*

























Sebald

Ðặt chữ

Qua Ðất Ðai Qua Sông Nước
Tuyển tập Thơ 1964-2001
Tác giả W.G. Sebald

Kể từ khi mất bất thình lình do tai nạn xe hơi vào năm 2001, sự sùng bái W.G. Sebald ngày một tăng.
Ông gốc Ðức nhưng chọn Anh là nơi sinh sống. Ðược biết nhiều qua những tác phẩm văn xuôi tinh tế, kết hợp cái thực với giả tưởng, đẩy tới mức giới hạn, điều tiểu thuyết có thể làm được, ông được coi như là một trong những nhà văn lỗi lạc nhất của thế hệ của ông. Ông còn là 1 nhà thơ.

Qua đất qua nước, một tuyển tập những bài thơ chưa từng in trước đó, nếu có thể nói như vậy. Ðược dịch bởi Iain Galbraith,  Qua đất qua nước, như cái tên cho thấy, phác ra một cuộc đời di động. Trải dài 37 năm, tuyển tập bao gồm những bài thơ mà Mr Galbraith kiếm thấy tác giả của nó viết vội, ở trong những hồ sơ, trên những mẩu giấy, trên tờ thực đơn nhà hàng, chương trình của một buổi ca nhạc, kịch nghệ, hay những tờ giấy có những tiêu đề của 1 nhà hàng, khách sạn. Chúng bật ra khi trên xe lửa, hay ở một “ga không tên/ ở Wolfennbuttel”, Sebald kín đáo quan sát những bạn đồng hành đi xe lửa bằng vé tháng, vé năm khi ông gợi ra những quang cảnh lùi về phía sau ngược với con tàu.
Khác văn xuôi của ông, có tính sử thi, gây chóng mặt, những bài thơ này thì cô đọng, lơ thơ. Tuy nhiên chúng chứa đựng rất nhiều đề tài thường ám ảnh Sebald suốt cuộc viết của ông. Nhà thơ trải qua những năm cuối đời ở Anh, làm việc tại Ðại học Manchester và Ðông Anglia. Bận bịu với hồi nhớ, ao ước, và tính ma quái của những sự vật, Sebald có thể gợi ra trong 1 bài thơ vẻ đẹp huyền bí nhạt nhòa, 1 thứ Diễm Xưa, [thì cứ phán đại như vậy] của “thời quên lãng/của núi non và đèn treo”, hay bước ngoặt của thế kỷ/ áo-thày tu và cây cung-vải mỏng, trong khi ở 1 bài thơ khác, ông nói tới một “khu tháp/xấu xí”, hay những “siêu thị hấp hối”. Sự chuyển đổi những thời khác nhau thì có vẻ ép buộc, hay giả tạo, nhưng Sebald kiềm chế một chuyển động như thế bằng 1 cú lướt nhẹ, bằng chờn vờn va chạm. Sự thực, cái sức mạnh dẫn dắt ở đằng sau tác phẩm của ông, là 1 sự tìm kiếm, xục xạo quá khứ, tìm cái bị bỏ quên, hay vờ đi, hoặc coi nhẹ: “Tôi muốn tìm hiểu/ những người đã chết thì ở đâu đó, hay ở đó đâu”.
Như trong Austerlitz, giả tưởng văn xuôi, 2001, cuộc tìm kiếm người chết, xoay quanh sự cố, ám ảnh cái viết của Sebald, và thường khiến ông viết, ở [in] nơi chốn thứ nhất – Lò Thiêu. Trong một bài thơ ngắn, Ðâu đó, “Somewhere”, thí dụ, dòng thơ mở đầu "behind, đằng sau, Turkenfeld", trở thành, với sự giúp đỡ của Mr Galbraith, trong lời giới thiệu, đặc dị hơn nhiều, về 1 nơi chốn khủng khiếp hơn rất nhiều, quá xa cái tít đơn giản mà nhà thơ đề nghị, và, lẽ tất nhiên, vượt hẳn ra khỏi trí tưởng tượng của chúng ta:
Ngoài cái việc nó đã từng là 1 thành phố, khi chú bé Sebald, 8 tuổi, trên đường đi tới Munich, vào năm 1952, Turkenfeld còn là 1 trong 94 tiểu Lò Thiêu, của Ðại Lò Thiêu, Dachau, và còn là một ga xe lửa trên tuyến đường nổi tiếng "Blutbahn" (Vệt Máu).
Giản dị, với 6 dòng thơ, vậy mà cái sức nặng lịch sử đè lên nó mới ghê rợn làm sao!
[Mấy nhà thơ Mít, có ông đã từng đi tù VC, nhớ đọc bài thơ, và bài điểm, trên tờ Người Kinh Tế, nhá!]

Tập thơ rộng rãi này cũng cho chúng ta thấy một Sebald khác, bớt buồn bã đi một chút. Ông có thể nói tới “nỗi đau/mà hồi ức hạnh phúc của tôi/ mang tới” nhưng cũng viết 1 cách vui vẻ, trong hai bài thơ, nguyên tác viết bằng tiếng Anh, về một người đàn trẻ ở New York mô tả, bà mới yêu thích làm sao, văn phòng của bà, có máy điều hòa không khí, chống lại cái nóng mùa hè: “Ở đó/bà nói, tôi thì hạnh phúc /như con hến mở ra/trên một cái giường nước đá lạnh”. Thơ của ông có thể làm nhớ tới thứ thơ nặng [như đá] của Goethe, hay của Freud, nhưng nó cũng lấy hứng khởi từ Anh em nhà Grimm, hay là từ những phim của Alain Renais.

Mr Galbraith làm được 1 việc thật là tốt, khi chuyển dịch những chuyển đổi giọng thơ, và nguồn ảnh hưởng. Tuy nhiên, đúng là 1 nhục nhã, khi tuyển tập thơ này vờ nguyên tác tiếng Đức. Làm sao mà chúng ta không hiểu, thơ của Sebald đâu có dễ dịch, nhưng chẳng lẽ bắt chước… Thầy Cuốc của xứ Mít giấu biệt nguyên tác? Hơn thế nữa, làm sao mà chúng ta không quan tâm đến tính tha thướt, hồn ma [the transitory and the ghostly], thật dễ dàng khi nghi ngờ, chẳng có dịch giả nào mà tóm được thơ Sebald. Sebald, chính ông, cũng ngửi ra điều này: “Nếu bạn biết rành mọi xó xỉnh/ của trái tim của tôi/ thì bạn hơi 'vô tri’ đấy nhé”. Tuy nhiên, như những bài thơ cho thấy, tài năng của ông, đó là làm cho kinh nghiệm về 1 thứ vô tri như thế, trở thành tuyệt vời.

“Ở đó / tôi thì hạnh phúc / như con hến mở ra / trên một cái giường nước đá lạnh”.

Thèm, nhỉ!


W.G. Sebald's poems

Placing words

Across the Land and the Water: Selected Poems 1964-2001. By W.G. Sebald, translated by lain Galbraith. Hamish Hamilton; 240 pages; £14.99. To be published in America in April by Random House; $25
SINCE W.G. Sebald's sudden death in 2001, the cult of the Britain-based German writer has spread fast. Known for his exquisite prose works that, in their combination of the real with the fictional, push at the limits of what novels can be, he is considered one of the foremost German writers of his generation. He was also a poet.
"Across the Land and the Water" brings together a selection of the poems he never published in book form, if at all. Translated by lain Galbraith, the volume sketches out a life on the move. Stretching over 37 years, the volume includes poems that Mr Galbraith found jotted down in Sebald's archives on scraps of paper, others written on menus, theatre programmes or headed paper from hotels. They emerge on trains or at the "unmanned/station in Wolfennbuttel", Sebald covertly observing fellow commuters as he evokes the differing landscapes shuttling past.
Unlike his epic, vertiginous prose, these poems are often condensed and sparse. And yet they contain many of the themes that would obsess Sebald throughout his writing life. The poet spent his later years in Britain, working at the Universities of Manchester and East Anglia. Preoccupied with memory, desire and the ghostliness of objects, Sebald can evoke in one poem the faded glamour of "a forgotten era/of fountains and chandeliers" or a "turn-of-the-century/frock-coat and taffeta bow" while in another he will speak of an "ugly/ tower block" or "moribund supermarkets". This shift between differing eras could seem forced or artificial. And yet Sebald manages such movement with a lightness of touch. Indeed, the driving force behind his work is a search for the past, for the forgotten or overlooked: "I wish to inquire/Into the whereabouts of the dead."
As in "Austerlitz", his 2001 work of prose fiction, this search for the dead circles around the occurrence that haunts Sebald's writing, and which often prompts him to write in the first place-the Holocaust. In one short poem, "Somewhere", for example, the opening line "behind Turkenfeld" becomes, with the help of Mr Galbraith's introduction, a far more specific and terrifying location than Sebald's title suggests. Along with being a town the then eight-year-old Sebald would frequently pass on his way to Munich in 1952, Turkennfeld was one of the 94 sub-camps of Dachau, and a train station on the notorious "Blutbahn" (blood track). Even in a seemingly simple six-line poem, the sudden weight of historical events can be felt.
This broad collection also shows Sebald's writing in a less melancholy light. He may speak of "the pain my happy/ memories bring" but can also, in one of the two poems originally written in English, write playfully of a young woman in New York describing how much she loves the air-conditioning in her office as opposed to the summer heat: "There,/she said, I am/ happy like an/opened up oyster/on a bed of ice." His poetry can refer to such heavyweights as Goethe or Freud, but it also takes inspiration from the Brothers Grimm or the films of Alain Resnais.
Mr Galbraith does a good job translating these shifting tones and influences. However, it is a shame that this volume does not include Sebald's original poems in the German. Concerned with the transitory or the ghostly, it is easy to suspect that no one translation could pin Sebald down. Sebald himself seemed aware of this: "If you knew every cranny/of my heart/you would yet be ignorant." And yet as these poems show, his talent lay in making the experience of such ignorance delightful. +

The Economist, Nov 19-25 2011

Ðặt chữ

Qua Ðất Ðai Qua Sông Nước
Tuyển tập Thơ 1964-2001
Tác giả W.G. Sebald

Kể từ khi mất bất thình lình do tai nạn xe hơi vào năm 2001, sự sùng bái W.G. Sebald ngày một tăng.
Ông gốc Ðức nhưng chọn Anh là nơi sinh sống. Ðược biết nhiều qua những tác phẩm văn xuôi tinh tế, kết hợp cái thực với giả tưởng, đẩy tới mức giới hạn, điều tiểu thuyết có thể làm được, ông được coi như là một trong những nhà văn lỗi lạc nhất của thế hệ của ông. Ông còn là 1 nhà thơ.


*

Sebald

… Weiss to attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may also have been motivated before the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury has its equivalent somewhere and can be truly compensated for, even if it be through the pain of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche thought was the basis of our sense of justice and which, he said, "rests on a contractual relationship between creditor and debtor as old as the concept of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and Cruelty in the Work of Peter Weiss

Weiss tham dự tòa án xử vụ Lò Thiêu ở Frankfurt. Có thể là do ông vẫn còn hy vọng, một niềm hy vọng chẳng hề tàn lụi, rằng, “mọi tổn thương thì có cái phần tương đương của nó, ở đâu đó, và có thể thực sự được đền bù, bù trừ, bồi hoàn, ngay cả, sự bồi hoàn này thông qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào gây ra sự tổn thương”. Tư tưởng này Nietzsche nghĩ, nó là cơ sở của cảm quan của chúng ta về công lý, và nó, như ông nói, “nằm trong liên hệ có tính khế ước, giữa chủ nợ và con nợ, và nó cũng cổ xưa, lâu đời như là quan niệm về luật pháp, chính nó”
W.G. Sebald:  Sự hối hận của con tim.

 even if it be through the pain of whoever inflicted the injury.

Moi, je traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.

Gấu cũng có thể nói như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải
lũ Bắc Kít?

*

Carole Angier [The Jewish Quarterly, Winter 1996-7]:
… Và chúng ta nói về cuốn Di Dân, The Emigrants đi. Cuốn sách thì đầy cây cối. Thiên nhiên là nạn nhân thứ nhì mà nó ca ngợi, celebrate, sau người Do Thái.

W.G. Sebald:
Di dân khởi từ 1 cú điện thoại của bà cụ thân sinh của tôi. Bà gọi để báo cho tôi biết về 1 ông thày cũ của tôi, ở Sonthofen, tự tử. Cũng không lâu sau cái chết của Jean Améry, cũng tự tử, và lúc đó tôi đang viết về ông ta. Có vẻ như là có 1 sự xuất hiện của một chòm sao liên quan tới vấn đề sống sót và vấn đề “chậm pha”, [không phải “lệch pha”], tức sự quá trễ nải giữa tai ương bất công và khi mà nó, sau cùng, nhận chìm bạn [A sort of constellation emerged about this business of surviving and about the great time lag between the infliction of  injustice and when it finally overwhelms you]. Tôi bắt đầu mơ hồ hiểu ra tất cả câu chuyện này, trong trường hợp vị thày dạy cũ. Và cú phôn làm bật tung ra những hồi ức khác mà tôi có.

CA:
Như vậy vị thày ở trong câu chuyện thứ nhì, là có thực, Paul Bereyter, và những người khác nữa, đều có thực?
Và nếu như thế, toàn chuyện có thực?

WGS:
Cơ bản mà nói, thì đúng như vậy, với những thay đổi nho nhỏ…

Ghost Hunter

Eleanor Wachtel [CBC Radio’s Writers & Company on April 18, 1998]:

Sebald viết một kinh cầu cho một thế hệ, trong Di dân, The Emigrants, một cuốn sách khác thường về hồi nhớ, lưu vong, và chết chóc. Cách viết thì trữ tình, lyrical, giọng bi khúc, the mood elegiac. Ðây là những câu chuyện về vắng mặt, dời đổi, bật rễ, mất mát, và tự tử, người Ðức, người Do Thái, được viết bằng 1 cái giọng hết sức khơi động, evocative, ám ảnh, haunting, và theo cách giảm bớt, understated way. Di dân có thể gọi bằng nhiều cái tên, một cuốn tiểu thuyết, một tứ khúc kể, a narrative quartet [Chắc giống Tứ Khúc BHD của GCC!], hay, giản dị, không thể gọi tên, sắp hạng. Ông diễn tả như thế nào?

WG Sebald: Nó là một hình thức của giả tưởng văn xuôi, a form of prose fiction. Theo tôi nghĩ, nó hiện hữu thường xuyên ở Ðại lục Âu châu hơn là ở thế giới Anglo-Saxon, đối thoại rất khó chui vào cái thứ giả tưởng văn xuôi này….

EW: Một nhà phê bình gọi ông là kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, ông có nghĩ về mình như thế?

WGS: Ðúng như thế. Yes, I do. I think it’s pretty precise…


*

The destruction of someone's native land is as one with that person's destruction. Séparation becomes déchirure [a rendingl, and there can be no new homeland. "Home is the land of one's childhood and youth. Whoever has lost it remains lost himself, even if he has learned not to stumble about in the foreign country as if he were drunk." The ‘mal du pays’ to which Améry confesses, although he wants no more to do with that particular pays—in this connection he quotes a dialect maxim, "In a Wirthaus, aus dem ma aussigschmissn worn is, geht ma nimmer eini" ("When you've been thrown out of an inn you never go back")—is, as Cioran commented, one of the most persistent symptoms of our yearning for security. "Toute nostalgie," he writes, "est un dépassement du présent. Même sous la forme du regret, elle prend un caractère dynamique: on veut forcer le passé, agir rétroactivement, protester contre l'irréversible." To that extent, Améry's homesickness was of course in line with a wish to revise history.

Sebald viết về Jean Améry: Chống Bất Phản Hồi: Against The Irreversible. 

[Sự huỷ diệt quê nhà của ai đó thì là một với sự huỷ diệt chính ai đó. Chia lìa là tan hoang, là rách nát, và chẳng thể nào có quê mới, nhà mới. 'Nhà là mảnh đất thời thơ ấu và trai trẻ của một con người. Bất cứ ai mất nó, là tiêu táng thòng, là ô hô ai tai, chính bất cứ ai đó.... ' Cái gọi là 'sầu nhớ xứ', Améry thú nhận, ông chẳng muốn sầu với cái xứ sở đặc biệt này - ông dùng một phương ngữ nói giùm: 'Khi bạn bị người ta đá đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở lại' - thì, như Cioran phán, là một trong những triệu chứng dai dẳng nhất của chúng ta, chỉ để mong có được sự yên tâm, không còn sợ nửa đêm có thằng cha công an gõ cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông viết, 'là một sự vượt thoát cái hiện tại. Ngay cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó vẫn có cái gì hung hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật mạnh quá khứ, muốn hành động theo kiểu phản hồi, muốn chống cự lại sự bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng nhớ nhà của Améry, hiển nhiên, cùng một dòng với ước muốn xem xét lại lịch sử]. 

L'homme a des endroits de son pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la douleur entre afin qu'ils soient.
Trái tim đáng thương của con người có những vùng chưa hề có, cho đến khi đau thương tiến vào. Và tạo ra chúng. Léon Bloy.

W.G. Sebald trích dẫn, làm đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim: Về Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Peter Weiss", The Remorse of the Heart: On Memory and Cruelty in the Works of Peter Weis,  trong "Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt, On the natural history of destruction", nhà xb Vintage Canada, Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức.
… Weiss to attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may also have been motivated before the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury has its equivalent somewhere and can be truly compensated for, even if it be through the pain of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche thought was the basis of our sense of justice and which, he said, "rests on a contractual relationship between creditor and debtor as old as the concept of law itself”…

W.G. Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and Cruelty in the Work of Peter Weiss

Note: Ðây có lẽ là tác phẩm tuyệt vời nhất của W.G. Sebald.
Mấy lần đi giang hồ vặt, GCC đều mang theo nó.
Thấy an tâm.

Thư tín:
Wednesday, November 23, 2011 6:39 AM
Thấy bác giới thiệu (hâm mộ) về W.G. Sebald trên Tinvăn mà...thèm. Tiếc là sách của ông toàn tiếng Anh mà ở Việt Nam cũng khó mà lùng cho ra. Hơn nữa, ông còn là một nhà thơ, làm sao để tiếp cận được tác phẩm của ông, dù chỉ chút ít?
Vẫn luôn chờ đợi các bài dịch thơ Adam Zagajewski, Simic... của bác!
Chúc bác khỏe và vui luôn!
Kính mến

Phúc đáp:
Ða tạ.
“Hâm mộ” là từ của 1 vị độc giả, rất mê W.G. Sebald. Trước giờ TV giới thiệu ông, nhưng vẫn đinh ninh chẳng ai thèm đọc! Một vị độc giả, 1 bạn văn VC rất thân của Gấu, quen nhân lần về HN, chẳng đã viết mail, rất ư bực bội, làm sao mà cứ nhắc hoài đến… Lò Thiêu, nó có liên can gì đến giống Mít?
Chính là nhờ vị độc giả hâm mộ Sebald mà GCC mừng quá, nghĩ thầm vậy là không uổng công mình lèm bèm hoài về ông, và bèn lèm bèm tiếp!

V/v W.G Sebald, thi sĩ.

Trên TV đã từng giới thiệu Sebald, thi sĩ.
Bài trên Người Kinh Tế giới thiệu cuốn sắp ra lò, mới tinh về ông.
Trong khi chờ đợi, chúng ta đọc đỡ ở đây:

Người ghi chú cô đơn: The Solitary Notetaker.

*

* *

Khi W.G. Sebald mất vì tai nạn xe hơi vào Tháng Chạp 2001, ông được tưởng niệm, như là một trong những nhà văn lớn lao của thời chúng ta. Tuy nhiên, khi cuốn đầu của ông, Di Dân, được dịch ra tiếng Anh vào năm 1996, rất ít người bên ngoài nước Đức biết đến ông. Nhưng liền sau đó, ông được đón đọc, tác phẩm liên tiếp được dịch, lẹ làng, đến mức kinh ngạc.

Susan Sontag đã từng tự hỏi, trên tờ TLS, liệu "văn chương lớn" có còn không, và bà tự trả lời, còn chứ, Sebald đó.

Tuy nhiên, kể từ khi ông mất, có nhiều cái nhìn khác nhau về ông. Lớn lao, số một, giọng không giống ai, vẫn đúng đấy, nhưng đọc kỹ hơn, gần hơn, nghe ra có nhiều vay mượn. Tác phẩm của ông, có thể nói, một nửa là do uyên bác, nửa còn lại, là tưởng tượng và kinh nghiệm của riêng ông.

Nếu có một nhà văn vay mượn rất nhiều từ những nhà văn khác, nhưng vẫn là một thứ đồ zin, đồ xịn, thì đúng là Sebald.

Charles Simic, trên NYRB điểm hai cuốn mới nhất của ông, Campo Santo, một thứ tiểu luận, và Unrecounted, gồm 33 bài thơ nho nhỏ, của ông, và 33 bức họa, của Jan Peter Tripp.

Họa: Mỗi bức là một đôi mắt, với sự chính xác, của hình chụp: Proust, Rembrandt, Beckett, Borges... Chủ đề của họa: Miệng thì tốt, để nói dối, trong khi mắt, khó nói dối. Bất cứ mắt đang mơ mộng, hay suy tư, chúng đều vọng một tí ti sự thực, nào đó. Dưới mỗi đôi mắt, là một bài thơ mini. Thí dụ, dưới cặp mắt của Maurice, chú chó của Sebald, là:

Please send me
the brown overcoat
from the Rhine valley
in which at one time
I used to ramble the night.

[Hãy gửi cho tôi
cái áo choàng mầu nâu
từ thung lũng sông Rhine
mà có lần tôi mặc dạo đêm].

Thơ của ông thực sự cũng khó mà gọi là thơ. Như nhà phê bình Andrea Kohler chỉ ra, đó không phải là ngụ ngôn, mà cũng chẳng phải thơ. Chỉ là những cú xổng chuồng, thoáng chốc, của tư tưởng, của hồi nhớ, những khoảnh khắc loé sáng, ở mép bờ của cảm nhận.

Và đây là một bài thơ mini thật thú vị:

Người ta nói,
Nã Phá Luân mù mầu [color-blind]
Máu đối với ông ta,
thì xanh như lá cây.

W.G. Sebald

Trước giờ, tuy giới thiệu Sebald, nhưng thú thực, GCC chẳng hề nghĩ, sẽ có ngày nhận được 1 cái mail của độc giả liên quan tới ông người Ðức tốt này. Thế rồi nhận được của 1 vị, rất hâm mộ Sebald.

Thú thực, lại thú thực, GCC mê đọc những bài tản văn ngắn của ông, những tiểu luận, nhất là tập tiểu luận “Về lịch sử tự nhiên về huỷ diệt”, On the natural history of destruction.
Tác phẩm Campo Santo, gồm tản văn và tiểu luận cũng thú lắm.

“Ðất dụng võ của tôi là tản văn, không phải tiểu thuyết”, “My medium is prose, not the novel”, ông cho biết. Trong bài giới thiệu tác phẩm Campo Santo, Sven Meyer, người dịch, phán, vào cuối đời, nhà tiểu luận hết còn phân biệt được với nhà văn.

*

Câu của Sunday Times, thổi Sebald, đúng chỉ 1 nửa. Sebald vs Borges, OK, nếu chỉ nói về mặt văn chương. Nhưng thời của Sebald là của Lò Thiêu. Borges, vô thời.

Publisher's Note

Campo Santo brings together pieces written over a period of some twenty years touching, in typical Sebaldian fashion, on a variety of subjects. None has been previously published in book form, but the ideas expressed in 'Between History and Natural History' will be familiar to some readers - the essay is the predecessor of the Zurich lectures which later became the backbone of On the Natural History of Destruction.

Sân Trường Cũ

Notes from a time traveller

Ghi chú từ một nhà du lịch thời gian.


WG Sebald's last book, Campo Santo, offers further proof of his rare gift for tackling Germany's pain, says Jason Cowley

Sunday February 27, 2005
The Observer

Sampo Santo, cuốn sách sau chót của Sebald, đưa ra thêm chứng liệu cho thấy tài năng quí hiếm của ông, trong cái việc sờ vô nỗi đau của Ðức.

Bài điểm này trên tờ Observer, tuyệt quá.
TV tính dịch, đăng bài giới thiệu cuốn trên, của Sven Meyer, nhưng thôi, "tùy tiện" mình chơi bài này trước.
Trong những kỳ tới GCC sẽ giới thiệu mấy bài viết trong Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt.
Ðể đáp lại thịnh tình của vị độc giả hâm mộ Sebald!  

“And so they are ever returning to us, the dead.”

NOTES ON A VOICE: W.G. SEBALD

Sent East

James Wood writes about W.G. Sebald's 'Austerlitz'

The destruction of someone's native land is as one with that person's destruction. Séparation becomes déchirure [a rendingl, and there can be no new homeland. "Home is the land of one's childhood and youth. Whoever has lost it remains lost himself, even if he has learned not to stumble about in the foreign country as if he were drunk." The ‘mal du pays’ to which Améry confesses, although he wants no more to do with that particular pays—in this connection he quotes a dialect maxim, "In a Wirthaus, aus dem ma aussigschmissn worn is, geht ma nimmer eini" ("When you've been thrown out of an inn you never go back")—is, as Cioran commented, one of the most persistent symptoms of our yearning for security. "Toute nostalgie," he writes, "est un dépassement du présent. Même sous la forme du regret, elle prend un caractère dynamique: on veut forcer le passé, agir rétroactivement, protester contre l'irréversible." To that extent, Améry's homesickness was of course in line with a wish to revise history.

Sebald viết về Jean Améry: Chống Bất Phản Hồi: Against The Irreversible. 

[Sự huỷ diệt quê nhà của ai đó thì là một với sự huỷ diệt chính ai đó. Chia lìa là tan hoang, là rách nát, và chẳng thể nào có quê mới, nhà mới. 'Nhà là mảnh đất thời thơ ấu và trai trẻ của một con người. Bất cứ ai mất nó, là tiêu táng thòng, là ô hô ai tai, chính bất cứ ai đó.... ' Cái gọi là 'sầu nhớ xứ', Améry thú nhận, ông chẳng muốn sầu với cái xứ sở đặc biệt này - ông dùng một phương ngữ nói giùm: 'Khi bạn bị người ta đá đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở lại' - thì, như Cioran phán, là một trong những triệu chứng dai dẳng nhất của chúng ta, chỉ để mong có được sự yên tâm, không còn sợ nửa đêm có thằng cha công an gõ cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông viết, 'là một sự vượt thoát cái hiện tại. Ngay cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó vẫn có cái gì hung hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật mạnh quá khứ, muốn hành động theo kiểu phản hồi, muốn chống cự lại sự bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng nhớ nhà của Améry, hiển nhiên, cùng một dòng với ước muốn xem xét lại lịch sử]. 

L'homme a des endroits de son pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la douleur entre afin qu'ils soient.
Trái tim đáng thương của con người có những vùng chưa hề có, cho đến khi đau thương tiến vào. Và tạo ra chúng. Léon Bloy.

W.G. Sebald trích dẫn, làm đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim: Về Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Peter Weiss", The Remorse of the Heart: On Memory and Cruelty in the Works of Peter Weis, trong "Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt, On the natural history of destruction", nhà xb Vintage Canada, Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức.


*

*


I Remember

W.G. Sebald

 

The day in
the year after
the fall of the
Soviet Empire

I shared a cabin
on the ferry
to the Hoek
of Holland with

a lorry driver
from Wolverhampton.
He& twenty
others were

taking super-
annuated trucks
to Russia but
other than that 

he had no idea where
they were heading. The gaffer
was in control &

anyway it was
an adventure
good money & all
the driver said 

smoking a Golden
Holborn in the upper
bunk before
going to sleep. 

I can still hear
him softly snoring
through the night,
see him at dawn 

climb down the
ladder: big gut
black underpants,
put on his sweat-

shirt, baseball
hat, get into
jeans & trainers,
zip up his

plastic holdall,
rub his stubbled
face with both his
hands ready 

for the journey.
I'll have a
wash in Russia
he said. I

wished him the
best of British. He
replied been good
to meet you Max.


Note: Trên tờ Ðiểm Sách London 16 Oct 2011, có bài viết về cuốn Austerlitz của Sebald, của James Wood, thật tuyệt.
Cuốn này thì cũng “Xưa rồi Diễm ơi”, Sebald thì có thể đầu thai kiếp khác rồi, nhưng bài viết thì thật là mới, và có gì liên quan tới câu hỏi, làm thế nào viết sau Lò Thiêu, chỉ nội về... văn phong mà thôi?
Dòng ý thức, độc thoại nội tâm, hậu hậu hậu?
TV sẽ giới thiệu. Gấu cũng mới vớ được 1 cuốn của James Wood, How Fiction Works trong có bài về ‘dòng ý thức’, thú lắm.
Tính giới thiệu nhân thiên hạ đang lèm bèm về nó.
Có hai Wood, một James, một Michael Wood, đều viết phê bình, và đều nổi tiếng.

* *



Sebald 2

Tưởng Niệm 1

Phát biểu khi là ông Hàn

Sân Trường Cũ

IN MEMORIAM W. G. SEBALD

Sebald, [mi lại tự thổi rùi], là do TV khám phá ra, với độc giả Mít. Còn nhớ, khi đó, Gấu bị một đấng bạn văn VC rất thân, rất quí, và rất đội ơn, mail mắng vốn, Lò Thiêu thì mắc mớ gì đến xứ Mít, tại sao anh cứ lải nhải hoài về nó?
Sau này, thì Gấu hiểu ra, anh bạn mình bị nhột. Và khi giới thiệu S, người Gấu đề tặng là anh bạn này.

Sebald quả đúng là 1 típ Ðức tốt, The good German. Chẳng mắc mớ gì tới tội ác Lò Thiêu, nhưng không làm sao cư ngụ ở Ðức được, và đành kiếm 1 xó ở Anh cho qua ngày đoạn tháng. Viết văn bằng tiếng Ðức, nhưng, như những nhà phê bình chỉ ra, tiếng Ðức của ông cũng bị lệch pha so với dòng chính, nước mẹ có coi ông là đứa con thì coi bộ cũng hơi bị kẹt.

Ông viết về mình, khi được nhà nước đưa vô Văn Miếu:

Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi có giấc mơ của mình ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là một tên phản bội quê nhà, và một tên lừa đảo. Nhưng, chính vì những nghi hoặc như thế đó, mà việc nhận tôi vô Hàn Lâm Viện thật rất là đáng mừng, nó có vẻ như một nghi thức sửa sai, phục hồi mà tôi chưa từng hy vọng.

Chúng ta chưa có 1 nhà văn nào ở vào được vị trí của Sebald để mà nhìn vô cuộc chiến, mà chỉ có những... thiên tài khùng điên ba trợn, trốn lính, bợ đít VC.

Thê thảm chẳng kém, chẳng có 1 tên Bắc Kít "tốt" nào như Sebald.

Ðề tài chủ yếu của những cuốn sách của W.G  Sebald là hồi tưởng: đau đớn làm sao, sống có nó; nguy nàn làm sao, sống không có nó, với quốc gia cũng như với cá thể.

You do not have to be an exile to be perceived as a Nestbeschmutzer (one who dirties his own nest) in the German-speaking world - but it helps.

Ðâu cần phải lưu vong để cảm nhận tâm thức của kẻ ỉa đái vô nhà của mình, nhưng, quả là nó có giúp ích!

Vừa mới đây, Gấu nhận được 1 mail cùa 1 độc giả, nhân đọc TV thấy làm PR cho 1 bài viết về Sebald trên tờ Ðiểm Sách London, Gấu thật mừng.
Hóa ra Sbald cũng đã được độc giả Mít để ý tới:

Chào bác,
Em hâm mộ Sebald nhưng không vào được bài bác nói trên LRB. Bác có thể vui lòng đăng bài James Wood viết về Austerlitz lên Tin Văn được không ạ? Cảm ơn bác.
Một độc giả Tin văn,

Tks. NQT 

OUR WORLD

IN MEMORIAM W. G. SEBALD

I never met him, I only knew
his books and the odd photos, as if
picked up in a secondhand shop, and human
fates found in a secondhand shop,
and a voice quietly narrating,
a gaze that took in so much,
a gaze turned back,
avoiding neither fear
nor rapture;
and our world in his prose, our world, so calm - but
full of crimes perfectly forgotten,
 even in lovely towns
on the coast of some sea or ocean,
our world full of empty churches,
rutted with railroad tracks, scars
 of ancient trenches, highways,
cleft by uncertainty, our blind world
smaller now by you.

- Adam Zagajewski (Translated from the Polish by Clare Cavanagh)

NYRB April 29, 2004

Thế giới của chúng ta

Tưởng niệm W.G. Sebald

 

Tôi chưa hề gặp ông, tôi chỉ biết
những cuốn sách, và những tấm hình kỳ kỳ của ông, như
nhặt ra trong một bán sách cũ, và
số phận con người nhặt ra từ một tiệm đồ cũ
và một giọng âm thầm kể,
một cái nhìn nhìn nhìn quá lâu,
một cái nhìn nhìn lại,
lẩn tránh cả sợ hãi lẫn sung sướng;
và thế giới của chúng ta, trong dòng tản văn của ông,
thế giới của chúng ta, lặng lẽ biết bao, nhưng
đầy những tội ác đã được hoàn toàn quên lãng,
ngay cả trong những thành phố đáng yêu
trên bờ biển hay đại dương nào đó,
thế giới của chúng ta đầy những nhà thờ trống rỗng
hằn vết đường xe lửa, vết sẹo
của những giao thông hào cũ, những đại lộ
rạn nứt bởi sự hồ nghi, thế giới mù lòa của chúng ta,
bây giờ nhỏ hẳn đi, do mất ông

Tình cờ Gấu đọc bản in trong tập thơ Etenal Enemies, thấy có khác với bản in trên báo

 
OUR WORD

IN MEMORIAM W. G. SEBALD

I never met him, I only knew
his books and the odd photos, as if
purchased in a secondhand shop, and human
fates discovered secondhand,
and a voice quietly narrating,
a gaze that caught so much,
a gaze turned back,
avoiding neither fear
nor rapture;
                and our world in his prose,
our world, so calm- but
full of crimes perfectly forgotten,
even in lovely towns
on the coast of one sea or another,
our world full of empty churches,
rutted with railroad tracks, scars
of ancient trenches, highways,
cleft by uncertainty, our blind world
smaller now by you.


IN MEMORIAM W. G. SEBALD

NOTES ON A VOICE: W.G. SEBALD

Gấu biết đến và tìm đọc Sebald, là do đọc bài viết của Susan Sontag, khen nức nở, thấu “Giời” [Trời, tiếng Bắc Kít]. Bà phán, tưởng thứ khủng long này [nhà văn lớn] tuyệt giống rồi.

Nhưng Gấu khám phá ra 1 Sebald, khác. Với Sontag, là 1 “nhà văn của nhà văn”. Với Gấu, một “tưởng niệm gia” của Lò Thiêu, mà ông không hề mắc mớ, thù hận, hay cảm thấy ân hận, hay phải sám hối.

The good German

Absent Jews and invisible executioners: W. G. Sebald and the Holocaust

WILL SELF
[TLS 22.1.2010]

Note: This is an edited text of the 2010 Sebald Lecture, which was delivered in London earlier this month [Jan, 22, 2010]

Ðây là 1 bài viết quan trọng về W.G. Sebald. TV sẽ cố gắng chuyển qua tiếng Việt.
Chúng ta chưa có 1 nhà văn nào ở vào được vị trí của Sebald để mà nhìn vô cuộc chiến, mà chỉ có những... thiên tài khùng điên ba trợn, trốn lính, bợ đít VC...

Ðề tài chủ yếu của những cuốn sách của W.G  Sebald là hồi tưởng: đau đớn làm sao, sống có nó; nguy nàn làm sao, sống không có nó, với quốc gia cũng như với cá thể.

You do not have to be an exile to be perceived as a Nestbeschmutzer (one who dirties his own nest) in the German-speaking world - but it helps.

Ðâu cần phải lưu vong để cảm nhận tâm thức của kẻ ỉa đái vô nhà của mình, nhưng, quả là nó có giúp ích!

Dans l'herbier de Sebald, les « nervures » du passé

Discret maître allemand, l'écrivain a brutalement disparu en 2001 dans sa retraite anglaise, laissant des esquisses d'un projet sur la Corse, récemment éditées.
Par Aliette Armel 

L' image que le peintre Jan Peter Tripp garde de Max - prénom sous lequel ses amis connaissaient Winfried Georg Maximilian Sebald - est celle d'un «voyageur fatigué sous les ors de la cinquantaine ». La discrétion était sa caractéristique première et la mélancolie se lisait sur son visage. Il se préservait derrière une moustache drue et de grandes lunettes rondes, derrière deux initiales - W. G. - cachant le caractère trop allemand de ses prénoms. La célébrité venue, il n'aspirait, disait-il, qu'à« tout abandonner [ ... ] jusqu'à ce qu'on m'ait oublié et alors peut-être pourrai-je retrouver cette position où je serai en mesure de travailler dans mon abri de jardin, sans être dérangé ». La banalité de sa mort, le 14 décembre 2001, dans un accident de voiture, à proximité de son domicile de Norwich, en Angleterre, semble s'inscrire dans ce processus de désagrégation de l'individu dans les accidents de l'histoire dont ses livres demeurent les témoins, tout autant que de “l'énigmatique survivance de l'écrit”.
Né le 18 mai 1944 à Wertach-im-Allgaü, village des Alpes bavaroises, Sebald n'accède à la notoriété internationale qu'en 1996, lors de la traduction des Émigrants en anglais. Susan Sontag y voit le premier signe de « grandeur littéraire» apparu depuis longtemps, et « le récit définitif et métaphorique de notre condition» à travers l'exploration des traces laissées par le passé et un travail de deuil sur une réalité - le nazisme, l'exil juif, l'Holocauste, la destruction des villes - se dérobant au langage. Sebald est né dans un monde fuyant sa mémoire. Il ne connaît son père, officier de l'armée allemande, qu'en 1947. Lorsqu'il va pour la première fois à Munich, il découvre « quelques bâtiments intacts, et entre ces bâtiments, une avalanche de gravats ». Cette vision est pour lui comme une scène originelle. Les questions qu'elle lui pose restent sans réponse, même à l'université de Fribourg, en Suisse, où il étudie la littérature allemande: “Les images de ce chapitre effroyable de notre histoire n'ont jamais véritablement franchi le seuil de la conscience nationale”, écrira-t-il. L'Holocauste reste, plus encore, enfoui dans le non-dit.
Sebald met à distance la petite ville de Sonthofen, où ses parents se sont installés en 1952, son pays et même sa langue. Il affirme devoir au hasard son installation en Angleterre, Manchester d'abord dans les années 1960, puis, après une tentative de retour en Suisse alémanique et à Munich, l'université d'East Anglia en 1976, et une maison choisie avec sa femme dans un illage. De ce point d'observation à l'écart, il se plonge dans l'étude: la littérature allemande, romantique tout autant que du XXe siècle (Kafka, Walser, Peter Handke ou Wittgenstein), mais aussi l'œuvre de Nabokov ou de Conrad. La quarantaine venue, le cadre des monographies universitaires lui semble trop étroit. Frappé, au cours d'une recherche, par les croisements infimes mais multiples entre l'existence d'un botaniste allemand du XVIIIe siècle - Georg Wilhelm Steller - et l'histoire de sa famille, il se lance dans l'écriture poétique à partir de ce « rien ». Son premier triptyque de poèmes en prose, D'après nature, paraît en Allemagne en 1989.
Dès lors, il utilise les sources et son érudition d'une autre manière. Il prend comme matériau de l'écrit tout autant la peinture ancienne que contemporaine, les œuvres publiées que les archives, mémoires, lettres et journaux intimes, les photographies que les cartes postales. Il arpente l'Europe de l'Est et du Nord en quête de « ces nervures de la vie passée» où se croisent les destinées et où se tissent les affinités audelà de l'espace et du temps. Cette exploration n'a rien de systématique: Sebald se décrit comme un “glaneur”, guidé par le hasard, par l'émotion que suscitent telle peinture ou telle bribe de texte résonnant du passé. « Il développait pas à pas une sorte de métaphysique de l'histoire, écrit-il à propos de l'un de ses personnages, et redonnait vie à la matière du souuvenir.» Cette quête trouve son expression littéraire dans une forme libre, évoquant par certains aspects celle de Thomas Bernhard, son modèle. Ses phrases épousent les méandres du récit. Elles semblent venir d'une autre époque, s'appuyant sur une pratique tombée en désuétude: l'hypotaxe, caractérisée par l'abondance des liens de subordination.
Dès Vertiges, paru en Allemagne en 1990, Sebald architecture le livre autour de plusieurs récits, menés sur le mode biographique (Stendhal, Casanova) ou de l'autofiction, le personnage du narrateur se confondant avec celui de l'auteur. Des photographies en noir et blanc sont intégrées dans le texte: elles ont le statut de documents, accréditant la véracité du récit, même si, de l'aveu de Sebald, elles ne sont pas toutes authentiques. Ces images insistent sur les détails dont fourmille le texte. Elles permettent d'arrêter le temps de la lecture de la fiction, portée par la temporalité de la narration, mais aussi par le mouvement des digressions et l'exploration des coïncidences.
Les quatre chapitres des Émigrants (1993) correspondent à la trajectoire tragique de quatre personnages, Juifs exilés de leur pays natal, rencontrant Nabokov à un moment de leur histoire. Une structure plus complexe se déploie dans Les Anneaux de Saturne (1995), illustration du chaos postmoderne: elle suit les étapes d'un voyage à pied entrepris par le narrateur sur la côte est de l'Angleterre et le flux de ses rêveries. Les caractéristiques d'Austerlitz (2001) sont plus romanesques: quête des origines jusqu'au camp de Terezin, passant par la gare de Liverpool Street, le quartier de la Bibliothèque nationale de France ou la forteresse de Breendonk. Ces lieux sont sources d'épiphanies, seules approches possibles de la vérité selon Sebald.
Des prix consacrent son œuvre, et il est élu à l'Académie allemande. Mais, en 1997, une série de conférences prononcées à Zurich suscite des commentaires très violents. Il y revient sur l'élément fondateur de son écriture, les villes allemandes rasées par les bombardements et le silence obstiné des écrivains sur cet événement. Il provoque le soupçon d'« amalgame moral» par l'absence de mise en contexte de cet anéantissement. Il fait face à la polémique en publiant ces conférences sous le titre De la destruction, comme un élément de l'histoire naturelle: son indignation contre « la conspiration du silence» demeure intacte.
Les derniers textes laissés par Sebald révèlent un projet situé, cette fois, en Méditerranée. Campo Santo évoque les paysages de Corse, en insistant sur la présence des morts qui y cohabitent avec les vivants: l'homme discret et mélancolique, l'auteur de la destruction et de la mémoire s'est senti lié par une nouvelle coïncidence à cette terre où « le royaume des ombres» s'étend jusqu'en plein jour, sans avoir pu mener à bien l'entreprise littéraire qu'elle lui aurait inspirée.
VIENNENT DE PARAÎTRE
Campo Santo, W. G. SEBALD, traduit de l'allemand
par Patrick Charbonneau et Sibylle Muller, éd. Actes Sud, 268 p., 21 €.
L’Archéologue de la mémoire. Conversations avec W.G. Sebald, édité et préfacé par Lynne Sharon Swartz, traduit de l'anglais par Delphine Chartier et Patrick Charbonneau, éd. Actes Sud, 190 p., 20 €.
W.G. Sebald. Le Retour de l'auteur, MARTINE CARRÉ, Presses universitaires de Lyon, Regards sur l'Allemagne, 2008,320 p., 20 €.
LE MAGAZINE TÉRAIRE AVRIL 2009 N# 485
*

Lời cảm tạ khi được vô Hàn Lâm Viện Đức

 W.G. Sebald [1944-2001]

Tôi ra đời vào năm 1944, tại Allgau, thành thử có lúc tôi đã không cảm nhận, hoặc hiểu được thế nào là huỷ diệt, vào lúc bắt đầu cuộc đời của mình. Lúc này, lúc nọ, khi còn là một đứa trẻ, tôi nghe người lớn nói tới một cú, a coup, tôi chẳng có bất cứ một ý nghĩ, cú là cái gì. Lần đầu tiên, như ánh lửa ma trơi, cái quá khứ của chúng tôi đó bất chợt tóm lấy tôi, theo tôi nghĩ, đó là vào một đêm, vào cuối thập niên 1960, khi nhà máy cưa ở Platt cháy rụi, mọi người ở ven thành phố đều túa ra khỏi nhà để nhìn bó lửa cuồn cuộn tuá lên nền trời đêm. Sau đó, khi đi học, phần lớn huỷ diệt mà chúng tôi được biết, là từ những cuộc viễn chinh của Alexander Đại Đế và Nã Phá Luân, chứ chẳng phải từ, vỏn vẹn chỉ, muời lăm năm quá khứ của chúng tôi đó. Ngay cả ở đại học, tôi hầu như chẳng học được gì, về lịch sử vừa mới qua của Đức. Những nghiên cứu Đức vào những năm đó, là một ngành học - mù lòa như dã được dự tính, chỉ đạo từ trước, và, như Hebel sẽ nói - cưỡi một con ngựa nhợt nhạt (1). Trọn một khoá học mùa đông, chúng tôi trải qua bằng cách mân mê Cái Bô Vàng [The Golden Pot] (1), mà chẳng hề một lần băn khoăn, về sự liên hệ ở trong đó, rằng, tại làm sao mà một câu chuyện lạ thường như vậy lại có thể được viết ra, với tất cả những cấu trúc dàn dựng của nó như thế, liền ngay sau một thời kỳ mà xác chết còn ngập những cánh đồng bên ngoài Dresden, và trong tnành phố ở bên con sông Elbe đó thì đang xẩy ra nạn đói, và bệnh dịch. Chỉ tới khi tới Thụy Sĩ, vào năm 1965, và một năm sau, tới Anh, những ý nghĩa của tôi về quê nhà mới bắt đầu được nhen nhúm, từ một khoảng cách xa, ở trong đầu của tôi, và những ý nghĩ này, trong vòng 30 năm hơn, ngày một lớn rộng, nẩy nở mãi ra. Với tôi trọn một thể chế Cộng Hoà có một điều không thực kỳ cục chi chi về nó, như thể một cái gì biết rồi chẳng hề chấm dứt, a never-ending déjà vu. Chỉ là một người khách ở đất nước Anh Cát Lợi, và ở đó thì cũng vậy, tôi như luôn luôn cảm thấy mình lơ lửng, giữa những ý nghĩ, những tình cảm của sự quen thuộc và của dời đổi, bật rễ, không bám trụ được vào đâu. Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi có giấc mơ của mình ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là một tên phản bội quê nhà, và một tên lừa đảo. Nhưng, chính vì những nghi hoặc như thế đó, mà việc nhận tôi vô Hàn Lâm Viện thật rất là đáng mừng, nó có vẻ như một nghi thức sửa sai, phục hồi mà tôi chưa từng hy vọng.

W.G. Sebald

Nguyễn Quốc Trụ dịch [từ bản tiếng Anh, của Anthea Bell, trong Campo Santo, do Sven Meyer biên tập, nhà xb Hamish Hamilton, Penguin Books, 2005]

(1) Pale Rider: Ám chỉ Thần Chết

(2) Tác phẩm của E.T.A Hoffmann (1814)
*

Viết tệ như thế, ai đọc?

Tháng Chạp năm rồi, một người bạn gửi cho tôi tấm hình trên, kèm một câu, thử viết một cái gì đường được cho nó, nếu có thể. Bức hình nằm trên bàn cả mấy tuần, cứ mỗi lần nhìn nó, là mỗi lần có cảm giác, hình như nó muốn tránh né tôi, cho tới lúc, lời yêu cầu của người bạn, thực sự mà nói, cũng chẳng quá quan trọng, khẩn thiết, trở thành nhức nhối. Thế rồi, một ngày đẹp trời Tháng Giêng, ơ kìa, nhìn kìa, không còn bức hình nữa!

Thời gian trôi đi, tôi chẳng còn nhớ gì về bức hình, cho đến một bữa, chẳng chờ mong, và thật là bất ngờ, nó trở lại, lần này cũng kèm theo một lá thư, từ Bonifacio, của Bà Séraphine Aquavia, một người mà tôi có trao đổi, liên lạc từ mùa hè trước. Trong thư, bà biểu, bà muốn biết tại làm sao lại gửi tấm hình cho bà mà chẳng viết một tí gì về nó, trong thư đề ngày 27 Tháng Giêng của tôi.

Bà cho biết, đó là tấm hình chụp sân trường cũ ở Porto Vecchio bà đã từng theo học vào thập niên 1930. Vào thời kỳ đó, bà viết tiếp, Porto Vecchio gần như là một thành phố chết, ngày này qua tháng nọ bị dịch sốt rét hành hạ, và bao quanh bởi những đầm lầy nước mặn, những bụi còi xanh rậm đến nỗi không thể nào lách qua. Nhiều nhất là một tháng một lần, một cái tầu rỉ sét từ Leghorn tới, chất gỗ sồi lên boong tầu, ngoài bến đò. Ngoài ra, chẳng còn gì, trừ chuyện này: mọi thứ, mọi điều, mọi chuyện cứ thế mà ruỗng nát, hư thối, rỉ sét mãi ra, như đã từng, từ bao đời bao kiếp.

Luôn luôn có một sự im lặng lạ kỳ dọc theo các con phố, kể từ nửa dân cư ở đây chui rúc trong nhà, ban ngày ban mặt, run rẩy vì sốt rét, hay ngồi ở bậu cửa, hay ở hành lang, người vàng ủng, má hóp lại. Chúng tôi, bà Aquavia viết, những học sinh, cũng chẳng có gì để làm, và, lẽ dĩ nhiên, chẳng có một ý nghĩ nào, về sự vô tích sự của những cuộc sống của chúng tôi, ở trong một thành phố gần như bị bệnh sốt rét làm cho không còn có thể ở được nữa.

Như những đứa trẻ của những thành phố khác may mắn hơn, chúng tôi cũng được dậy toán, dậy viết, và được nghe kể giai thoại về sự lên ngôi và xuống ngôi của Hoàng Đế Nã Phá Luân. Thỉnh thoảng, chúng tôi đưa mắt nhìn qua những cửa sổ, vượt qua bức tường bao sân trường, qua màn mầu trắng ở ven đầm nước mặn, quá nữa, tới vùng sáng run rẩy, lấp lánh ở bên trên vùng trời biển Tyrrenian Sea.

Ngoài ra, bà Aquavia kết luận lá thư, chẳng còn kỷ niệm gì về những ngày đi học ở đó, ngoại trừ, điều này, về ông thầy dậy học của chúng tôi, tên là Toussaint Benedetti. Mỗi lần cúi xuống nhìn bài viết của tôi, là, y như rằng, ông nói:

"Ce que tu écris mal, Séraphine! Comment veux-tu qu’on puisse te lire?"

[How badly you write, Séraphine! How do you expect anyone to read it?] (1)

W.G. Sebald: La cour de l'ancienne école [Sân trường cũ].

(1) Phỏng dịch: Hai Lúa viết sao tệ thế! Làm sao độc giả Tin Văn đọc được?

*

Bạn đọc thân mến,

Thêm vào lời chúc mừng Giáng Sinh, và Năm Mới, là bản dịch bài viết của Sebald.

"Hãy viết cho đường được", có thể đó là lời nhắn nhủ lại của ông, qua bài viết thật ngắn này.
*
Tưởng niệm Sebald

IN MEMORIAM W. G. SEBALD

Will Self’s Sebald Lecture

January 28, 2010

As several readers of Vertigo have mentioned, an “edited” version of Will Self’s January 11, 2010 lecture on W.G. Sebald has been published in the Times Online.  Self touches on several of Sebald’s books and a cast of characters that includes Woody Allen, Albert Speer, Alexander Kluge,Bernhard Schlink, Hannah Arendt, and many others.  It’s a complex, dense, thoughtful, broad ranging and controversial speech that is definitely worth reading.  Here are a few quotes:

Sebald is rightly seen as the non-Jewish German writer who through his works did most to mourn the murder of the Jews.

To read Sebald is to be confronted with European history not as an ideologically determined diachronic phenomenon – as proposed by Hegelians and Spenglerians alike – nor as a synchronic one to be subjected to Baudrillard’s postmodern analysis. Rather, for Sebald, history is a palimpsest, the meaning of which can only be divined by rubbing away a little bit here, adding on some over there, and then – most importantly – stepping back to allow for a synoptic view that remains inherently suspect.

In England, Sebald’s one-time presence among us – even if we would never be so crass as to think this, let alone articulate it – is registered as further confirmation that we won, and won because of our righteousness, our liberality, our inclusiveness and our tolerance. Where else could the Good German have sprouted so readily?