy bùn đỏ quánh chân ghê người
Ngổn ngang chiến cụ bỏ rơi
Xanh om bờ bụi
tả tơi lũy đồn
Nhà hoang vách trống gió luồng,
Vắng tanh nỗi nhớ dập dồn bóng vang
Ngả lưng trên đất mơ màng
Hé trời trôi giạt ngỡ ngàng tấm thân
9/75
dậy sớm
Ngày chưa dậy tiếng kẻng
Mờ bạc trăng hạ tuần
Giông đầu hôm dứt lắng
Còn heo hút phân vân
Đứng ngây trời ẩm sũng
Ngóng tiếng gà thôn gần
Chỉ nghe rừng núi bủa
Lùa âm u xốn xang
đêm thu ở
lán 9
Giật mình tỉnh
giấc
Bó gối trong
mùng
Ai đâu mớ sảng
Tiếng thét
hãi hùng?
Lán khuya
mông lung
Nín ngộp tối
câm
Gió rừng heo
hút
Lùng bùng
mái tô
Người nằm
khít chật
Hơi hám nực
nồng
Vo ve muỗi
mòng
Nền cứng
toát lạnh
Đêm mùa trở
tiết
Rền rĩ dế
trùng
Sục sạo chuột
rúc
""Gô
cóng" đổ tung
Mộng kín rò
thoát
Cất lời nỉ
non
Hát câu não
lòng
Hoảng hồn ngậm
bặt
Ngoài
đêm trôi tít
Theo sao tàn
vong
Theo gió mờ
mịt
Ngày lên ngại
ngùng
75-78
Note: Bản
trên, từ tập thơ đã xb, khác bản trên talawas rất nhiều.
Từ từ TV sẽ post lại tất cả những bài thơ, theo bản in đã xb.
Cùng lúc
"đi" 1 số bài của W.G Sebald, trong Qua
sông qua nước.
Nguồn
talawas
Note: Thi sĩ
HTN mất 11, tháng 10, 2011. GCC tưởng là mới mất!
NQT
Cái này là hỏi
nhỏ bạn ta: Hình như chưa từng nếm mùi tù VC?
NQT
Thời gian
TTT làm mấy bài thơ Long Giao, 1975-1976, là cả nước Mít tưng bừng hồ
hởi với Cái
Nhà Mít tương lai.
Gấu khi đó, ở nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, vừa cuốc đất
vừa khóc ròng, khi nghe những tên "cùng hội cùng thuyền" hát bài Con Kinh Ta Đào, cái gì gì:
Con kinh ta đào chưa có
nước chảy qua
Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng
Trời trên cao, rất quen và
rất lạ,
Cứ xanh thăm thẳm ở trên đầu
Và, tất nhiên, chỉ 1 thời
gian ngắn sau đó, cả nước Mít, nhất là Miền Nam, vỡ mộng:
Tổ Quốc ơi, ăn khoai mì
chán lắm
Từ trận đánh hôm nay,
Ta ăn độn dài dài
Ông Nhàn, chủ nhà xb Sống
Mới, thì cũng thời gian này, đem cả gia đình đi Kinh
Tế Mới, 1 buổi sáng sớm lơn tơn vác cuốc ra đồng, hát ư ử, chắc thế -
Roméo nhớ
Juliette - không nghe tên du kích vườn hô đứng lại, thế là đòm 1 phát,
đi luôn!
Nước Nga cũng
có thời kỳ như thế, thời kỳ Băng Tan, như trong bài viết The Gift cho thấy.
Mít chúng ta
cũng có The Gift, nhưng, cũng thật ngắn ngủi.
Và đó là tội ác lớn lao nhất, của
VC.
Chúng lấy của cả nước Mít "món quà" mà Thượng Đế ban cho chúng ta.
Thơ Mỗi Ngày
Cors de
chasse
Notre
histoire est noble et tragique
Comme le
masque d'un tyran
Nul drame
hasardeux ou magique
Aucun detail
indifferent
Ne rend
notre amour pathetique
Et Thomas de
Quincey buvant
L'opium
poison doux et chaste
A sa pauvre
Anne allait rêvant
Passons
passons puisque tout passe
Je me
retournerai souvent
Les
souvenirs sont cors de chasse
Dont meurt
le bruit parmi le vent
Apollinaire: Alcools
CORS DE
CHASSE
Our story is
noble and tragic
As the
face
of a tyrant not fun not for everyone
No drama
or
magic
No detail
of
what we've done
Can make
our
love pathetic
And
Thomas
De Quincey drinking
Opium
poison
sweet and chaste
Went
dreaming to his poor Ann and listened to his own eyelids blinking
Let it
pass
let it pass because everything will pass and be effaced
I will be
back not yet erased
Memories
Are
hunting
horns whose sound dies in the breeze
Ban biên tâp The
Paris Review dịch từ tiếng Tẩy,
đăng trên số Mùa Thu 2012
Tù và săn
Tình của chúng ta thì phong nhã và bi thương
Như mặt nạ của tên độc tài
Chẳng thảm kịch phiêu lưu hay thần kỳ
Chẳng chi tiết dửng dưng nào
Có thể làm cho cuộc tình của chúng ta trở nên sướt mướt
Và Thomas De Quincey
chơi xì ke
Xì ke mới dịu dàng tao nhã làm sao...
Je vous
attendrai
Dix ans
vingt ans s'il le faut
Votre
volonté sera la mienne
Ta sẽ đợi em
Mười năm, hai chục năm, nếu cần
[Hơi bị khó
nhe!]
Ước mong của em sẽ là của ta
Apollinaire: La
maison des morts
Dịch….
loạn:
Có sức ép thật nặng nề từ lũ ngu lên những nhà làm thơ, về cái ý niệm
định
nghĩa thơ. Thơ cái đéo gì mà đếch có vần điệu, đếch làm sao gợi ra
nhịp; nó
có vẻ như được viết ra cho trang giấy, đếch phải cho cái tai. Thơ như
bị biến
tính.
INTERVIEWER
[The Paris
Review, Fall, 2012]
I wonder if
you would read a poem called "Cambodia"
from The Memory
of War.
FENTON
Of course.
One man
shall smile one day and say goodbye.
Two shall be
left, two shall be left to die.
One man
shall give his best advice.
Three men
shall pay the price.
One man
shall live, live to regret.
Four men
shall meet the debt.
One man
shall wake from terror to his bed.
Five men
shall be dead.
One man to
five. A million men to one.
And still they
die. And still the war goes on.
INTERVIEWER
I wouldn't
be the first to suggest that "the one" in that poem-the one who gives
advice and lives to regret and wakes in terror-is you, is the poet. And
I
wonder to what extent the experience of Cambodia has stayed with you,
because
while reading The Orphan of Zhao,
and now, hearing you talk about it, it
strikes me that that play is in some sense about genocide. An entire
clan gets
killed, although the orphan escapes.
Note: Ông bạn
Bạn, bạn vàng, bạn nhậu, bạn vong niên, khuyên GCC đừng đụng đến ai
nữa, mà cũng chẳng
thèm viết mẹ gì nữa, mà chỉ nên giới thiệu kịch, tất nhiên, vẫn cứ tiếp
tục làm
thơ, dịch thơ.
Tình cờ, mở
số The Paris Review, có bài
phỏng vấn nhà thơ James Fenton. Ông này cũng đang làm
kịch cho đài Royal Shakespeare Company, một ấn bản mới của 1 cái kịch
Tẫu cổ, đã
từng có vài ấn bản Tây Phương, thế kỷ 18, trong có của Voltaire, tên là
The
Orphan of Zhao
[GCC bèn nghĩ đến cái từ,
những đứa con hoang [con tư sinh, chữ
của TTT] của Miền Bắc, tức là lũ Bắc Kí di cư, trong có GCC]
Lại THNM rồi!
Không phải.
James Fenton rất quen thuộc với xứ Mít, và xứ Cambodia. Ông là phóng
viên chiến
trường, có mặt tại Phnom Penh khi Khờ Me Đỏ đợp nó, và ở Sài Gòn,
khi thất thủ, và mất mẹ cả tên.
TV sẽ chuyển
ngữ bài phỏng vấn, và có thể sẽ dịch một, hai bài thơ của ông
Qua
Sông & Nước
Đọc
thơ Sebald, ui chao, là 1 quá trình không chỉ nhằm đáp ứng bản văn.
Những bài
thơ của ông đọc những bức họa, những thành phố, những tòa nhà, những
quang cảnh,
những giấc mộng, và những hình tượng lịch sử. Kết quả là cả 1 kho của
cải bách
khoa của ẩn dụ văn chương, và điển cố văn hóa, phần nhiều đếch được
nhắc đến
tên trong bản văn chính nó. [Bạn hiểu Ải Tây là cái gì nếu không đọc
ghi chú?].
Những câu kệ của Sebald thì chứa đựng không chỉ những hầm bẫy, nhưng
còn trải 1
lối đi – gờ, rìa - ngặt nghèo, khó chịu, dọc theo hố thẳm, của cái mà,
trong 1
bài thơ, ông gọi là “lịch sử/của tra tấn xuyên qua các thời đại”. Những
khó
khăn chúng gây cho người dịch là hiển nhiên. Những từ, tự bản chất,
chính xác
sao, thì hàm hồ cũng vậy. Và người chuyển ngữ, trong từng trường hợp,
phải triển
khai trường qui chiếu, hiệu ứng, cộng hưởng, và định thần, trong bản
văn và
ngôn ngữ gốc, trước khi quyết định chọn, từ này thay vì từ kia. Với thơ
của
Sebald, những triển khai như thế mới dài thời giờ và đa dạng làm sao,
dẫn người
triển khai tới tình trạng, về một “miền u ám”, về mặt lịch sử và văn
hóa, tương
ứng với nó, là bài thơ, chính nó, lần lữa - có thể nói, mảnh khảnh, ẻo
lả - tiến
tới. Đôi khi chất u ám này – tuy cám ảnh nỗi khốn khó của người dịch –
sau
cùng, vưỡn không khứng cái từ mà người dịch chọn, dù xoay sở, hì hục
cách mấy!
Cho phép tôi đưa ra 1 thí dụ dẫn chúng ta tói trái
tim của sự khốn khó trong việc dịch thơ Sebald. Rất nhiều thơ trong tập
này - mở ra bằng 1 chuyến đi xe lửa –
tái tạo, tái kích hoạt, cuộc lữ “qua” những vùng đất đai, sông nước
(ngay cả nếu
thứ sông nước này chỉ là dòng mộng mị). Thực sự, một vài bài thơ, như
thư khố của
nhà thơ bật mí, đúng là đã được viết “trên đường", được gắn, ghim vào
những
tờ tiêu đề của khách sạn, thực đơn, đằng sau những tờ chương trình kịch
nghệ,
trong những thành phố mà Sebald từng thăm viếng. Những chuyến đi bằng
xe lửa
thường được nhắc tới, trong số những phương thức du lịch. Bài thơ sau
đây, có
thể là từ 1 trong những chuyến đi như thế. "Irgendwo," dịch qua tiếng
Mít là “Đâu đó” có thể đã được in ấn vào cuối thập niên 1990, nguyên
thuộc một
chuỗi những “vi thơ”, chúng là chất liệu cho tác phẩm được xb sau khi
tác giả mất, Unerzdhlt (Unrecounted),
2003:
Đâu đó
Đằng sau
Turkenfeld
Một vườn ương cây thông
Một ao
Vùng truông,
Băng Tháng Ba trên mặt ao
Đang chầm chậm tan
Với sự gợi
tưởng một phong cảnh hiu hắt, hắt hiu, và một đề xuất rằng thì là băng
đang
tan, bài thơ bề ngoài cho thấy giản dị, có mùi đồng quê… Chỉ có 1 chi
tiết, nếu
gợi tò mò đưa đến tìm tòi, thì là 1 địa danh [như những Long Giao, Việt
Hồng,
K2 Tân Lập…] đó là Turfenfeld: một thành phố nhỏ - thực sự, nhỉnh hơn
một làng
quê 1 tị - ở vùng Furstenfeldbruck, thuộc Upper Bavaria, trên tuyến
đường được
gọi là Allgau, Sebald thường sử dụng, để đi lại giữa Sonthofen và
Munich. Tuy
nhiên, với một dịch giả thơ Sebald thì 1 sự cảnh giác không thể thiếu
được, và
những phong cảnh trong những tác phẩm của Sebald thật khó mà ngây thơ
như bề
ngoài tưởng vậy. Cụm từ “đằng sau Turkenfeld”, tự nó, là 1 chỉ dẫn,
giống như
“how hard it is” – những từ có thể được đọc như một thứ thơ lập trình
mở ra tập
thơ này - "để hiểu phong cảnh/khi bạn đi bằng xe lửa/từ đây đến đó/và
lặng
câm nó/theo dõi bạn biến mất."
Theo nghĩa ẩn
dụ này, bài thơ đặt chính cái nhìn của người du lịch ở nơi trung tâm
của sự gặp
gỡ của nó, với phong cảnh khó hiểu, khai triển sự khó khăn, xúi giục
địa hình lịch
sử đáp trả cái nhìn bằng cách phơi ra những bí mật của nó. Rất nhiều
bài thơ của
Sebald, gây cấn, hay, gây hấn, như thế đó: chúng tạo ra trận đánh giữa
tinh anh
và cảm quan, với cái hũ nút, hay bộ mặt khó chịu, cự tuyệt của những
tầng lớp lịch
sử.
Cảm tưởng là
của 1 người đi qua 1 vùng đất những biến động tàn khốc của thế kỷ 20 đã
để lại
những hình mẫu những ngôi mộ càn cạn, nông choẹt, dưới 1 địa tầng muộn
[upper
stratum] sạch sẽ, gọn gàng, về mặt bệnh lý, của văn minh. Vậy thì, cái
gì, ở “đằng
sau” Turkenfeld?
Điều độc nhất
phong cảnh "câm nín" này tiết lộ cho người đọc-du khách, là cái tên của
nó, một ký hiệu nối kết bài thơ “hương đồng gió nội Nguyễn Bính” với
"chất
xám", "dark matter", của bầu khí lịch sử văn hóa của nó.
Somewhere
behind Turkenfeld
a spruce nursery
a pond in the
moor on which
the March ice
is slowly melting
With
its evocation of a wintry landscape and the suggestion that a thaw is
on its
way, this apparently simple poem seems nothing short of idyllic. The
invitation
to research possible frames of reference is expressed solely by the
place name
Turkenfeld: a small town- indeed, hardly more than a village-in the
Furstenfeldbruck area of Upper Bavaria, on the so-called Allgau line, a
route
that Sebald would have taken often enough between Sonthofen and Munich.
However, it is well for a translator to be aware that landscapes in
Sebald's
work are rarely as innocent as they seem. The phrase "behind
Turkenfeld" is itself already an indication of "how hard it
is"-in the words of what could almost be read as a programmatic poem
opening the present collection- "to understand the landscape / as you
pass
in a train / from here to there / and mutely it / watches you vanish."
Với sự gợi
tưởng một phong cảnh hiu hắt, hắt hiu, và một đề xuất rằng thì là băng
đang
tan, bài thơ bề ngoài cho thấy giản dị, như có tí mùi mẫn… Chỉ
có 1 chi tiết, nếu gợi tò mò đưa đến tìm tòi, thì là 1 địa danh [như
những Long Giao, Việt Hồng…] đó là Turfenfeld: một thành phố nhỏ - thực
sự, nhỉnh hơn một làng quê 1 tị
- ở vùng Furstenfeldbruck, thuộc Upper
Bavaria, trên
tuyến đường được gọi là Allgau, Sebald thường sử dụng, để đi lại giữa
Sonthofen
và Munich. Tuy nhiên, với một dịch giả thơ Sebald thì 1 sự cảnh giác
không thể
thiếu được, và những phong cảnh trong những tác phẩm của Sebald thật
khó mà ngây
thơ như bề ngoài tưởng vậy. Cụm từ “đằng sau Turkenfeld”, tự nó, là 1
chỉ dẫn,
giống như “how hard it is” – những từ có thể được đọc như một thứ thơ
lập trình
mở ra tập thơ này - "để hiểu phong
cảnh/khi bạn đi bằng xe lửa/từ đây đến đó/và lặng câm nó/theo dõi bạn
biến mất."
Poemtrees
For how hard
it is
to
understand the landscape
as you pass
in a train
from here to
there
and mutely
it
watches you
vanish.
A colony of
allotments
uphill into
the fall.
Dead leaves
swept
into heaps.
Soon-on
Saturday-
a man will
set them
alight.
Smoke will
stir
no more, no
more
the trees,
now
evening
closes
on the
colors of the village.
An end.is
come
to the
workings of shadow.
The response
of the landscape
expects no
answer.
The
intention is sealed
of preserved
signs.
Come through
rain
the address
has smudged.
Suppose the
"return"
at the end
of the letter!
Sometimes,
held to the light,
it reads:
"of the soul."
Winter Poem
The valley
resounds
With the
sound of the stars
With the
vast stillness
Over snow
and forest.
The cows are
in their byre.
God is in
his heaven.
Child Jesus
in Flanders.
Believe and
be saved.
The Three
Wise Men
Are walking
the earth.
W.G. Sebald: Across
the Land and the Water
Thơ Mùa Đông
Thung lũng dội,
Bằng âm thanh của
những vì sao
Bằng sự tĩnh
lặng bao lao
Lên tuyết và
rừng.
Bò thì về
chuồng rồi
Chúa thì ở thiên đàng
Chúa Hài Đồng
ở Flanders
Tin và Được
Cứu Rỗi.
Ba Vì Hiền
Giả
Đang lang
thang trên mặt đất.
Il ritorno d'Ulisse
Returning
from a lengthy trip
he was
astonished to find
he had
strayed to a country
not his
place of origin
For all his
encounters in scattered spots
with the
black paper hearts of men
shot by the
arquebuse
his
bow-and-arrow story
did not
happen
Then there
was Penelope's
Castilian
grandmother
blocking his
entry at the garden gate
wordless and
busy with embroidery
Sure, the
grandchildren
are smiling
in the background
apparently
better disposed
towards
foreigners
Their
furtive hopes
still almost
too small
for the
naked eye
(But the
idea is good
and the
noise far away
even the
building)
Note: Bài
thơ này làm nhớ một, hai bài thơ trong Thơ
Ở Đâu Xa, tả cảnh anh tù, nhà thơ, sĩ quan VNCH, gốc Bắc Kít,
về quê Bắc
Kít ngày nào, và, tất nhiên, còn làm nhớ bài thơ của TTY, Ta Về.
Ta Về
Trở về sau 1
chuyến dài dong chơi địa ngục
Hắn kinh ngạc
khi thấy mình lạc vô 1 xứ sở
Đếch phải nơi hắn sinh ra
Trong tất cả
những cú gặp gỡ ở những điểm này điểm nọ rải rác, tản mạn
Với những trái
tim giấy đen của những người bị bắn bởi cây súng mút kơ tông
Thì giai thoại,
kéo cây cung thần sầu, bắn mũi tên tuyệt cú mèo, đếch xẩy ra.
Và rồi thì có
bà ngoại Tây Bán Nhà của Penelope
Bà chặn đường
dẫn vô vườn
Đếch nói 1
tiếng, và tỏ ra bận rộn với cái trò thêu hoa văn khăn tay
Gửi người lính trận
vượt Trường Sơn kíu nước,
Này khăn tay này, này thơ này,
Đường ra trận mùa này đẹp nắm!
Hà, hà!
Tất nhiên rồi,
chắc chắn có lũ con nít
– không phải nhếch nhác kéo nhau coi tù
Ngụy qua thôn nghèo –
chơi ở vườn sau, chúng có vẻ rất tự nhiên, mỉm cười với khách lạ
Những hy vọng
ẩn giấu của chúng
vẫn hầu như quá nhỏ nhoi,
với con mắt trần trụi
(Nhưng ý nghĩ
thì tốt
Và tiếng động
thì xa
mặc dù tòa
nhà)
Allow me to
offer an example that will take us into the heart of the difficulty of
translating Sebald's poetry. Many of the poems in this volume-which
opens with
a train journey-reenact travel "across" various kinds of land and
water (even if the latter is only the fluid of dreams). Indeed,
several, as the
writer's archive reveals, were actually written "on the road," penned
on hotel stationery, menus, the backs of theatre programs, in cities
that
Sebald visited. Train journeys constitute the most frequently recorded
mode of
travel. The following poem may refer to one such journey. "Irgendwo,"
translated in English as "Somewhere," was probably written in the
late 1990s and originally belonged to the sequence of "micropoems" that
provided the material for Sebald's posthumous collection Unerzdhlt
(Unrecounted), published in 2003:
Somewhere
behind
Turkenfeld
a spruce
nursery
a pond in
the
moor on
which
the March
ice
is slowly
melting
Cho phép tôi
đưa ra 1 thí dụ dẫn chúng ta tói trái tim của sự khốn khó trong việc
dịch thơ
Sebald. Rất nhiều thơ trong tập này - mở
ra bằng 1 chuyến đi xe lửa – tái tạo, tái kích hoạt, cuộc
lữ “qua” những vùng đất đai, sông nước (ngay
cả nếu thứ sông nước này chỉ là dòng mộng mị). Thực sự, một vài bài
thơ, như thư khố của
nhà thơ bật mí, đúng là đã được viết “trên đường", được gắn, ghim vào
những tờ tiêu
đề của khách sạn, thực đơn, đằng sau những tờ chương trình kịch nghệ,
trong
những thành phố
mà Sebald từng thăm viếng. Những chuyến đi bằng xe lửa thường được nhắc
tới, trong số những phương thức du lịch. Bài thơ sau đây, có thể là từ
1
trong
những chuyến đi như thế. "Irgendwo," dịch qua tiếng Mít là “Đâu đó” có
thể đã
được in ấn vào cuối thập niên 1990, nguyên thuộc một chuỗi
những “vi
thơ”, chúng là chất liệu cho tác phẩm được xb sau khi tác giả mất, Unerzdhlt (Unrecounted), 2003:
Đâu đó
Đằng sau
Turkenfeld
Một vườn ương cây thông (1)
Một ao
Vùng
truông,
Băng Tháng
Ba trên mặt ao
Đang chầm chậm
tan
(1)
Tuy
dịch là "vườn" chứ thực ra, những vườn ương thông này rộng bạt
ngàn, như rừng .
K
Tks. NQT
Winter Poem
The valley
resounds
With the
sound of the stars
With the
vast stillness
Over snow
and forest.
The cows are
in their byre.
God is in
his heaven.
Child Jesus
in Flanders.
Believe and
be saved.
The Three
Wise Men
Are walking
the earth.
W.G. Sebald: Across
the Land and the Water
Thơ Mùa Đông
Thung lũng dội,
Bằng âm thanh của
những vì sao
Bằng sự tĩnh
lặng bao lao
Lên tuyết và
rừng.
Bò thì về
chuồng rồi
Chúa thì ở thiên đàng
Chúa Hài Đồng
ở Flanders
Tin và Được
Cứu Rỗi.
Ba Vì Hiền
Giả
Đang lang
thang trên mặt đất.
Ghi chú
trong bản dịch tiếng Anh:
Winter Poem
PT, FSZ
IS
(1965), H. Child Jesus in Flanders:
the German translation of the
Flemish writer Felix Timmermans's novel (Het Kindeken Jezus in
Vlaanderen,
1917), published in 191 under the title Das
Jesuskind in Flandern, was immensely popular in Ger any between the
wars
and during the 1950s. Its plot sets the birth of Christ in rural
Flanders.
Another story, "Jesus-Christ en
Flandre" (183 I) by Honoré de Balzac, is apparently based on a
medieval folktale. The Christ-child theme recalls the nativity scenes
of Dutch
Masters. Believe and be saved: see
Mark 16: 16. A handwritten comment on the PT typescript claims there is
too great
a discrepancy in the poem between the ironic tone of the second stanza
and the
apparent naiveté of the first.
*
"Reading"
in Sebald's poetry, however, is a process that not only responds to
text. His
poems read paintings, towns, buildings, landscapes, dreams, and
historical
figures. The result is an encyclopedic wealth of literary allusion and
cultural
reference, much of which may not be named in the text itself. Sebald's
sentences can not only contain pitfalls but thread an uncomfortably
narrow
ledge along the abyss of what, in one poem, he calls "the history / of
torture à travers les ages" ("Bleston"). The difficulties
this creates for the translator are self-evident. Words are by nature
as
precise as they are ambiguous, and the translator must in each case
explore the
field of reference, resonance, and determination in the source text and
language before deciding on one word rather than another. With Sebald's
poems,
such explorations can prove long and complex, leading the explorer to a
plethora of attendant historical and cultural "dark matter," in
relation to which the poem itself may appear deceptively
straightforward and
even slight. Sometimes this dark matter-however aware the translator
needs to
be of its existence-does not, in the end, affect the words of a
translation in
any pivotal way.
Translator's
Introduction
Đọc
thơ Sebald, ui chao, là 1 quá trình không chỉ nhằm đáp ứng bản văn.
Những bài
thơ của ông đọc những bức họa, những thành phố, những tòa nhà, những
quang cảnh,
những giấc mộng, và những hình tượng lịch sử. Kết quả là cả 1 kho của
cải bách
khoa của ẩn dụ văn chương, và điển cố văn hóa, phần nhiều đếch được
nhắc đến
tên trong bản văn chính nó. [Bạn hiểu Ải Tây là cái gì nếu không đọc
ghi chú?].
Những câu kệ của Sebald thì chứa đựng không chỉ những hầm bẫy, nhưng
còn trải 1
lối đi – gờ, rìa - ngặt nghèo, khó chịu, dọc theo hố thẳm, của cái mà,
trong 1
bài thơ, ông gọi là “lịch sử/của tra tấn xuyên qua các thời đại”. Những
khó
khăn chúng gây cho người dịch là hiển nhiên. Những từ, tự bản chất,
chính xác sao, thì hàm hồ cũng
vậy. Và người chuyển ngữ, trong từng trường hợp, phải triển khai trường
qui chiếu,
hiệu ứng, cộng hưởng, và định thần, trong bản văn và ngôn ngữ gốc,
trước khi
quyết định chọn, từ này thay vì từ kia. Với thơ của Sebald, những triển
khai như
thế mới dài thời giờ và đa dạng làm sao, dẫn người triển khai tới tình
trạng, về
một “miền u ám”, về mặt lịch sử và văn hóa, tương
ứng với
nó, là bài thơ, chính nó, lần lữa - có thể nói, mảnh khảnh, ẻo lả -
tiến tới. Đôi
khi chất u ám này – tuy cám ảnh nỗi khốn khó của người dịch – sau
cùng, vưỡn
không khứng cái từ mà người dịch chọn, dù xoay sở, hì hục cách mấy!
Il ritorno d'Ulisse
Returning
from a lengthy trip
he was
astonished to find
he had
strayed to a country
not his
place of origin
For all his
encounters in scattered spots
with the
black paper hearts of men
shot by the
arquebuse
his
bow-and-arrow story
did not
happen
Then there
was Penelope's
Castilian
grandmother
blocking his
entry at the garden gate
wordless and
busy with embroidery
Sure, the
grandchildren
are smiling
in the background
apparently
better disposed
towards
foreigners
Their
furtive hopes
still almost
too small
for the
naked eye
(But the
idea is good
and the
noise far away
even the
building)
Note: Bài
thơ này làm nhớ một, hai bài thơ trong Thơ
Ở Đâu Xa, tả cảnh anh tù, nhà thơ, sĩ quan VNCH, gốc Bắc Kít,
về quê Bắc
Kít ngày nào, và, tất nhiên, còn làm nhớ bài thơ của TTY, Ta Về.
Ta Về
Trở về sau 1
chuyến dài dong chơi địa ngục
Hắn kinh ngạc
khi thấy mình lạc vô 1 xứ sở
Đếch phải nơi hắn sinh ra
Trong tất cả
những cú gặp gỡ ở những điểm này điểm nọ rải rác, tản mạn
Với những trái
tim giấy đen của những người bị bắn bởi cây súng mút kơ tông
Thì giai thoại,
kéo cây cung thần sầu, bắn mũi tên tuyệt cú mèo, đếch xẩy ra.
Và rồi thì có
bà ngoại Tây Bán Nhà của bà vợ Penelope của hắn
Bà chặn đường
đếch cho hắn đi qua cổng vườn
Đếch nói 1
tiếng, và tỏ ra bận rộn với cái trò thêu hoa văn khăn tay
Gửi người lính trận
vượt Trường Sơn kíu nước, hà, hà!
Tất nhiên rồi,
chắc chắc là có lũ con nít
– không phải lũ con nít nhếch nhác kéo nhau coi lũ tù
Ngụy đi qua thôn nghèo –
chơi ở vườn sau, chúng có vẻ rất tự nhiên, cười đùa
với khách lạ
Những hy vọng
ẩn giấu của chúng
thì vẫn quá nhỏ nhoi,
với con mắt trần trụi
(Nhưng ý
nghĩ
thì tốt
Và tiếng động
thì xa
mặc dù tòa
nhà)
Somewhere
behind
Turkenfeld
a spruce
nursery
a pond in
the
moor on
which
the March
ice
is slowly
melting
Đâu đó
Đằng sau
Turkenfeld
Một nhà trẻ
ngăn nắp
Một ao
Vùng
truông,
Băng Tháng
Ba trên mặt ao
Đang chầm chậm
tan
Bài thơ ngắn
ngủi này, quái làm sao, làm GCC nhớ đến bài thơ của TTT:
Chiều
cuối năm qua xóm nghèo
Mưa bay lất phất gió căm căm
Đường lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro đứng xem tù qua thôn
Vác bó cuốc nặng bước loạng
choạng
Về trong xây sẩm buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta chiều cuối năm
Có thể do thơ của Sebald
là thứ thơ di chuyển.
Nhưng tốt hơn hết, hãy nghe dịch giả Iain Galbraith viết về nó:
"Reading"
in Sebald's poetry, however, is a process that not only responds to
text. His
poems read paintings, towns, buildings, landscapes, dreams, and
historical
figures. The result is an encyclopedic wealth of literary allusion and
cultural
reference, much of which may not be named in the text itself. Sebald's
sentences can not only contain pitfalls but thread an uncomfortably
narrow
ledge along the abyss of what, in one poem, he calls "the history / of
torture à travers les ages"
("Bleston"). The difficulties this creates for the translator are
self-evident. Words are by nature as precise as they are ambiguous, and
the
translator must in each case explore the field of reference, resonance,
and
determination in the source text and language before deciding on one
word
rather than another. With Sebald's poems, such explorations can prove
long and
complex, leading the explorer to a plethora of attendant historical and
cultural "dark matter," in relation to which the poem itself may
appear deceptively straightforward and even slight. Sometimes this dark
matter-however aware the translator needs to be of
its
existence-does not, in the end, affect the words of a translation in
any
pivotal way.
Allow me to offer an example that will take us into the heart of the
difficulty
of translating Sebald's poetry. Many of the poems in this volume-which
opens
with a train journey-reenact travel "across" various kinds of land
and water (even if the latter is only the fluid of dreams). Indeed,
several, as
the writer's archive reveals, were actually written "on the road,"
penned on hotel stationery, menus, the backs of theatre programs, in
cities
that Sebald visited. Train journeys constitute the most frequently
recorded
mode of travel. The following poem may refer to one such journey.
"Irgendwo," translated in English as "Somewhere," was
probably written in the late 1990s and originally belonged to the
sequence of
"micropoems" that provided the material for Sebald's posthumous
collection Unerzdhlt (Unrecounted), published in 2003:
Somewhere
behind
Turkenfeld
a spruce
nursery
a pond in
the
moor on
which
the March
ice
is slowly
melting
With its
evocation of a wintry landscape and the suggestion that a thaw is on
its way,
this apparently simple poem seems nothing short of idyllic. The
invitation to
research possible frames of reference is expressed solely by the place
name Turkenfeld:
a small town- indeed, hardly more than a village-in the
Furstenfeldbruck area
of Upper Bavaria, on the so-called Allgau line, a route that Sebald
would have
taken often enough between Sonthofen and Munich. However, it is well
for a
translator to be aware that landscapes in Sebald's work are rarely as
innocent
as they seem. The phrase "behind Turkenfeld" is itself already an
indication of "how hard it is"-in the words of what could almost be
read as a programmatic poem opening the present collection- "to
understand
the landscape / as you pass in a train / from here to there / and
mutely it /
watches you vanish." In this metaphorical sense, the poem puts the
traveler's gaze itself at the center of its encounter with a cryptic
landscape,
exploring the difficulty of inciting a historical topography to return
that
gaze by divulging its secrets. Many of Sebald's poems enact the battle
of the
intellect and senses with the hermetic or repellent face of history's
surface
layers. The impression is one of traveling across a land in which the
catastrophic events of the twentieth century have left a pattern of
shallow
graves under the almost pathologically hygienic and tidy upper stratum
of
civilization. What, then, is "behind" Turkenfeld?
The only
thing this "mute" landscape divulges to the traveler-reader is its
name, a sign linking the idyll of the poem to the "dark matter" of
its cultural-historical ambience. The poem shows us only the unsettled
gaze. To
the close reader of landscapes, however, the name itself is enough to
admit the
"cold draught" (the title of another poem more visibly
"freighted" than this one) of a relatively recent yet already almost
forgotten history into the space of the poem. Research tells us that
one of the
ninety-four sub-camps linked to Dachau was constructed in Tiirkenfeld,
though
it was never used. The surrounding landscape is the site of the eleven
external
camps of the Kaufering network of satellite camps. These were set up to
facilitate arms manufacture in underground caverns and caves in an
effort to
evade Allied bombing, the geological composition of the Landsberg area
proving
favorable to construction of massive underground installations.
Turkenfeld was
formerly a station on the Allgaubahn, and the railway linking Dachau
with
Kaufering and Landsberg, known as the Blutbahn ("the blood track"),
passed throughTurkenfeld. As many as 28,838 Jewish prisoners were
transported
along this line from Auschwitz and Dachau to Kaufering to work as
slaves on the
construction of the underground aircraft plants Diana II and WalnuB II. Some 14,500 died in the plant or
were transported, when they had become too weak to work, back through
Turkenfeld
to the gas chambers. Our first unknowing reading of the poem, and with
it the
poem's own translation of an unruffled, apparently unremarkable
landscape
"mutely" watching us "vanish," points to the perilous
consequences of our loss of cultural memory. "To perceive the aura of
an
object we look at," wrote Walter Benjamin, referring more to the work
of
art than to landscapes, "means to invest it with the ability to look at
us
in return." Our struggle to "understand" the mute historical
holdings of Sebald's poetic landscapes in passing-a form of engagement
that his
poems frequently invite the reader to explore-brings us face to face
with our
failure to make the crucial investment that Benjamin describes.
Iain
Galbraith: Translator's Introduction
[Trích đoạn]
Note:
To NDB
Viết về Lò Thiêu thì cũng là viết về Mậu Thân.
Về Lò Cải Tạo, về "dark matter", về "the blood track"...
Regards
NQT
Whatever
Happened
Whatever
happened had already happened.
Four tons of
death lie on the grass
and dry
tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever
happened will stay with us
and with us
will grow and diminish.
But we must
live,
the rusting
chestnut tells us.
We must
live,
the locust
sings.
We must
live,
the hangman
whispers.
Adam
Zagajewski
Bất Cứ Chuyện
Gì xẩy ra
Chuyện xẩy
ra thì đã xẩy ra.
Bốn tấn người
chết nằm trên cỏ
Và những giọt
nước mắt khô queo
lì lợm bám
mãi vào những chiếc lá herbarium
Cái gì xẩy
ra thì sẽ ở với chúng ta
Và cùng
chúng ta, sẽ triển nở, và sẽ lụi tàn.
Nhưng chúng
ta phải sống,
Cây hạt dẻ
nâu bảo chúng ta.
Chúng ta phải
sống,
Con châu chấu
hát.
Chúng ta phải
sống
HPNT thì thầm
bên tai GCC.
Saturday,
December 1, 2012 11:55 PM
http://www.britannica.com/EBchecked/topic/561445/spruce
Theo
K :
Spruce
nursery : Vườn ương cây thông !
Tuy
dịch là "vườn" chứ thực ra, những vườn ương thông này rộng bạt
ngàn, như rừng .
Tks. NQT
Đúng rồi. "Đằng
sau", Behind, cả 1 thành phố Lò Thiêu, chẳng lẽ chỉ có 1 cái nhà trẻ
nhỏ xíu!
Many Tks. NQT
Ba tập thơ, Thơ
Ở Đâu Xa, TTT, Thắp Tạ, TTY, và Qua
Sông Qua
Nước của Sebald thì đều có chung 1 phong cảnh dời đổi. Nào những
Long
Giao, Tân
Lập, K2, K3; nào những Ải Tây, Cổng Trời, nào những Dachau....
Chúng ta hãy nghe dịch
giả phán về thơ Sebald:
Đọc
thơ Sebald, ui chao, là 1 quá trình không chỉ nhằm đáp ứng bản văn.
Những bài thơ
của ông đọc những bức họa, những thành phố, những tòa nhà, những quang
cảnh, những
giấc mộng, và những hình tượng lịch sử. Kết quả là cả 1 kho của cải
bách khoa của
ẩn dụ văn chương, và điển cố văn hóa, phần nhiều đếch được nhắc đến tên
trong bản
văn chính nó. [Bạn hiểu Ải Tây là cái gì nếu không đọc ghi chú?]. Những
câu kệ của
Sebald thì chứa đựng không chỉ những hầm bẫy, nhưng còn trải 1 lối đi –
gờ,
rìa - ngặt nghèo, khó chịu, dọc theo hố thẳm, của cái mà, trong 1 bài
thơ, ông
gọi là “lịch sử/của tra tấn xuyên qua các thời đại”. Những khó khăn
chúng gây
cho người dịch [như… GCC, thí dụ trên đây], là hiển nhiên!
Câu thơ “Đi
nép ranh, mường tượng ải Tây”, chẳng đúng là ý của đoạn trên sao?
"To
perceive the aura of an object we look at," wrote Walter Benjamin,
referring more to the work of art than to landscapes, "means to invest
it
with the ability to look at us in return":
"Để cảm nhận hào quang của
vật mà chúng ta nhìn vô", W. Benjamin viết - ông muốn qui nhiều về nghệ
phẩm
hơn là về phong cảnh - "có nghĩa là đầu tư nó, tiêm chích nó, cái khả
năng
nhìn trở lại chúng ta".
Chia Tay Ải
Tây
Tặng Thanh Tâm
Tuyền
Mới độ nào
chia tay ải Tây.
Đi đâu hay
chỉ cốt rời đây?
Mây trôi, dăm mảng nhớ hư hoặc,
Gom chẳng thành
câu chuyện thuận tai
Lời kiệm,
quanh ba cái ý quẩn,
Tiễn đưa vừa
một quãng mây bay.
Ra về thấy
nhật nguyệt điên đảo,
Ray rứt chưa
tròn hẹn ải Tây.
Có thật từng
chia tay ải Tây?
Mây qua để bóng
cổ thư này.
Tuyệt cùng ý
thức như nơi tới
Tin tức ngàn
thu biết hỏi ai?
Bao nhiêu đống
lửa đêm quan ngoại
Gió thổi tan
tro mỗi sang ngày?
Trong trời,
mây ấy cũ hay mới?
Ải Tây, lần
nữa, lại chia tay.
Mãi mãi còn
chia tay ải Tây.
Ngày ngày mây
lãng đãng qua đây.
Cõi đời giấu
một phía mê tưởng
Đi nép ranh,
mường tượng ải Tây.
1-2000
Note: Trong
cuốn này, có 1 bài "y chang" bài thơ của TTY tặng TTT!
Cả bài thơ của
TTY, là nói về cú đi ẩn của Lão Tử. Khi qua Ải Tây, người gác cổng năn
nỉ, trước
khi đi ẩn, cố để lại cho đời bộ Đạo
Đức Kinh.
Bài của
Sebald thì mắc mớ đến 1 địa danh của Lò Thiêu
Ðặt chữ
Qua Ðất Ðai Qua Sông Nước
Kể từ khi mất
bất thình lình do tai nạn xe hơi vào năm 2001, sự sùng bái W.G. Sebald
ngày một
tăng.
Ông gốc Ðức
nhưng chọn Anh là nơi sinh sống. Ðược biết nhiều qua những tác phẩm văn
xuôi
tinh tế, kết hợp cái thực với giả tưởng, đẩy tới mức giới hạn, điều
tiểu thuyết
có thể làm được, ông được coi như là một trong những nhà văn lỗi lạc
nhất của
thế hệ của ông. Ông còn là 1 nhà thơ.
Qua đất qua
nước, một tuyển tập những bài thơ chưa từng in trước đó, nếu có thể nói
như vậy.
Ðược dịch bởi Iain Galbraith, Qua đất
qua nước, như cái tên cho thấy, phác ra một cuộc đời di động. Trải dài
37 năm,
tuyển tập bao gồm những bài thơ mà Mr Galbraith kiếm thấy tác giả của
nó viết vội,
ở trong những hồ sơ, trên những mẩu giấy, trên tờ thực đơn nhà hàng,
chương
trình của một buổi ca nhạc, kịch nghệ, hay những tờ giấy có những tiêu
đề của 1
nhà hàng, khách sạn. Chúng bật ra khi trên xe lửa, hay ở một “ga không
tên/ ở
Wolfennbuttel”, Sebald kín đáo quan sát những bạn đồng hành đi xe lửa
bằng vé
tháng, vé năm khi ông gợi ra những quang cảnh lùi về phía sau ngược với
con
tàu.
Khác văn
xuôi của ông, có tính sử thi, gây chóng mặt, những bài thơ này thì cô
đọng, lơ
thơ. Tuy nhiên chúng chứa đựng rất nhiều đề tài thường ám ảnh Sebald
suốt cuộc
viết của ông. Nhà thơ trải qua những năm cuối đời ở Anh, làm việc tại
Ðại học
Manchester và Ðông Anglia. Bận bịu với hồi nhớ, ao ước, và tính ma quái
của những
sự vật, Sebald có thể gợi ra trong 1 bài thơ vẻ đẹp huyền bí nhạt nhòa,
1 thứ
Diễm Xưa, [thì cứ phán đại như vậy] của “thời quên lãng/của núi non và
đèn
treo”, hay bước ngoặt của thế kỷ/ áo-thày tu và cây cung-vải mỏng,
trong khi ở
1 bài thơ khác, ông nói tới một “khu tháp/xấu xí”, hay những “siêu thị
hấp hối”.
Sự chuyển đổi những thời khác nhau thì có vẻ ép buộc, hay giả tạo,
nhưng Sebald
kiềm chế một chuyển động như thế bằng 1 cú lướt nhẹ, bằng chờn vờn va
chạm. Sự
thực, cái sức mạnh dẫn dắt ở đằng sau tác phẩm của ông, là 1 sự tìm
kiếm, xục xạo
quá khứ, tìm cái bị bỏ quên, hay vờ đi, hoặc coi nhẹ: “Tôi muốn tìm
hiểu/ những
người đã chết thì ở đâu đó, hay ở đó đâu”.
Như trong
Austerlitz, giả tưởng văn xuôi, 2001, cuộc tìm kiếm người chết, xoay
quanh sự cố,
ám ảnh cái viết của Sebald, và thường khiến ông viết, ở [in] nơi chốn
thứ nhất
– Lò Thiêu.
Trong một bài thơ ngắn, Ðâu đó,
“Somewhere”, thí dụ, dòng thơ mở đầu
"behind, đằng sau, Turkenfeld", trở thành, với sự giúp đỡ của Mr
Galbraith, trong lời giới thiệu, đặc dị hơn nhiều, về 1 nơi chốn khủng
khiếp
hơn rất nhiều, quá xa cái tít đơn giản mà nhà thơ đề nghị, và, lẽ tất
nhiên, vượt
hẳn ra khỏi trí tưởng tượng của chúng ta:
Ngoài cái việc
nó đã từng là 1 thành phố, khi chú bé Sebald, 8 tuổi, trên đường đi tới
Munich,
vào năm 1952, Turkenfeld còn là 1 trong 94 tiểu Lò Thiêu, của Ðại Lò
Thiêu,
Dachau, và còn là một ga xe lửa trên tuyến đường nổi tiếng "Blutbahn"
(Vệt Máu).
Giản dị, với
6 dòng thơ, vậy mà cái sức nặng lịch sử đè lên nó mới ghê rợn làm sao!
[Mấy nhà thơ
Mít, có ông đã từng đi tù VC, nhớ đọc bài thơ, và bài điểm, trên tờ Người Kinh
Tế, nhá!]
Tập thơ rộng
rãi này cũng cho chúng ta thấy một Sebald khác, bớt buồn bã đi một
chút. Ông có
thể nói tới “nỗi đau/mà hồi ức hạnh phúc của tôi/ mang tới” nhưng cũng
viết 1
cách vui vẻ, trong hai bài thơ, nguyên tác viết bằng tiếng Anh, về một
người
đàn trẻ ở New York mô tả, bà mới yêu thích làm sao, văn phòng của bà,
có máy điều
hòa không khí, chống lại cái nóng mùa hè: “Ở đó/bà nói, tôi thì hạnh
phúc /như
con hến mở ra/trên một cái giường nước đá lạnh”. Thơ của ông có thể làm
nhớ tới
thứ thơ nặng [như đá] của Goethe, hay của Freud, nhưng nó cũng lấy hứng
khởi từ Anh em nhà Grimm, hay là từ những
phim của Alain Renais.
Mr Galbraith
làm được 1 việc thật là tốt, khi chuyển dịch những chuyển đổi giọng
thơ, và nguồn
ảnh hưởng. Tuy nhiên, đúng là 1 nhục nhã, khi tuyển tập thơ này vờ
nguyên tác
tiếng Đức. Làm sao mà chúng ta không hiểu, thơ của Sebald đâu có dễ
dịch, nhưng
chẳng lẽ bắt chước… Thầy Cuốc của xứ Mít giấu biệt nguyên tác? Hơn thế
nữa, làm
sao mà chúng ta không quan tâm đến tính tha thướt, hồn ma [the
transitory and
the ghostly], thật dễ dàng khi nghi ngờ, chẳng có dịch giả nào mà tóm
được thơ
Sebald. Sebald, chính ông, cũng ngửi ra điều này: “Nếu bạn biết rành
mọi xó xỉnh/
của trái tim của tôi/ thì bạn hơi 'vô tri’ đấy nhé”. Tuy nhiên, như
những bài
thơ cho thấy, tài năng của ông, đó là làm cho kinh nghiệm về 1 thứ vô
tri như
thế, trở thành tuyệt vời.
“Ở đó / tôi
thì hạnh phúc / như con hến mở ra / trên một cái giường nước đá lạnh”.
Thèm, nhỉ! (1)
Somewhere
behind
Turkenfeld
a spruce
nursery
a pond in
the
moor on
which
the March
ice
is slowly
melting
Obscure
Passage
Aristotle
did not
apprehend at
all
the word he
found
in Archytas
Note: “Ải
Tây” có thể còn liên quan tới bài trên,"Đoạn thơ tối tăm", nếu chúng
ta đọc dẫn giải về chúng, theo nghĩa Tô Thuỳ Yên viết sau đây.
Và, nếu thư thế, cái bài thơ ngắn
ngủn trên, của Sebald, có thể là 1 lời vinh danh tuyệt vời dành cho cõi
thơ TTT:
Bí hiểm, hũ nút, õng ẹo, làm dáng như VP phán!
TV sẽ post những
"footnotes" liên quan tới những bài
thơ được giới thiệu.
To H/A: I
went there, I Miss U, and I Want to End my Life, Really.
Tks for
Everything. GNV
Note:
Hình
này chụp hồi mới qua Canada, tại nhà thi sĩ Phan Ni Tấn, chắc là do nhà
thơ
Luân Hoán chụp. (1)
Răng thấy còn
khá nhiều!
Dear
anh NQT
Sáng
nay được cô…. nói cho biết, anh Trụ đang ở San Jose.
Xin nói rằng tôi nhớ anh lắm, muốn mời anh xuống Quận Cam chơi.
Có thiếu gì thì tôi sẽ lo liệu. Nhớ phải lo sức khỏe, tới tuổi hưu rồi,
đi chơi
là phải, nhưng cần phải lo sức khỏe.
Có gì thì email hay gọi cell phone…
Hay
gọi ở tòa soạn….
Trên
là cái mail GCC nhận được ngay tối bữa tới Cali. Phôn, hỏi, thì được
biết có
người gửi tiền cho Gấu đi máy bay xuống Quận Cam, mà phải xuống gấp, vì
người đó
đầu tuần phải đi xa.
Hà,
hà!
Note:
Em cấm không được post mail riêng, nhưng sau cú "tự làm thịt hụt" thì
bèn coi như
pha!
Bởi
là vì cái cú gặp gỡ vừa rồi chẳng khác gì những lần hẹn gặp BHD, rồi
sau đó, lấy 1
cái tắc xi vô Chợ Lớn dung dăng dung dẻ.
Lần này Chợ Lớn là Quận Cam, Gấu và Em
từ nơi nào lạc tới.
Giận nhất là Em làm hư "Một Chủ Nhật Khác", đúng ra phải xẩy
ra!
Không có Em
thì bạn học cũ thế chỗ!
Cuốn trên,
nhờ Em mà Gấu được ăn theo!
Em rất rành
văn PTH, nhất là những cuốn đầu tay.
Khi đó, chắc là Gấu còn đang ở
Trại Tị Nạn,
hoặc ở tù VC!
Nói vanh
vách, và rất mê 1 cuốn nào đó, Gấu không nhớ.
Thiền sư thú quá, bèn
nói, chờ 1
chút, và chạy vội về nhà, bệ ra cuốn trên, tặng cả hai, rồi từ giã 1
đôi, đi
làm.
1985: Gấu
ở
tù Bà Bèo, sau chuyến vượt biên Vàm Láng, đánh dấu Mười Năm Đại Thắng
Mùa Xuân
của VC (1)
|
|