*



1














*

Sao, mày có đau ốm gì không mà chưa trả lời thư tao? Nhân tiện, bây giờ tao nhớ một câu khác nữa cũng cần mày ghi lại, câu đại ý nói tên nào nói đã nắm được chân lí thì đáng bị ăn đòn liền

Trụ,
Mày đã quên không gởi cho tao hình mày và tao chụp tại một quán cà phê do cô bé chủ quán chụp giùm.
Nhân tiện mày ghi lại cho tao câu, tiếng Việt và nguyên gốc tiếng Anh hay tiếng Pháp mà mày đọc và tao rất chịu ý nghĩa của câu đó, đại khái, tiến lên (hay tiến tới)... tan rã. Cảm ơn mày.

To: Lãng Ngố, or Mr. Lủng,

Tao trả lời liền, sao mày không nhận được?

Ho, Ho, Worstward: Tiến lên tàn mạt, NTV dịch. Tên 1 vở kịch của Beckett, nhưng áp dụng vô VN, thì quá tuyệt.
“Ho, Ho”: những cuộc biểu tình phản chiến chống Mẽo, hoan hô Bác Hồ.
Tiến lên tàn mạt: Nhìn nước Mít bây giờ thì biết liền!

Ta ủng hộ những kẻ tìm chân lý, nhưng ta sẽ làm thịt kẻ nói, hắn tìm ra chân lý.
Câu này của Luis Bunuel, một nhà làm phim, Rushdie trích dẫn, trong Quê hương tưởng tượng, nhớ đại khái.
Thân

GCC

1. “Ever tried. Ever failed. No matter. Try again. Fail again. Fail better.”
Worstward Ho (1)

2. "Je donnerais ma vie pour un homme qui recherche la vérité. Mais je tuerais avec joie un homme qui penserait avoir trouvé la vérité": Tôi biếu đời tôi cho kẻ tìm chân lý, nhưng tôi sẽ làm thịt một cách sảng khoái tên nào cho rằng mình đã kiếm thấy chân lý.

Trong Quê Hương Tưởng Tượng, Rushdie trích câu nói của Luis Bunuel, một nhà làm phim: Tôi sẽ hy sinh thân mình cho kẻ đi tìm sự thực. Nhưng tôi sẽ giết, một cách thích thú, avec joie, kẻ nào nghĩ rằng anh ta đã bắt được sự thực. Theo ông, giả tưởng (văn chương) bắt đầu cùng với sự truy tìm Graal, vượt cả chính Graal, với sự chấp nhận, thực tại và đạo đức không phải là những gì có đó (données), nhưng chỉ là những tạo dựng bất toàn của con người (des constructions humaines imparfaites). Đây là điều mà J. F. Lyotard, vào năm 1979, gọi là "Điều kiện hậu hiện đại". Cuộc thách đố của văn chương, là chấp nhận đây là khởi đầu, để rồi tìm cách thực hiện những đòi hỏi tinh thần không đổi dời của con người. Ông viết tiếp: Tuy hiển nhiên, nhưng cũng cần nhấn mạnh, trong những xứ sở đang đòi hỏi tự do, nghệ thuật luôn luôn bị kìm kẹp một cách đầy hận thù, như tôn giáo. Cuộc cách mạng ở Tiệp-khắc, đã bắt đầu từ trong những vở kịch, và được dẫn dắt bởi một nhà văn; một bằng chứng cho thấy những đòi hỏi tinh thần, chứ không phải vật chất, của con người, đã tống xuất những ông chính uỷ nhân dân ra khỏi quyền lực. Nếu tôn giáo là một giải đáp, nếu ý thức hệ chính trị là một giải đáp, văn chương sẽ là một cuộc điều tra; một nền văn chương được coi là lớn lao, vĩ đại khi nó đưa ra những câu hỏi lạ thường, mở ra những cánh cửa tinh thần mới mẻ cho chúng ta. (2)

A Love Story in Vietnam

Meanwhile Ali’s line: “Love means never having to say you’re sorry” has even passed into Vietnamese common usage without most people realising its origins.

Nhảm. Truyện này đã từng được Phan Lệ Thanh, bồ của bạn Nguyễn Đông Ngạc, dịch qua tiếng Mít, với cái tít Chuyện Tình, rất ăn khách vào thời điểm đó. Bạn Ngạc nhờ cái vốn này, mở nhà xb Sóng, in cuốn để đời Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta, còn có cái tít Hai mươi năm văn học Miền Nam. GCC nhờ cuốn này mà đậu thanh lọc, một phần. (1)

GCC gặp lại bản tiếng Anh của nó, ở trong Trại Cấm Sikiew, Thái Lan, và bèn lôi 1 câu ra để dậy cô học trò trong Bụi:

Yêu nghĩa là chẳng bao giờ phải nói, you’re sorry.

Even though I respect and admire you, a writer of the Deep South of my childhood day, I am not a writer to be your friend and I haven't read enough to be your favorite fan.

**

Kỳ này đi Cali, trong lúc chờ phi cơ cất cánh, GCC bèn nhặt cuốn trên, từ 1 quầy tại phi trường, tính đọc trong lúc đi đường.

Đọc loáng thoáng câu này, kẻ nào thấy tớ [Christopher] chết vì ung thư cuống họng, hẳn là buông 1 câu, thật đáng đời. Mi chửi người quá lắm, thì Chúa phạt mi!

Ông bạn Bạn cũng phạng GCC y chang, khi đọc đoạn văn ngắn viết về “Bác Giai, Bác Gái”, là VP & Phu Nhân.
Ông đúng là 1 tên Bắc Kít đểu giả. Ông bạn Bạn nói. Cứ giả như Bà Viễn Phố cần tiền cho 1 đứa cháu đi học Đại Học, bèn gật đầu cho VC tái bản sách của chồng, thì OK quá, chứ sao ông cũng chửi?

Xin lĩnh ý Bạn Nhậu.
Sorry. NQT

Khi viết Ký, về chuyến đi thăm Cali tháng 11 vừa rồi, GCC tính sử dụng môn Song Thủ Hổ Bác của Châu Bá Thông, nôm na, 1 tay vẽ vòng tròn, một tay vẽ hình vuông, tức là, viết 2 cái ký song song, một dành riêng cho Sad Seagull, và một, cho bạn bè. Nhưng chưa đi được nửa chiêu, đã tẩu hỏa nhập ma, làm mất mẹ mất 1 đoạn thần sầu về Sad Seagull, về ông bà bạn Bạn, một khám phá cũ, mà thật là mới của cõi bạn bè.
Đoạn viết liên quan đến 1 vấn nạn cực là đẹp: Giả như nếu chuyến đi này không gặp ông bà Bạn, thì liệu có xẩy ra khoảnh khắc, bà vợ nhìn thấy GCC - do nhớ Sea Gull quá, do hối hận quá, không hiểu mình đã gây ra chuyện gì, khiến Em huỷ bỏ một Chiều Thứ Bẩy, và Một Chủ Nhật Khác - bèn "lừng lững, khốc liệt" [chữ của TTT, trong MCNK], đi một đường ra giữa đường, thí mạng cùi cho dòng xe cộ, trước khu Phước Lộc Thọ - và đã chỉ ông chồng, kìa anh, mau lên, mau lên, cứu thằng khùng kìa!

“SOS, Au Secours!”

Hà, hà!

Trong đời Gấu, đã trải qua hơn 1 lần, khoảnh khắc “khủng khiếp” này.
Rõ rệt nhất, là cái lần được VC ban cho hai trái mìn Claymore, ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, bờ sông Sài Gòn.
Đi cùng ông trưởng đài VTD và hai anh bạn Phi Luật Tân.
GCC đi trước. Qua cái cầu nổi, xuống thuyền, đột nhiên Gấu nghĩ, nhường hai ông bạn ngày mai rời Sài Gòn ngồi phía trong, ngắm cảnh sông nước, và thế là lon ton đi đến cái ghế chót. Tay trưởng đài, ngồi ghế kế, thoát chết, nhưng mất khẩu súng. Hai ông bạn Phi đi luôn, 1, liền tại chỗ, 1, về Manille, tưởng thoát, nhưng bị xuất huyết nội, một phần còn là do anh vốn là bợm nhậu.
Rồi cái lần “hiệu đính” bài cho Nguyễn Mai, mà đếch thèm khoe, nghĩa là, lặng lẽ viết lại toàn bài viết, cho đăng trên trang VHNT Tiền Tuyến, nhờ vậy được anh trả ơn, giới thiệu với ông Nhàn, dịch sách cho nhà xb Vàng Son của ông, nhờ vậy thoát chết Trại Tù Đỗ Hoà, nhờ 1 tay TNXP vốn rất mê Gấu dịch tác phẩm của nhà văn Hồng Mao, Cronin!



*

Boundaries

There is a line by Verlaine that I will not remember again.
There is a street nearby that is off limits to my feet.
There is a mirror that has seen me for the last time.
There is a door I have closed until the end of the world.
Among the books in my library (I'm looking at them now)
            are some I will never open.
This summer I will be fifty years old.
Death is using me up, relentlessly.
-from Inscriptions (Montevideo, 1923) by Julio Platero Haedo

-K.K.

 

LIMITES

II y a une ligne de Verlaine don’t je ne dois plus me ressouvenir,
II y a une rue toute proche qui est défendue à mes pas,
II y a un miroir qui m'a vu pour la dernière fois,
II y a une porte que j'ai fermée jusqu'à la fin du monde.
Parmi les livres de ma bibliothèque (je les ai devant mes yeux)
II doit y en avoir un que je n'ouvrirai jamais plus.
Cet éte j'aurai cinquante ans ;
La mort me rogne, incessante

JULIO PLATERO HAEDO,
Inscripciones
(Montevideo, 1923).

Giới hạn

Có 1 dòng thơ của TTT, Gấu sẽ không nhớ lại nữa
Có 1 con phố ngay gần nhà, Gấu không được đặt chân tới.
Có 1 cái gương nhìn thấy Gấu lần chót
Có 1 cái cửa Gấu đóng lại cho đến Tận Thế
Trong số sách thư viện của Gấu (đang hiển hiện ra trước mắt Gấu)
Phải có 1 cuốn mà Gấu sẽ chẳng bao giờ mở ra nữa
Mùa Thu này Gấu tám bó
Cái chết gặm Gấu suốt ngày đêm

To H/A: U R the mirror in the poem?



*

Trong số báo Văn, GCC lục lọi tại nhà bạn Bạn, trên, có rất nhiều Gấu ở trong đó:
Bài phỏng vấn đầu tiên ở hải ngoại, do bạn quí thực hiện: Từ Sơ Dạ Hương tới Nguyễn Quốc Trụ: Nhà văn ở phút nói thật (1)

*

Truyện ngắn đầu tiên viết ở hải ngoại, và về Trại Tù Thái Lan: Bụi

Truyện ngắn này, thú vị hơn nữa, đã từng được 1 đài phát thanh của Mít ở thủ đô Bolsa đọc trên Đài, tình cờ làm sao GCC, ở Toronto nghe được. Gấu Cái phán, tụi này giỏi thật, cái truyện ngắn hay, mà cái thằng chọn nó để đọc cũng thật là bảnh.

Bạn quí đăng trên Văn, nhưng không để ý đến cách sắp trình bày, làm hỏng truyện nhiều quá.
Chán bạn quí quá, nhưng lần gặp này, thì lại quí bạn quí quá!

*

Note: Bài này, không hiểu sao bị mất hẳn 1 kỳ, kỳ đầu, viết về “Bạn Bạn”, về Sad Seagull, về cái vụ đứng ở bên ngoài Phước Lộc Thọ, tính tự làm thịt mình, và may sao được cứu thoát...  và cái vụ hẹn gặp Tháng Ba sắp tới ở Hành Lang Thiên Đàng, quán Hạ Cờ Tây, Remys

Sorry. NQT

*

*

Passage Eden, Toronto. Hồi xửa hồi xưa, Passage Eden Sài Gòn nổi tiếng vì gánh hàng bún ốc.
Ăn bún ốc, ngày xưa, mà uống Remy, bây giờ, nhỉ?
Bây giờ, ăn chi được bún ốc.
Đâu có còn chiếc răng nào?

Lũ bạn khả ố cười hô hố, tại vì mi tính hôn Em, với chỉ 1 chiếc răng còn lại, Em sợ quá nên lặn mất tiêu, đúng không?
Chúng còn nói đểu lắm, nhưng thực sự là ghen với GCC!

Hà, hà!

Cái gói quà, đến chót đời, Ông Giời, xém tí nữa quên, may sao nhớ, trao cho Gấu, dễ gì ai có được?

Note: Lần này qua, không gặp cặp Hải & Hồng Liên. Hỏi, Nhã Hương, bà vợ NDT, cho biết, cặp này lâu lâu biến mất, rồi lại xuất hiện.

Tình cờ, trong lần qua trước, GCC được biết, hai cặp Thuần-Hương & Hải-Hồng Liên, qua ông con trai của cặp Hải & HL “arranger”, đã từng order 1 phòng riêng cho bốn người - giống như 1 loge, khi coi ciné ở Sài Gòn ngày nào - để nghe Yanni trình diễn cùng dàn nhạc của ông.
Bà Hương than, thằng chả bây giờ cắt mớ tóc dài rồi!
GCC bèn nhìn bộ tóc bạc phơ của bạn ta, và bèn than, hồi ngày phong trần quá!
Bạn gật gù, quả thế thế. Du Tử Táo than giùm tui, chân chạy mà bây giờ bị cùm!

Ui chao Yanni là tác giả đầu tiên Gấu được nghe, khi tới Canada.

Kỷ niệm mới tuyệt vời làm sao, cứ mỗi lần nghĩ tới là lại thèm kể ra, nhưng lại cố nín, cố cưỡng lại!
Bạn đọc TV có nhớ là GCC đã từng kể về những ngày còn nhỏ ở xứ Bắc Kít, mỗi lần ăn cơm, được người lớn ban cho cục thịt, cá, là dím thật kỹ, thật sâu ở tít đáy bát - đáy địa ngục như 1 nhà văn VNCH viết về nhà tù VC - đợi tới giờ chót mới dám thưởng thức.
Bạn có thể nói, cái cú làm thơ, dịch thơ của GGC trên TV, là hai miếng thịt dím tự ngày nào, từ tuổi thơ của anh cu Gấu ngày nào, được Ông Giời ban cho!

Yanni, và kỷ niệm lần đầu tiên nghe nhạc của ông, là như thế, với GCC!

Và bây giờ, là “Sad Seagull”!

Note: Mới đọc cái truyện ngắn về “Tình Yêu ở Trại Tị Nạn HK”, trên art2all. thật tuyệt. (1)

Làm nhớ Bụi của Gấu! (2)

Và, tất nhiên, làm nhớ "Sad Seagull"!

I wonder how we can survive, this romance
But in the end if I'm with you, I'll take the chance

Bryan Adams - I Will Be Right Here Waiting For You (2)

Làm sao Gấu qua khỏi con trăng này.
Nhưng sau cùng, nếu Anh gặp Em, thì Anh sẽ chấp tất cả thế gian này!

Sáng, ngay sau bữa về lại nhà, thật sáng sớm, Gấu bò ra đường, đi mua cà phê, cho Gấu và Anh Cu Lùn Richie [nó cũng ghiền cà phê và bánh croissant], tai nhét cái headphone - Gấu Cái cảnh cáo, sẽ có ngày mi chết vì cái tật nghe nhạc - băng qua đường, và 1 cái xe cảnh sát chặn Gấu ngay giữa đường, viên cảnh sát lái xe hỏi Gấu, nè, có khùng không đấy, sao không để ý đến đèn đường…
Ui chao, Gấu lại nhớ đến buổi chiều ở Phước Lộc Thọ, y chang, và bà vợ của ông Bạn, chủ nhà, may sao nhìn thấy, chỉ cho chồng, và ông chồng phóng vội tới….

Nhưng phải đọc những dòng sau đây, và phải nghe Em nói, về tuổi thơ của Em, buổi sáng hôm đó, sau khi thiền sư từ biệt hai đứa chúng ta để đi làm, thì mới ngộ ra hết mọi điều bí ẩn.


*

GCC & Nguyễn Văn Sâm


Bạn Bạn chê "Thần Tháp Rùa", cả tác giả lẫn tác phẩm, kịch ở trong kịch và kịch ở ngoài đời.
Thầy Khoan của GCC thì quả là quá kịch thật, và Thầy cũng biết thế, và bèn chữa ‘thẹn’ bằng 1 giai thoại về Nguyễn Tuân, "Thầy của Thầy".

[TTT đã có lần nói với thằng em, khi chỉ có hai anh em ngồi Quán Chùa, anh 1 ly cà phê, em 1 ly cà phê – cái này là thuổng câu “anh 1 trái tim em 1 trái tim/chúng kéo đầy đường xe tăng, đại bác”- sở dĩ VKK và MT cũng ti toe viết lách với đời, là nhờ có 1 lần trong đời, được gặp Nguyễn Tuân]:
Nguyễn Tuân đã từng mặc áo gấm, nhẩy xuống sông, thi bơi!

GCC đã có kể giai thoại này trong bài viết Nghệ Thuật Làm Dáng 1):

Chúng ta luôn có dáng điệu của một kẻ sắp sửa ra đi, Camus viết như vậy. Một Dũng của "Bến Gió", của "sông Đà": kéo cổ áo cao lên một chút, tóc xổ tung ra, mặc tình cho nó bù xù trước gió!

[Tình cờ vớ được câu này, chẳng "Dũng, Đôi Bạn, Bến Đò Gió" sao: Và gió đã tặng anh 1 vầng tóc! (1)]

Vũ Khắc Khoan, khi sinh thời có kể một huyền thoại về Nguyễn Tuân: Mặc áo gấm, nhảy xuống sông, thi bơi!
Khi Siu Cô Nương của Mặc Đỗ được trình làng, Thanh Tâm Tuyền, trong một bài điểm sách, đã coi, đây chỉ là những nhân vật làm dáng. Mặc Đỗ, sau đó, đã chỉ ra những nét làm dáng trong Ung Thư. Ở đây, cứ coi như một "chân lý": không thể có văn chương, nếu không có làm dáng. Nhưng đấy chỉ là khởi đầu, là thói quen mút ngón tay của con nít; sau đó phải là chấp nhận rủi ro, hiểm nguy, là chọn lựa, quyết tâm thực hiện thực tại "của những giấc mơ".

Nhưng kịch của VKK chưa "hỏng" bằng cái thứ kịch Xạo Hết Chỗ Nói, thí dụ của… Thầy Bertolt Brecht.
Trước khi viết về kịch, có lẽ nên làm thịt kịch đã!
Xin giới thiệu bài viết, Mi còn lại chi, hả Bertolt, What Will Be Left of You? của Milan Kundera, trong Encounter

What Will Be Left of You, Bertolt?

IN APRIL 1999 A PARIS WEEKLY (ONE OF THE MORE SERIOUS ones) published a special section on Geniuses of the Century. There were eighteen on the list of honorees: Coco Chanel, Maria Callas, Sigmund Freud, Marie Curie, Yves Saint Laurent, Le Corbusier, Alexander Fleming, Robert Oppenheimer, Rockefeller, Stanley Kubrick, Bill Gates, Pablo Picasso, Henry Ford, Albert Einstein, Robert Noyes, Edward Teller, Thomas Edison, J. P. Morgan. So, then: no novelist, no poet, no dramatist; no philosopher; a single architect; a single painter, but two couturiers; no composer, one singer; a single moviemaker (over Eisenstein, Chaplin, Bergman, Fellini, the Paris journalists chose Kubrick). This honor roll was not something put together by ignorant people. With great lucidity it declared a real change: the new relationship of Europe to literature, to philosophy, to art.
    Have the great cultural figures been forgotten? "Forgotten" is not the right word. I remember that at that same period, toward the end of the century, we were inundated by a tidal wave of monographs: on Graham Greene, on Ernest Hemingway, on T. S. Eliot, on Philip Larkin, on Bertolt Brecht, on Martin Heidegger, on Pablo Picasso, on Eugene Ionesco, on Cioran, and endless others.
    These venomous works (my gratitude to Craig Raine for defending Eliot, to Martin Amis who took up for Larkin) made clear the meaning of that honors list: the geniuses of culture have been set aside without regret; it is comforting to prefer Coco Chanel and the innocence of her dresses over those great cultural figures, all of them tainted with the century's ills, its perversity, its crimes. Europe was moving into the age of the prosecutors: Europe was no longer loved, Europe no longer loved itself
    Does that mean that all those monographs were especially harsh toward the works of the writers portrayed? Oh no; at that time art had already lost its appeal, and the professors and connoisseurs were no longer interested in either paintings or books, only in the people who had made them; in their lives.
    In the age of the prosecutors what does a life mean? A long succession of events whose deceptive surface is meant to hide Sin
    To ferret out Sin beneath its disguise, the monographer must have a detective's talent and a network of informers. And so as not to sacrifice his lofty stature as expert, he must cite the names of his informers in footnotes, for in the eyes of scholarship this turns gossip into truth.
    I open a huge eight-hundred-page book on Bertolt Brecht. The author, a 'professor of comparative literature, after demonstrating in detail the vileness of Brecht's soul (secret homosexuality, erotomania, exploitation of girlfriends who were the true authors of his plays, pro-Stalin sympathies, tendency to lies, greed, a cold heart), finally in chapter 45 comes to his body, in particular to its terrible odor, which the professor takes a whole paragraph to describe. As guarantee of the scholarly nature of this olfactory revelation, in a note to the chapter the writer says he collected "this detailed description from the woman who was at the time the head of the photo lab of the Berliner Ensemble, Vera Tenschert," whom he interviewed "on June 5, 1985" (that is, thirty years after the smelly fellow was laid in his coffin).
    Ah, Bertolt, what will be left of you?
    Your body odor, preserved for thirty years by your faithful colleague and then revived by a scholar who, after intensifying it by the modern methods of university laboratories, has now sent it forth into the future of our millennium.

Milan Kundera: Encounter
[Note: TV sẽ dịch ra tiếng Mít, sau]



Nguyễn Khải by TDA

“Mọi phê bình phải được đi trước bằng một phê bình tôn giáo”, “Toute critique doit être précédée d’une critique de la religion”. Marx phán [trong Crit. de la Phil. Du Droit de Hegel, Henri Lefebvre trích dẫn trong Duy vật biện chứng, Le Matérialisme dialectique, tr. 53].

Câu trên có thể áp dụng vào trường hợp Nguyễn Khải.

Ðọc NK là phải đọc trong cái tinh thần đó, đúng như ý của ông, trong 1 bài viết có tính tự kiểm, (1) không có Ðảng là tôi đã trở thành 1 vị linh mục, khi ông nhớ lại một lần tà tà đi mua thuốc lá tại một cái quầy chắc là gần Nhà Chung Hà Nội, và vị chủ quán đã lầm ông với 1 vị linh mục.
Hai cú đánh khủng khiếp trong đời NK, là đánh vào mật khu Ky Tô ở đất Bắc là Phát Diệm, và những tác phẩm viết về nó, khi ông được Ðảng tin cậy vì đã chọn Ðảng, thay vì Nhà Thờ, những ngày sau 1954, sau khi một nửa đất nước thuộc VC.
Cú thứ nhì là sau 30 Tháng Tư, đánh vào mật khu Cao Ðài, Tây Ninh.

Nên nhớ, lại nên nhớ, gốc gác của NK, là con quan, thuộc dòng thứ, và suốt đời ông bị mặc cảm bị bố bỏ rơi, nên đành chọn Ðảng. Ðó là cái thế 3 ngôi trong đời ông: Bố Bắc Kít, Ðảng VC, và Chúa Ky Tô [theo trật tự đại khái!]

(1)

Tôi cô độc bẩm sinh. Nếu không có cách mạng, chắc tôi là tu sĩ. Một lần tôi đến tìm ông cha tìm hiểu về Vatican 2 để viết sách tôn giáo. Trong lúc chờ, tôi ra mua thuốc lá. Người bán thuốc nhìn tôi hỏi: "Cha mua loại nào? Con biếu cha bao diêm". Chắc mặt tôi giống linh mục.
[NK trả lời phỏng vấn, NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI thực hiện, Tuổi Trẻ online]

Bây giờ chúng ta có thể hình dung ra được, đi tìm cái tôi đã mất của NK, là đi tìm một "cái tôi thần học", qua hình dáng nhập thế của 1 vì linh mục. Hai cú đánh vô tôn giáo của NK, là hai cú thất bại, có thể cuối đời ông ngộ ra điều này. Ông bị ông Bố Bắc Kít bỏ vô Nam, Chúa bỏ vô Nam, và đành chọn Ðảng. Nhưng Ðảng cũng chỉ coi ông là 1 thứ con rơi, con hoang, không thuộc giai cấp bần cố nông [đọc những gì ông cà khịa với đám nhà văn được Ðảng tin cậy, thuộc loại nồng cốt, chúng viết như kít, có đứa nào bằng tôi đâu!]. Ðó là bi kịch của nhà văn NK.

Ông chưa từng viết về con người, mà là về “một thứ con người” nào đó, “một thứ nhân danh con người” nào đó.
NK làm Gấu nhớ tới Graham Greene, nhất là, câu phán nổi tiếng của ông, nhớ đại khái: Suốt đời tôi đi tìm một đấng Thượng Ðế để cho Con Quỉ ở trong tôi uýnh lộn với ông ta!
Ðây cũng là bi kịch của NK, nhưng ở tầm mức thấp hơn, một phần có thể là do mặc cảm bị bỏ rơi của NK mà ra. Greene thanh thản hơn, theo nghĩa, bi kịch của ông là của chung con người.

Văn của NK độc. Và rất giống văn VP. Ðiều này do NMG nhận ra, không phải Gấu. Ông còn cho biết, hai đấng rất quí tài, và độc, của nhau. Ðiều này thì NMG, trong 1 lần đi tour văn học ở trong nước, có tuyên bố.

Nhân vật của NK hình như không có 1 tay nào lâm vào đường tự tìm cái chết như của Greene.

Cũng không phải tự nhiên mà NK viết về PXA, qua nhân vật Quân, trong Thời gian của người.

Tuy nhiên cái chết ngắc ngoải, không làm sao đi được của PXA ở ngoài đời, NK không làm sao tiên tri ra được!

Gấu đã từng có vinh dự được “nhìn thấy” nhà văn Nguyễn Khải, thời gian lui tới nhà xb Văn Học, bộ phận phía Nam, khi nhà này tính tái bản cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc bản dịch của NQT trước 1975.

Tạ Duy Anh, người dám “bước qua lời nguyền” viết về Nguyễn Khải:

Nguyễn Khải, một người được theo nghiệp đèn sách từ bé, không thể không biết thực tế đó. Bài học về Cải cách ruộng đất, về nhóm Nhân Văn Giai Phẩm… buộc ông phải nhớ lại lịch sử. Và vì thế, giống như số đông những người được coi là trí thức cùng thời ông ở đất nước này (chỉ tính riêng miền Bắc, vì trí thức miền Nam có một số phận riêng), ông đã tìm thấy lý do vô cùng chính đáng để vờ quên bản thân mình, đó là lý tưởng vì tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng đó không hề xấu và không hề ít tính chất thiêng liêng, nếu người tin theo nó thật lòng. Nó chỉ đáng trách với những kẻ vờ vịt. Mà những kẻ đó phần lớn lại rơi vào thành phần trí thức. Bi kịch mang màu sắc hài kịch của trí thức Việt (tất nhiên không tính bọn giả danh trí thức), từ cổ chí kim, chính là luôn phải vờ vịt. Vờ vịt, tức là biết rõ nó không phải vậy, nhưng lại cứ phải làm ra rằng mình hiểu nó như vậy. Vờ trung thành, vờ kính trọng, vờ cúc cung tận tụy, vờ khép mình, vờ lắng nghe, vờ chăm chỉ, vờ ngoan ngoãn, vờ ca ngợi, vờ thán phục, vờ yêu… và những thứ vờ vĩnh ấy có thể làm bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, làm bao nhiêu cũng không sao ngoại trừ chỉ có lợi. Riêng một thứ không hề vờ, ấy là sự khinh ghét, thì phải nén lại, giấu thật kỹ kẻo hé ra có kẻ biết là tàn đời (mà kẻ rình rập để tố cáo, tâng công thì nhiều như ruồi, ngay trong giới trí thức); phải luôn tìm cách nhồi nó xuống, nuốt thật sâu, quên đi được thì càng phúc. Còn sống là còn phải quên. Chờ đến ngày sắp lìa đời, nếu còn lòng tự trọng, còn thấy hổ thẹn thì viết nó ra để thanh minh và sám hối.
TDA

Ðọc như thế là chưa nhìn ra thế 3 ngôi [Bố Bắc Kít, Ðảng VC, Chúa Ky Tô], ở Nguyễn Khải, và, “có một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định”, như Steiner viết, trong UNDER EASTERN EYES:

Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa thế tục thiên sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần Bạch Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan nào thực sự có thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng câm nín đó, lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế vi. Dùng cái từ “hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế! Họ không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại xuýt xoa, ui chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban cho, được một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết! Và họ gợi ý rằng, chỉ cái sự kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan Bạo Chúa là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận thế hay về lạ kỳ sáng tạo của số mệnh, Cuộc bàn luận giữa chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại, riêng tư, cá nhân. Người ngoài, nghe lén được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp ứng bằng 1 thái độ sẵn sàng, dễ dãi.
Những đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu gào tự do của họ, sự rất ư bực mình của họ trước cái lương tâm ù lì của Tây Phương, thì rất ư là rền rĩ và rất ư là chân thực. Nhưng họ không chờ đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng một thái độ thẳng thừng, ngay bong. Những giải pháp thì chỉ có thể có được, từ phía bên trong, theo kiểu nội ứng với những chiều hướng thuần sắc tộc và tiên tri. Nhà thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt, khinh miệt lũ chó săn, đám côn đồ cảnh sát truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế đứng với chúng, trong 1 liên hệ có tính cần thiết nhức nhối, cho dù đó là do giận dữ, hay là do thông cảm. Cái sự kiêu ngạo nguy hiểm, rằng có một mối giao hảo theo kiểu nam châm hút lẫn nhau giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan niệm như thế thì quá tổng quát, để mà xác định tính chất của bàu khí linh văn Nga. Nhưng nó gần gụi hơn, so với sự ngây thơ tự do. Và nó giúp chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại nhất giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì không phải là cầm tù, hay, ngay cả cái chết, nhưng mà là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u minh minh rất dễ tiêu trầm, may lắm thì mới có được sự sống sót.

Với đám cầm bút Bắc Kít, vấn nạn nghiêm trọng hơn nhiều.
Hơn cả “Dưới cái nhìn Ðông Phương” của Steiner!
Ðằng sau tất cả những cay đắng nhục nhã như thế, là giấc mộng thống nhất đất nước.