*


















Cali Nov 2012 With Sad Seagull

*

Lần gặp đầu

Jérôme Lindon

Một bữa, năm 1950, một người bạn, Robert Carlier, biểu tôi, ông phải đọc bản thảo của tay này, một gã Ái nhĩ lan, viết văn bằng tiếng Tây. Hắn tên là Samuel Beckett. Sáu nhà xb đã từ chối. Tôi lúc đó trông coi Nhà xb Nửa Đêm được hai niên. Vài tuần sau, nhà xb nhận được ba bản thảo: Molloy, Malone meurt, L’Innommable, với cái tên tác giả lạ hoắc nhưng bề ngoài quen thuộc.
Chính là từ ngày đó mà tôi biết tôi sẽ là nhà xb, thứ thiệt. C’est de ce jour que j’ai su que serai peut-être un éditeur, je veux dire un vrai éditeur. Ngay dòng đầu – “Tôi ở trong căn phòng của mẹ tôi. Tôi bây giờ sống ở trong căn phòng này. Tôi cũng không biết như thế nào tôi lại sống ở trong căn phòng này” – ngay dòng đầu, cái đẹp rã rời, nát tan, la beauté écrasante, của bản văn đã hớp hồn tôi. Tôi đọc Molloy trong mấy tiếng đồng hồ, như chưa từng đọc 1 cuốn sách….  Một bản thảo chưa từng được in ra, không phải chỉ chưa được in ra mà là bị nhiều nhà xb từ chối. Tôi không làm sao tin nổi.
Bữa hôm sau, tôi nói với bà vợ, Suzanne, phải in liền tù tì ba cuốn, mà tôi lại đếch có tiền. Bà lo chuyện mang hợp đồng đến cho Samuel Beckett ký kết, và mang về cho tôi. Đó là ngày 15 Tháng Chạp 1950. Vài tuần sau, ông ghé văn phòng của tôi. Bà vợ tôi kể lại, ông ra về mặt buồn thiu. Và Suzanne rất ư là ngạc nhiên. Hay là tụi chúng tôi có làm gì ông buồn. Cái hợp đồng in sách đầu tiên của ông có gì làm ông không vừa lòng. Và ông trả lời ngược hẳn, là ông quá mừng, nhưng thật ái ngại, vì cái việc in sách của ông, sẽ làm cho chúng tôi thất bại, nếu không muốn nói, phá sản, que la publication de Molloy allait nous conduire à la faillite.
Cuốn sách ra lò 15 Tháng Ba. Chủ nhà in, 1 tay Alsacien, dân Ky Tô, sợ liên can đến thuần phong mỹ tục, đếch dám để tên nhà in ở cuối cuốn sách.
Vài ngày sau tôi viết thư cho Sam để biểu ông gửi tôi một tấm hình, và 1 truyện ngắn ông hứa gửi cho tờ báo.
Và ông trả lời, thư sau đây:

10.4.51
Cher Monsieur Lindon,
Nhận được thư ông hôm qua. Sướng điên lên về cái món tiền a văng của ông.
Chiều nay đi chụp hình. Ngày mai gửi liền
Tôi nghe nói là Roger Blin đang tính dựng kịch của tôi. Chắc là phải đòi tí tiền còm. Nhưng căng đấy, tôi muốn nói cái việc cho phép dựng kịch của tôi. Hãy đợi Godot. Nhưng ngày mai, chưa đâu. Attendons Godot, mais pas pour demain.
Cái truyện ngắn, phần đầu dưới cái tít La Fuite [Trốn chạy], đã đăng trên Thời Mới, Les Temps Modernes, tùy ông sử dụng….

1. Món tiền tạm ứng, tôi nhớ không lầm, thì là 25 ngàn Phật lăng cũ.
2. Cái kịch ở đây là Trong khi chờ Godot, ở Paris. Những nhà hát từ chối từ lâu, vì kịch đếch có “đàn bà, cộng sản, thầy tu”.
Sau cùng ra mắt tháng Giêng 1953.
*

The best part of a writer's bigraphy is the biography of style.
Nabokov
Cái phần đẹp nhất của tiểu sử một nhà văn là tiểu sử của văn phong.

Tuyệt!

Áp dụng vào trường hợp Gấu Nhà Văn lại càng tuyệt.

Cái truyện ngắn đầu tay của Gấu, Những Con Dã Tràng, viết sau lần đi nghỉ hè biển Nha Trang, sau khi rớt Tú Tài Hai, khóa I, gửi thẳng xuống tòa soạn Sáng Tạo, được TTT khen um lên, qua lời kể lại của bà cụ của ông, và ST tính đi, nhưng báo ngỏm, và sau Gấu thấy cái tên Sơ Dạ Hương trong mục hộp thư của tờ Văn Nghệ của băng Dương Nghiễm Mậu, Lý Hoàng Phong, nhưng sau không thấy đăng.
Gấu cũng bỏ, vì thực tình lúc đó, còn lo học.
Chỉ mãi sau này, thì Gấu mới hiểu ra, có 1 cái gì đó trục trặc với cái truyện ngắn đầu tay, dù được khen, và cái chuyện tờ Văn Nghệ vứt thùng rác, có thể lại là cái hay cho Gấu.

*

Trước 1975, Gấu không được quen Đỗ Long Vân. Có gặp, đúng hai lần. Một, ở Quán Chùa, ông đi cùng một hai người bạn, liền ngay sau bài giới thiệu Gấu viết về 1 cuốn sách của ông mới ra lò, đăng trên trang VHNT của nhật báo quân đội VNCH, Tiền Tuyến.
Gấu có nhắc lại cuộc gặp gỡ này, trong bài tưởng niệm ông, khi nghe tin ông mất, trước đó cũng lâu, ở quê nhà, trên tờ Văn Học của NMG. Bài viết thực sự là cho báo Sóng Văn, nhưng NMG, đọc bản thảo, thú quá, bèn biểu “thằng người làm”, “thằng viết muớn”, thằng “hitman”, ông cho tôi bài này. Ông chủ báo Sóng Văn, biết, bực lắm, nhưng cũng bỏ qua!
Lần thứ nhì, gặp ông, là đi cùng với Joseph Huỳnh Văn tới Đài truyền tin Phú Lâm, nơi ông trực thuộc, khi bị bắt đi lính, như là 1 bình nhì, vì không trưng bằng cấp, tuy là giáo sư Đại Học. Joseph hẹn gặp, để lấy bài Truyện Kiều ABC, của DLV, viết cho tờ Tập San Văn Chương.

Chắc cũng chỉ tình cờ, bữa tá túc nhà bạn Bạn, ông hỏi tôi, Đỗ Long Vân thuộc băng đảng nào trước 1975.
Gấu bèn ngớ ra, và sau đành nói đại, ông hay viết cho tờ Trình Bày, như vậy, chắc thuộc băng “phản chiến”!
Còn ông bạn họa sĩ đang ngồi khoa tay, thì trong 1 lần nhậu, cho biết, có gặp bà xã của Đỗ Long Vân, trong lần triển lãm tranh ở Houston, Texas, và có nhắc tới cuốn Gấu viết về DLV, bà xã của ông bèn đưa ra nhận xét, ông ta có viết, nhưng đâu có viết gì về Đỗ Long Vân!

Đúng như vậy. Gấu không được quen với DLV.
Những bè bạn của ông, viết, mới đúng.
Đinh Cường có lần nhắc tới DLV, ngồi đọc sách, trong khi ông nhậu với mấy đấng bạn khác, hình như thế.
Mới đây, Gấu đọc báo trong nước, 1 tay nào đó, có viết về cái chết, thật là đau lòng của ông, nhưng thôi, bỏ.
VC viết thì cũng khó tin, nhưng quả là những ngày sau 1975 của ông thì thê lương hơn nhiều, so với những ngày cũng thê lương chẳng thua gì, trước 1975.

Đời Gấu Cà Chớn mà chẳng thê luơng sao?
Hà, hà!
Đâu có sao!
Mà có sao thì cũng đếch cần!

Duyên do Gấu viết về bản văn “Vô Kỵ giữa chúng ta” của Đỗ Long Vân:

Gấu về Hà Nội, vớ được nó, tại 1 sạp báo. Từ sạp báo, nhìn qua con hồ, Hồ Gươm, Gấu muờng tượng ra 1 cái tiệm thuốc Tây, hồi Gấu được về Hà Nội học, 1954 còn thấy nó, nghe nói của gia đình DLV. Ông đi Tây học, để về làm chủ tiệm thuốc Tây, nhưng mê văn chương, nhất là mê Simone Weil, thế là bèn tung hê hết. Cái chết của ông, như sau này đọc qua 1 tay nào trong nước viết, nếu đúng như thế, thì chắc cũng là noi gương Simone Weil.

Về lại Canada, Gấu vừa gõ bài viết của DLV, vừa viết ở bên lề bản văn, lập lại trường hợp Đạt Ma Tổ Sư viết Cửu Dương Thần Công, ở bên lề 1 cuốn kinh Phật, vì vậy mà sau này mở ra 1 trường giang hồ gió tanh mưa máu, cùng sự xuất hiện của đủ các thứ môn phái võ học, nào Nga Mi, nào Côn Luân, nào Võ Đang....

Tưởng Niệm Đỗ quân và Joseph Huỳnh Văn

Đỗ Long Vân mất tại quê nhà tháng Tám năm 1997. Người viết chỉ được biết, nhân đọc mục thư tín trao đổi với bạn đọc của một tạp chí văn học ở hải ngoại.

Và sau đó có viết vài dòng về ông, như một tưởng niệm muộn, và mượn ngay tên bài viết của ông làm của mình. Cả bài viết của ông, sau bao tai biến, chỉ còn lại một cái tên trong trí nhớ người viết. Gửi theo ông rồi, mới quên điều tính hỏi: Vô Kỵ là ai, mà ở giữa chúng ta?

***

"Mỗi một bài viết bạn đang đọc…", bạn đọc hãy coi những dòng sau đây, như là một bài viết bên lề, vẫn như một lời tưởng niệm muộn, gửi theo người đã khuất.

***

Chết là hết, như người Việt thường nói. Nhưng Volkov, trong bài viết tưởng niệm thi sĩ Joseph Brodsky, "Con sói cô đơn của thơ ca", đã trích dẫn câu thơ của nữ sĩ Akhmatova, "Khi một người đàn ông chết, những bức chân dung của người đó thay đổi", và đưa ra nhận xét, "có chút chi lạnh lẽo ở hai dòng thơ này". Theo ông, thường ra, khi được tin một người bạn mất, và được trao công việc lọc lựa những bức chân dung, ông nhận thấy có những thay đổi thật tế vi, đôi khi gây kinh ngạc, từ nét mặt người quá vãng. Như thể thần chết vạch giùm cho chúng ta thấy một ý nghĩa, một viễn tượng nào đó, ở nơi người chết, chỉ sau khi đã phán bảo: người này chết rồi. Những giai thoại-sau cái chết (the posthumous legend) càng mạnh, hậu quả của chúng càng xáo trộn, ở nơi những bức chân dung đó. Và theo Volkov, chuyện như vậy đã không xẩy ra, trong trường hợp của Joseph Brodsky. Sau khi ông mất vì bịnh tim vào ngày 28 tháng Giêng năm 1996 ở New York City, giai thoại về ông khi còn sống nhập hẳn vào những bức hình của ông, qua đó, là thời niên thiếu nổi loạn trong một thành phố bị vây hãm, cuộc vây hãm 900 ngày, dài nhất trong lịch sử cận đại, chưa kịp hồi phục bị giáng thêm đòn thanh trừng thời kỳ Stalin, rồi tới bản án theo kiểu Kafka của nhà nước Xô viết…

Người viết đã có lần giới thiệu bài tưởng niệm Joseph Brodsky, của T. Tolstaya, rồi nhân đó, tưởng niệm một nhà thơ Việt. Một người quen đã bực mình, tại sao lại để hai nhà thơ kế nhau như thế? Brodsky thì ai cũng biết, nhà thơ bạn anh, đâu có ai biết đến mà chơi cái trò ăn theo!

Tôi thật sự ngạc nhiên, khi bị hỏi như vậy, lần đó.

Trong bài viết của Tolstaya có nhắc tới một người thợ mộc ở Moscow, nhân được phỏng vấn, đã trả lời: Tôi chỉ mong có một cuộc sống riêng tư. Như Joseph Brodsky!

Anh bạn nhà thơ của người viết sau 1975 đã làm nghề thợ mộc. Trước đó anh làm nghề dạy học. Anh khoe, tìm thấy những vân gỗ y hệt những vần thơ!
Cái ông thợ mộc chẳng ai biết đến đó lại mong có một cuộc đời rất riêng tư của một nhà thơ được giải Nobel văn chương!

Cái ông thợ mộc bạn tôi, giả sử như gặp nhà thơ Nga ở cái thế giới nào đó, có thể sẽ là hai người bạn thân. Tôi thực sự mong mỏi như vậy. Và tôi còn tin rằng Joseph Brodsky sẽ thèm thuồng cái số phận của anh bạn thơ của tôi, ở trong cái thế giới cả hai đã cùng từ bỏ.

Nhà thơ Nga bị nhà nước Nga tống xuất, xin xỏ mãi để được ở lại, mà không được. Bạn tôi cứ tà tà ở lại, chẳng ai đuổi, và cũng chẳng thèm đi! Bạn tôi làm thợ mộc, nhà thơ Nga phải làm nghề mổ tử thi. Ông tự hào về nghề đó, và xấu hổ khi phải bỏ nghề. Anh bạn nhà thơ của tôi tự hào là một anh thợ mộc, và anh tìm thấy thơ ở đó, khi không còn có thể làm thơ được nữa.

Thử hỏi Brodsky có tìm thấy thơ từ những xác chết hay không?

Anh bạn nhà thơ của tôi, là bạn thân của Đỗ Long Vân.

Tôi viết bài tưởng niệm Đỗ quân cũng trong ước vọng đó: được có một cuộc đời riêng tư như Đỗ quân.

Bởi vì cái cuộc đời riêng tư đó thật là hiển hách vô cùng, đối với đám tụi tôi. Đám chúng tôi, khi đi trình diện nhập ngũ, trưng đủ thứ bằng cấp, để được đi học sĩ quan (bằng tú tài), để được biệt phái về một đơn vị không tác chiến (bằng chuyên môn)…

Đỗ quân, tuy bằng cấp đầy mình, đã từng du học Paris, giáo sư đại học, đi trình diện như một cái bang chẳng có một túi nào!

Sĩ quan, binh lính miền nam trước 1975 thường mặc quân phục bó sát người. Kỷ niệm của tôi về Đỗ quân, trong lần tình cờ đi cùng anh bạn thi sĩ Joseph Huỳnh Văn ghé thăm ông tại Đài Truyền Tin Phú Lâm, là một anh lính trong bộ quần áo nhà binh rộng thùng thình, tươi cười, thoải mái. Tôi có cảm tưởng ông thoải mái hơn cả lần đầu gặp tại quán Cái Chùa, đường Tự Do.

Trích Vô Kỵ giữa chúng ta

Vô Kỵ Giữa Chúng Ta
Tribute to DLV

Đỗ Long Vân, tác giả Truyện Kiều ABC, Vô Kỵ Giữa Chúng Ta, Nguồn Nước Ẩn Trong Thơ Hồ Xuân Hương... đã mất tháng Tám năm vừa qua (1997), tại quê nhà. Người biết chỉ được tin, qua mấy dòng nhắn tin, trong mục thư tín, trên tạp chí Văn Học, số tháng Ba, 1998.

Ngay từ trước 1975, ông đã sống một cuộc sống lặng lẽ, "từ chối" mọi đặc quyền, nếu có thể gọi đây là một đặc quyền mà chế độ Miền Nam dành cho những người có bằng cấp: được đi học trường sĩ quan Thủ Đức. Khi bị gọi động viên, ông đã trình diện như là "lính trơn", nghĩa là chẳng trưng ra những bằng cấp, chẳng nhớ gì (?) tới những năm tháng du học Paris. Bạn với một số bạn lặng lẽ: Joseph Huỳnh Văn, Phạm Kiều Tùng, hình như có cả Nguyễn Tử Lộc, và đứa em út trong bọn, Nguyễn Đạt (gọi là em út, vì nhà thơ này là em ruột Nguyễn Nhật Duật), nghĩa là hầu hết anh em trong nhóm Tập San Văn Chương. Khi cả bọn xúm nhau làm tờ báo, chỉ có Joseph Huỳnh Văn,"Tổng Thư Ký" tòa soạn, mới đủ tư cách mang "cẩm nang võ công của Trương Tam Phong, tổ sư phái Võ Đang", nói nôm na, những bài Cầm Dương Xanh của anh, tới "Thiếu Lâm Tự", Bắc Đẩu Võ Lâm, để đổi lấy một cách đọc bí kíp/văn bản: Hãy đọc ở độ thấp nhất, mức độ ABC, của nó.

Tôi chỉ còn giữ được một kỷ niệm về Đỗ quân, về Nguồn Nước Ẩn, khi cuốn sách được xuất bản, thời gian tôi đang phụ trách trang Văn Học Nghệ Thuật cho một nhật báo. Bèn viết bài giới thiệu.

Phải nói rõ một điều: Đỗ Long Vân, cũng như tôi, và nhiều người khác nữa, đều có chung một số ông thầy. Và cái trường phái võ học/văn chương đang thịnh hành hồi đó là cơ cấu luận, với những đại gia như Roland Barthes, Claude Lévi-Strauss... Khi đọc Nguồn Nước Ẩn, trí óc tôi còn tràn ngập những hình ảnh, những chiêu thức phê bình văn chương, thí dụ như, phê bình là siêu-ngôn ngữ, phê bình là một bản văn (choàng, cover) trên một bản văn, là sáng tạo của sáng tạo... Nói tóm lại, tôi không đọc tác phẩm của Đỗ quân, mà chỉ lo ca tụng nguồn võ công đã sản xuất ra một chiêu thức kỳ tuyệt như thế.

Vẫn là câu chuyện Cửu Dương Chân Kinh, của Thiếu Lâm, và võ công của Trương Tam Phong, tổ sư Võ Đang. Tuy thoát thai từ Cửu Dương Thần Công, nhưng Miên Chưởng, Thái Cực Quyền/Kiếm... là hoàn toàn do Trương Tam Phong tổ sư sáng tạo ra. Theo nghĩa đó, Cửu Dương thần công chỉ đạt tới mức siêu việt của nó, qua nhân vật Vô Kỵ, người mang trong mình tất cả những võ công chính tà: Cửu Dương/Càn Khôn Đại Nã Di. Nếu không có Trương Tam Phong, không có Cửu Dương Công, bởi vì nó sẽ mục nát trong Tàng Kinh Các, hay mãi mãi "ở trong dầu", tức là trong bụng một con vượn.
Đây một chân lý văn chương/võ học, theo ý nghĩa của Borges, khi ông viết về Kafka: mỗi nhà văn phải sáng tạo ra những tiền thân của riêng người đó.
Bản thân Borges ảnh hưởng nặng nề Kafka, nhưng giữa những ngụ ngôn của ông, và của Kafka là một khoảng cách vời vợi.

Buổi sáng đó, Đỗ quân rời núi, tới chùa (quán Cái Chùa, ở đường Tự Do, Sài-gòn); khi một người nào đó, cùng ngồi bàn, nhắc tới bài điểm sách, và cho rằng, đây là những lời khen tác giả Nguồn Nước Ẩn, ông nhìn tôi, cười: Bạn ơi, bạn đâu có khen tôi, mà là khen Roland Barthes.

Tatyana Tolstaya, trong một bài tưởng niệm nhà thơ Joseph Brodsky, có nhắc đến một cổ tục của người dân Nga, khi trong nhà có người ra đi, họ lấy khăn phủ kín những tấm gương, sợ người thân còn nấn ná bịn rịn, sẽ đau lòng không còn nhìn thấy bóng mình ở trong đó; bà tự hỏi: làm sao phủ kín những con đuờng, những sông, những núi... nhà thơ vẫn thường soi bóng mình lên đó?
Chúng ta quá cách xa, những con đường, những sông, những núi, quá cách xa con người Đỗ Long Vân, khi ông còn cũng như khi ông đã mất. Qua một người quen, tôi được biết, những ngày sau 1975, ông sống lặng lẽ tại một căn hộ ở đường Hồ Biểu Chánh, đọc, phần lớn là khoa học giả tưởng, dịch bộ "Những Hệ Thống Mỹ Học" của Alain. Khi người bạn ngỏ ý mang đi, ra ngoài này in, ông ngẫm nghĩ rồi lắc đầu: Thôi để cho PKT ở đây, lo việc này giùm tôi....
NQT



Cali Nov 2012 With Sad Seagull

“Anh có thật? Ngày chủ nhật kia có thật? Ngôi chùa gió lộng có thật? Ngôi nhà trong đêm thơ mộng khủng khiếp nhớ đời có thật? Em hỏi em hoài chừng ấy và hoang mang không thể tưởng.
Những tiếng nổ ở phi trường buổi sáng em đi thì chắc chắn có thật. Chúng nổ inh trong tai em, gây rung chuyển hết thẩy. Những nụ hôn chia biệt cũng có thật, còn như hằn rát hai bên má em, không biết bao giờ phai.”
TTT: Một Chủ Nhật Khác

Gấu Nhà Văn, quá đát, chẳng dám mơ những nụ hôn hằn rát hai bên má, khi gặp gỡ, cũng như khi chia biệt, với Sad Seagull, nhưng có được 1 cái ôm nhẹ, và 1 cái hôn thoảng, lúc hạnh ngộ.

Samuel Beckett, một thoảng nhớ...

Về cái chuyện sống, Sam đặt cho mình 1 kỷ luật nghiêm ngặt. Một tối, hai đứa chúng tôi có hẹn nhậu, liền sau khi Gill và tôi lấy nhau, em lần đầu, còn tôi, một, hai, ba, lần thứ ba.
Một vợ là đủ rồi. Ông gật gù, lèm bèm. Đó là tất cả những gì mà 1 người đàn ông cần có. Yeats một, và chỉ một mà thôi, như thằng cha GCC. Joyce thì cũng thế. – Tôi cũng sẽ chỉ có thế.
Sam có những người hùng của ông… và tôi nghĩ tôi chẳng bao giờ được kể như 1 trong số đó.
Những hồi ức quan trọng nhất của tôi về Beckett thì không phải về 1 nhà văn thần sầu, số dách, tuyệt cú mèo. Những mà là một người bạn thần sầu. Tôi biết đến ông, là qua những gì ông viết - Tình cờ gặp ở Factory Bistro. Một tay nào đó, đứng xớ rớ đó, giới thiệu. Ông nói, tôi đọc ông nhiều rồi, nay mới gặp - nhưng liền đó, với tôi, ông trở thành một trong số ít ỏi, mà chúng ta cẩn thận chọn, ngược hẳn ý bà mẹ, để phục vụ, như là ông via của mình.
Lần gặp chót, cách đây chừng vài tháng, thì ông mỏng và trong suốt như...  1 anh VC nằm dưới hố được tụi Ngụy lôi lên!
Ông sống trong 1 phòng của 1 cái nhà dành cho đám người già ở đường Remy-Dumonce, chỉ cách nhà của vị bác sĩ "môi hở răng lạnh" của ông chừng vài nhà. Tôi sững sờ khi nhận ra, ông sống y chang 1 nhân vật do ông phịa ra. Để tới được căn phòng của ông, người ta phải đi qua 1 cái gì được gọi như là "phòng giải trí" của người già. Chừng một, hoặc hai tá ông già bà lão Tẩy ngồi một dọc, giống như đám chim sẻ trên sợi dây điện, coi 1 màn ca hát nhảy múa thật là cà chớn, của một người đàn ông trên màn hình của 1 cái TV đen trắng, ở xứ Bắc Kít, khi chưa giải phóng được Miền Nam để…  nhận hàng, dù là bơ thừa phó mát cặn Yankee mũi lõ bỏ lại. Tôi nhảy bổ vào giấc mơ chiến thắng Miền Nam của đám già đang chia sẻ cho nhau này, và hỏi phòng của bạn quí của tớ ở chỗ nào. Có vẻ như chẳng có ai biết ông. Tôi kiếm văn phòng của “viện dưỡng lão”, và sau đó, được dẫn qua một cái sân nhỏ ở đằng sau khu nhà, và tôi nhìn thấy một căn phòng nhỏ xíu, ở tầng chệt, màn cửa sổ ấp ló. Beckett ở trong phòng, mặc 1 cái áo cũ te tua, làm việc với cây viết và mực, tại 1 cái bàn [loại bàn thường dùng để chơi bài bridge].
Tôi đột nhiên đứng sững, lơ láo nhìn, nhớ lại cú sốc của Beckett, lần ông khám phá ra, tôi đếch biết “Dong buồm tới [Sailing to] Byzantium” của Yeats.
Đêm đó, trước khi rời cái bàn, bài thơ của Yeats chạy từ hồi ức của Mr Beckett qua hồi ức của tôi, cùng với 1 cái ghi chú nho nhỏ, có tính khoa bảng, của sự cẩn trọng, của Sam: "Tôi thực sự không hoàn toàn gật đầu hài lòng, ở cái phần “linh hồn vỗ tay” của bài thơ!"

ISRAEL HOROVITZ

Khi thấy tôi cầm tập thơ Thắp Tạ của Tô Thùy Yên, chủ nhà ngạc nhiên, ông kiếm ở đâu ra vậy.
Tôi tìm hoài mà không thấy!
Câu nói của ông làm Gấu Cà Chớn hết hy vọng chôm, hoặc mượn tập thơ, thực sự cũng không phải của ông, mà của 1 tay nào đó, như  trang đầu có thủ bút của tác giả cho thấy.

Bèn lấy cái máy hình ra bấm vài pô:

*

*
*

Il ritorno d'Ulisse

Returning from a lengthy trip
he was astonished to find
he had strayed to a country
not his place of origin

For all his encounters in scattered spots
with the black paper hearts of men
shot by the arquebuse
his bow-and-arrow story
did not happen

Then there was Penelope's
Castilian grandmother
blocking his entry at the garden gate
wordless and busy with embroidery

Sure, the grandchildren
are smiling in the background
apparently better disposed
towards foreigners

Their furtive hopes
still almost too small
for the naked eye
(But the idea is good
and the noise far away
even the building)

Sebald

Note: Bài thơ này làm nhớ một, hai bài thơ trong Thơ Ở Đâu Xa, tả cảnh anh tù, nhà thơ, sĩ quan VNCH, gốc Bắc Kít, về quê Bắc Kít ngày nào, và, tất nhiên, còn làm nhớ bài thơ của TTY, Ta Về.

Ta Về 

Trở về sau 1 chuyến dài dong chơi địa ngục
Hắn kinh ngạc khi thấy mình lạc vô 1 xứ sở
Đếch phải nơi hắn sinh ra 

Trong tất cả những cú gặp gỡ ở những điểm này điểm nọ rải rác, tản mạn
Với những trái tim giấy đen của những người bị bắn bởi cây súng mút kơ tông
Thì giai thoại, kéo cây cung thần sầu, bắn mũi tên tuyệt cú mèo, đếch xẩy ra. 

Và rồi thì có bà ngoại Tây Bán Nhà của bà vợ Penelope của hắn
Bà chặn đường đếch cho hắn đi qua cổng vườn
Đếch nói 1 tiếng, và tỏ ra bận rộn với cái trò thêu hoa văn khăn tay
Gửi người lính trận vượt Trường Sơn kíu nước, hà, hà! 

Tất nhiên rồi, chắc chắc là có lũ con nít
– không phải lũ con nít nhếch nhác kéo nhau coi lũ tù Ngụy đi qua thôn nghèo –
chơi ở vườn sau, chúng có vẻ rất tự nhiên, cười đùa với khách lạ 

Những hy vọng ẩn giấu của chúng
thì vẫn quá nhỏ nhoi,
với con mắt trần trụi 

(Nhưng ý nghĩ thì tốt
Và tiếng động thì xa
mặc dù tòa nhà)

Ba tập thơ, của TTT, TTY, và của Sebald, lạ, là có cùng 1 air.

Với TTT, là tìm lại vừa được thơ, vừa được cái chất thiền vốn là cốt lõi của thơ ông, theo nghĩa “bạo động của bạo động”, như Gấu có lần lèm bèm.

Thơ Tô Thùy Yên, theo Gấu, có sự “gò”, theo nghĩa của cụm từ “tour de force”, của Tẩy.
Cực hay, nhưng cũng cực… cực!
Cực giống Sebald, ở chỗ, không có “footnotes”, là không làm sao nắm được. Thí dụ, bài thơ tặng TTT, trên.

Sebald, thì như 1 nhà phê bình gọi ông, kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, và ông cũng nghĩ về mình, đúng như thế:

Ghost Hunter

Eleanor Wachtel [CBC Radio’s Writers & Company on April 18, 1998]:
Sebald viết một kinh cầu cho một thế hệ, trong Di dân, The Emigrants, một cuốn sách khác thường về hồi nhớ, lưu vong, và chết chóc. Cách viết thì trữ tình, lyrical, giọng bi khúc, the mood elegiac. Ðây là những câu chuyện về vắng mặt, dời đổi, bật rễ, mất mát, và tự tử, người Ðức, người Do Thái, được viết bằng 1 cái giọng hết sức khơi động, evocative, ám ảnh, haunting, và theo cách giảm bớt, understated way. Di dân có thể gọi bằng nhiều cái tên, một cuốn tiểu thuyết, một tứ khúc kể, a narrative quartet [Chắc giống Tứ Khúc BHD của GCC!], hay, giản dị, không thể gọi tên, sắp hạng. Ông diễn tả như thế nào?

WG Sebald: Nó là một hình thức của giả tưởng văn xuôi, a form of prose fiction. Theo tôi nghĩ, nó hiện hữu thường xuyên ở Ðại lục Âu châu hơn là ở thế giới Anglo-Saxon, đối thoại rất khó chui vào cái thứ giả tưởng văn xuôi này….

EW: Một nhà phê bình gọi ông là kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, ông có nghĩ về mình như thế?
WGS: Ðúng như thế. Yes, I do. I think it’s pretty precise… (1)

Riêng về tập Thơ Qua Sông, qua Nước, thì có câu của Walter Benjamin, như 1 vinh danh thật là tuyệt vời dành riêng cho ông:

"To perceive the aura of an object we look at," wrote Walter Benjamin, referring more to the work of art than to landscapes, "means to invest it with the ability to look at us in return"
"Để cảm nhận hào quang của vật mà chúng ta nhìn vô", W. Benjamin viết - ông muốn qui nhiều về nghệ phẩm hơn là về phong cảnh - "có nghĩa là đầu tư nó, tiêm chích nó, cái khả năng nhìn trở lại chúng ta".


Cali Tháng 11, 2012

Wed, Dec 19, 2012

MERRY CHRISTMAS
Ong TRU chi HONG va gia dinh.
Noel 2012
NDT

Chúc hai bạn Thuần & Hương mọi điều tốt lành trong Mùa Giáng Sinh và Năm Mới
Xin gửi lời chúc đến tất cả bạn bè Cali & SJ & SD
Take care, plse.
Thân

NQT và gia đình 

Trong chuyến đi Cali tháng 11, do nhà NDT có khách ghé thăm, lại dặn chỗ trước, Gấu phải qua nhà bạn Bạn tá túc. Lúc đầu ngại lắm, vì nghe thiên hạ đồn, ông này khó lắm, tưởng dzậy mà không phải dzậy đâu, đừng tưởng bở!
Không ngờ thật là tuyệt vời, và Gấu cứ gật gà gật gù, phải như thế chứ! Không lẽ Gấu nhận lầm người…  quân tử!
Hà, hà!

Gấu ruột ngựa, cũng chẳng giấu. Ông cười, gật gù, quả có phần đúng, tôi khôn quá. Khôn “vừa vừa” như Bắc Kít, mà còn bị ông chửi tơi bời hoa lá cành, nữa là 1 thằng Quảng Nôm thứ cực kỳ Quảng Nôm như tui!
Và thế là, được dịp, ông bèn nói về những ngày đi tù VC, và cái khôn của ông, để sống sót Cái Ác Bắc Kít.
Nghe, thì lại như thấy đang đọc (Một ngày trong đời) One Day in the Life of Ivan Denisovich của Solzhenitsyn.

ISRAEL HOROVITZ

A REMEMBRANCE OF SAMUEL BECKETT

Samuel Beckett, một thoảng nhớ...

Samuel Beckett had strict rules for living. We'd met for a drink one night, just after Gill and I were married (her first marriage, my third). "One wife!" he scolded. "That's all a man is meant to have! Yeats only had one, Joyce only had one-I'll only have one."
    Samuel Beckett had his heroes . . . and I knew that I would never be listed among them.
    My most important memories of Beckett aren't memories of a superb writer, but of a superb friend. I was first attracted to Beckett because of his writing, but he quickly became for me one of those few men we painstakingly choose, against mother's will, to serve as father.
    When I saw Sam last, some months ago, he'd grown as frail as old paper.
    He was living in a room in an old people's home in the rue Remy-Dumonce, a few doors from his (holistic) doctor's house. I was stunned to realize that Beckett was now living like a character of his creation. To reach Beckett's room one had to pass through something called "the recreation room." Two dozen elderly French sat in a row like sparrows on a telephone wire, watching an obnoxious song-and-dance man via an outdated black-and-white television set. I broke into their shared reverie and asked where Beckett could be found. Nobody seemed to know him. I found the home's office. I was directed through a small courtyard to the rear of the block, where I saw a tiny ground-floor room with window blinds partly drawn. Beckett was inside, dressed in a tattered old robe, working with pen and ink at a bridge table. I stopped and stared a while, for some reason remembering Beckett's shock, twenty-two years before, at discovering that I didn't know Yeat’s "Sailing to Byzantium." Before I left the table that night, Yeast’s poem had passed from Mr. Beckett's memory to my memory, along with Sam's small scholarly note of caution: "I don't totally approve of that 'Soul clap its hands' part!"
     Samuel Beckett's final room was seedy, small, sad: a bed, a bedside table, bridge table and a matching chair, a television set "for sporting events." It was prisonlike, pathetic. My initial impulse was to pick him up and run, carrying him out, away, to some time past. It's taken me nearly a year to let it go, to accept that this was his choice. We talked for a few hours. He asked the usual questions about my children, about my work, about Gill's recent marathons, did I need any money, or was I okay?
    My turn. I asked about the state of his health. He understood his particular illness, explaining the mechanics of it as might a scientist. His brain wasn't getting proper circulation of blood.  But when he detailed the sensation - how the problem was manifest in his particular body - he was all writer: succinct and artfully clear. "I am standing in quicksand."
    When I left Sam the last time, I knew that I might never see him alive again. I organized my life so that I could return to Paris and be close by him for six weeks, starting in January. I underestimated the quicksand by nearly a month.
    Say something of the man and let it go. What Beckett said of Joyce is finally what I say of Beckett: "He never wrote about something. He always wrote something."
    I worry that the world will over-saint Sam and overlook the most important, most obvious truth: with his life Mr. Beckett proved that it was actually possible, even in our own inferior century, for a writer to work and to live with a great seriousness, a great caring and a great integrity. What Samuel Beckett was possible. Not a saint - at times not even totally tasteful - but ever an artist: clear-voiced, responsible, in line with the best. Beckett was, professionally, from youth onward, an old crab. And with good cause. Around him, the quality of Life was odious, and the quality of Death an unsatisfying alternative.

The Paris Review Spring 1997: Theater

Bài ai điếu Beckett này, GCC đã đi một đuờng phỏng dịch, khúc đầu. Vớ lại được số báo, thì lại tiếc khúc sau, bèn chơi luôn toàn bài.

Cũng là 1 cách viết về ông bạn Quảng Nôm.
A
superb friend!
Một ông bạn thần sầu!

Lần này, do ở nhà ông bạn thần sầu, thành thử Gấu vờ 1 số bạn văn, bởi là vì ông bạn thần sầu này có vẻ chẳng ưa đám viết lách, theo như GCC lờ mờ nhận ra!

Sinh viên gốc Á ở Mỹ là quá thông minh nên bị kỳ thị? Asians: Too Smart for Their Own Good? (NYT 19-12-12)
Source

Nhân nói đến thông minh của Mít. Cái tít tiếng Anh, được ông “thông minh” này dịch ra tiếng Việt, đếch đúng ý của nó. Tiếng Việt kêu là láu cá vặt, khôn lỏi, khôn có lợi cho mình, khôn ăn người….

Samuel Beckett, một thoảng nhớ...

Về cái chuyện sống, Sam đặt cho mình 1 kỷ luật nghiêm ngặt. Một tối, hai đứa chúng tôi có hẹn nhậu, liền sau khi Gill và tôi lấy nhau, em lần đầu, còn tôi, một, hai, ba, lần thứ ba.
    Một vợ là đủ rồi. Ông gật gù, lèm bèm. Đó là tất cả những gì mà 1 người đàn ông cần có. Yeats một, và chỉ một mà thôi, như thằng cha GCC. Joyce thì cũng thế. – Tôi cũng sẽ chỉ có thế.
    Sam có những người hùng của ông… và tôi nghĩ tôi chẳng bao giờ được kể như 1 trong số đó.
    Những hồi ức quan trọng nhất của tôi về Beckett thì không phải về 1 nhà văn thần sầu, số dách, tuyệt cú mèo. Những mà là một người bạn thần sầu. Tôi biết đến ông,
là qua những gì ông viết - Tình cờ gặp ở Factory Bistro. Một tay nào đó, đứng xớ rớ đó, giới thiệu. Ông nói, tôi đọc ông nhiều rồi, nay mới gặp - nhưng liền đó, với tôi, ông trở thành một trong số ít ỏi, mà chúng ta cẩn thận chọn, ngược hẳn ý bà mẹ, để phục vụ, như là ông via của mình.
    Lần gặp chót, cách đây chừng vài tháng, thì ông mỏng và trong suốt như...  1 anh VC nằm dưới hố được tụi Ngụy lôi lên!
    Ông sống trong 1 phòng của 1 cái nhà dành cho đám người già ở đường Remy-Dumonce, chỉ cách nhà của vị bác sĩ "môi hở răng lạnh" của ông chừng vài nhà. Tôi sững sờ khi nhận ra, ông sống y chang 1 nhân vật do ông phịa ra. Để tới được căn phòng của ông, người ta phải đi qua 1 cái gì được gọi như là "phòng giải trí" của người già. Chừng một, hoặc hai tá ông già bà lão Tẩy ngồi một dọc, giống như đám chim sẻ trên sợi dây điện, coi 1 màn ca hát nhảy múa thật là cà chớn, của một người đàn ông trên màn hình của 1 cái TV đen trắng, ở xứ Bắc Kít, khi chưa giải phóng được Miền Nam để…  nhận hàng, dù là bơ thừa canh cặn Yankee mũi lõ bỏ lại. Tôi nhảy bổ vào giấc mơ chiến thắng Miền Nam của đám già đang chia sẻ cho nhau này, và hỏi phòng của bạn quí của tớ ở chỗ nào. Có vẻ như chẳng có ai biết ông.

Cái này là dịch loạn, sorry!
Thì cũng giống Thầy Kuốc dịch “Cái Chết của Tác Giả”, của Roland Barthes!
Hà, hà!

Có 1 điều GCC cứ thắc mắc hoài, về Quảng Nôm, qua ông bạn Bạn: Ông dặn đi dặn lại GCC, mi phải cảm ơn “con vợ” Bắc Kít của ta đấy nhé, không là ta ngượng lắm đấy.
Với bà ấy, phải là bạn thế nào thì ta mới rước về nhà.
Nhớ nhé!

Mà thế thực. Trong mấy ngày ở đó, GCC được đối xử thật là thân tình. Nghe Gấu than, thèm thịt đông, dưa chua quá, ghé Hà Nội, tên bồi lắc đầu, món này ít người order quá, delete mất rồi.
Ghé Nguyễn Huệ, có, có, dở như hạch!

Thế là bà đi mua thịt tươi, đúng thứ làm đông lạnh [Bạn biết phải thứ thịt gì rồi mà, phải không?]
Tuần lễ 7 ngày, đi làm 7 ngày, vậy mà vẫn lo đủ hai món đông lạnh dưa chua cho bạn của chồng.
Bảnh thật! Tuyệt thật!
Tks again. Many Tks.
NQT

Cái này tôi hỏi riêng ông, đừng nói với ai nhé.
OK. Go ahead!
Tui nghi cái tay Quảng Nôm, cùng quê với ông, tiến sĩ dởm quá!
Không, thiệt đấy!
Thiệt sao... kỳ dzậy!

There is among all your memories one
which has now been lost beyond recall.

J.L. Borges: Limits

Trong tất cả hồi ức của mi, có một,
mất tăm, tích, không làm sao nhớ lại được.

Gấu không làm sao nhớ lại được khuôn mặt của Sad Seagull, sáng bữa đó, ở quán cà phê Sarbucks, hay ở 1 quán ăn ở Quận Cam, buổi chiều hôm đó.
Tính ghé tiệm sách, nhưng em đổi ý.
Khi ăn xong, anh cũng không còn nhớ, ăn món gì, em nhìn trời, nhìn đồng hồ, nói trễ quá, phải trả xe cho người bạn….