2
3
|
Cali Nov
2012 With Sad Seagull
Người nhìn
ra trước mọi người về thiên tài Beckett, là Suzanne,
bà vợ của ông. Khi nghe tin chồng được
Nobel, bà than, thật là 1 thảm họa!
Bà biết quá
rõ, văn chương của chồng, không phải để gặt hái vinh quang!
Khi bà mất,
ông chồng viết về vợ:
I owe
everything to Suzanne. She hawked everything around trying to get
someone to
take all three books at the same time. That was a very pretentious
thing for an
unknown to want! She was the one who went to see the publishers while I
used to
sit in a cafe "twiddling my fingers" or whatever it is one twiddles.
Sometimes she only got as far as leaving the manuscripts with the
concierge;
she didn't see the publishers. It was the same with Roger Blin. She was
the one
who saw Blin and got him interested in Godot
and Eleutheria. I keep out of the
way.
[Tôi mà không
gặp ông này, là thành gái già, bà vợ của bạn Bạn nói về chồng!]
Niềm tin của
riêng bà vợ, Suzanne’s own faith, về giá trị của tác phẩm của Beckett
được củng
cố thêm lên, từ một số khuôn mặt nổi tiếng. Tristan Tzara là người đọc
Molloy,
và mê quá là mê…. Nhưng tin tưởng, cổ võ, thổi… là 1 chuyện, làm sao
cho có người
bỏ tiền in, lại là 1 chuyện khác. Bản thảo bị hết nhà xb này cho tới
nhà xb bản
khác từ chối, cho đến khi bà vợ quyết định - điều mà ông chồng gọi là
“last ditch
effort” [cố gắng chót, hơi thở chót trước khi ngỏm] - đưa cho Jérôme
Lindon, nhà
xb Nửa Đêm.
Why did
Beckett accept the Nobel Prize at all? Certainly not for the money,
since he
gave the sum of 375,000 kronor (worth at the time £30,000, or about
$45,000)
away very quickly. He arranged, for instance, for various payments to
be made
even before the money was transferred to France. One of the chief
beneficiaries
was the library of Trinity College, Dublin; this gift was a riposte,
surely, to
those who accused him of insulting his native country. Many individual
writers,
directors, and painters also benefited financially from the prize, the
money
arriving anonymously, although recipients could not fail to be aware of
the
source. One very real reason for Beckett accepting the Nobel Prize was
that he
did not wish to be publicly discourteous (Sartre had earlier caused
something
of a public scandal by turning it clown). Another was that he wanted
the publishers
who had shown faith in his work, especially in the early days, to be
rewarded
with an increase in the sale of his books. To turn the prize down would
also
have seemed unfair, and again, discourteous, to those who, since
Maurice Nadeau
and others had put his name forward twelve years before and regularly
proposed
him for the prize. But there had always been an unusual mixture of
perfectly
genuine humility and concealed pride in Beckett. He after all, invested
almost
everything in his work, knew what it had cost terms of effort and
sacrifice,
and could not lightly reject an his achievement at such a high level.
Nói cho
cùng, tại sao Beckett nhận Nobel văn chương, một khi vợ thì than, thảm
họa,
còn ông chồng, mệt quá, distressed. Chắc chắn đếch phải vì tiền,
bởi là vì
chưa nhận tiền thì ông đã xài hết số tiền đó, thật là mau lẹ, bằng cách
kín đáo
chuyển tới cho 1 số cơ quan, đoàn thể, hoặc cá nhân. Thư viện trường cũ
là
chính, để cảm ơn, tất nhiên, và cũng để trả lời những kẻ chửi ông phản
bội Đất
Mẹ [bỏ qua Tây, viết văn bằng tiếng Tẩy, thí dụ]. Một trong những lý do
chính
khiến ông đành nhận Nobel, là không muốn trở thành 1 xì căng đan giống
như trường
hợp của Sartre. Ngoài ra, cũng là 1 cách cám ơn những người đã tin
tưởng ở nơi ông,
những ngày đầu, dám bỏ tiền ra in sách của ông, nhờ giải Nobel sẽ bán
thêm được
sách, rồi những người năm nào cũng nhắc tới ông với Uỷ ban Nobel.
Nhưng luôn có
1 sự trộn lẫn không giống ai, ở trong cái sự gật đầu, cũng đành đó, 1
sự trộn lẫn
của 1 tâm hồn hết sức khiêm nhường, và 1 sự kiêu ngạo ngầm ở nơi ông.
Beckett
chứ đâu phải 1 tên cà chớn nào khác, đúng không, hà, hà!
Beckett, kẻ đầu tư
hầu như tất cả vào tác phẩm, đã chịu bao nhiêu đau thương, cay đắng… làm sao có thể vứt bỏ 1 sự thừa nhận, ở một đỉnh
cao chói lọi như là giải Nobel văn chương!
Hình như có
lần Fitz than với Hemingway [trong Paris là
1 ngày hội?], anh nổi tiếng vì thành công, còn tôi, thất bại.
Nếu đúng thế, thì đây là 1 tự hào.
Hemingway không thể viết được Tender.
Khi cố viết,
bèn tự đòm mình 1 phát!
Vừa xem lại
"The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim Tầu hay
nhất,
dù không vĩ đại . Chỉ có tình là vĩ đại thôi.
K
Tay
Beigbeder đọc Anh Môn, của
Alain-Fournier, cuốn đứng hàng thứ 9 trong Bảng
Phong Thần Cuối Cùng, đã nhắc tới Gatsby
của Fitz, và tự hỏi, liệu Fitz đã từng
đọc Le Grand Meaulnes (1913)
trước khi viết Gatsby, bởi sự
giống nhau của hai
tác phẩm: đều là hai người kể chuyện, ở bên ngoài, kể về một mối tình
bất khả của
một kẻ thứ ba, và hơn thế nữa, xuyên qua những bữa tiệc đốt đuốc chơi
đêm, những
hội hè đình đám của thế giới ‘đại gia’.
Đọc Một Chủ
Nhật Khác của TTT thì Gấu lại nhớ tới Dịu Dàng Như Đêm, tức Cuộc Tình Bỏ Đi,
Tender Is The Night của Fitz. Kết cục của Một Chủ Nhật Khác thê lương hơn
nhiều,
và cái danh hiệu đỉnh cao chói lọi mà nhân loại ban cho Fitz, một
Orpheus hiện
đại, “a modern Orpheus” đúng ra là phải thuộc về Trung Uý Kiệt của Quân
Lực
VNCH, bởi vì Kiệt đã từng xuống địa ngục, [hay thiên đường] khi đưa
Hiền tới
đó.
Lục Mạch Thần
Kiếm, Kiều Phong loạn đả quần hùng tại Tụ Hiền Trang, chỉ vì
muốn cứu nàng hầu
của Mộ Dung Công Tử, là A Châu, trúng đòn Thiếu Lâm khi vô chùa chôm
Dịch Cân
Kinh, sói cô đơn Khiết Đan bị đàn chó Trung Nguyên xúm lại làm thịt,
may được vị
đại hán mặc áo đen cứu thoát. Trước khi bỏ đi, vị đại hán bợp cho Kiều
Phong một
cái, mắng, tại sao chỉ vì một đứa con gái bá vơ mà liều cái mạng quí
báu của
mình?
Một độc giả
mắt xanh của Kim Dung nhìn ra liền tù tì: tất cả là chỉ để sửa soạn cho
cái cú
sét đánh ở ngoài quan ải, khi Kiều Phong ôm một nửa linh hồn của mình
tung lên
trời, chờ rớt xuống ôm chặt vào tim vào lòng, giữa gió tuyết Nhạn Môn
Quan, và
biểu rằng, hai ta ra bên ngoài quan ngoại sống cuộc đời chăn dê chăn
cừu, từ bỏ
chốn giang hồ gió tanh mưa máu...
Độc giả Một
Chủ Nhật Khác sẽ tự hỏi, cớ làm sao, trong lần gặp cuối cùng,
trước khi đường
Thầy, Thầy đi, đường Oanh, Oanh đi, khi Oanh nói với ông
thầy Kiệt, Thầy coi thường Em quá, ông thầy
điên lên, vặc lại:
-Nên để cho
người ta coi thường mình. Mình là cái quái gì?
[Thai đố
này, xin để hậu hồi phân giải]
*
Anh còn nhớ
có lần em nhờ anh mua giùm một đôi guốc. Mua được rồi, anh nhét kỹ
trong người,
đi qua trạm gác phân chia hai khu vực.
Bây giờ ở
đây, khi gió, tuyết, và nỗi cô đơn lạnh cứng người, anh vẫn cảm thấy
chút ấm áp
của đôi guốc ngày nào. Và anh thèm sống lại cảm giác hoang mang, lo sợ
khi đi
ngang trạm gác.
Bụi
*
Không quay lại,
chàng trông thấy toàn thể quang cảnh doanh trại sau lưng, lặng lẽ và
thê lương.
Một bóng người đứng thật xa, nhỏ xíu trong tầm mắt Nghiêm - bấy giờ
chàng nhìn
thấy lại - đứng giữa con đường hoang vắng, bên những toà nhà như lún
thấp dần
theo độ dốc, cất tiếng kêu:
-Nghiêm…
Nghiêm… Happy Birthday!
Giờ Nghiêm mới
thực sự nghe tiếng gọi của Kiệt, chỉ còn là tiếng vang dội sau bao giờ
khắc qua
trong tưởng tượng và tiếng vang ấy hiển lộng, rền rĩ, quái gở khiến
chàng rùng
mình. Chàng cũng thấy lại cảnh tượng trong gian phòng khách ở nhà với
những
khúc nhạc baroque, niềm vui sướng bất chợt thái quá đến muốn ứa lệ,
buổi tối đã
qua. Lúc này Nghiêm ngó thấy Duy đầy mầu mè, khôi hài. Còn Kiệt cuống
rối, kỳ dị,
Nghiêm không ưa.
Đọc đoạn
trên, Hai Lúa bỗng dưng nhớ tới một truyện ngắn của Khái Hưng, Bóng Người Trong
Sương Mù [?], câu chuyện một anh chàng lái xe lửa, thoát chết
nhờ một con bướm
- mà ông tin rằng linh hồn người vợ đang đau nặng nằm nhà và đã mất,
rồi nhập
vào - vỗ đôi cánh ra hiệu cho đoàn tầu dừng lại, vì phía trước có nguy
hiểm.
Truyện này
Khái Hưng "thuổng" của tay nhà văn kinh dị nổi tiếng Georges
Langelan. Ông này còn truyện ngắn Con Ruồi, được coi là một trong những
truyện
kinh dị nhất thế kỷ, đã được quay thành phim, tờ Bách Khoa trước đây có
đăng bản
dịch tiếng Việt.
Cảnh trên
đây, là lập lại một cảnh trước đó. Cụm từ "bấy giờ chàng nhìn thấy lại"
thực sự là để đánh lừa người đọc.
Lần thứ nhất,
Nghiêm không hề nghe thấy tiếng của Kiệt.
Tương tự đoạn,
Duy nằm chết vì say rượu, nghe tiếng gió hú trên từng ngọn đồi Đà Lạt.
Đây là đòn
"phục bút" mà Thánh Thán đã từng nói tới. (1)
Mỗi lần Gấu
nhớ đến Một chủ nhật khác, là
cùng lúc, nhớ đến Dịu dàng như đêm,
Tender is the
Night, của Fitzgerald.
Quả có một
liên hệ tình cảm giữa hai cuốn, thật.
Đoạn sau
đây, mà chẳng đúng là câu thơ ‘Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày
sắp tới’
ư?
Chàng nhớ bữa
đó cỏ thì ướt. Nàng chạy tới chàng, và đôi dép của nàng ướt đẫm sương.
Nàng ôm
lấy chàng, tựa trên đôi giầy của chàng, và khuôn mặt nàng mở ra như một
trang
sách.
"Hãy
nghĩ anh yêu em đến là chừng nào. Em không đòi hỏi anh lúc nào cũng yêu
em nhiều
như lúc này, nhưng em xin anh một điều, hãy nhớ đến em. Cho dù mai sau
có như
thế nào, thì em vẫn đinh ninh một điều, em có ở trong em, điều em có
chiều hôm
nay."
F.S.
Fitzgerald: La Fêlure [Vết
nứt. Nguyên tác tiếng Anh: The
Crack-up]
Nhưng, Fitz
không mê gái bằng Gấu:
“Anh không sợ
chúng mình không thương nhau, mà chỉ sợ chúng mình thương nhau nhiều
quá”
Tứ Tấu Khúc
Ghi chú về 1
giọng văn
Emma Hogan viết
về người tái phát minh kịch, và rất hiếm coi kịch
“Chẳng có gì để làm” [Nothing to be done, Rien à faire],
câu bắt đầu kịch, và kịch bắt đầu thay đổi kịch [trò
chơi. Từ
“play”, trong tiếng Anh, vừa có nghĩa là kịch, vừa có nghĩa là chơi,
trò chơi.
GCC]. Khi nó được chơi lần đầu ở Paris, trước đây 60 năm, tác giả của
nó, một
anh cựu thầy giáo người Ái Nhĩ Lan, phân bua, claim - ngay cả khi ông
tái phát
minh cái hình thức được gọi là kịch đó, “Tôi chẳng có ý nghĩ gì về
kịch, tôi đếch
biết kịch là cái chó gì, và tôi chưa từng đi coi”.
Ai, còn ai nữa,
nếu không là Beckett: ông Trùm Hiện Đại, người rành nhiều thứ tiếng,
một gã hiện
sinh kỳ quặc, tiếu lâm, cà chớn. Sinh gần Dublin,1906, ông là 1 tay Thệ
Phản
khá giả, học tiếng Tây và tiếng Ý ở Trinity College, 1937 rời Ái Nhĩ
Lan và bà
mẹ đi Paris, sống ở đó đến khi chết vào năm 1989. Viết 32 kịch, một
phim (tên
phim là “Phim”), 8 tiểu thuyết, 17 tác phẩm văn xuôi khác, và một tập
[set] thơ.
Nhưng “Trong khi chờ Godot”, với 4 nhân vật, và 1 dàn dựng đơn giản
“Một con đường
quê. Một cái cây. Buổi chiều”, làm cho ông thành 1 người khổng lồ.
*
Trong ABC’s, Milosz kể, lần ông ngồi coi
trình diễn lần thứ nhất vở kịch Trong
Khi
Chờ Godot của Beckett, tại một rạp ở Paris. Thấy cả rạp cuời hô
hố trước cảnh
Pozzo hành hạ Lucky, tên hầu của anh ta, triết gia Lucien Goldmann,
ngồi cạnh
ông, đã tỏ ra phẫn nộ:
"Họ cười
cái gì? Những trại tập trung cải tạo, hử?" (1)
Nhưng 1 tay
phóng viên tờ The Paris Review
[số Mùa Thu, 1999] cũng đã hỏi nhà soạn kịch Mẽo, Arthur Miller, cũng
đề
tài trên:
Khán giả coi
"Cái chết của 1 tên bán hàng" [Dead
of a Salesman] của ông, khi ra khỏi rạp thì đều
khóc. Nếu có người hỏi họ, khi ở trong rạp, thấy họ cười hô hố, họ sẽ
chối. Vấn
đề là, tiếu lâm, cà chớn có phần ở trong đó [ở… Lò Thiêu thí dụ, NQT],
đúng
không?
Miller: Trọn
câu chuyện [the whole thing], thì rất buồn. Nhưng vấn đề là, tôi làm
nhiều cú
cười, I did a lot of laughing, khi tôi viết kịch. Bởi là vì một số ý
nghĩ của
Willy Loman thì rất phi lý, chửi bố lẫn nhau, self-contradictory, đến
nỗi bạn
phải bật cười. Khán giả thực sự đã làm như thế, nhưng nhờ ơn Trời, họ
không nhớ. Nếu nhớ thì họ đã không xúc động đến nỗi khóc ròng!
Cơ bản mà nói, đó là tiếng
cười của sự thừa nhận, the laughter of recognition. Tôi
tin như thế.
Đọc Bị Trời
Đọa Đầy Phải Vinh Quang Nổi Tiếng, Damned to Fame,
tiểu sử 800 trang của
Beckett, khúc “A Frenzy of Writing”, 1946-53, viết về thời kỳ ra đời
của
ba cuốn tiểu thuyết nhà xb Nửa Đêm in, Molly, Malone
Dies, và The Unnamble,
và Trong khi chờ Godot, mới bật cười
hô hố.
Tuyệt cú mèo.
Thần sầu. Ấy là nói về tại sao mà lại cười khi đọc/sống/viết về Lò
Thiêu, Lò Cải
Tạo!
Đọc Thảo Trường viết về Tù Cải Tạo mà không cười sao?
Lindon, chủ
nhà in Minuit kể:
Tôi về nhà để
ăn trưa, thấy bản thảo trên bàn của tay thư ký. Tôi hỏi, gì thế, anh ta
phán,
được, được lắm [thuổng cách nói của Mai Thảo], tuy anh ta chưa đọc. Tôi
kẹp Molly vào nách,
và trong khi đi métro đọc, và
tôi cười hô hố, sướng
điên lên được!
Mọi người nhìn tôi như 1 tên khùng...
I was going
home to lunch. I saw a manuscript on Georges Lambrichs' [who worked
with
Lindon] desk. Doubtless Suzanne had just brought
it in to
him. [In fact the book had been delivered by Robert Carlier.]?" I said
to
him "What is that?" And he said "I believe it's very good," though he
hadn't yet read it. I took it away, I took Molloy under my arm to go
for lunch
and in the Metro I started to read it. And as I changed trains at La
Motte-Piquet Grenelle, in the lift I burst into hoots of
laughter. And I thought "people are going to think I'm crazy"; then I
thought "I risk dropping the manuscript" (which wasn't stapled or
bound; it was in separate typed sheets). So I stopped reading,
naturally, and
stood with the manuscript behind my back ... and people looked at me as
I
carried on laughing like a fool. They couldn't understand why I was
laughing
since I was clearly doing nothing. Then I came
back to the office, finished reading the manuscript within the day and,
that same evening, wrote to Suzanne to tell her "Yes, I'll take the
book, there's no problem." And a few months later, I published Molloy.
Thú thực Gấu
mới đọc được Beckett, gần đây thôi.
Lạ nhất,
là khi ở Trại Tị Nạn Thái Lan, tình cờ vớ được Trong khi
chờ Godot, của 1 ông chẳng biết
1 tí tiếng ngoại.
Thì cũng đọc vậy, nhưng có thể đến bây giờ mới ngấm!
Nhưng nếu
không gặp được Faulkner thì không thể nào trở thành Gấu Nhà Văn được.
Không có Thầy
là đừng hòng viết.
Mít viết
lách, cứ hết thời thanh xuân là ngỏm, "chết non", chữ của TTT, chính
là do ông nào cũng nghĩ mình là bố chó xồm, tao mà cần thầy ư? Tao viết
cho
thiên hạ đọc rồi làm… đệ tử của tao, chứ không lẽ có người dậy được tao?
Gấu có lần đọc
1 bài, hình như của Pierre Assouline, trên tờ ML, viết về 1 lần ra
đường, gặp mấy
ông văn sĩ Tẩy, cũng toàn thứ dữ, nhìn thì thấy, ông thì đang đọc
Faulkner, ông
thì túi ló ra 1 cuốn của Faulkner!
Có lèm bèm
trên Tin Văn rồi mà kiếm hoài không thấy!
Cả cái hình
hách xì xằng của Faulkner, với 1 bầy chó săn dưới chân cũng mất tiêu!
Nhưng kiếm
ra đoạn này:
Lại nhớ tới...
Faulkner, và bài viết "Những cuộc đời của Faulkner", của Pierre
Assouline, trong đó, ông nhắc tới một câu của Nabokov: Tiểu sử nhà văn
là lịch
sử văn phong của người đó.
Ở đây, phải
đẩy câu phán của Nabokov đến tận cực điểm, và chúng ta thấy, thay vì
một văn
phong, thì là một "dòng sông, trong tất cả những trạng thái của nó",
"mượn" cái tít một bài viết, trong cùng số báo Le Magazine
Littéraire, số đặc biệt về Sex, Tháng Chạp 2007, có bài của
Pierre
Assouline về
Faulkner, đã dẫn.
La pluie
dans tous ses états
Martin Page,
khách mời trong tháng của tờ báo, điểm cuốn Từ
điển mưa, của Patrick Boman. (1)
Gấu là người
giới thiệu Beckett trên tờ Nghệ Thuật,
khi vừa bước chân vô làng văn Sài Gòn,
1965, trước khi ông được Nobel, 1969. Bài giới thiệu, tóm tắt 1 bài
viết trên 1
tờ báo Tẩy, và còn nhớ, đám phê bình gia cà chớn Tẩy gọi văn chương của
ông là
thứ “tiền chế”, như nhà tiền chế.
Mà đọc kiểu cà chớn, thì thế thật. "Tôi
về nhà, nửa đêm, trời mưa. Đếch phải nửa đêm, đếch phải mưa", kiểu đó.
Nhưng,
đúng như cái tay trên tờ Intel
viết, những điểm mạnh
của ông là:
-Những dòng đầu, thí dụ,
trong Murphy, đọc 1 phát là
biết ngay của Beckett, his own tone:
"Mặt trời chiếu sáng, đâu có cách nào khác, về chẳng có gì mới "
-Những quãng
ngưng, nghỉ. Không có Beckett là Pinter không thể tạo được sự căng
thẳng
gớm ghiếc của ông. Khúc nghỉ, quãng ngưng, pause, silence, mỗi cú trở
thành 1
cái gì sờ mó, vuốt ve được.
-Sự cảm
thông. Ở trong những phong cảnh xám xịt đó, những nhân vật của ông lung
linh sáng
cùng với sự ấm áp – như thể chỉ Estragon và Vladimir nhìn với hãi hùng
bất lực
khi Pozzo hành hạ Lucky.
Người nhìn
ra trước mọi người về thiên tài Beckett, là Suzanne,
bà xã của ông. Khi nghe tin chồng được
Nobel, bà than, thật là 1 thảm họa!
Bà biết quá
rõ, văn chương của chồng, không phải để gặt hái vinh quang!
Khi bà mất,
ông chồng viết về vợ:
I owe
everything to Suzanne. She hawked everything around trying to get
someone to
take all three books at the same time. That was a very pretentious
thing for an
unknown to want! She was the one who went to see the publishers while I
used to
sit in a cafe "twiddling my fingers" or whatever it is one twiddles.
Sometimes she only got as far as leaving the manuscripts with the
concierge;
she didn't see the publishers. It was the same with Roger Blin. She was
the one
who saw Blin and got him interested in Godot
and Eleutheria. I keep out of the
way.
[Tôi mà không
gặp ông này, là thành gái già, bà vợ của bạn Bạn nói về chồng!]
Niềm tin của
riêng bà vợ, Suzanne’s own faith, về giá trị của tác phẩm của Beckett
được củng
cố thêm lên, từ một số khuôn mặt nổi tiếng. Tristan Tzara là người đọc
Molloy,
và mê quá là mê…. Nhưng tin tưởng, cổ võ, thổi… là 1 chuyện, làm sao
cho có người
bỏ tiền in, lại là 1 chuyện khác. Bản thảo bị hết nhà xb này cho tới
nhà xb bản
khác từ chối, cho đến khi bà vợ quyết định - điều mà ông chồng gọi là
“last ditch
effort” [cố gắng chót, hơi thở chót trước khi ngỏm] - đưa cho Jérôme
Lindon, nhà
xb Nửa Đêm.
HOW BECKETT
DID IT
Notes on a
Voice: Emma Hogan on a man who reinvented theatre, while rarely
going to it
From
INTELLIGENT LIFE January/February 2013
"Nothing
to be done." So begins the play that changed the game. When it opened
in
Paris, 60 years ago, its author was 46, an Irish former teacher who
claimed,
even as he reinvented the form, that "I have no ideas about theatre. I
know nothing about it. I do not go to it."
Who else but
Beckett: arch-modernizer, polyglot, droll existentialist. Born near
Dublin in
1906, he was a well-to-do Protestant who read French and Italian at
Trinity
College, finishing first in his year. By 1937 he had left Ireland, and
his
mother’s "savage loving", for Paris, where he lived until his death
in 1989. He wrote 32 plays, one film (entitled "Film"), eight novels,
17 other prose works, and one set of poems. But it was "Waiting for
Godot", with its four figures and simple setting of "A country road.
A tree. Evening", that marked him out as a colossus.
Key Decision
To write in
French. This enabled him to find his starkness – to shed his
"Anglo-Irish
exuberance" and the lyrical influence of Joyce ("I vow I will get
over J.J. ere I die. Yessir", he had scrawled in a letter). From 1939,
he
wrote mostly in painstaking French, then translated into "queer
English" to create the bleached voices that make his work unmistakable.
Strong
Points
(1) First
lines. From his earliest novel, "Murphy" (1938), Beckett set his own
tone: "The sun shone, having no alternative, on the nothing new." (2)
Pauses. Without Beckett, Pinter could never have created his sinister
tension.
He marks the silences as "[Pause]" or "[Silence]", each
becoming something palpable. (3) Compassion. Within these grey
landscapes, his
characters flicker with warmth – even if it is just Estragon and
Vladimir
looking on in helpless horror at Lucky’s enslavement by Pozzo.
Golden Rule
Never to
compromise. Estragon’s trousers have to fall all the way down at the
end of
"Godot". The action and dialogue of "Play" has to be
repeated, by actors who are up to their necks in urns. Whole novels can
go by
without a paragraph break. Both his novels and plays require
concentration, and
a stomach for repetition. But they reward the persistent.
Favourite
Trick
Characters
correcting or interrupting themselves. Phrases or names are
misremembered, and
remembered anew. Even hiccups ("pardon") are kept in, puncturing
Beckett’s short sentences. He forces the dramatic monologue to capture
every
bodily emission and the ragged form of human speech.
Role Models
Though he
claimed to have "always been a poor reader", at 30 Beckett had
published an essay on Proust, written an unfinished play about Dr
Johnson and a
short story inspired by Dante, and had worked for Joyce. But it was
plays that
most inspired him. The landscapes of "King Lear" and Edgar’s refrain,
"the worst is not/So long as we can say, "This is the
worst"" shaped his defiance of melancholy. And in Racine’s
"Berenice", Beckett found a form to mirror his own: "There too
nothing happens, they just talk, but what talk, and how spoken."
Typical
Sentence
"Let us
not then speak ill of our generation, it is not any unhappier than its
predecessors." ("Waiting for Godot")
Watt by
Beckett, Barbican, London, Feb 26th
Emma Hogan
is a freelance journalist and regular contributor to The Economist's
Books and
Arts pages, and was a judge of this year’s Forward poetry prize
Illustration
Kathryn Rathke
"THE
USES OF POETRY"
by Anne Atik
FOR S.B. (13
APRIL 1906-22 DECEMBER 1989)
I
A
Bible-reading man, he came and left
between two
holy days he didn't much observe:
the Good
Friday of his birth, near the Christmas of his death.
His life
between, a pilgrim's progress with a smile
for what he
saw along the way and wrote of,
oversleeping,
age and hope and sloth.
Then saw,
and wrote of, wrenched along the way,
age and hope
and helpless weeping. But
he would
have, reading those two states, rejected both
as most
remotely holding but one part
or more than
minute dose
of the
inexpressible, whole truth
of how it
is, it was.
II
He showed
the shortest way to get across
a line like
this:
crossed out
such words as these to get to
speechlessness.
He crossed
out rivers to get to their stones.
To get to
the bottom, when the crisis is reached
and
truth-telling begins.
Whatever he
knew he knew to music.
He found the
pace for misery,
matched
distress to syncope, and joke
to a
Beethoven stop at the punch line.
But thought
that he'd failed to find failure's pulse.
What that
says about failure,
music and
us.
Cuốn tiểu sử
Beckett, 800 trang, toàn chữ, trừ cái hình độc nhất, trên, Gấu mua lâu
lắm rồi,
tính đọc, nhưng sợ quá, bây giờ mới lôi ra, cùng 1 số cuốn khác nữa,
của ông,
hoặc viết về ông.
Cũng là 1
cách viết về bạn Bạn, và chuyến đi vừa rồi, nhờ đó gặp Sad Seagull.
Giả như gặp
Sad Seagull, mà không gặp lại bạn Bạn, thì có thể đã đi luôn, bữa buổi
chiều hôm
đó ở bên ngoài Phước Lộc Thọ.
Trong đời Gấu,
gặp nhiều lần “quái đản” như thế.
Muốn đếch muốn
gì hết!
Le Magazine Littéraire Hors-série, n # 14
Trường Gia
Long, Sài Gòn, cc 1966-72 (1)
Đây là
cái cổng trường Gia Long, phía bên hông, [đường Trương Định, băng qua
vườn Tao Đàn], GCC đưa đón BHD, đúng thời gian đó, 1966...
"Khi em đi vô cổng trường,
rồi anh đừng
có đứng lại lâu vì em sẽ biết anh đang nhìn em, em phải quay lại mỉm
cười nhìn
anh…”
…. vội vàng
chạy vô cổng trường rồi lại vội vàng chạy ra: nàng quên không dặn chàng
trưa
nay đừng đón nàng, vì nàng sẽ về chung với Lan Anh, bạn nàng...
Tứ
tấu khúc
Ui chao, nhìn
cái hình, cảm khái chi đâu. Nhìn vách tường, với ba tờ quảng cáo… thì
lại nhớ cái
thông báo của Ban Giám Hiệu, cấm cái trò đưa đón như trường hợp cặp Gấu
&
BHD!
Chỉ đến khi
có thông báo, thì Gấu mới thả Em cách cổng trường khá xa....
Bạo Miệng [Strong Opinions]
Ông viết cả
lố tác phẩm, nhưng người đời cứ gọi Nabokov là "người của Lolita",
ông có bực không?
Không. Lolita là 1 cục cưng của tôi, Lolita est ma
favorite toute particulière.
Cuốn sách khó viết nhất trong những cuốn của tôi - nó đề cập tới 1 đề
tài thật lạ
lùng, si étranger, cách thật xa cuộc đời tình cảm của tôi, si éloignée
de ma
vie affective, mà tôi thật thích thú gọi tới mọi cội nguồn "kết hợp",
để biến nó thành hiện thực.
Ông có ngạc
nhiên về sự thành công khủng khiếp của cuốn sách khi nó xuất hiện?
Tôi ngạc nhiên
về chuyện nó xuất hiện, giản dị có vậy [J’ai été surpris qu’il
paraisse, tout
simplement]
Lolita, có… thực không? [Et Lolita:
a-t-elle existé?]
Không,
Lolita không có khuôn mẫu [modèle]. Nàng sinh ra từ trí tưởng của tôi
[mon
esprit]. Nàng chưa từng hiện hữu… nàng là một trái cây từ trí tưởng
tượng của tôi, un fruit de mon imagination.
Friday,
November 07, 2003 8:43 PM
Gấu,
Thằng Lãng
chụp, không thấy hình Tao và Mày.
Quyên
Sunday,
November 09, 2003 9:35 PM
Nick Clegg: My hero Samuel
Beckett
'It's that
willingness to question the things the rest of us take for granted that
I
admire most about Beckett'
I've always
read a lot, mainly fiction. These days, with three young sons, often
the most I
can manage is a quick chapter here, a few pages there; but there are
still very
few nights when I'll get to sleep without dipping in to whatever book I
have on
the go.
So I am
grateful to those writers who have made it easy to go back to them,
night after
night, year after year. They are the greats, and Samuel Beckett is one
of them.
My first encounter with Beckett was when I was studying in Minnesota
and I
acted in a student production of Krapp's
Last Tape. Back then I remember images of Beckett making as great
an
impression on me as his work. He always looked so impressive – that
beak-like
nose, eyes staring dead into the camera – and he had an austerity to
him, even
when he was young, that makes it very easy to connect the man to the
words.
Since then I
must have read Waiting for Godot – of
course – a hundred times. Every time I go back to Beckett he seems more
subversive, not less; his works make me feel more uncomfortable than
they did
before. The unsettling idea, most explicit in Godot, that life is habit
– that
it is all just a series of motions devoid of meaning – never gets any
easier.
It's that
willingness to question the things the rest of us take for granted that
I
admire most about Beckett; the courage to ask questions that are
dangerous
because, if the traditions and meanings we hold so dear turn out to be
false,
what do we do then?
But amid the
bleakness, there is also humor, and it's no surprise that there are so
many
comedians among Beckett's fans. His appeal lies in his directness – the
sparse,
unembellished prose that can make his meticulous stage directions
unexpected.
He leaves you with a sense that you knew what he meant, even if
explaining it
back would leave you lost for words. Direct and disturbing – it is
impossible
to grow tired of Beckett.
But amid
the
bleakness, there is also humor, and it's no surprise that there are so
many
comedians among Beckett's fans.
[To U. GNV]
|