|
Minh Ngọc @
Rừng Sau Nhà
Welcome!
Lâu lắm, kể
từ cái lần gặp nơi Ðại Hội Phim Ảnh, Minh Ngọc và tụi này mới có dịp
gặp lại,
nhân ông chồng ở Mỹ do công chuyện ghé Toronto.
Nếu có những
“hard facts”, sự kiện nhức nhối, ở trong truyện thần tiên dành cho con
nít,
thì
cũng có những “hard
facts”, như thế, trong những truyện tình trong Chờ Duyên
FACT AND
FANTASY
The Art of
Reading Fairy Tales
The fairy
tales of my childhood have a meaning
deeper than
the truths taught by life. -SCHILLER, Wallenstein
Storytelling
is always the art of repeating stories, and this art is lost when the
stories
are no longer retained.
It is lost because there is no more weaving and
spinning to go on while they are being told.
-WALTER
BENJAMIN, ''The Storyteller"
Minh họa của
bậc thầy Gustave Doré, cho truyện con nít “Yêu Râu Xanh” bị chửi là đầy
chất
"Sợi Xích"!
Hai bức minh
họa truyện con nít, “Yêu Râu Xanh”, sử dụng cho Chờ Duyên, thật
tuyệt!
Gặp lại MN
MN hỏi, thời
gian ở Ðỗ Hòa, đã có cây dừa nào chưa. Gấu nói, khi Gấu ở đó, chưa có
gì hết,
chỉ cuốc đất, cuốc đất, như vậy là MN cũng rành DH quá hả?
Hồ Tôn Hiến,
trong đời gây ra hai cú phá sản tầm cỡ quốc gia là Ðỗ Hòa trồng dừa, và
Dung Quất
đào… dầu hôi.
Ui chao một đấng chăn trâu, học lớp 1 mà cũng kế hoạch lớn, kế hoạch
nhỏ, phải chết thôi.
Thời gian Gấu
ở Ðỗ Hòa quả là tuyệt vời. Nếu TTT vào trại tù, làm lại được thơ, thì
Gấu ở Ðỗ
Hòa tìm lại được tất cả cuộc đời đã mất đi của Gấu.
Nhà văn Nguyễn Đông Thức (giữa) trong lần
cùng ông Võ Văn Kiệt (phải) ra thăm
nông trường dừa Đỗ Hòa của TNXP TP.HCM ở Cần Giờ, năm 1982. Bên trái là
chị Võ
Thị Bạch Tuyết, giám đốc nông trường, nhân vật chính trong truyện ký
Hạnh phúc
Note:
GNV đã từng ở đây, hai niên, thời gian 1982-1984, cỡ đó, vì sau khi về
đời, ra
Bưu Ðiện viết đơn mướn, gặp Châu Văn Nam, bạn UPI cũ, anh cho tháp tùng
đi
chuyến 1985, tại bãi Vàm Láng, Gấu nhớ rõ, là vì chuyến đi này trùng
với lễ kỷ
niệm Mười Năm Ðại Thắng Mùa Xuân của VC.
CVN
mang theo hình ảnh, tài liệu, bài viết về 10 năm Miền Nam sống dưới chế
độ Bắc
Kít. Gấu không có dính vô vụ này, được CVN cho đi theo để làm thông
ngôn, nếu
thoát, lo vụ MIA, cũng do tổ chức của anh đảm trách!
Sau
đó Gấu mới biết, toàn đồ dởm, nào là danh sách Mẽo đã chết [CVN gọi là
"khô mực"], chôn ở đâu, nào là danh sách Mẽo bị VC bắt giữ, còn sống
nhăn,["mực sống, mực tươi"] giam ở đâu...
Thời
gian Gấu ở đây, đám TNXP làm quản giáo, đội trưởng các đội lao động sản
xuất,
nhân viên văn phòng, kế toán, chỉ có đám tù khổ sai lao động thôi.
Sở
dĩ Gấu bám trụ được tới hai năm, là nhờ một tay TNXP làm chức kiểm soát
đồ thăm
nuôi, đã từng là độc giả của "Gấu, nhà dịch thuật”, thương tình, vờ,
không
bỏ túi mấy trăm bạc Gấu Cái giấu trong trong túi cói đựng gạo, và anh
biểu Gấu
dùng tiền đó mua chức Y Tế Ðội, cho “Gấu nhà văn”.
Ðúng
là GNV, bởi vì công việc quan trọng của Gấu, là lo tờ báo của Ðội. Vào
thời kỳ
đó, trưởng trại tù là một Chú Tư, hay Chú Mười, VC nằm vùng, sau được
điều về
Thương Binh Xã Hội coi trại tù gồm tù xã hội, phục hồi nhân phẩm…
không
phải tù chính trị, không phải em trong hình, đứng kế Nguyễn Ðông Thức.
Chuyện
này kể sơ sơ cũng vài lần rồi.
Nhưng,
kể như là chưa kể, vì hai năm Ðỗ Hòa quả là quãng đời hạnh phúc nhất
đời của
Gấu! Còn biết bao kỷ niệm mà cứ khư khư ôm trong bụng, chưa chịu kể ra,
bởi vì
thay vì kể, thì lại đi lo chửi thiên hạ!
Gấu
nhớ có gặp Nguyễn Ðông Thức, con trai bà Tùng Long thì phải, hình như 1
lần,
khi ghé tờ Tuổi Trẻ, thời
gian Gấu viết mấy bài điểm sách, Thám
Tử
Buồn, của 1
nhà văn Liên Xô, Ngôi Nhà Của Những
Hồn Ma, của em Isabel Allende … cho
báo
này.
Bài này,
viết, liền sau khi gặp MN, 2004. Sau này, khi đám gọi là bạn của HNT,
trên DM, đi 1 đường
tưởng niệm ông, và do GNV này ngứa miệng đi 1 đường còm, thì chúng mới
biết tới,
và cảm thấy như bị xúc phạm, vì dám coi thường bạn của chúng.
Một đấng bèn đi ‘mấy
lời’ dậy dỗ Gấu!
Bởi là vì MN
đã yên phận rồi, thành ra GNV không dám lôi chuyện cũ từ ngày xửa ngày
xưa ra để
làm bà bực mình, nhưng cả đám này, thực sự mà nói, không đọc nổi bạn
của chúng,
cho nên không làm sao phân biệt ra được sự khác biệt giữa Thư Về DSC với toàn
thể những tác phẩm còn lại của HNT, và từ đó, do phản ứng ngược, chúng cũng không làm sao đọc được toàn thể tác phẩm
còn lại, "và từ đó", như 1 hệ luận, chúng không làm sao nhận
ra con người thực của HNT.
Anh khác
hẳn những nhà văn viết truyện trẻ thơ, và truyện cho tuổi mới
lớn như
Duyên Anh, Lê Tất Ðiều, thí dụ, là ở điều này:
Ngoài Duyên
Anh viết cho tuổi thơ, còn Thương Sinh, cũng vẫn xừ luỷ, viết biếm văn,
cực độc, cực ác.
Cũng thế,
ngoài Lê Tất Ðiều, tác giả Những
Giọt Mực, còn Kiều Phong, với những
bài biếm văn độc chẳng thua gì Thương Sinh.
Chúng ta tự
hỏi, tại làm sao Hoàng Ngọc Tuấn không có thêm một Ông Ác ở nơi ông?
Hỏi, là trả
lời vậy.
Kỳ tới, Gấu
sẽ bàn tiếp, tại làm sao MN, sau này hết viết văn được, và nếu có viết,
thì cũng
khác hẳn những gì ở những tác phẩm đầu tay…
Ðây không phải
vấn đề đạo văn, mà là, tác phẩm được viết dưới sự bùa chú của 1 tác
phẩm khác,
tác giả khác. Như trường hợp Fowles, thí dụ. (1)
Nhưng để hiểu cas của HNT,
và sự kiện ông không thể nào viết “biếm văn”, không phịa cho
mình 1 thứ nick, như Ðạo Cấy [chắc cũng giống “đạo (tr)(ch)ích”], Sinh
Tử Phù…
chúng ta cần viện đến nhưng câu như, cái ác là thức ăn của thiên tài,
hay, trong
bất cứ đại tác phẩm, thì đều có sự tham dự của quỉ…
(1)
Fowles died at his home in Lyme
Regis on November 5, 2005, after a
long illness.
[From Wikipedia, the free encyclopedia].
Nhà văn Hồng Mao này có cả một
câu lạc bộ riêng, gồm những độc giả
mê ông. Với ông này, "Anh Môn" có tên là Miền Đã Mất, The Lost Domaine, như một
tiểu luận của ông, mở ra bằng một câu trong một lá thư
vào năm
1911 của Alain-Fournier:
"Tôi mê điều huyền diệu chỉ khi
nó bị thực tại ôm chặt không sao rứt ra
nổi,
chứ không phải cái thứ huyền diệu làm thực tại bực mình, hoặc tính chơi
cha
nó”.
[I like the marvelous only when it is strictly enveloped in
reality, not
when it usepts or exceeds it].
Fowler viết: Tôi ngờ rằng, Miền Đã Mất (Anh Môn) là một cuốn sách hiếm,
lạ, mà
một độc giả sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều, nếu chỉ đọc, mà chẳng bao
giờ tìm
hiểu nó.
Fowles đọc "Anh Môn" hồi còn
trẻ, và sau này, ông viết cuốn tiểu thuyết
đầu tay của riêng mình, Magus,
dưới bùa chú của Anh Môn [“ảnh hưởng rất
nhiều bởi
Anh Môn”: very much under its influence, như ông viết trong tiểu luận
nói
trên]. Hơn thế nữa, ông hành hương tới những thánh địa, của cả hai,
cuốn sách
và tác giả của nó. “Nói gắn gọn, tôi trở thành một cây si, lúc nào cũng
cảm thấy
mình gần gụi với Fournier hơn bất kỳ một tiểu thuyết gia nào khác.”
Hà Nội của Anh Môn
Miền Đã Mất
Khi cuốn tiểu thuyết hư hư thực
thực [quasi-mystical] của ông, The
Magus, ra lò [1966], ông nhận được rất nhiều thư của lớp tuổi
choai choai. Họ hỏi
ông, có sử dụng ma túy [LSD, hay mescaline], khi viết. Khi Người Đàn Bà Của
Viên Thiếu Uý Pháp ra mắt độc giả vào năm 1969, nó trở thành một
cuốn sách gối
đầu giường của sinh viên đại học, một phần vì cách viết tân kỳ, và cách
chấm dứt
tác phẩm, với nhiều kết cục, và vào thời điểm đó, quả thực đã gây chấn
động, và
tạo ra rất nhiều bàn cãi.
Viết, nếu bạn phải, bởi vì bạn cảm thấy thích viết; chớ khi nào, bởi vì
bạn cảm
thấy phải viết [never because you feel you ought to write].
Đừng bao giờ viết vì bị bản năng nóng, hot instinct, cắn vào đít, vào
tay, vào
chỗ ấy..., gây ngứa, bắt phải viết. Bạn chỉ có thể viết do kinh nghiệm
lạnh, by
cold experience. Đó là lý do nhiều tiểu thuyết gia phải đợi qua bốn bó,
[after
the age of forty], mới gãi bật ra được tất cả những tác phẩm bảnh của
họ [do
all their best work].
John Fowles: Ghi chú về một cuốn
tiểu thuyết dở dang.
Portrait
of an artist
John Fowles, who died this
week, was one of Britain's most successful
novelists. But he found his success repellent, loathed many of his
fellow
writers and sought refuge from 'litbiz' in the countryside, putting a
strain on
his marriage. Our exclusive extracts from the final volume of his
diaries, to
be published in January, reveal the brutal candour and extraordinary
lyricism
of a man at war with himself and the world
Saturday November 12, 2005
The Guardian
Chân dung một
nghệ sĩ
John Fowles, vừa mất tuần này, là nhà văn thành công nhất của Anh,
nhưng ông thấy
thành công làm phiền ông, làm ông tởm bạn văn, bèn chuồn về nhà quê, và
như thế,
đến lượt bà vợ phiền. Tờ Guardian online mới xì mấy đoạn trong nhật ký
của ông,
Phần Hai, sẽ phát hành vào Tháng Giêng năm 2006.
Fowles on Rushdie
February 14 1989
Rushdie fuss. Eliz in a paranoiac state, that I might support him. This
is a
clear moral choice.
Thằng chả Rushdie làm ồn quá. Eliz gần như phát khùng, về chuyện thằng
chồng
mình bênh ông ta. Nhưng đây là một chọn lựa đạo đức, hiển nhiên phải
như vậy.
Why have I not turned to
poetry? What keeps me in exile?
Tại sao mình không quay qua làm thơ, nhỉ? Cái gì khiến mình lưu vong?
Tôi ớn
nhất cái ngày gửi bản thảo cho nhà xuất bản, bởi vì đó là
ngày mà những con người mà tôi yêu thương, chết; họ biến thành, thảm
thương
thay, những bộ phận, những xương cốt cho loài người nghiên cứu, tìm
tòi, nhặt
nhạnh. Nhân loại còn làm phiền tới mức tra hỏi tôi, khúc xương này
nghĩa là gì,
cái sọ kia của ai. Nhưng cái gì mà tôi viết ra, nó là thế nào thì nó là
thế ấy.
Nếu nó không rõ ràng ở trong sách, nếu như thế, nó cũng chẳng nên rõ
ràng, vào
lúc này.
John Fowles: Ghi chú về một cuốn tiểu
thuyết dở dang.
Pasternak đã từng gọi điện thoại cho bồ, khóc nức nở.
- Chuyện gì vậy, cưng?
- Ông ta chết rồi, chết rồi!
- Ai chết?
- Zhivago!
*
Nhóm Tiểu Thuyết Mới làm tôi xẩu hổ, vì cũng bầy đặt ti toe tí tiếng
Tây. Cả
đám không làm được điều mà Sartre đã làm, qua vài đoạn trong Buồn Nôn.
Theo
tôi, sau-1918, có bốn cuốn tiểu thuyết Tây nổi cộm, đó là Đi Tận Đêm
Đen, Voyage au bout de la nuit,
của Céline, Phận Người của
Malraux, Buồn Nôn, của
Sartre, và Dịch
Hạch của Camus. Chúng đều là những cuốn tiểu thuyết trực diện
với cuộc đời, mỗi
cuốn theo một cách nào đó, cho dù theo kiểu của Voyage: Tẩn cho cuộc đời một trận!
Fowles
|
|