|
Bút
Chiến, theo Foucault
Nhẹ
và Đều, đó là ý kiến một số bạn đọc, về số báo Văn Học
Xuân năm Dần, nhân trao đổi cuối năm giữa người viết và tòa soạn. Có
thể, vẻ
trang nhã của trang bìa, của một hai bài biết đã đã đưa tới cảm tưởng
trên.
Ngoài ra, còn nỗi nhớ nhà, và cùng với nó là nỗi đau: Tết này con vẫn
không về
được. Thời gian trôi, nỗi đau, nỗi nhớ ngày nào như xé gan xé thịt, nay
lặn
sâu, tưởng như nhẹ, nhưng mà là nhẹ khôn kham!
Bởi
vì có tới hai cuộc phỏng vấn, nhẹ khôn kham, về tình
hình văn học, xuất bản trong và ngoài nước. Và cùng với nó, cuộc thảo
luận tiếp
theo: bảo tồn văn hóa, về nguồn...
Hỏi
là có trả lời. Trong cuộc chơi (nghiêm trọng, tương
kính?), với những câu hỏi câu trả lời nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề,
quyền của
mỗi đương sự là bắt buộc. Người hỏi có quyền tỏ ra không tin tưởng, có
quyền
nhận ra sự mâu thuẫn, có quyền đòi hỏi thêm những dữ kiện, những thông
tin,
hoặc chỉ ra những suy luận sai lầm. Còn người trả lời có quyền không đi
quá vấn
đề nêu ra. Do tính cách luận lý, anh ta phải có trách nhiệm về những gì
đã nói
trước đó, tức là còn trách nhiệm với cả câu hỏi được đặt ra, một khi
chấp nhận
cuộc chơi.
Michel
Foucault, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, khi được
hỏi, tại sao không dính vô (engage) mấy vụ bút chiến (polemics), ông
trả lời:
Tôi thích bàn luận (discussion), và khi được hỏi, tôi cố gắng trả lời.
Nhưng
đúng là tôi không khoái dính tới mấy vụ bút chiến. Nếu tôi mở một cuốn
sách mà
thấy tác giả của nó buộc tội địch thủ, một kẻ tả phái ấu trĩ, tôi đóng
liền nó
lại. Đó không phải là cách làm việc của tôi. Tôi không thuộc về thế
giới những
người làm việc kiểu đó. Đây là điều thiết yếu đối với tôi. Toàn thể vấn
đề đạo
đức được đặt ra. Đạo đức liên can đến việc truy tìm sự thực, và liên hệ
với tha
nhân. Những câu hỏi và trả lời tùy thuộc cuộc chơi - vừa thích thú vừa
khó khăn
- trong đó mỗi bên chỉ được dùng quyền của mình do đối phương ban cho,
dưới
hình thức đã được chấp nhận của cuộc đối thoại. Người bút chiến, ngược
lại, tự
cho mình quyền ưu tiên. Anh ta chẳng bao giờ bằng lòng hỏi. Đối phương
không
phải là bạn, partner, trong cuộc truy tìm sự thực, mà là một kẻ thù,
một kẻ
sai, gây hại, một mối đe dọa. Và anh ta có bổn phận phải tiêu diệt,
không cho
phép đối phương được quyền thảo luận. Mục đích tối hậu của anh ta không
là tiếp
cận sự thực khó khăn, được chừng nào tốt chừng đó, mà là chiến thắng
sau cùng,
của công lý (just cause) anh ta đeo đuổi từ đầu. Kẻ bút chiến tự cho
mình cái
quyền hợp tình hợp pháp, điều mà đối phương của anh bị từ chối ngay từ
đầu cuộc
chơi. Theo M. Foucault, bút chiến là hình nhiễu (parasite figure) của
bàn luận.
Giờ
nói về sự thực (truth). Trong bài Tác giả là gì?, ông
phân biệt hai thứ sự thực, giữa bản văn khoa học, và văn học. Ông đưa
ra sự
khác biệt về tầm quan trọng mang tính lịch sử về vai trò tác giả, trong
khoa
học, và trong văn chương. Tại Tây Phương, ông chỉ ra, tới thế kỷ 17,
những bản
văn khoa học liên can mật thiết tới tiếng tăm, và thẩm quyền của tác
giả. Những
bản văn mà chúng ta bây giờ gọi là khoa học (bàn về vũ trụ, bầu trời, y
học,
bệnh tật...), được chấp nhận vào thời Trung Cổ, và chỉ được chấp nhận
như là sự
thực khi có tên tác giả. Bây giờ, tên tác giả không còn là trung tâm
mang tính
thẩm quyền của bản văn (khoa học). Sự thực trở nên vô danh. Nhưng về
văn học,
ngược lại. Vào thời Trung Cổ, những văn bản văn học cứ tự nhiên được
chấp nhận,
được lưu truyền mà chẳng ai thắc mắc về căn cước của tác giả; tính vô
danh thị
này chẳng làm phiền một ai, bởi vì tính cổ xưa, cho dù thực hay ảo, là
đủ bảo
đảm cho tư cách bản văn. Nhưng từ đầu thế kỷ 19, văn chương với chữ Văn
viết
hoa, nổi lên như một hoạt động có giá trị, có một thế giá tự thân trên
diễn đàn
văn học (ông đề nghị coi R. Barthes, Độ Không của Chữ Viết ), vai trò
của tác
giả mới trở nên có giá, được luật pháp bảo vệ. Sự thực trở nên hữu danh!
Bài
phỏng vấn chớp nhoáng, về sách xuất bản, trong và ngoài
nước, và về internet. Chớp nhoáng, nhưng có thể là mối bận tâm đã từ
lâu, của
tòa soạn Văn Học, và của bạn đọc. Nó liên can tới số phần của văn học
hải
ngoại. Liệu chăng, chúng ta là những nhà văn Mohican (một sắc dân da
đỏ) cuối
cùng? Sau chúng ta sẽ chẳng còn văn học Việt Nam, bởi vì văn học trong
nước kể
như chưa có, chừng nào mà chủ nghĩa CS vẫn còn thống trị?
Khi
trả lời cuộc phỏng vấn, người viết thay vì trực diện với
câu hỏi, đã đưa ra thông điệp, của một người viết trong nước, khi trả
lời tạp
chí Thơ, số mùa đông 1997. Nhà thơ Lê Đạt, khi tỏ ra không thích từ hải
ngoại,
mặc nhiên ông đã thừa nhận một điều, chỉ có một từ văn học ngắn gọn mà
thôi. Và
cái thông điệp mà ông muốn gửi tới chúng ta, tuy chỉ liên can tới thơ,
nhưng
cũng thật rõ ràng: "Nhược điểm của thơ Việt là đã quá lâu không được
tiếp
xúc với thi ca thế giới, bị gò bó bởi hiện tượng cách biệt và tính chất
địa
phương... Cần phải có nhiều cố gắng hơn nữa trong việc dịch thơ, giới
thiệu thơ
thế giới. Ở hải ngoại có những điều kiện đóng góp đó." (người viết nhấn
mạnh). Bản thân người viết, qua mục Tạp Ghi, khi cố tình đưa ra một
liều lượng
thật nặng tay, những thông tin, thật sự chỉ mong, một phần nào những
thông tin
đó tới được người đọc, bạn bè ở trong nước. Hãy thử tưởng tượng hai thứ
ký
sinh, trên một thân thể, bà mẹ Việt Nam. Văn học hải ngoại cũng chỉ là
một thứ ký
sinh, theo hai nghĩa:
1/
Nó không thể sống nổi, khi tự cho rằng, đây là một thứ
văn chương tuẫn nạn, đây là những người viết cuối cùng, của một dòng
văn học tự
do, sau chúng ta là hết, chỉ còn một thứ văn chương người Việt viết
bằng tiếng
Anh, tức văn chương mất gốc, vong thân (?).
2/
Khi sống bám vào bà mẹ, tuy ở xa, và tìm đủ đủ mọi cách
để làm cho cái thân cây đó không bao giờ lụi tàn, bởi vì nếu nó lụi tàn
thì
khúc ruột ngàn dậm cũng chết theo. Vẫn là ký sinh, nhưng là một thứ ký
sinh hữu
ích (văn học hải ngoại có những điều kiện đóng góp đó, Lê Đạt).
Còn
văn chương trong nước, chừng nào còn chủ nghĩa CS, nó
vẫn chỉ là một thứ văn chương phục vụ một số người, và là một thứ ký
sinh làm
hao mòn, kiệt quệ bà mẹ Việt. (Đây là nói về văn chương chính thống).
Nguyễn
Huy Thiệp, qua phỏng vấn trên Văn Học, đã ví văn
chương trong nước như trong cơn đau đẻ. Văn chương hải ngoại, hình như
cũng
đang trải qua một cơn đau đẻ như vậy. Sự xuất hiện ồ ạt của nhiều nhà
văn nữ
cho thấy hiện tượng này. Đàn bà thường vẫn nhạy cảm với thời tiết, với
đổi
thay. Với tôi, văn học hải ngoại bây giờ mới bắt đầu: Bây giờ Hồi ức là
Hy
vọng. (Now the party of Memory is the party of Hope. Harold Bloom, The
Western
Canon, nhà xb Harcourt Brace & Company). Hồi ức ở Miêng, ở Lê Minh
Hà, ở
Hoàng Nga... mỗi tác giả là một cách sử dụng hồi ức, như một khí giới,
trong
cuộc truy tìm hy vọng.
(Ở
đây, tôi chỉ nêu ba tác giả như tiêu biểu cho ba dòng hồi
ức. Trong ba tác giả, Miêng là một tác giả khó đọc nhất. Kinh nghiệm
của riêng
tôi, khi đọc Miêng, tương tự như lần đầu đọc Kafka. Có người cho rằng
bà viết
không đều, truyện được, truyện không, nhưng có lẽ phải mượn tri thức
của nhân
loại, khi tiếp cận tư tưởng của Nietszche, Kafka, hoặc M. Foucault, để
giải
thích trường hợp Miêng. Tôi muốn nói kinh nghiệm về khùng điên,
madness, ở
những bước ngoặt của lịch sử. Những tác giả như Miêng, Linda Lê hình
như đã
kinh qua những giai đoạn sinh tử này, và mỗi người giải quyết một cách.
Ở
Miêng, là Phật giáo, ở Linda Lê, với tác phẩm mới nhất, Ba Nữ Thần Của
Địa
Ngục, Les Trois Barques, là kinh nghiệm King Lear của Shakespeare, theo
như
nhận định của giới phê bình Pháp).
Trong
bài trả lời phỏng vấn của Thanh Tâm Tuyền (La Part d'
Exil; trong lời giới thiệu, Lê Hữu Khóa đã coi ông là một tác giả đáng
gờm
nhất, le plus redoutable, đối với giới phê bình Việt Nam, do tính sáng
tạo đa
dạng, do lý thuyết văn chương tổng hợp), ông viết: Sau khi được giải
phóng -
après ma libération, tức là sau khi ra khỏi trại tù, chứ không phải sau
1975
(người viết bài này thêm vô) - trên con đường trở về, việc đầu tiên mà
tôi làm,
là cúi gập mình ghi chép những bài thơ đã được ký ức lưu giữ suốt thời
gian bị
giam giữ... Tôi là một kẻ sống sót, nhưng tôi không muốn là nhà văn
nữa, như
tôi từng mong muốn. Khi ở trong trại tù, tôi đã viết trong ký ức: Viết,
phải
làm sao, đối với tôi, như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi. Và
bây giờ,
tôi tự bảo mình: Một việc như thế, khi nào tôi có thể?: Lại-viết
(re-écrire).
Theo ý nghĩa đó, có thể văn chương hải ngoại bây giờ mới bắt đầu,
lại-viết -
sau 1975, sau trại tù. Vẫn là tinh thần câu nói của Adorno (Sau
Auschwitz mà
còn làm thơ thì thật là dã man). Văn Cao sáng tác Mùa Xuân đầu tiên
ngay sau
75, bài hát độc nhất sau khi ông làm việc đó, trong có những câu: Bây
giờ người
biết quên người, bây giờ người biết thương người, bây giờ người biết
yêu
người... (chỉ được hát trên đài Moscow, vào năm 1976). Tùy bạn đọc,
quên là
quên người nào, thương người nào, yêu người nào. Sự xuất hiện của những
nhà văn
nữ cho thấy một điều: Họ chẳng nợ nần gì thứ văn chương làm dáng của
miền Nam
trước 75, cũng chẳng mắc mớ gì tới văn chương ai thắng ai của miền Bắc:
lại-viết, như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi. Chỉ có hồi ức,
là hy
vọng. Là truyền thuyết:
Khi
truyền thuyết trở thành sự kiện, hãy in truyền thuyết.
(When the legend becomes fact, print the legend. John Ford, Steven
Spield trích
dẫn. Time, March 16, 97).
Dương
Nghiễm Mậu, tên thật là Phí Ích Nghiễm. Bút hiệu của
ông, theo như tôi được biết, là từ một tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu:
Dương Từ
Hà Mậu. Sau 1975, ở lại, ông coi mình là một Khuyết Danh Thị. (Không
tên. Ta về
như hồn ma tủi nhục. Sans nom. Je reviens comme un fantôme humilié. Tô
Thùy
Yên. La Part d' Exil. Mảng Lưu Vong ).
Trước
1975, thời gian tác phẩm của Dostoevsky được ào ạt
dịch ra tiếng Việt, tôi nói với một người anh, tiểu thuyết của nhà văn
Nga này
có lẽ từ bi hùng kịch Hy lạp; ông ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: bi hùng
kịch
Hy-lạp thật ra cũng chưa đạt tới đỉnh cao Thuyết Đường: Cảnh tống tửu
Đơn Hùng
Tín. Cả một đám bạn bè từng uống máu ăn thề, đồng sinh đồng tử, vậy mà
cứ khơi
khơi cụng ly với bạn, rồi sau đó đưa bạn ra chặt đầu! Cảnh Kiều Phong
uống rượu
với anh em Cái Bang tại Tụ Hiền Trang, rồi sau đó mở một trường sát
đấu, trong
tiểu thuyết chưởng của Kim Dung, theo tôi, là từ Tống Tửu Đơn Hùng Tín.
Con
rồng xanh này còn là nguyên mẫu cho rất nhiều anh hùng hảo hớn trong
giới giang
hồ miền Nam. Họ chọn bút hiệu này, chỉ vì nỗi bất hạnh, kết cục bi đát,
chứ
không vì võ công cao cường, đức hạnh của một anh thảo khấu, chuyên bắt
đàn em
đóng hụi chết! Người ta không trách Tôn Thọ Tường/Tôn Phu Nhân qui
Thục, nhưng
đã làm một chuyện như vậy thì đừng có lợi dụng văn chương, thơ phú để
mà biện
minh này nọ! Nhìn theo cách đó, người dân Việt rất tâm đắc với quan
niệm trai
thì trung hiếu làm đầu, gái thì tiết hạnh làm câu sửa mình của Nguyễn
Đình
Chiểu, nhưng nước mất, vua băng rồi, còn gì đâu mà trung? Hiếu thì mù
rồi, cứ
cõng mẹ chạy vô chạy ra, chứ làm gì được bây giờ? Vân Tiên gặp tiên,
mắt liền
sáng ra, Đồ Chiểu đâu cần đến tiên, ông mù nhưng lòng không mù! Nỗi bất
hạnh
của ông, người dân thông cảm, đâu có gì để mà chê trách! Quan niệm đạo
đức của
ông, người ta cố noi theo, có gì đâu để mà chống đối! (Sau này, tư
tưởng trung/
hiếu/thảo/tình bè bạn kết nghĩa đầy rẫy trong tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh là
vẫn nằm trong truyền thống Nam Bộ, đất biên cương xa cung đình, và
người ta
chẳng hề biết đến nỗi u hoài trung quân/trung nguyên: Từ thuở mang gươm
đi dựng
nước, ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long. Thơ Quang Dũng thời chống
Pháp, chống
Mỹ cứu nước, thì cũng vẫn chỉ mong vươn tới đỉnh cao của tình người:
Đêm mơ
Hà-nội dáng kiều thơm. Những truyện hiện diện đủ cả love&sex mà có
Hồ Biểu
Chánh ở trong đó thì thật lạ quá. Giữa ông và Lê Xuyên là trùng trùng
lớp lớp
những đứa con lai, những snack bar, những người chết hai lần, những năm
tháng
tủi nhục ngay cả khi những tủi nhục đã chấm dứt..., vậy mà cả hai lại
cùng ngồi
một chiếu, nói chuyện love&sex được!). Không lẽ một ông đồ mù chống
lại
được cả một thế lực thực dân, chủ nghĩa tư bản? Ngay Marx cũng phải
công nhận
thành quả 100 năm chủ nghĩa tư bản thống trị thế giới; nếu có thêm một
trái đất
nữa thì nó cũng biến thành thuộc địa, thành thị trường tiêu thụ, và
chiếm đoạt
tài nguyên. Nếu sau này, CSVN lợi dụng con thuyền chở đạo của Đồ Chiểu,
thì có
mắc mớ gì đến ông đâu? Không lẽ mấy tay bá nghệ/ bá đạo Trần Bạch Đằng/
Hưởng
Triều/Nguyễn Trương Thiên Lý gì đó khen Đồ Chiểu là chúng ta phải chê?
Câu
ca dao Vân Tiên ngồi dưới gốc môn... thật ra phải được
hiểu theo khung cảnh đồng ruộng bát ngát miền Nam, sáng trăng/ sáng
lòng, nghĩa
là phải nhìn từ xa... chứ không như cảnh tượng trong một câu ca dao
khác: Sáng
trăng em tưởng tối trời, Em ngồi em để sự đời em ra, Sự đời như cái lá
đa.... Ở
câu này, là sự chê trách cô gái hớ hênh, nhưng trong câu ca dao trên,
Nguyệt
Nga làm sao biết được giữa trời đất bao la, giữa cảnh trăng sáng mênh
mông lại
có một Vân Tiên ngồi núp? Câu ca dao được trích dẫn trong cùng bài viết
lại
càng cho thấy Vân Tiên chẳng có gì đáng chê trách: Đêm thì quan lớn tần
mần như
ma! Ngày phải làm thần, nhưng thần thì vẫn chỉ là người, giá được làm
ma, nghĩa
là làm những chuyện bóp biếc gì đó, trong bóng tối, như ma, thì được,
có gì đâu
mà mất đạo đức! Bùi Kiệm đâu có chờ trăng lặn, đâu có thông cảm một
Nguyệt Nga
muốn giao hòa với ánh trăng với đồng ruộng mênh mông, muốn cho thiên
nhiên được
ngắm tòa thiên nhiên của mình! Anh ta đâu có chờ đến lúc trăng lặn mới
làm việc
của ma! Tất cả cách giải thích văn chương từ quan niệm bình dân chống
lại bác
học, thái độ đời thường chống lại quan niệm đạo đức Khổng Mạnh cứng
nhắc, thực
ra chỉ là một huyền thoại, nằm trong huyền thoại học lớn, do nhà nước
CS chế
tạo ra. Tại sao Vân Tiên lại ngồi núp, mà không phải một người khác? Ở
đây, tôi
nghĩ, người bình dân muốn đẩy cuộc thí nghiệm về quan niệm đạo đức của
Nguyễn
Đình Chiểu vào một hoàn cảnh éo le, sau thái độ khoan khoan ngồi đó chớ
ra của
Vân Tiên, nhưng họ cũng phải kết luận bằng một câu tám: chờ cho trăng
lặn...
Chúng ta cứ coi đây như là một diễm phúc, một ân huệ sau cùng của Vân
Tiên đi!
Tuy mù, muốn làm gì thì làm, nhưng phải chờ trăng lặn đã!
Nghệ
thuật tiểu thuyết đến với thế gian như là âm vang tiếng
cười của Thượng Đế (Kundera). Khi lịch sử sang trang nhân loại vẫn muốn
nhìn
ngoái lại bằng tiếng cười. Người bình dân không phê phán thái độ đạo
đức cứng
nhắc của Đồ Chiểu, không buồn vì ông tuy cũng là thi sĩ nhưng kém tài
so với
Nguyễn Du, nhưng khi họ cho Vân Tiên ngồi dưới gốc môn, là muốn bù cho
ông cái
phần thiếu đó. Harold Bloom, trong cuốn sách kể trên, trích dẫn G. K.
Chesterton khi ông bàn về nghệ thuật của Geoffrey Chaucer - c.
1340-1400, thi
sĩ Anh, tác giả The Canterbury Tales, những câu chuyện (thơ) được kể
bởi những
người hành hương, trên đường tới thánh địa Thomas Becket: Tính hài của
Chaucer
đôi khi quá rộng, quá rộng đến nỗi không nhìn thấy, (the Chaucerian
irony is
sometimes so large that it is too large to be seen). The Canterbury
Tales cho
chúng ta một bức tranh về một xã hội Thiên Chúa giáo tan hoang, thoái
trào, bất
định; chúng ta không biết hướng về đâu. Chỉ một biếm gia (ironist) mới
có thể
lưu giữ được một bức tranh như thế. Ngay cả thời cực trị của chế độ
phong kiến,
bên cạnh ông vua cũng có một tay hề. Chúng ta không có những tác phẩm
lớn, có
thể do không nhận ra yếu tố hề, ở những thời điểm bi đát như vậy. Nỗi
lo lớn
nhất của Kundera, trong chương mở đầu Những di chúc bị Phản bội: Ngày
mà
Panurge (Rabelais) không làm ai cười nữa.
Câu
ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa có thể hiểu theo ngôn
ngữ ca tụng thân xác, (không liên can gì đến sex. Ca tụng thân xác ở
đây, tôi
nghĩ, nên hiểu theo tinh thần của G. Bachelard, về thi ảnh trong vũ
trụ, La
poétique de lespace, 1958), như câu: Anh đi em ở lại nhà, Cái dưa thì
khú, cái
cà thì thâm. Bây giờ, người ta có một cách diễn tả khác: Anh đi rồi còn
ai tình
tự? Câu ca dao trên, theo tôi, chỉ là tiếc nuối thời con gái, còn tươi
mơn mởn
như nụ tầm xuân vừa mới nở ra xanh biếc, hơn là chuyện gặp nhau quá
muộn màng.
Cô gái không hề tỏ ra luyến tiếc người con trai mới lần đầu gặp gỡ. Cô
chỉ tiếc
thời con gái, ngậm ngùi nhớ những ngày còn không... Không/Chồng: tuy
cùng âm,
nhưng là hai cảnh đời hoàn toàn khác biệt.
Trên
trích dẫn M. Foucault, càng tới gần sự thực khó khăn
chừng nào, tốt chừng đó, bởi vì ông tin rằng khó có ai tự cho rằng mình
đã tìm
được sự thực. Trong Quê Hương Tưởng Tượng, Rushdie trích câu nói của
Luis
Bunuel, một nhà làm phim: Tôi sẽ hy sinh thân mình cho kẻ đi tìm sự
thực. Nhưng
tôi sẽ giết, một cách thích thú, avec joie, kẻ nào nghĩ rằng anh ta đã
bắt được
sự thực. Theo ông, giả tưởng (văn chương) bắt đầu cùng với sự truy tìm
Graal,
vượt cả chính Graal, với sự chấp nhận, thực tại và đạo đức không phải
là những
gì có đó (données), nhưng chỉ là những tạo dựng bất toàn của con người
(des
constructions humaines imparfaites). Đây là điều mà J. F. Lyotard, vào
năm
1979, gọi là Điều kiện hậu hiện đại. Cuộc thách đố của văn chương, là
chấp nhận
đây là khởi đầu, để rồi tìm cách thực hiện những đòi hỏi tinh thần
không đổi
dời của con người. Ông viết tiếp: Tuy hiển nhiên, nhưng cũng cần nhấn
mạnh,
trong những xứ sở đang đòi hỏi tự do, nghệ thuật luôn luôn bị kìm kẹp
một cách
đầy hận thù, như tôn giáo. Cuộc cách mạng ở Tiệp-khắc, đã bắt đầu từ
trong
những vở kịch, và được dẫn dắt bởi một nhà văn; một bằng chứng cho thấy
những
đòi hỏi tinh thần, chứ không phải vật chất, của con người, đã tống xuất
những
ông chính uỷ nhân dân ra khỏi quyền lực. Nếu tôn giáo là một giải đáp,
nếu ý
thức hệ chính trị là một giải đáp, văn chương sẽ là một cuộc điều tra;
một nền
văn chương được coi là lớn lao, vĩ đại khi nó đưa ra những câu hỏi lạ
thường,
mở ra những cánh cửa tinh thần mới mẻ cho chúng ta.
Vẫn
trong Quê Hương Tưởng Tượng, ông kể lại phút sơ sinh của
Những đứa con giờ Tý : Trên tường phòng làm việc của tôi có treo một
bức hình
cũ, trong một cái khung rẻ tiền. Hình một căn nhà, chụp từ năm 1946,
trong căn
nhà đó, tôi chưa ra đời. Căn nhà có vẻ hơi kỳ cục... "Quá khứ là một xứ
lạ,"
câu mở đầu cuốn tiểu thuyết của L.P. Hartley, Sứ giả (Le Messager), "ở
đây, người ta làm những chuyện khác hẳn." Nhưng tấm hình bảo tôi, hãy
đảo
ngược vấn đề; nó nhắc nhở tôi, rằng hiện tại của mình mới là xứ lạ,
rằng quá
khứ là ở nhà, cho dù một ở nhà (chez-moi) đã mất, trong một thành phố
vô tăm vô
tích, chìm trong đám sương mù dầy đặc của thời gian đã mất. Rồi ông có
dịp trở
lại Bombay, sau nửa đời lưu lạc. Một bữa, ông mở cuốn niên giám điện
thoại, tìm
tên ông thân sinh. Lạ thay, tên ông vẫn có đó, cả địa chỉ cũ của gia
đình, số
điện thoại, như thể chúng tôi chưa từng rời khỏi nơi đây, tới một xứ
bên kia bờ
biên giới (Pakistan). Đây là một khám phá kỳ lạ. Như thể người ta xác
nhận với
tôi, như thể người ta thông báo cho tôi, rằng cái cuộc đời xa xăm kia
chỉ do ảo
tưởng tạo nên, chính sự liên tục này mới là thực tại. Rồi tôi tới viếng
căn nhà
cũ. Tôi đứng nhìn, chẳng mong làm quen những người chủ mới (Tôi không
muốn biết
họ đã làm hư hỏng bên trong như thế nào). Tôi thật sự ngỡ ngàng: tấm
hình cũ lẽ
dĩ nhiên là đen trắng... đúng lúc đó, Những đứa con giờ Tý đã được nẩy
sinh:
tôi hiểu, tôi mong muốn xiết bao, làm sao tái tạo quá khứ, không phải
dưới hình
thức đen trắng, mà bằng Cinémascope, bằng Technicolor... Bombay là một
thành
phố được xây dựng nên bởi những người ngoại quốc, trên vùng đất đã bị
chinh
phục. Tôi tin tưởng, chính tôi, riêng tôi, cũng có một thành phố, một
câu
chuyện để mà chinh phục, để mà chiến thắng.
Nhưng
thế nào là chinh phục, thế nào là chiến thắng, đối với
một di dân? Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền sử dụng hai chữ giải phóng, khi ông
ra khỏi
trại tù. S. Rushdie, trong Qưê Hương Tưởng Tượng, coi tiểu thuyết là
cách thức
để chối từ văn bản chính thức về sự thực của những chính trị gia, và
nếu ông sử
dụng tiếng Anh để viết, tiếng Anh của ông cũng không giống như người
Anh sử
dụng. Chúng ta phải tái phát minh (réinventer) nó, cho những nhu cầu
của mình:
Chinh phục tiếng Anh có lẽ là hoàn tất tiến trình giải phóng của chúng
ta.
(Conquérir la langue anglaise cest peut-être achever le processus de
notre
libération, sđd, p,28). Liệu chúng ta có thể đồng ý với ông, khi nhìn
sự thắng
thế của dòng văn chương tiếng Anh viết bởi di dân, như là một cách thức
bảo tồn
văn hóa? Như một hoàn tất tiến trình giải phóng khỏi những vấn nạn
đi/về,
quốc/cộng, vong thân/đạt thân...? Hình như chúng ta đã có kinh nghiệm
này rồi,
khi sử dụng chữ quốc ngữ thay thế chữ nôm.
"... Khi đọc họ, ở những năm
cuối của đời mình, tôi cứ
mường tượng ra một sự khởi đầu. Khởi đầu cho cái gì, và ở đâu, tôi
không biết,
nhưng luôn luôn là một sự khởi đầu.", Người viết xin mô phỏng một câu,
trong Gã Găng-tơ Tất Cả Chúng Ta Tìm, của Lê Thị Diễm Thuý, để kết thúc
bài này.
|