*

 

Thơ Mỗi Ngày

*

April 5, 2012
W. G. Sebald’s Poetry of the Disregarded
Posted by Teju Cole

Thơ của những kẻ bị bỏ đi, chẳng ai thèm để ý đến, của W.G. Sebald

Xuyên suốt nghiệp viết của mình, W.G. Sebald làm những bài thơ, lạ làm sao, thật gần gụi, thật như văn xuôi của ông. Giọng điệu của ông, trong cả hai thể loại thì luôn luôn được nén xuống, kìm lại, nhưng làm sao giấu nổi đỉnh cao của chúng, là của 1 thứ kinh cầu, tưởng niệm, thương tiếc. Thêm vào đó, là sự kiện này: ông xóa nhòa, làm mờ đi, những đường ranh phân biệt những thể loại văn thơ, và thực thế, hầu như tất cả những gì ông viết, không chỉ thơ và văn xuôi, thì còn bao gồm lịch sử, hồi ký, tiểu sử, phê bình nghệ thuật, những tuyệt chiêu về học giả, kinh điển, và sáng kiến, phát minh. Một chuyên gia thuộc loại tổ sư trong cái việc trộn lẫn vào nhau những thể loại văn học như ông, thì đã được truyền nghề từ những bậc thầy rầu rĩ của thế kỷ 17, là Robert Burton and Thomas Browne, và những câu văn dài thòng, quấn quít vào nhau, thành những vòng tròn giống như những cái thòng lọng, của Sebald, thì cũng còn là một hình thức tưởng nhớ đến những nhà văn tiếng Đức thế kỷ 19, như Adalbert Stifter và Gottfried Keller.
Nhưng mạnh hơn nữa, là sự gần gụi của văn phong của những tác phẩm của riêng ông, với những tác phẩm có trước chúng, của những tác giả như
Robert Walser và Thomas Bernhard.
Đối với chúng ta, những kẻ đọc tác phẩm của ông, qua bản dịch tiếng Anh, tất cả tạo thành, cái gọi là, có tính Sebald [Sebaldian].
Tiếng tăm của Sebald trụ vào bốn cuốn tiểu thuyết—“Vertigo,” “The Emigrants,” “The Rings of Saturn,” và “Austerlitz”— tất cả chúng, những suy tưởng về lịch sử của bạo lực nói chung, và về di sản của Lò Thiêu nói riêng. Cảm quan của chúng ta về sự thành tựu này còn được giầu có thêm nhờ những tác phẩm khác: những tác phẩm xb khi ông còn sống (những bài diễn thuyết “Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt, và bài thơ dài “After Nature”), và những tác phẩm xb sau khi ông mất (trong có tập tiểu luận “Campo Santo”, những tập thơ ngắn “Unrecounted” và “For Years Now”).
Vóc dáng của Sebald, giống của Roberto Bolaño, đưa ra ảo tưởng, cả hai đều sản sản xuất khoẻ lắm, khoẻ lạ thường, và “Qua Đất và Nước”, "Across the Land and the Water”, tập thơ tuyển 1964-2001, khi trình làng không làm người đọc ngạc nhiên. Mười năm đã qua, vậy mà như ông vẫn còn sống, vẫn đang viết.
"Qua Đất và Nước” khác hẳn mọi cuốn sách khác của Sebald ở điểm cực bảnh, thật đáng nể này: nó có cái phần viết đầu tay của ông. Bởi vì thành công văn học của ông đến muộn (ông được năm bó khi cái đầu tiên của những tác phẩm của ông được dịch qua tiếng Anh), và cái ông Sebald mà chúng ta biết đó, là 1 ông chín,“mature” rồi, lừng lững một đấng rồi. Một trong những cực thú của tập hiện đang, present,  là ở trong cách nó chỉ cho chúng ta thấy, sự phát triển của giọng thơ của tác giả trên dòng thời gian trên mười năm, bắt đầu thập niên 1960, khi ông là một sinh viên.

Một trong những mẩu thơ đầu đời này, viết:

Glass in hand
They come and go
Stop still and expect
The metamorphosis of hawthorn
In the garden outside
Time measures
Nothing but itself.

'Trực'[giống 'loạn']dịch:

Ly trong tay
Tới và đi
Đứng và mong
Cây táo gai biến hình
Ngoài vườn
Thời gian đo,
Chính nó.

NOTES ON A VOICE: W.G. SEBALD

Đề tài chủ yếu trong những tác phẩm của W.G. Sebald là hồi nhớ: đau đớn làm sao khi sống với nó, nguy hiểm thế nào khi sống không có nó, cho cả hai, đất nước và cá nhân con người. Những nhân vật kể chuyện ở trong những cuốn sách của ông – trong số đó, “Austerlitz”, và bốn tự sự nối kết với nhau về lưu vong trong “The Emigrants” là những cuốn “căng” nhất - sống trong trạng thái hoài nhớ hoài hoài.
Mọi thứ thì đều móc nối, gian díu, vướng mắc với mọi thứ: nơi chốn, con người, những câu chuyện, những kinh nghiệm của họ, chúng quấn quít nhau, cùng mờ đục, nhạt nhòa lẫn nhau, thường xuyên là ở trong những đoạn dài, trôi nổi, lãng đãng, của những lời nói được kể lại. Nhân vật kể chuyện trong “Vertigo”, thật ngắn gọn, súc tích, chỉ ra phương pháp của lối viết này: "vẽ, kẻ những nối kết giữa những sự kiện nằm đâu đó, thật xa vời, nhưng chúng có vẻ như đối với tôi, cùng một trật tự”.

Sebald, sinh tại Baravia vào năm 1944, trải qua hầu như hết cuộc đời khi đã trưởng thành như là 1 nhà khoa bảng tại Anh quốc. Ông mất tại Norfolk, khi bị trụy tim trong lúc đang lái xe. Ông viết bằng tiếng Đức, nhưng làm việc khít khao với những dịch giả tiếng Anh, là Michael Hulse and Anthea Bell.
Trong tiếng nào thì giọng văn của ông cũng như thôi miên người đọc.

Quyết định chìa khoá:

Tạo ra một dạng “hybrid” của riêng ông. [Cái từ hybrid này, theo GCC, chỉ dân chuyên môn mới hiểu được, thường được dịch là “lai”]. Những tác phẩm chính của Sebald trộn hai mảng với nhau: travelogue và meditation [đi đây đó, và suy tư, chiêm nghiệm], giả tưởng với lịch sử và huyền thoại. Chúng có một người kể chuyện, người này thì là, và không là, Sebald, chính xừ lủy: một nhân vật giống như một bóng ma, và cái bóng ma này thì mẫn cảm, ưa lan man, lạc đề, không ngừng nghỉ, lang thang hoài huỷ hoài trong một cõi Âu Châu và quá khứ của nó.

Điểm mạnh

Tìm 1 giọng ăn ý với những bận bịu của ông. Những câu văn của ông thì vòng vòng, quẩn quanh, dời về phía trước, nhưng cũng không ngưng lùi về phía sau, trên chính chúng. Vào thời gian ông viết “Austerlitz”, cuốn sau cùng, xb trước khi ông mất, Sebald, nhiều hoặc ít, nói chung, không cảm thấy cực khổ với những dứt đoạn: dòng chảy của câu văn tạo cảm tưởng, như nhân vật Austerlitz nói về cảm quan của riêng anh ta, về lịch sử, rằng, “thời gian sẽ không mất hẳn, không mất hẳn, và tôi có thể trở lại, sau đó” - những mệnh đề mà chính chúng, là phần của một câu dài hơn, vòng vèo hơn. Đây là thứ văn phong cố khai quật người chết, qua văn mạch, cú pháp.

Luật Vàng

Nghiêng nhiêng, hay như 1 nhà phê bình phán, tuyệt cú, thần sầu. Văn xuôi của Sebald được đẽo gọt tới chỉ, nhưng không loè loẹt. Cách chấm câu của ông thì “rarely more exotic than the comma” [GCC chưa biết dịch ra làm sao, và cũng không nắm được ý của người viết!].  Ít thấy kiểu tu từ simile [so sánh cái này với cái kia], và thay vì vậy, ông viện tới một thực tại chiếu sáng. Như trong văn phong và cũng thế, như trong nội dung. Được hỏi về cách ông tiếp cận với những ghê sợ, kinh hoàng của lịch sử thế kỷ  20 – tác phẩm của ông khoanh vòng Lò Thiêu của Nazi như thể nó là 1 ngọn núi – Sebald có lần phán, mục đích của ông là làm sao dẫn dụ, gợi ý “độc giả rằng những đề tài này thì như là bạn đường dài dài, sự hiện diện của chúng, như 1 cái bóng, phả lên mọi góc cong, mọi chuyển điệu, của mọi câu văn mà một con người viết ra”, không cần phải miêu tả những trại tù, những tai ương một cách trực tiếp.
Đó là mất mát, hơn là máu me, mà những cuốn sách của ông than thở.
 

Tuyệt cú mèo. NQT


Sebald

Ðặt chữ

Qua Ðất Ðai Qua Sông Nước
Tuyển tập Thơ 1964-2001
Tác giả W.G. Sebald

Kể từ khi mất bất thình lình do tai nạn xe hơi vào năm 2001, sự sùng bái W.G. Sebald ngày một tăng.
Ông gốc Ðức nhưng chọn Anh là nơi sinh sống. Ðược biết nhiều qua những tác phẩm văn xuôi tinh tế, kết hợp cái thực với giả tưởng, đẩy tới mức giới hạn, điều tiểu thuyết có thể làm được, ông được coi như là một trong những nhà văn lỗi lạc nhất của thế hệ của ông. Ông còn là 1 nhà thơ.

Qua đất qua nước, một tuyển tập những bài thơ chưa từng in trước đó, nếu có thể nói như vậy. Ðược dịch bởi Iain Galbraith,  Qua đất qua nước, như cái tên cho thấy, phác ra một cuộc đời di động. Trải dài 37 năm, tuyển tập bao gồm những bài thơ mà Mr Galbraith kiếm thấy tác giả của nó viết vội, ở trong những hồ sơ, trên những mẩu giấy, trên tờ thực đơn nhà hàng, chương trình của một buổi ca nhạc, kịch nghệ, hay những tờ giấy có những tiêu đề của 1 nhà hàng, khách sạn. Chúng bật ra khi trên xe lửa, hay ở một “ga không tên/ ở Wolfennbuttel”, Sebald kín đáo quan sát những bạn đồng hành đi xe lửa bằng vé tháng, vé năm khi ông gợi ra những quang cảnh lùi về phía sau ngược với con tàu.
Khác văn xuôi của ông, có tính sử thi, gây chóng mặt, những bài thơ này thì cô đọng, lơ thơ. Tuy nhiên chúng chứa đựng rất nhiều đề tài thường ám ảnh Sebald suốt cuộc viết của ông. Nhà thơ trải qua những năm cuối đời ở Anh, làm việc tại Ðại học Manchester và Ðông Anglia. Bận bịu với hồi nhớ, ao ước, và tính ma quái của những sự vật, Sebald có thể gợi ra trong 1 bài thơ vẻ đẹp huyền bí nhạt nhòa, 1 thứ Diễm Xưa, [thì cứ phán đại như vậy] của “thời quên lãng/của núi non và đèn treo”, hay bước ngoặt của thế kỷ/ áo-thày tu và cây cung-vải mỏng, trong khi ở 1 bài thơ khác, ông nói tới một “khu tháp/xấu xí”, hay những “siêu thị hấp hối”. Sự chuyển đổi những thời khác nhau thì có vẻ ép buộc, hay giả tạo, nhưng Sebald kiềm chế một chuyển động như thế bằng 1 cú lướt nhẹ, bằng chờn vờn va chạm. Sự thực, cái sức mạnh dẫn dắt ở đằng sau tác phẩm của ông, là 1 sự tìm kiếm, xục xạo quá khứ, tìm cái bị bỏ quên, hay vờ đi, hoặc coi nhẹ: “Tôi muốn tìm hiểu/ những người đã chết thì ở đâu đó, hay ở đó đâu”.
Như trong Austerlitz, giả tưởng văn xuôi, 2001, cuộc tìm kiếm người chết, xoay quanh sự cố, ám ảnh cái viết của Sebald, và thường khiến ông viết, ở [in] nơi chốn thứ nhất – Lò Thiêu. Trong một bài thơ ngắn, Ðâu đó, “Somewhere”, thí dụ, dòng thơ mở đầu "behind, đằng sau, Turkenfeld", trở thành, với sự giúp đỡ của Mr Galbraith, trong lời giới thiệu, đặc dị hơn nhiều, về 1 nơi chốn khủng khiếp hơn rất nhiều, quá xa cái tít đơn giản mà nhà thơ đề nghị, và, lẽ tất nhiên, vượt hẳn ra khỏi trí tưởng tượng của chúng ta:
Ngoài cái việc nó đã từng là 1 thành phố, khi chú bé Sebald, 8 tuổi, trên đường đi tới Munich, vào năm 1952, Turkenfeld còn là 1 trong 94 tiểu Lò Thiêu, của Ðại Lò Thiêu, Dachau, và còn là một ga xe lửa trên tuyến đường nổi tiếng "Blutbahn" (Vệt Máu).
Giản dị, với 6 dòng thơ, vậy mà cái sức nặng lịch sử đè lên nó mới ghê rợn làm sao!
[Mấy nhà thơ Mít, có ông đã từng đi tù VC, nhớ đọc bài thơ, và bài điểm, trên tờ Người Kinh Tế, nhá!]

Tập thơ rộng rãi này cũng cho chúng ta thấy một Sebald khác, bớt buồn bã đi một chút. Ông có thể nói tới “nỗi đau/mà hồi ức hạnh phúc của tôi/ mang tới” nhưng cũng viết 1 cách vui vẻ, trong hai bài thơ, nguyên tác viết bằng tiếng Anh, về một người đàn trẻ ở New York mô tả, bà mới yêu thích làm sao, văn phòng của bà, có máy điều hòa không khí, chống lại cái nóng mùa hè: “Ở đó/bà nói, tôi thì hạnh phúc /như con hến mở ra/trên một cái giường nước đá lạnh”. Thơ của ông có thể làm nhớ tới thứ thơ nặng [như đá] của Goethe, hay của Freud, nhưng nó cũng lấy hứng khởi từ Anh em nhà Grimm, hay là từ những phim của Alain Renais.

Mr Galbraith làm được 1 việc thật là tốt, khi chuyển dịch những chuyển đổi giọng thơ, và nguồn ảnh hưởng. Tuy nhiên, đúng là 1 nhục nhã, khi tuyển tập thơ này vờ nguyên tác tiếng Đức. Làm sao mà chúng ta không hiểu, thơ của Sebald đâu có dễ dịch, nhưng chẳng lẽ bắt chước… Thầy Cuốc của xứ Mít giấu biệt nguyên tác? Hơn thế nữa, làm sao mà chúng ta không quan tâm đến tính tha thướt, hồn ma [the transitory and the ghostly], thật dễ dàng khi nghi ngờ, chẳng có dịch giả nào mà tóm được thơ Sebald. Sebald, chính ông, cũng ngửi ra điều này: “Nếu bạn biết rành mọi xó xỉnh/ của trái tim của tôi/ thì bạn hơi 'vô tri’ đấy nhé”. Tuy nhiên, như những bài thơ cho thấy, tài năng của ông, đó là làm cho kinh nghiệm về 1 thứ vô tri như thế, trở thành tuyệt vời.

“Ở đó / tôi thì hạnh phúc / như con hến mở ra / trên một cái giường nước đá lạnh”.

Thèm, nhỉ!


W.G. Sebald's poems

Placing words

Across the Land and the Water: Selected Poems 1964-2001. By W.G. Sebald, translated by lain Galbraith. Hamish Hamilton; 240 pages; £14.99. To be published in America in April by Random House; $25
SINCE W.G. Sebald's sudden death in 2001, the cult of the Britain-based German writer has spread fast. Known for his exquisite prose works that, in their combination of the real with the fictional, push at the limits of what novels can be, he is considered one of the foremost German writers of his generation. He was also a poet.
"Across the Land and the Water" brings together a selection of the poems he never published in book form, if at all. Translated by lain Galbraith, the volume sketches out a life on the move. Stretching over 37 years, the volume includes poems that Mr Galbraith found jotted down in Sebald's archives on scraps of paper, others written on menus, theatre programmes or headed paper from hotels. They emerge on trains or at the "unmanned/station in Wolfennbuttel", Sebald covertly observing fellow commuters as he evokes the differing landscapes shuttling past.
Unlike his epic, vertiginous prose, these poems are often condensed and sparse. And yet they contain many of the themes that would obsess Sebald throughout his writing life. The poet spent his later years in Britain, working at the Universities of Manchester and East Anglia. Preoccupied with memory, desire and the ghostliness of objects, Sebald can evoke in one poem the faded glamour of "a forgotten era/of fountains and chandeliers" or a "turn-of-the-century/frock-coat and taffeta bow" while in another he will speak of an "ugly/ tower block" or "moribund supermarkets". This shift between differing eras could seem forced or artificial. And yet Sebald manages such movement with a lightness of touch. Indeed, the driving force behind his work is a search for the past, for the forgotten or overlooked: "I wish to inquire/Into the whereabouts of the dead."
As in "Austerlitz", his 2001 work of prose fiction, this search for the dead circles around the occurrence that haunts Sebald's writing, and which often prompts him to write in the first place-the Holocaust. In one short poem, "Somewhere", for example, the opening line "behind Turkenfeld" becomes, with the help of Mr Galbraith's introduction, a far more specific and terrifying location than Sebald's title suggests. Along with being a town the then eight-year-old Sebald would frequently pass on his way to Munich in 1952, Turkennfeld was one of the 94 sub-camps of Dachau, and a train station on the notorious "Blutbahn" (blood track). Even in a seemingly simple six-line poem, the sudden weight of historical events can be felt.
This broad collection also shows Sebald's writing in a less melancholy light. He may speak of "the pain my happy/ memories bring" but can also, in one of the two poems originally written in English, write playfully of a young woman in New York describing how much she loves the air-conditioning in her office as opposed to the summer heat: "There,/she said, I am/ happy like an/opened up oyster/on a bed of ice." His poetry can refer to such heavyweights as Goethe or Freud, but it also takes inspiration from the Brothers Grimm or the films of Alain Resnais.
Mr Galbraith does a good job translating these shifting tones and influences. However, it is a shame that this volume does not include Sebald's original poems in the German. Concerned with the transitory or the ghostly, it is easy to suspect that no one translation could pin Sebald down. Sebald himself seemed aware of this: "If you knew every cranny/of my heart/you would yet be ignorant." And yet as these poems show, his talent lay in making the experience of such ignorance delightful. +

The Economist, Nov 19-25 2011

Ðặt chữ

Qua Ðất Ðai Qua Sông Nước
Tuyển tập Thơ 1964-2001
Tác giả W.G. Sebald

Kể từ khi mất bất thình lình do tai nạn xe hơi vào năm 2001, sự sùng bái W.G. Sebald ngày một tăng.
Ông gốc Ðức nhưng chọn Anh là nơi sinh sống. Ðược biết nhiều qua những tác phẩm văn xuôi tinh tế, kết hợp cái thực với giả tưởng, đẩy tới mức giới hạn, điều tiểu thuyết có thể làm được, ông được coi như là một trong những nhà văn lỗi lạc nhất của thế hệ của ông. Ông còn là 1 nhà thơ.


*

Sebald

… Weiss to attend the Auschwitz trial in Frankfurt. He may also have been motivated before the event by the hope, never quite extinguished, "that every injury has its equivalent somewhere and can be truly compensated for, even if it be through the pain of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche thought was the basis of our sense of justice and which, he said, "rests on a contractual relationship between creditor and debtor as old as the concept of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the Heart.
On Memory and Cruelty in the Work of Peter Weiss

Weiss tham dự tòa án xử vụ Lò Thiêu ở Frankfurt. Có thể là do ông vẫn còn hy vọng, một niềm hy vọng chẳng hề tàn lụi, rằng, “mọi tổn thương thì có cái phần tương đương của nó, ở đâu đó, và có thể thực sự được đền bù, bù trừ, bồi hoàn, ngay cả, sự bồi hoàn này thông qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào gây ra sự tổn thương”. Tư tưởng này Nietzsche nghĩ, nó là cơ sở của cảm quan của chúng ta về công lý, và nó, như ông nói, “nằm trong liên hệ có tính khế ước, giữa chủ nợ và con nợ, và nó cũng cổ xưa, lâu đời như là quan niệm về luật pháp, chính nó”
W.G. Sebald:  Sự hối hận của con tim.

 even if it be through the pain of whoever inflicted the injury.

Moi, je traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.

Gấu cũng có thể nói như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải
lũ Bắc Kít?