|
Bức họa
trên, trên tờ TLS, số Nov 23, 2012. John Montague điểm tập thơ Collected Poems
của Beckett. Ông nói về thơ của mình, dởm, "my poems are
worthless", thơ tôi chẳng có giá trị gì cả. Bài điểm cũng nhắc tới
bài thơ mà TTT nhắc tới, trong Thơ ở
đâu xa, đoạn viết về cô con gái của ông.
Lạ
nữa, là bài thơ này Beckett làm cho người bạn trai của ông, một vị bác
sĩ,
Arthur Darley, cả hai cùng làm việc tại một bịnh viện Irish.
Je voudrais
que mon amour meure
qu' il
pleuve sur le cimetière
et les
ruelles où je vais
pleuvant
celle qui crut m'aimer
Samuel
Beckett
Bản tiếng
Anh của chính tác giả:
I would like
my love to die
and the rain
to be raining on the graveyard
and on me
walking the streets
mourning her
who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn
tình Gấu chết,
Và mưa rơi
trên nghĩa địa,
trên đường
phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa
khóc
người
tưởng
rằng người
yêu Gấu
John
Montague, ngưòi điểm tập thơ, cũng là bạn của Beckett, có 1 lý thuyết
[an
almost-theory], về Beckett làm thơ: Thay vì cố gắng làm thơ mới,
Beckett trải
qua hầu hết thì giờ để dịch thơ của ông, một việc làm mà chính ông
than, nặng
quá, đếch chịu nổi, a burden he often found intolerable.
Note: Tập Collected, mua lâu
rồi, second-hand, nhưng cũng “bày đặt đọc”, mới
đây thôi.
Khi mua,
thì chỉ vì trong có bài thơ TTT thuổng, để viết về cô con
gái, được in trong Thơ Ở Đâu Xa.
Tập Selected, vừa mới tậu cùng với
số báo Time đặc biệt Tưởng
Niệm Marilyn Monroe
Tuyệt nhất
là mấy câu thơ Beckett, GCC cực mê, thấy ở bìa sau cuốn mới mua, cũng
“bắt chước”
GCC, đi 1 đường thổi um lên:
je suis ce cours de sable qui
glisse
entre le galet et la dune
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
et finira le jour de son commencement
cher instant je te vois
dans ce rideau de brume qui recule
où je n'aurai plus à fouler ces longs seuils mouvants
et vivrai le temps d'une porte
qui s'ouvre et se referme
my way is in the sand flowing
between the shingle and the dune
the summer rain rains on my life
on me my life harrying fleeing
to its beginning to its end
my peace is there in the
receding mist
when I may cease from treading these long shifting
thresholds
and live the space of a door
that opens and shuts
Samuel Beckett in Collected Poems in English & French. Grove Press.
Note: To K & O:
Dịch giùm.
Bản tiếng Tây theo tôi tuyệt
hơn bản tiếng Anh, cũng của Beckett:
la
pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
Mưa hạ mưa trên đời tôi
Trên tôi đời tôi chạy trốn tôi rượt đuổi tôi
Ui chao, sao
mà tuyệt thế!
Lại nhớ mưa Sài Gòn!
Bài thơ trên, bạn phải đọc cùng với một bài viết cũ trên Tin Văn, mới
thú,
tuyệt thú.
Và luôn thể, với bài thơ, cũng của Beckett, sau đây.
(1)
Cali
Nov/HA/NDB/Friends
Trên nhắc tới
Beckett, bèn nhớ đến ông bạn Bạn, người mà, "như Beckett", bởi vì có
họ,
mà chúng
ta có từ "quân tử". Và bèn viết thêm về Beckett.
Đậu
bằng qua
giá vũ như ti
Tình cờ đọc
lại số báo cũ, The Paris Review,
Winter, 1995, thấy bài viết về
Samuel Beckett: Cũng một cao thủ về
cờ [chess].
Bài ngắn,
nhưng tuyệt, tuyệt. Để Gấu scan rồi dịch, hầu quí vị. Một bài viết của
một người
bạn của ông, theo kiểu hồi tưởng. Có những câu, như câu sau đây, chẳng
bảnh
sao:
Rosset:
....Beckett
là một vì quân tử, a gentle man. Tôi nghĩ, từ này được người đời phịa
ra, ấy là
bởi vì có ông [I think they may have invented the word for him].... Ông
là một
người lắng nghe, a listener. Ông ta lắng nghe đến độ bạn cứ nghĩ mình
là con
người độc nhất trên cõi đời...
[Note: Gửi bạn
mới quen, qua dòng thơ của VND: Đậu bằng qua giá vũ như ti. NQT]
Cali
3.08
GGC quen ông
bạn Bạn, là nhân chuyến đi Cali 2008, nhân Nguyễn Tôn Nhan từ Việt Nam
qua
chơi. Chuyến đi của NTN, là do Khánh Râu tài trợ & bảo lãnh.
Tình cờ gặp ở Factory Bistro.
Một tay nào đó, đứng xớ rớ đó, giới thiệu.
Ông nói, tôi đọc ông
nhiều rồi, nay mới gặp.
Rồi tới bữa tiệc do 1 cô bà con của NDT, ở trong ban tổ
chức, dành cho cả bọn 1 bàn danh dự. Ông kêu bà vợ, sau khi tan sở, ra
chơi,
thay vì phải đi đón. Gấu nhờ thế quen cả hai.
Nhưng phải đến
nhà ông tá túc, trong chuyến này, thì mới thú vị. Ông có nỗi khổ, lấy 1
bà Bắc
Kít, y chang Gấu Cái, lấy phải thằng chồng Bắc Kỳ!
Ông nói, mỗi
lần bà vợ tôi mà vô phòng của tôi, vốn bề bộn, dọn dẹp, là đúng 1 thảm
họa.
Tôi không làm sao tìm được bất cứ cái gì cần tìm. Mấy cái tờ giấy bỏ
lộn xộn trên
bàn, thí dụ, bà tiện tay bỏ vô sọt rác, là chết mẹ tôi, vì toàn là
những việc tôi
đang cần làm.
Ui chao, giống
y chang Gấu Cái, mỗi lần Gấu nổi hứng dọn dẹp nhà cửa!
Lần quen bạn
Bạn, thì hân hạnh được ngồi kế bên Ngọc
Hạ.
Lần này, gặp Sad Seagull!
May mà có
chai
Đời càng dễ thương!
NDB &
NQT @ NDT's
Lần nhậu từ
biệt Cali, uống với NDB/NTN/NLV tại nhà Khánh [hay Khanh?] Râu, khủng
khiếp thực.
Ra về, trên phi cơ, GCC ói lên ói xuống, chỉ mong về đến nhà ngưng ói,
nếu
không thì khốn khổ khốn nạn với Gấu Cái!
GCC sẽ dịch “Trong
khi chờ... Sad Seagull”, tặng Sad Seagull & Bạn Nhậu.
Không biết
đã có ai dịch chưa, nhưng kệ cha họ, mình dịch là mình dịch cho mình.
OK?
Còn cuốn “Henry
Miller độc bản” cũng thú lắm, để đọc lai rai!
A
Remembrance of Samuel Beckett
Samuel
Beckett, một thoảng nhớ...
Mr. Beckett
đã chết. Vậy thì Paris, cũng thế. Tôi nghe người ta nói ông chết tối thứ Sáu tuần rồi. Vậy thì là, tất cả những người
hùng của tôi đã chết, kể từ tối thứ Sáu tuần rồi.
Tếu thật, cuộc
đời bám dính lấy ông, tới 83 và 3/4 năm lận. Khi ông nói với tôi, ông
rụng
răng, tôi lớ ngớ buông sảng một câu: "Vậy là mệt lắm đấy".
Ông quạt lại
liền: "Có cái gì tệ mà không biến thành hại? Đâu có giới hạn những điều
xấu
xa trở thành tồi tệ hơn". Thế là cả
hai đứa chúng tôi cười đến vãi đái ra.
Mr. Beckett
biết chọc quê. Lần đầu tiên gặp Gill, bà xã tôi, ông kêu một ly đúp.
"Phải
ly đúp mới được. Lóng rày, không làm sao kiếm một ly cho ra hồn".
Vào khoảng đầu
thập niên 1970, tôi ở Paris với một người bạn là Jean-Paul Delamorte,
một tiểu
thuyết gia hụt, a romacier manqué.
Lindon (bên tạp chí Nửa Đêm, Minuit)
vừa mới
cho ra lò những bài viết mới nhất của Beckett, bằng tiếng Pháp, nhan đề
là Foirade, Foirade, Foirade I, Foirade II. Vì
có hẹn khuya này uống một
"tăng" với ông, tôi hỏi Jean-Paul foirade thực sự nghĩa là gì.
Jean-Paul
hèm lên hèm xuống, chẳng giống một con giáp nào hết. "Foirade thực ra
là... ơ hơ... đúng rồi, disgusting"
.
Khi tôi lập
lại với Beckett, ông đỏ mặt tía tai: "Disgusting?!
Đúng là lố bịch!".
Nơi chốn:
Chúng tôi đang ngồi tại La Closerie des Lilas, một tiệm ăn vốn là nơi
tụ tập
đàn đúm của đám viết lách vào thập niên 1930. Mấy ngày trước khi giải
phẫu cườm
mắt, Beckett đeo cặp kính dầy như đít
chai Coke. Tướng tá nhà văn lớn Samuel Beckett chẳng cách nào giấu nổi.
Vừa ló
đầu vô, bị thiên hạ chiếu tướng liền. Cứ mỗi lần mở miệng, bằng ấy cái
tay ngừng
đớp hít, bằng ấy cái tai nhỏng lên. Beckett, như mù dở với hai cái đít
chai Cô
ca Cô la, chẳng hề hấn gì với ba trò hóng chuyện đó.
Ông giải
thích, về phản ứng của ông, với từ "disgusting"
của Jean-Paul, bằng
cách chứng tỏ, ông đã "chọn từ foirade
một cách hết sức là nghiêm túc", và ông đang "động não" cố tìm
ra một từ tiếng Anh hoàn toàn xứng hợp với nó.
"Foirade:
disgusting? Thật là hoàn toàn vô nghĩa! Une
Foirade là một sự thất bại thảm thương... Một điều gì người ta toan
tính,
nhưng toan tính này thật ra chỉ là một sự thất bại, tuy nhiên vẫn phải
toan
tính, bởi vì thật xứng đáng, không thể chối cãi được... vậy đó, một "thất bại mếu" (a lamentable
failure).
Tới đây,
hình như mọi thực khách trong tiệm ăn đều dướn người về phía chúng tôi,
như muốn
nuốt lấy từng lời vọt ra khỏi miệng Beckett. Và nhà văn của chúng ta
thêm vô,
kèm nụ cười rất ư là "bỏ đi": "Lẽ dĩ nhiên, foirade còn có nghĩa
là phát rắm ướt !
(Mấy tháng
sau đó, trong một tiệm sách ở New York, tôi nhìn thấy ấn bản tiếng Anh
của Foirades. Tên
tiếng Anh: Fizzles).
Giữa đông,
giữa năm 1973, lạnh cứng người, cô đơn, túi thủng, tôi đành phải làm
cái trò đọc
thơ, vào lúc tám giờ tối, tại Trung Tâm Văn Hóa Mỹ ở con phố Dragon....
với cái
giá năm chục đô. Tôi có cái uống với Beckett vào lúc bẩy giờ. Tôi đâu
dám xì ra
cái chuyện đọc thơ, bởi vì:
1.
Tôi nghĩ ông chẳng ưa cái chuyện đọc thơ
trước công chúng, cho dù phải cạp đất.
2. Ông gần như chẳng bao giờ
làm chuyện đó.
Trong lúc cà
kê, ông có vẻ đâu đâu. Dưng không, ông nói: "Bạn đọc thơ, phải
không?" Tôi chới với, làm sao ông biết? Rồi ông thêm: "Chắc mong bạn
bè tới đông, hẻ?". Hiển nhiên, tôi làm ông đau, khi không mời. Vậy là
tôi
đã làm ông đau, bực thiệt! Ông nói, như cho tôi đỡ đau: "Không, cám ơn
bạn,
tôi không bao giờ tới với những chuyện đó".
Rồi thì ông
yêu cầu tôi đọc một bài thơ, của tôi, cho ông nghe. Nhột quá, tôi bảo
ông, cái
giá năm mươi đô là ổn, đối với tôi. Ông bật cười, tuy nhiên vẫn bắt tôi
đọc thơ
cho bằng được. Thơ đọc thầm lén mà! Thế là tôi ư ử, bài "Trên Đại Lộ
Raspail":
How easily
our only smile smiles.
We will
never agree or disagree.
The pretty
girl is perfected in her passing.
Our love
lives within the space of a quietly closing door. (1)
Ông chăm chú
nghe, mắt nhắm tít. "Được! Được!", ông nói.
"Ồ,
c...! " Tôi bật lên. Ông mở choàng mắt, và tôi tự giải thích:
"Tớ ăn
cắp của bạn!"
"Không,
không. Tôi chưa hề nghe nó trong đời..."
"Không,
không, của bạn! Bài 'Dieppe'..., bạn chấm
dứt với 'the space of a door that
opens and shuts'
"Ô!
Đúng thế thực." Nhưng rồi, bỗng
nhiên, ông thêm vô: "Ô, c...!"
"Chuyện
gì nữa, hả?", tôi hỏi.
"Tôi
chôm của Dante, chính tôi! (me-self)."
(Theo bài viết
của Israel Horovitz, trong The Paris
Review, Mùa Xuân 1997).
Note: Bài viết
này, còn một nửa, mới tìm thấy. Bèn dịch tiếp, trong khi chờ… Seagull.
Số The Paris
Review đang được nhắc tới này, đặc biệt về Kịch.
(1)
Nụ cười độc nhất của
chúng
ta, sao dễ dàng quá vậy
(Thôi đừng tè he ra
mà làm gì).
Người đẹp đẹp thật khi
thoáng
qua.
Tình mình đọng lại giữa
lần
cửa khép. (1)
Bạn đọc có thể liên
tưởng, từ foirade, tới wet fart, tới bài thơ vịnh "bạch
mã", trong chuyện tiếu
lâm Việt Nam.
Note: Bài này, đã
đăng
trên tạp chí
Văn, và trên VHNT của PCL. Một độc giả VHNT mail, chỉnh, ‘agree’, đồng
ý, và ‘disagree’, không đồng ý,
làm sao lại dịch là ‘tè he’?
Sự
thực, Gấu dịch ‘tếu’, vì
nghĩ đến cái cảnh ‘tình mình đọng lại giữa hai lần cửa khép’.
Có
thể, bài thơ còn nói ‘chuyện đó’
chăng? NQT
*
Old dogs
have more dignity
Comfort them
since you pity them
Beckett:
Waiting for Godot (1)
Giả như sau
30 Tháng Tư 1975, chúng ta có cái nhà Mít đàng hoàng, thì không thể nào
có những
tác phẩm như Ba Người Khác
của Tô Hoài, Đi tìm cái tôi đã mất của
Nguyễn Khải,
Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, Hồi ký Tô Hải…
Chính nỗi thất
vọng sau 1975, về đất nước, khiến những tác giả đó phải nhìn lại đời
của họ, và
đều nhận ra một điều, họ đều đã phải chịu nhục, chịu khổ, chịu hèn..
với một điều
kiện: giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước cùng xúm nhau lại xây
cái nhà
Mít.
Old dogs
have more dignity, chó già giữ giá, có nhiều phẩm giá..
là theo nghĩa đó.
Chính cái sự
thú nhận tôi là thằng hèn, là "dignity" của họ!
Thành thử
chúng ta không thể có một thái độ nào khác, mà là:
Comfort
them, since you pity them.
[Trong them,
có us. NQT]
(1) Mấy câu
trên, là từ nhật ký của Gấu, những ngày ở trại tị nạn Thái Lan,
1989-1994.
Mấy câu
trong nhật ký những ngày đầu đến Xứ Lạnh, liên quan tới dignity:
The ideal
death takes place amid loved ones
The greatest
dignity to be found in death is the dignity of the life that preceded it
Hope resides
in the meaning of what our lives have been.
Ba câu trên
đều nói về cái nhà Mít sau chiến tranh:
Cái chết lý
tưởng là chết giữa những người thân thương.
Phẩm giá lớn
lao nhất kiếm thấy được ở trong cái chết là phẩm giá cuộc đời trước khi
cái chết
xẩy ra.
Hy vọng thì
nằm ở trong ý nghĩa cuộc sống của chúng ta.
*
Quái thật,
không lẽ lúc nào Gấu cũng bị cuộc chiến nó hành, chỉ trừ những lúc nghĩ
đến một
BHD, hay một cô bạn, hay một cô học trò?
To have seen
nothing or almost nothing except the face of a girl from Buenos Aires,
a face
that doesn't want you to remember.
Borges: Labyrinths Epilogue
Chẳng thèm
nhìn ai, ngoại trừ khuôn mặt BHD, và cô nói, ta cấm mi không được nhớ
tới ta.
*
V/v trong
"them" có "us".
Cái phẩm giá
mà Miền Nam có được, là khi đi tù VC, đi tù cải tạo!
Cái phẩm giá
mà VC có được, là ở trong những hồi ký, những tự vấn, như của Tô Hải.
Có người đặt
vấn đề, tại sao cuối đời, họ mới dám nói ra? Tại sao Víp Va Ka hấp hối
mới dám
xì ra "một triệu người vui nhưng cũng có một triệu người buồn"? Tại
sao "Thượng đế thì cười" với Nguyễn Khải, khi ông sắp sửa đi, tại sao
bánh vẽ Chế Lan Viên....?
Ấy là vì cái
chiến thắng đỉnh cao tuyệt vời quá. Không dễ gì mà thoát ra khỏi cái
bóng của
nó đổ xuống cả nửa hậu thế kỷ!
Và còn kéo
dài qua tân thế kỷ!
Đúng như Trần
Văn Toàn phán, về Hegel: Cái bóng của Hegel phủ kín Marx, và còn kéo
dài ra
mãi!
Chúng ta sở
dĩ để mất Miền Nam vì nghĩ lầm, tưởng bở, anh Yankee mũi tẹt tốt hơn
anh mũi lõ,
một nưóc Mít thống nhất hơn hai nửa nước Mít, thành thử để cái bóng của
Marx phủ
quá xuống cả Đàng Trong!
Bản tiếng
Anh của Cefalu, cuốn sách BHD tặng GNV, sinh nhật thứ 30 và
cũng là sinh
nhật thứ nhất, với lời đề tặng, bằng tiếng Tẩy, "Je serai ta femme"!
Quà tặng của
Ngạc trước khi té xuống, trong khi chờ tô phở, một buổi sáng, tại bếp
nhà của
chàng.
Nhờ quà tặng
trước khi đi xa của bạn ta mà độc giả TV được đọc free, tác phẩm, đúng
1 cuốn
tiểu thuyết, và có lẽ, độc nhất, của TTT.
Bếp
Lửa hỏng, chính tác giả cũng nhận ra, và cứ loay hoay hì hục viết
lại nó.
Nhưng, 1 cách nào đó, cái hỏng của Bếp Lửa
lại làm cho nó trở nên 1 thứ tiên tri, về sự sa đọa của VC Bắc Kít: Bạn
có nhớ
cái xen, ông bạn quí của Tâm, trước khi lên rừng theo Cụ Hồ, bèn làm
thịt cô
con gái riêng của ông Chính. Nó chẳng tiên đoán những HPNT, đám VC nằm
vùng ở
Miền Nam sau đó?
Bạn có thể bật
cười, và chửi Gấu, mi lấy “kết quả” làm “giả thiết”, thì làm sao mà
không đúng!
Hà, hà!
Nhưng, thú
thực Gấu chưa gặp được 1 tên VC nằm vùng nào ra hồn!
Đám bợ đít
VC nằm vùng, trơ trẽn mở miệng: Ngày trước chúng tôi khâm phục các anh,
bây giờ chúng tôi thông cảm!
Kít!
Có thể, anh
tính đem cho Gấu, nhưng chưa kịp thì đã té xuống. Bởi vì bà xã nói, anh
Ngạc dặn
đưa cuốn này cho anh.
Nguyên mẫu
ngoài đời của ông già của Trung Uý Kiệt, trong truyện, là ông già của
BHD.
Bắc Kít. Khôn
tổ cha.
Kiệt sống ở ngoại quốc
trên mười năm. Mười tám tuổi đỗ tú
tài, ông bố vận động cho đi du học. Bố Kiệt, một người thức thời, hồi
cư về đến
Hà Nội đã bán hết cơ nghiệp mấy đời tạo lập ở Hải Dương, đưa gia đình
vào
Sàigòn kinh doanh trước năm 54. Kiệt thật tâm không thích đi xa, mẹ
chàng cũng
không muốn rời đứa con độc nhất của bà. Nhưng cả hai không thể cưỡng ý
ông bố.
Ông không muốn con trai ông đi lính. Ngày Kiệt đi, hai mẹ con cùng khóc
sụt
sùi. Là con một nên từ bé đến năm mười tám tuổi (bình yên ở nhà quê đã
có thể lấy
vợ đẻ con rồi) Kiệt chỉ sống quẩn bên gấu quần mẹ.
Kiệt học cơ khí ở Đức, học Quản Trị ở Mỹ. Việc học hành của chàng tuân
theo sự
chỉ dẫn của ông bố. Chàng không hề bầy tỏ ý kiến riêng. Kiệt là đứa con
chí hiếu.
Nếu được tự lựa chọn, chắc Kiệt học Canh Nông và Âm Nhạc. Trong những
năm tản
cư chạy loạn, chàng thích đời sống rẫy bái. Còn Âm Nhạc là mối đam mê
suốt thời
thơ ấu mà chàng phải giấu ông bố. Chỉ mẹ biết mà thôi. Nhưng người đàn
bà ấy,
bình lặng đơn sơ như chiếc bóng bên con, không hiểu gì về những cõi xa
xôi
ngoài thực tế. Yêu con nhưng sợ chồng, bà không dám chia sẻ mối đam mê
của Kiệt.
Ngày nhỏ, Kiệt chỉ hát khi nhà vắng bố. Kiệt có một cây kèn harmonica,
thường
thổi cho mẹ nghe những buổi chiều tối hiu quạnh thui thủi hai mẹ con
với nhau.
Ngày Kiệt đang ở Đức, mẹ chàng mất. Chàng chỉ được bố báo tin sau khi
chôn cất
bà xong xuôi. Ông không muốn chỉ vì những lễ nghi hình thức bắt Kiệt về
chịu
tang, và dù về cũng chẳng kịp - bà chết vì bệnh cảm mạo mau lẹ, bất
ngờ. Kiệt
thương mẹ, lòng cảm thấy bất nhẫn, nhưng chàng chẳng có lý lẽ nào để
chê trách
bố. Ông cũng đau khổ chứ?
Ngày ấy, nơi xứ người, lần đầu trong đời, Kiệt một mình dến quán rượu
uống say
bí tỉ, khóc mẹ. Cũng lần đầu, trong cơn say, Kiệt thù hận những lo
lắng, tính
toán quá sáng suốt lạnh lùng của ông bố. Mẹ chàng đã đau khổ những năm
chàng ở
xa, đau khổ hơn nữa, lúc nhắm mắt lìa đời cũng không được nhìn mặt
chàng. Nếu
như Kiệt nhất định không chịu rời mẹ, chàng không đi học nước ngoài? (1)
Nhờ “đảo xa”, chúng ta
được biết, tên cái ông có cái nhà
cho Kiệt ở, là Kiệt.
Trước, tưởng, từ Kiệt Tấn!
Có thể, từ cả hai.
Ông già của
BHD còn xuất hiện trong 1 truyện ngắn của TTT. Cái này thì chỉ Gấu
biết, bởi vì
có lần ông già BHD kể, gặp TTT, say mèm ở ngoài bến tầu Sài Gòn. Thế
rồi, Gấu đọc
1 truyện ngắn của TTT, có tả 1 cảnh tương tự
Một lần, 1 buổi tối, ở nhà
bạn C, có Gấu, bạn C, và bà cụ; cả ba buồn
quá, quay
qua đánh “cạc tê”, hình như vậy. Thế rồi ông già BHD tới, có công
chuyện gì đó,
hai gia đình quen nhau từ Hà Nội. Ông cụ ngạc nhiên hết sức, hỏi đi hỏi
lại hoài,
tối nào cũng vậy hả?
Bà cụ C
không ưa gia đình BHD. Sau này, Gấu nghe nói, có họ hàng gì đó, nhưng
chẳng bao
giờ Cụ nói. Cụ rất bực, và nói thẳng, gia đình đó không chịu nổi mi đâu.
Ông
anh bèn phán, nó lấy con H chứ đâu lấy gia đình con H.
Gia đình BHD
thì tính nhắm Gấu cho cô cháu, tên Vy, phải gọi BHD là chị, ở Đà Lạt,
lâu lâu về
Sài Gòn. Khi Gấu đậu vô Bưu Điện, ông bà bàn với bà cụ C. Cụ buột miệng:
Thằng đó nó
muốn làm con rể ông bà, chứ không phải làm cháu!
Cả hai
chết
sững. Ngay bữa đó, Gấu tới, bị cấm cửa. Lủi thủi ra về.
Phải vài
năm sau đó, khi Gấu đã đi làm
Bưu Điện, một buổi sáng, lạnh, dậy sớm, bất thình lình nhớ BHD đến
điên lên
được. Thế là lấy xe chạy ra đầu vườn Tao Đàn, chờ em đi học. Gặp, em tự
nhiên
ngồi lên sau xe, như vẫn ngồi, từ hôm qua, từ mỗi ngày!
Source
Đà Lạt
Thanh Tâm
Tuyền, ngoài Một Chủ Nhật Khác,
còn một truyện dài bỏ dở, lấy bối cảnh là Đà Lạt,
hồi đó đăng từng kỳ, hình như là trên tờ Thời Tập của Viên Linh.
Giấu Mặt.
Tuy mới được
đâu mấy kỳ báo, nhưng, một trong những nhân vật chính của nó, là một cô
bé đã
gây ấn tượng nơi người đọc.
Gấu cũng có
vài kỷ niệm về Đà Lạt. Toàn những kỷ niệm để đời!
Đúng ra phải nói, ba thành phố
làm thành
"tam giác tình" của Gấu, là Hà Nội - Sài Gòn - Đà Lạt.
Gấu lên Đà Lạt
lần đầu, thăm ông bạn Huỳnh Phan Anh đang học sư phạm triết. Gấu tốt
nghiệp trường
Bưu Điện, đang chờ đi làm. Đám công chức làm từ thời Tây gọi là chờ
"nominer" [gọi tên đi làm].
Đi cùng ông
anh Bông Hồng Đen, cũng bạn HPA.
Đó là vào một
dịp Giáng Sinh. Cả bọn uống rượu, say bí tỉ, ngất nga nngất ngư lên
xuống những
con dốc, la hét, văng tục, y hệt mấy tay lính lê dương, Hà Nội, và
những ngày
trước 1954
Nhưng sau, Gấu
hiểu. Tại lạnh. Nhờ đọc Faulkner và chợt
bật ra nỗi nhớ lạnh.
Con người là
tổng số những kinh nghiệm về thời tiết. Ông viết.
Lần đi Đà Lạt ngay sau khi lấy vợ. Một
mình. Lên ở nhà
anh bạn trưởng đài vô tuyến điện Đà Lạt. Đi chơi với bạn của thằng em
đã tử trận,
lúc đó là sĩ quan dù đóng tại Đà Lạt. Thằng em này quen ca sĩ, lúc đó
tuy chưa
nổi tiếng như sau này, nhưng cũng đã nổi tiếng lắm rồi, ở thành phố Đà
Lạt. Đó
là Mai, còn gọi là Mai Đen. Sau này, hình như thời gian phòng trà bị
cháy, cô bỏ
Đà Lạt, về Sài Gòn, đi hát du ca, và trở thành Khánh Ly.
Gấu có ghé
nhà cô Mai, uống rượu. Nhà đẹp lắm, ở trên một ngọn đồi.
Nhưng
tuyệt
vời nhất, là những ngày hè, năm đó, khi Bông Hồng Đen đậu Tú Tài I, ba
tháng hè
được ông bố khắc nghiệt cho đi Đà Lạt chơi. Ở nhà cô Vy, em bà con. Cho
chắc
ăn!
Đó là những
ngày, liền sau khi Gấu "tái ngộ" Bông Hồng Đen, ở ngay cổng Vườn Tao
Đàn, khi cô thủng thỉnh từ nhà, ở đường Gia Long, ngay Ngã Sáu Sài Gòn,
băng vuờn
Tao Đàn, tới trường Gia Long, ở đường Phan Thanh Giản.
Đúng là tái
ngộ thật, là vì tính từ cái ngày đầu tiên Gấu nhìn thấy cô bé, khi cô
mới 11 tuổi,
khi nhà cô còn ở đường Phan Đình Phùng, cho tới buổi sáng trọng đại đó,
tệ lắm,
cũng dài bốn hoặc năm niên. Cô lúc đó đã là một thiếu nữ.
NDB &
Wife
Chao Ong ban
vong nien
Nghe thay
Ong ve binh yen la ke hen nay mung lam
lam
Chuyen doi
dau con co do,chang voi va gi
Co dip chung
ta lai gap nhau
Tran trong
Nguyen Duc
Ban
Tôi mà không
gặp ông này, chắc là thành gái già!
Khen chồng
khéo thiệt!
Trong khi chờ
bà xã đi mua đồ ăn cho GCC mang lên máy bay, ăn đường, vì đếch có
credit card,
ông chồng biểu, nhớ cám ơn Bả 1 phát nhe, không là tôi “ngượng chết đi
mất”.
Mấy ông nhà văn
nhà thơ là tối vô ơn, ấy chết xin lỗi ông, tối đãng trí!
Hà, hà
Bây giờ đọc
lại, thì lại nhận ra là bà vợ khen mình!
Tôi phải gặp ông này, thì mới gật đầu,
không thì đành ở góa!
*
Bạn
Bạn chê "Thần Tháp Rùa", cả tác giả lẫn tác phẩm, kịch ở trong kịch
và kịch ở ngoài đời.
Thầy Khoan của GCC thì quả là quá kịch thật, và Thầy cũng biết thế, và
bèn chữa
‘thẹn’ bằng 1 giai thoại về Nguyễn Tuân, "Thầy của Thầy".
[TTT
đã có lần nói với thằng em, khi chỉ có hai anh em ngồi Quán Chùa, anh 1
ly cà
phê, em 1 ly cà phê – cái này là thuổng câu “anh 1 trái tim em 1 trái
tim/chúng
kéo đầy đường xe tăng, đại bác”- sở dĩ VKK và MT cũng ti toe viết lách
với đời,
là nhờ có 1 lần trong đời, được gặp Nguyễn Tuân]:
Nguyễn Tuân đã từng mặc áo gấm, nhẩy xuống sông, thi bơi!
GCC
đã có kể giai thoại này trong bài viết Nghệ Thuật Làm Dáng (1):
Chúng
ta luôn có dáng điệu của một kẻ sắp sửa ra đi, Camus viết như vậy. Một
Dũng của
"Bến Gió", của "sông Đà": kéo cổ áo cao lên một chút, tóc
xổ tung ra, mặc tình cho nó bù xù trước gió!
[Tình
cờ vớ được câu này, chẳng "Dũng, Đôi Bạn, Bến Đò Gió" sao: Và gió đã
tặng anh 1 vầng tóc! (1)]
Vũ
Khắc Khoan, khi sinh thời có kể một huyền thoại về Nguyễn Tuân: Mặc áo
gấm,
nhảy xuống sông, thi bơi!
Khi Siu Cô Nương của Mặc Đỗ được trình làng,
Thanh Tâm Tuyền, trong
một bài điểm sách, đã coi, đây chỉ là những nhân vật làm dáng. Mặc Đỗ,
sau đó,
đã chỉ ra những nét làm dáng trong Ung Thư. Ở đây, cứ coi như
một
"chân lý": không thể có văn chương, nếu không có làm dáng. Nhưng đấy
chỉ là khởi đầu, là thói quen mút ngón tay của con nít; sau đó phải là
chấp
nhận rủi ro, hiểm nguy, là chọn lựa, quyết tâm thực hiện thực tại "của
những giấc mơ".
Nhưng
kịch của VKK chưa "hỏng" bằng cái thứ kịch Xạo Hết Chỗ Nói, thí dụ
của… Thầy Bertolt Brecht.
Trước khi viết về kịch, có lẽ nên làm thịt kịch đã!
Xin giới thiệu bài viết, Mi còn lại chi, hả Bertolt, What Will Be
Left of
You? của Milan Kundera, trong Encounter
What Will Be Left of You, Bertolt?
IN
APRIL 1999 A PARIS WEEKLY (ONE OF THE MORE SERIOUS ones) published a
special
section on Geniuses of the Century. There were eighteen on the list of
honorees: Coco Chanel, Maria Callas, Sigmund Freud, Marie Curie, Yves
Saint
Laurent, Le Corbusier, Alexander Fleming, Robert Oppenheimer,
Rockefeller,
Stanley Kubrick, Bill Gates, Pablo Picasso, Henry Ford, Albert
Einstein, Robert
Noyes, Edward Teller, Thomas Edison, J. P. Morgan. So, then: no
novelist, no
poet, no dramatist; no philosopher; a single architect; a single
painter, but
two couturiers; no composer, one singer; a single moviemaker (over
Eisenstein,
Chaplin, Bergman, Fellini, the Paris journalists chose Kubrick). This
honor
roll was not something put together by ignorant people. With great
lucidity it
declared a real change: the new relationship of Europe to literature,
to
philosophy, to art.
Have the great cultural figures been forgotten?
"Forgotten" is not the right word. I remember that at that same
period, toward the end of the century, we were inundated by a tidal
wave of
monographs: on Graham Greene, on Ernest Hemingway, on T. S. Eliot, on
Philip
Larkin, on Bertolt Brecht, on Martin Heidegger, on Pablo Picasso, on
Eugene
Ionesco, on Cioran, and endless others.
These venomous works (my gratitude to Craig Raine
for
defending Eliot, to Martin Amis who took up for Larkin) made clear the
meaning
of that honors list: the geniuses of culture have been set aside
without
regret; it is comforting to prefer Coco Chanel and the innocence of her
dresses
over those great cultural figures, all of them tainted with the
century's ills,
its perversity, its crimes. Europe was moving into the age of the
prosecutors: Europe was no longer loved, Europe no longer loved
itself
Does that mean that all those monographs were
especially
harsh toward the works of the writers portrayed? Oh no; at that time
art had
already lost its appeal, and the professors and connoisseurs were no
longer
interested in either paintings or books, only in the people who had
made them;
in their lives.
In the age of the prosecutors what does a life mean?
A long
succession of events whose deceptive surface is meant to hide Sin
To ferret out Sin beneath its disguise, the
monographer must
have a detective's talent and a network of informers. And so as not to
sacrifice his lofty stature as expert, he must cite the names of his
informers
in footnotes, for in the eyes of scholarship this turns gossip into
truth.
I open a huge eight-hundred-page book on Bertolt
Brecht. The
author, a 'professor of comparative literature, after demonstrating in
detail
the vileness of Brecht's soul (secret homosexuality, erotomania,
exploitation
of girlfriends who were the true authors of his plays, pro-Stalin
sympathies,
tendency to lies, greed, a cold heart), finally in chapter 45 comes to
his
body, in particular to its terrible odor, which the professor takes a
whole
paragraph to describe. As guarantee of the scholarly nature of this
olfactory
revelation, in a note to the chapter the writer says he collected "this
detailed description from the woman who was at the time the head of the
photo
lab of the Berliner Ensemble, Vera Tenschert," whom he interviewed
"on June 5, 1985" (that is, thirty years after the smelly fellow was
laid in his coffin).
Ah, Bertolt, what will be left of you?
Your body odor, preserved for thirty years by your
faithful
colleague and then revived by a scholar who, after intensifying it by
the
modern methods of university laboratories, has now sent it forth into
the
future of our millennium.
Milan
Kundera: Encounter
[Note: TV sẽ dịch ra tiếng Mít, sau]
“Sad
Seagull” đang ở…, rất gần chỗ anh Nguyên Giác làm việc.
Sang đầu
tuần sau, "Sad Seagull” đi…, mong có dịp thăm bác Gấu ở đây vào
cuối tuần này trước khi đi.
Chúc bác
Gấu luôn mạnh khỏe, và luôn luôn... Gấu.
Sad
Seagull
Dear GNV,
Just let you
know that I am busy with my class and trip to…..
I won't be
able to see you again and hope you enjoy your visit in Orange County.
Even though
I respect and admire you, a writer of the Deep South of my childhood
day, I am not a writer to be your friend and I haven't read enough to
be
your favorite fan. I know my background and what I am better to
stop.
You are
still my favorite reader and reviewer.
Wishing you
the best.
Poor
Seagull.
Dear anh
Nguyên Giác,
Thank you so
much for giving me your books.
I love your
Buddhism writing.
Best
regards,
TMN
Mail chót, chắc
là sau khi đọc cái đoạn “GCC tính làm thịt GCC”:
Take care,
GNV.
Please,
don't be sad.
Poor Seagull
Trong quá khứ,
cứ mỗi lần em Sad Seagull bực GCC là em sử dụng tiếng Anh, để viết
mail, thí dụ
cái lần em bực vì Gấu đụng tới Thầy Cuốc, và bây giờ, lần từ giã, sau
khi huỷ
cuộc hẹn gặp vào bữa chiều Thứ Bảy, giữa thiền sư NG & GCC và Em.
Rồi cắt
phôn, rồi cả 1 ngày chủ nhật “bỏ đi” [chữ này chôm của Mặc Đỗ, dịch “Tender Is
The Night”, "Cuộc Tình Bỏ Đi", của Scott Fitzgerald, mà theo GCC
chắc chắn TTT đã từng đọc,
trước
khi viết Một Chủ Nhật Khác]
Đúng ra GCC
và Em của Gấu có thể có Một Chủ Nhật
Khác ở Quận Cam: Chỉ tưởng tượng
không
thôi mà đã run hết cả người lên rồi. Thay vì vậy, là cú xém đi luôn của
GCC ở
bên ngoài khu Phước Lộc Thọ.
Come on,
read the future for me
Nè, nè, hãy đọc tương lai giùm tớ
You haven’t
any
Mi đâu còn tương lai
Hm… What do
you mean?
Bà nói sao?
Your
future’s all used up. Why don’t you go home?
Tương lai của mi có nhiêu xài hết rồi.
Sao không.... ngỏm đi?
No greater
pain than to remember happy times in times of misery
Gabriele
Annan: Girl from Berlin
"Girl",
là Marlene Dietrich
Đau nào lớn hơn, khi nhớ
lại Buổi Sáng Starbucks, trong lúc thê lương Phước Lộc Thọ!
[The NYRB Selected Essays,
1963-1993]
Note: Mấy
khúc này bị mất. Đang "khấu vá" [chữ của Đài Sử. Tks again. NQT]
Le Magazine
Littéraire:
Il y a une phrase magnifique de Jane Austen dans Persuasion que vous citez dans votre roman Un
air de famille : « On l’avait contrainte à
la prudence dans sa jeunesse, elle
apprenait le romanesque avec l’âge, suite
naturelle d'un début artificiel. » C'est un peu
le cas de Michael, non?
Michael Ondaatje:
II me semble
que vous interprétez librement, mais bon,
c'est assez vrai! Michael voit du romanesque
partout, mais bien sur c'est un regard rétrospectif
qui isole un moment de la jeunesse, en
lui donnant tout l'art de l'adulte qu'il est
devenu. II y a un moment précis où un écrivain
peut se retournervers son passé, et le réinventer.
La fiction me donne la possibilité infinie de
me souvenir du passé, de l'enregistrer et de
le comprendre. Je ne crois pas que cela soit de
la nostalgie ni de l'embellissement : tous mes
petits personnages sont des invalides, des brulés,
des accidentes, comme dans Le Patient
anglais, dans Le Fantôme d'Avril,
dans presque tous mes livres.
Note: Đoạn
trên làm nhớ buổi sáng uống cà phê với Sad Seagull, tại 1 quán
Starbucks. Gấu đã từng ngồi đây, 1 buổi tối, với đám bạn học cũ, quen
từ thời mới vô Sài Gòn, cùng học trường Văn Hóa của Thầy Nguyễn Khắc
Kham
Câu của
Jane Austen: Người ta ép nàng phải thận trọng khi còn là một đứa con
nít, và cả cuộc đời sau đó, nàng học
sống
lãng mạn, một tiếp theo tự nhiên của một khởi đầu cưỡng ép, giả tạo:
Anh nhớ là
em có nói về mối tình với 1 vị lớn tuổi hơn em, rất giỏi tiếng Tây, đọc
tiếng
Tây cho em nghe tới đâu, dịch ra tiếng Mít tới đó, và sau đó, gửi
“mail” bản
dịch, kèm nguyên tác.
Và em đã từ chối cuộc tình
này, vì sợ hai đấng sinh thành đau
lòng.
Nó còn làm
nhớ đoạn Kiệt ngồi với cô học trò Oanh, và lần đầu tiên Kiệt thú
nhận cái
tuổi thơ Bắc Kít của mình:
Trong khi
ăn, Kiệt bỗng nhớ đến những ngọn gió bấc cắt da, những hạt mưa nhọn như
kim
châm, dúm ớt bột khô tê môi, chảy nước mắt, bát nước chè tươi bỏng rát
lưỡi. Từ
bát bún riêu, chàng nói về mùa màng thời tiết, về bầu trời sông nước,
về đồng
ruộng trái quả, về phố phường thắng cảnh và vô tình chàng tiết lộ những
mảnh vụn
của một thời thơ ấu và niên thiếu chẳng hề nói với ai. Oanh mở mắt to
chăm chú.
Kiệt lại thấy những giọt nước mắt rơi.
TTT: Một chủ nhật
khác
*
… một cuốn
tiểu thuyết của Durrell, nàng tặng
chàng hôm sinh nhật… (1)
Cuốn tiểu
thuyết trên, BHD tặng GCC, quà sinh nhật,
ngay sau khi ăn
mìn VC, thoát chết, có tên tiếng
Tây là Cefalu, và là cái tên lần xb thứ nhất,
1947, sau đổi là The Dark Labyrinth, Mê Cung
Tối.
GCC biết
điều này từ
khuya rồi, và cũng
có cuốn The Dark Labyrinth
(2), nhưng tờ TLS số đề ngày 30 11, 2012, chắc là không biết,
trong mục Sổ
Tay, dưới cái tít Into the dark, bèn…
nhắc Gấu:
Earlier this
year, we drew attention to the centenary of Lawrence Durrell (1912-90),
once a
strong force in mid-century English letters but neglected now. At Skoob
[tên 1
tiệm sách ở Lodon. NQT], we lighted on a curiosity: The
Dark Labyrinth, first published as Cefalu in 1947 and reissued in
an Ace Books edition in 1958. The story, set in Crete after the war,
involves
"a party of sightseers . . . trapped in what was then the
newly-discovered
labyrinth of Cefalu".
Lần này, thoát
chết ở Phước Lộc Thọ, thì là tập thơ Qua
Sông & Nước của W.G. Sebald.
Hà, hà!
(2)
... một cuốn
tiểu thuyết của Durrell, nàng tặng chàng hôm sinh nhật, với những dòng
chữ, giống
như một nữ tốc ký ghi lại một cuộc nói chuyện, nàng ghi lại những lời
chàng nói
bữa đó, "Buồn, dễ giận, kiêu ngạo, yêu anh không, kìa anh hỏi H. mà. Em
là
cái máy magnétophone. Không nghĩ (được vậy, H. đã mừng).... ", chàng
giành
lấy cây viết ghi thêm: "Em là ma vie... quà tặng của H. (nhân dịp H.
giận).
Cuốn của
Durrell, bản tiếng Pháp, hình như tên là Cefalu thì phải. Nếu đúng như
vậy, thì
tên tiếng Anh của nó là The Dark Labyrinth: Mê Cung Âm U.
Như vậy,
Bông Hồng Đen tặng Gấu, lần đang nằm nhà thương Grall, cuốn Một buổi
sáng đẹp
mùa hè, của Chase, và tại Đài Liên Lạc VTĐ sau đó, nhân ngày sinh nhật
của Gấu,
cuốn của Durrell. Và một câu tiếng Tây.
....vào đúng
dịp sinh nhật của chàng, sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là sinh nhật
lần thứ
nhất, nàng nói, "Je serai ta femme."
*
Anh
có biết tại sao em đến tìm anh không? Oanh chậm rãi.
Kiệt khó chịu vì câu hỏi. Chàng nín thinh.
-Em đến để từ biệt anh. Oanh ngừng, đợi phản ứng của Kiệt - Trước khi
không còn
được gặp anh, em muốn....
[To
H/A: Ui chao, đừng, đừng!]
|
|