Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
 Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết mỗi ngày/Sách & Báo Mới
https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1

Cali, No-2012
Bobin
Ghiền
TTT in Ký Ức Sơ Sài
Rain
Paris Review 60 năm
Sổ Đọc
Thảm họa dịch
Nostalgie de la boue
Ám ảnh phố phường
Câu hỏi hắc búa
Viết lại Truyện Kiều
Thơ vô ngôn
Hope in thin shell
Nhìn lại TLVD
Mit Crisis
Borges by Greene
NQT @ talawas
Tiểu thuyết là gì?
1968-Khe Sanh
Sarajevo Siege 1992
Paris tắm
Mit Critic
Ghiền
Cô Gái Chơi Cờ
Pamuk:
Cơn giận dữ của những kẻ bị trầm luân
Viết nhỏ by PTH
Anh Môn by The Economist
Cavafy by Vargas Llosa
Opium-Marx
20 năm VH Miền Nam
Granta Sex
The Good vs The Chtistian
Iceberg
Gatsby
Simic: What if
PCT triết gia
Season Elegy
Truyện ngắn bất khả
NHT by Nhật Tuấn
Steps
Lost_Intel
Chia tay
Youth
Fleeing by Cao Hành Kiện
Loneliness by CHK
To Young Poets by AZ
NHQ và HTXHCN
Bolano: Trong Ngoặc
Borges's Còm
Hà Nội Gió
Tạp Chí ST by CTC
Graham Greene Dangerous Edge
Đọc lại Agatha Christie
Message to 21th Century
Memory Trap
How to write a sentence
Bùi Ngọc Tuấn
Ôi chao giọng Huế
Lapham Kẻ Lạ
Inner Worlds
LMH case
Bịp
Lolita loathsome brillance
Kafka Poet
Once upon a sea
Images Life by Simic
Borges by Cioran
Centaur Question by P_Levi
Ars Erotica
Keo_LMH
A Place in the Country
Love-Letter by Durrell
Bad Words Praise
Imaginary Beings Book
Love Stories
Thôi bỏ đi Tám
Surf Tin Văn
Nơi cuộc chiến bắt đầu
Thông điệp I. Berlin
Mit vs Lò Thiêu
Why Lawers Love Shakespeare
Karl Popper on Democracy
Nhã Ca @ Cornell
NL vs Camus
HNB Case
Naipaul on Borges
Viết bằng tiếng nước người
Kể lại 1 đời
Trần Trọng Kim
Ngôn ngữ & Tư tưởng
Kafka in 21 Century
Vu Lan 2016
Đảo xa
House of the Dead
Solex vs Áo Dài
LMH Hanoi









 


Albert Camus, ou l’inconscient colonial

Novembre 2000, pages 8 et 9
« Un homme moral dans un monde immoral »
Albert Camus, ou l’inconscient colonial
Après « L’Age des extrêmes », d’Eric Hobsbawm, « Le Monde diplomatique » publie — cette fois avec Fayard — « Culture et impérialisme », d’Edward W. Said. Dans ce livre, également inédit en français, le grand intellectuel américano-palestinien démontre comment l’œuvre majeure de grands écrivains occidentaux n’échappe pas à la mentalité coloniale de leur temps. Exemple : Albert Camus.
par Edward W. Said

Note: Bài này quá tuyệt. Camus hay là vô thức thuộc địa.
Thú nhất, là Gấu vừa đọc1 bài viết của Eco, trong cuốn "Phịa ra kẻ thù". Ông phán, Do Thái là do Ky Tô Giáo phịa ra, để cân xứng giữa Tốt vs Xấu.
Theo nghĩa đó, Bắc Kít phịa ra lũ Ngụy.
Nazi đâu coi Do Thái là người.
Bắc Kít cũng thế.
Hơn 40 năm sau khi hết chiến tranh, chúng, những tên như NN, BN...  cởi mặt nạ, nhận mặt kẻ thù Yankee mũi lõ, không hề nhắc tới Ngụy, coi như không có!

Lũ này quá tởm!
NQT


Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn

Sunday, January 11, 2009 11:43 PM
Re:
Cam
on anh Tru .
Sau mấy năm rồi, cũng vẫn câu hỏi cũ : Làm sao mà vừa đọc, vừa viết, vừa chăm cháu ngoại, vừa nói chuyện với bạn bè được, hay quá .K thì chỉ đọc (internet) và xem là nhiều . Vừa xem lại "The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim tàu hay nhất, dù không vĩ đại . Chỉ có tình là vĩ đại thôi .
*
Tôi chưa coi phim đó.
Tks.
Chỉ có tình là vĩ đại thôi. Mà cứ phải mấy anh Tầu, mới vĩ đại. Tây Mẽo không bằng. Hồi ở VN tôi có đọc một cuốn sách dịch chuyện tình Tầu. Chuyện nào cũng hay. Có một chuyện, về một anh học trò nhà quê, lên thành đô học, mê một em trong xóm, chuộc em ra. Rồi bố mẹ bắt về, trên đường về đi ngang thuyền một anh lái buôn. Anh này thấy cô vợ đẹp quá bèn dụ anh chồng đánh bạc, thua, cho vay, thua tiếp, phải bán vợ. Cô vợ, vào lúc sang thuyền khác, bèn mở mấy cái rương bạn bè trong xóm tặng ra, hoá ra toàn kim cương, hột xoàn, và cứ từ từ thả xuống sông, rồi thả mình theo.
Có một lời bàn, đẹp thế, sao ngu thế, chọn đúng thằng cực kỳ khốn nạn mà theo!
Chuyện hơi giống chuyện nàng Tuấn Khanh [hay Thiếu Khanh?], trong Truyền Kỳ Mạn Lục. Nhưng chuyện TK có hậu hơn, anh chồng hối hận, lo nuôi con, cô vợ sau thành thần, về gặp lại chồng, trong mộng, tất nhiên, khuyên theo phò Lê Lợi.
*
Chuyện tình Mít kể, đương thời, thì có NNT. Truyện số 1 của nữ văn sĩ “miệt vườn, đặc sản Miền Nam”, là Một Mối Tình. Truyện ngắn mới nhất,
Có con thuyền đã buông bờ Lâu rồi mới viết chuyện tình mà chẳng hay ư? Chuyện tình lồng trong chuyện tình, lồng trong chuyện tình. Cái cô Bê phải có một mối tình lớn, vì nó mà bỏ xứ mà đi, và mối tình trắc trở này chắc là mắc mớ tới một người đàn ông có vợ, và bị vợ bỏ chạy theo thằng khác [đây là "mô típ đặc sản" của NNT, như trong Một Mối Tình, trong Cánh Đồng Bất Tận]. nếu không, cô không để ý tới anh chàng có đứa con bị sốt], rồi còn mối tình thương hại anh học trò em trai cô chủ nữa.
Thú thực, viết như thế, thì Gấu này phải chịu là Thầy!
Đặc sản Miền Bắc thì có em Phương, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, chửi anh Kiên, Yankee mũi tẹt, mày ngu quá, đâu còn đêm nào như đêm nay…. Hay em trong Trăng Goá, do sặc sụa mùi nước đái tại Ga Hàng Cỏ khi tiễn Yankee vào Nam chiến đấu mà nhận lời cầu hôn Thủ Trưởng, hay anh cu Sài của Nê Nựu, Đảng bảo lấy ai thì lấy người đó!


Viết mỗi ngày

Viết như không viết

Kính bác Gấu,
Cháu thấy bác Gấu đọc nhiều, cho cháu hỏi về một cuốn truyện.  Năm 1982, bà ngoại cháu mượn đâu đó, đem về cho cả nhà coi.  Cuốn truyện viết về thời Việt Minh chống Pháp, bắt giới tiểu trí thức lên rừng tẩy nảo, giam vào những trại tù để viết tự kiểm điểm.  Trong đó là chuyện tình của chàng tiểu trí thức với một nàng cán bộ kiểm giáo.  Từ ngày qua đây, lớn lên, cháu vẫn để tâm tìm lại nhưng không thấy tái bản.  Trên văn đàn, cũng không thấy ai nhắc tới.  Đọc trên Da Màu, cháu thấy chú và mấy "bạn già" của chú nhắc về chuyện xưa tích cũ, vậy chú đã đọc cuốn "Cõi Đá Vàng" của bà Nguyễn Thị Thanh Sâm chưa?  Có thể nào chú dọ hỏi giùm cháu tông tích của cuốn truyện đó?  Bà ta là ai mà viết về CS thật kinh khủng.  Nếu thật sự tuyệt tích giang hồ, văn học miền Nam của mình mất một tác phẩm tuyệt vời.  Tiếc hùi hụi!  Một câu trích trong cuốn truyện đó vẫn in hằn trong trí nhớ của cháu: "Có gì lạ đâu em ơi, trong cơn mê này của nhân loại, mà ta được chọn làm thí điểm."

Trần Vũ là thần tượng của cháu. Chưa kịp nói, chú đã giới thiệu bài ký mới rồi, lẹ thật. Cháu cũng như anh ta, mê Phan Nhật Nam, mê Erich Maria Remarque, mê Herman Hesse...  Đọc ký của anh ta, cháu thấy cháu, có điều, anh ta đi trước ba bốn năm và anh ta viết lên được thành văn.  Viết thật tuyệt vời.

Vu+a di lam ve doc bai cua T-Vu, sau sa+c qua, hen chi ma nguoi ta nga'n T-Vu.
Bac oi, du+ng dang tren web lam chi - co gi ma da+ng...

Phúc đáp:
Có đấy.

Gấu chưa hề thích, bất cứ một cái gì từ Mr. TV [Không phải Mr. Tin Văn]. Anh ta cường điệu quá. Đây là cú viết đầu tiên của anh ta, không cường điệu, và quá bảnh.
Trường hợp TV làm Gấu nhớ đến một xen trong Thạch Kiếm. Tay kiếm sĩ này bị kẻ thù săn đuổi, được một em kỹ nữ chứa chấp. Thấy mặt mày kiếm sĩ căng thẳng quá, em kỹ nữ mới đi một đường truyền dậy bí kíp đánh đàn, và em nói, y chang bí kíp đấu kiếm.
"Căng quá, thì giống thế này này”, và em cầm kiếm đi một đường đứt hết dây đàn.
Đại khái vậy.
Một tay kiếm sư trong phim Scaramouche mà Gấu coi từ hồi nhỏ cũng phán, cầm kiếm như cầm chim. Chặt quá, nó nghẹt thở, chết; lỏng quá, nó bay mất.
Từ trước giờ TV cầm chim chặt quá, chết mẹ mất chim. (1)
Bây giờ mới biết cầm! NQT
(1) Cái tay cầm lỏng quá, theo Gấu, là me-xừ Đỗ KH.
Còn một tay nữa, cầm chim cũng chặt quá, mặt mày hầm hầm, như sắp O.K. Corral tới nơi, thấy ớn, là PNH.
Đố bạn biết là ai?


Làm Thơ Ở Sài Gòn

2

Làm Thơ ở Sài Gòn làm Gấu nhớ đến Nguyễn Tuân....

Continue Reading
Image may contain: 1 person, selfie and closeup

Thi sĩ TTT, trong những ngày tù, làm thơ, giữ trong đầu, những dòng đầy ẩn mật, lòng chẳng chút oán sầu, nhưng, khi được trả về với gia đình, trong giờ phút ghé Hà Nội chờ tầu xuôi Nam, đã nhớ tới câu văn của bạn mình, cuộc trùng phùng, tái ngộ mới cay đắng làm sao. Ông như đã cảm nhận ra "âm điệu vong thân" (1), của ông và bạn bè với thành phố quê hương,

Tôi trở lại thành phố của tôi, thân quen với những dòng lệ,
với cơn đau thịt thừa trong cổ họng thuở ấu thơ, và chứng chướng tĩnh mạch
Bạn đã trở về đây - vậy thì hãy nuốt
dầu đèn phố Leningrad
Hãy nhận ra bây giờ ngày tháng Chạp mù sương...
Petersburg, tôi chưa muốn chết
Tôi có số điện thoại của bạn ở trong đầu
Petersburg, tôi vẫn có những địa chỉ, tại đó, tôi sẽ tìm ra tiếng nói của những người đã chết...
(Osip Mandelstam, Leningrad)
Nơi Người Chết Mỉm Cười

Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy..",
Trong đất trời

(1) Hóa ra là "âm điệu tủi thân" của me-xừ nào đó, thuổng từ chữ này. NQT

Osip Mandelstam

LENINGRAD

Russian

1891-1938

I've come back to my city. These are my own old tears,
my own little veins, the swollen glands of my childhood.

So you're back. Open wide. Swallow
the fish oil from the river lamps of Leningrad.

Open your eyes. Do you know this December day,
the egg yolk with the deadly tar beaten into it?

Petersburg! I don't want to die yet!
You know my telephone numbers.

Petersburg! I've still got the addresses:
I can look up dead voices.

I live on back stairs, and the bell,
torn-out nerves and all, jangles in my temples.

And I wait till morning for guests that I love,
and rattle the door in its chains.

Leningrad. December 1930

1972, translated with
Clarence Brown
W.S. Merwin
 

I returned to my city, familiar to tears,
to my childhood's tonsils and
varicose veins.

You have returned here-then swallow
the Leningrad street-lamps' cod-liver oil.

Recognize now the day of December fog
when ominous street-tar is mixed with the yolk of egg.

Petersburg, I do not want to die yet
I have your telephone numbers in my head.

Petersburg, I still have addresses at which
I will find the voice of the dead.

I live on a black stair, and into my temple
strikes the doorbell, torn out with flesh.

And all night long I await the dear guests,
and I jangle my fetters, the chains on the door.

[Osip Mandelstam, Selected Poems, translated by David McDuff. Cambridge: River Press, 1973, p.111] (1)

Tôi trở lại thành phố của tôi, thân quen với những dòng lệ,
với cơn đau thịt thừa trong cổ họng thuở ấu thơ,
và chứng chướng tĩnh mạch

Bạn đã trở về đây - vậy thì hãy nuốt
dầu đèn phố Leningrad

Hãy nhận ra bây giờ ngày tháng Chạp mù sương...

Petersburg, tôi chưa muốn chết
Tôi có số điện thoại của bạn ở trong đầu Petersburg,
tôi vẫn có những địa chỉ, tại đó, tôi sẽ tìm ra tiếng nói của những người đã chết...

*

Note: Bài thơ thần sầu. Gấu tính dịch toàn bài, mà cũng quên hoài. Lần này chơi luôn!



Bếp Lửa Ottawa

*


*

Tham ong ba Gau manh khoe. Nhin hinh moi nhat cua ong tren tanvien thay gia` di nhieu qua. TT
Gia roi ma khong chiu hiền de ma chet, van con hung hang con bo xit!






























Trang NQT

art2all.net

Istanbul


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây
























































































































Frederic Dard, a master of French noir

This prolific novelist is little known to English-language readers. A new series of translations will introduce them to his sinister work
Trùm tiểu thuyết đen của Tẩy.
Như Simenon, cả hai đếch thèm chơi với giới văn nhân, và chẳng hề được coi là trí thức Tẩy

Dard, like Simenon, relished his status as a best-selling provincial outsider. “Neither of them had much connection with the literary world,” Bellos explains, “and neither could be considered a ‘French intellectual’: both left school at 15.” However, as much as his great counterpart, Dard roots slaughter and mayhem in the implacable collision of desire and destiny. That deadly machine can feel as classically French as a play by Racine or a novel by Balzac.
 
Both protagonist and victim, Albert cannot escape his fate, and nor does he wish to. Dard, notes Bellos, “had a view of humanity almost as unflattering as Simenon’s”. In a spasm of compassion, Albert gives a Christmas-tree decoration to Lucienne: a velvet bird in a silver cardboard cage. That present will help to damn him. The cage-door swings shut, and he locks himself inside.

Bird in a Cage by Frédéric Dard, translated by David Bellos (Pushkin Vertigo)

Ui chao, lại nhớ thời mới nhớn, mê Simenon như điên. Lúc nào cũng thủ 1 cuốn Simenon trong túi. Mỗi lần được phái đi sửa máy tại 1 đài Bưu Điện địa phương, là phải có Simenon cùng đi. Gấu khá tiếng Tẩy là nhờ tiểu thuyết đen Tẩy

Iceland’s penis museum pulls it off

Opened in 1997, the world’s only phallological museum has been growing ever since. This year the exhibition will attract 50,000 visitors


Mit Critic

From:
To:
Cc:
Sent: Thursday, August 23, 2001 5:30 PM
Subject: Fw: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Chao anh Tru
Them mot doc gia "sensitive" ve chuyen ve VN
Anh Tru co muon viet tra loi doc gia nay?
pcl
 ----- Original Message -----
From:
To:
Sent: Thursday, August 23, 2001 2:07 PM
Subject: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Xin cha`o ca'c ba.n,
Ma^'y tua^`n na`y ddo.c ba'o chi' ha?i ngoa.i cu~ng nhu+ trong nu+o+'c tha^'y dda(ng ba`i pho?ng va^'n Nguye^~n Quo^'c Tru.- mo^.t ngu+o+`i co^ng ta'c vo+'i qui' ba'o- ve^` chuye^'n vie^'ng tha(m Vn cu?a o^ng ta.
Xin qui' ba'o cho bie^'t y' kie^'n ve^` chuye^.n na`y. DDa^y co' pha?i la` ha`nh ddo^ng tro+? ma(.t ba('t tay vo+'i Cs cu?a NQT hay kho^ng?
To^i i't khi le^n tie^'ng ve^` chuye^.n chi'nh tri. nhu+ng vi` to^i la` ddo^.c gi?a thu+o+`ng xuye^ng cu?a VHNT online va` ra^'t ye^u me^'n ta.p chi' na`y ne^n to^i mo+'i le^n tie^'ng.
Xin tha`nh tha^.t ca'm o+n.


Để có được bài viết của HNH, Gấu phải làm 1 cuộc trở về Hà Nội, và là người đầu tiên dám mở đường máu, không đơn giản đâu.
Mang ra hải ngoại, lọ mọ đánh máy, tìm cách giới thiệu, không chỉ trong giới viết lách mà ra quảng đại quần chúng qua trang Việt Báo.
Vậy mà không được tên khốn kiếp cám ơn 1 lời.
Không chỉ vờ, mà hắn còn chọc quê GCC, bằng cách
cám ơn HNH.
Ông này ở Hà Nội đâu có biết gì đâu?

Subject: Re: Texts
Date: Fri, 8 Dec 2000 10:27:39 -0800
From:
To:
Ca?m o+n anh Tru.
Ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia Ta^n The^' Ky? la` do to^i so't.
DDe^m nay se~ ddi ba`i "Dde^m Tha'nh 3" va` dde^m mai (Thu+' Ba?y) se~ ddi
ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia
To^i phu.c anh kinh khu?ng, ve^` su+' ddo.c, su+'c vie^'t, su+. nha.y be'n
va` lo`ng tho+ mo^.ng.
Sau na`y ddo^.c gia? trong va` ngoa`i nu+o+'c se~ ghi o+n anh (nhu+ to^i
dda~ no'i ho^`i anh ghe' Calif.), nha^'t la` gio+'i sinh vie^n va` dda(.c
bie^.t la` gio+'i nha` va(n nhu+ to^i.
Tha^n a'i


PTH Việt Báo

Đa tạ

NQT

Lũ này, chỉ quen cái chuyện áo thụng vái nhau, thơ văn như kít, nhưng vịn thơ nhau mà đứng dậy,
cái gì gì dựa hơi [hơi gì ?] nhau mà viết, thế là ô hô ai tai cả 1 giấc mộng xâm nhập văn chương nước người, thế giới. Không tên nào đọc được văn chương mũi lõ, điều này không hẳn là do dốt tiếng mũi lõ, mà phần nhiều là do tâm thức, thói quen, khẩu vị… Gấu đã kể, vào lúc mới lớn, mê Buồn Nôn, La Nausée, của Sartre, ông anh rể là Hiếu Chân phán đưa tao đọc thử, đọc chỉ vài dòng là quăng lại, và quả thế thực, phần nhật ký không ngày tháng mở ra cuốn này, cực khó đọc, hà, hà!

Lê Công Định commented on this.
Follow

Cơ quan an ninh bắt Blogger Mẹ Nấm (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh) vào thời điểm này là ngầm dằn mặt Công Giáo vì Mẹ Nấm là gia đình theo Đạo.
Sự kiện dân Công giáo miền Trung nổi dậy làm điêu đứng thể chế cộng sản bắt đầu với cuộc biểu tình phản đối Formosa tại Giáo xứ Đông Yên và trước đó Công Giáo Nghệ an kéo vào Kỳ Anh nộp đơn kiện Formosa có nguy cơ bùng phát.

Nhà cầm quyền trong lúc này tập trung hết vào việc dập lửa. Bắt các Linh mục thì chưa dám nên họ nhắm bắt Mẹ Nấm với cái cớ "chống nhà nước" trong khi tài liệu khám nhà chỉ có các khẩu hiệu phản đối Formosa.

Ai cũng biết trong cái đảng đỏ máu này các phe phái ăn chia đang phân rã khủng khiếp. Quyết định dập lửa của họ đôi khi thay vì tưới nước có kẻ lại ngấm ngầm chuyển tới can xăng.

Việc cuối cùng, thay vì khóc ròng cho Nẹ Nấm và ngồi bói xem họ sắp bắt ai tiếp theo, tôi nghĩ ai yêu mến cô ấy hãy tìm mọi cách theo khả năng cưu mang đùm bọc hai đứa con cô ấy có lẽ là thiết thực.

Lê Công Định and 768 others

Note: Đúng quá. Cái cú di cư, nếu không có công giáo, thì cũng không biến thành biến động lịch sử.
Chúa vô Nam, bây giờ đúng là lúc Chúa trở lại Đất Bắc.
Bắc Kít rất cần 1 thứ tín ngưỡng như Thiên Chúa Giáo, thứ mà Bắc Kít thù nhất.

Đây cũng là lời tiên tri mà Steiner lọc ra, khi viết về Liên Xô:

Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian.
Steiner

Amen!
http://tanvien.net/Tribute_1/30.4.14_2.html

Steiner có hai bài viết trên tờ The New Yorker, [sau in lại trong Steiner @ The New Yorker] về văn học Nga, thật tuyệt. Một, “De Profundis”, về Gulag, và một về Solz và những nhà văn Nga khác: Dưới cái nhìn Ðông phương, Under Eastern Eyes.

Steiner viết, những đòi hỏi của Solz, ở những người Nga đọc lén lút ông [bao nhiêu độc giả?], và khối độc giả bao la ở Tây Phương, thì thật là dữ dằn, nghiệt ngã. Ông biết, và coi khinh sự đáp ứng dễ dãi của người đọc Tây Phương, và cái khiếu thưởng ngoạn về sự khổ đau ở xa, distant suffering, của họ. Ông rành chúng ta, hơn là chúng ta rành ông. Và như thế, ông là một tác giả hướng ngoại, a searcher-out, một thứ chó săn ăn tìm sự yếu ớt về thể xác của con người. Và, vẫn như thế, ông là 1 tác giả gây bực.

Every time a human being is flogged, starved, deprived of self-respect, a specific black hole opens in the fabric of life. It is an additional obscenity to depersonalize inhumanness, to blanket the irreparable fact of individual agony with anonymous categories of statistical analysis, historical theory, or sociological model-building. Consciously or not, anyone who offers a diagnostic explanation, however pious, or even condemnatory, erodes, smoothes toward oblivion, the irremediable concreteness of the death by torture of this man or that woman, of the death by hunger of this child. Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the minute particular. As happens with Dante and Tolstoy, proper names cascade from his pen. He knows that if we are to pray for the tortured dead, we must commit to memory and utter their names, by the million, in an incessant requiem of nomination.

Mỗi một sự sỉ nhục, mỗi một sự tra tấn giáng lên một con người là một trường hợp riêng lẻ không thể giản đơn và không thể đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh đập, bị bỏ đói, bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm lại mở toạc ra trên tấm dệt đời. Đây là một sự bẩn thỉu bồi thêm, làm cho sự phi nhân không còn có tính cá biệt, và phủ lên sự vô phương sửa chữa, về cơn hấp hối của từng cá nhân, bằng đủ thứ phạm trù vô danh về nghiên cứu thống kê, về lý thuyết lịch sử, hay xây dựng mẫu mã xã hội. Cố ý hay không, bất cứ người nào tìm cách đưa ra một lời giải thích chẩn đoán, dù có đầy thiện ý cách nào, hoặc ngay cả chỉ trích đi nữa, cũng làm tiêu hao, bào nhẵn đến gần như quên béng đi tính cách cụ thể không thay đổi được về cái chết do sự tra tấn của ông này, bà kia, hoặc cái chết vì đói khát của em bé nọ. Solz. bị ám ảnh bởi sự linh thiêng của khoảnh khắc đặc biệt, dị thường. Như đã từng xẩy ra với Dante, và Tolstoy, tên riêng của con người trào ra như thác dưới ngòi viết của ông. Ông biết, nếu chúng ta cầu nguyện cho những người chết vì tra tấn, chúng ta phải nhập tâm và thốt lên tên của họ, trong dòng kinh cầu hồn không ngừng, từng tên một, hàng triệu tên.

Dưới con mắt Đông phương

Có một nghịch lý về thiên tài văn chương Nga. Từ Pushkin đến Pasternak, những sư phụ của thơ ca và giả tưởng Nga thuộc về thế giới, trọn một gói. Ngay cả ở trong những bản dịch què quặt của những vần thơ trữ tình, những cuốn tiểu thuyết và những truyện ngắn, chúng vẫn cho thấy một điều, không có chúng là không xong. Chúng ta không thể sẵn sàng bầy ra cái bảng mục lục những cảm nghĩ của chúng ta và của nhân loại nói chung, nếu không có chúng ở trong đó. Ngắn gọn, khiên cưỡng, theo dòng lịch sử, chỉ có văn học cổ Hy Lạp là có thể so đo kèn cựa được với văn học Nga, nếu nói về tính phổ quát. Tuy nhiên, với một độc giả không phải là người Nga, khi đọc Pushkin, Gogol, Dostoevsky, Mandelstam, họ vẫn luôn luôn là một kẻ đứng bên lề, một tên ngoại đạo. Họ có cảm giác mình đang nghe trộm, đọc lén một bản văn, một cuộc nói chuyện nội tại, rõ ràng thật dễ hiểu, sức truyền đạt cao, sự thích hợp phổ thông, vậy mà giới học giả, phê bình Tây phương, cho dù ở những tay sắc sảo nhất, vẫn không tin rằng họ hiểu đúng vấn đề. Có một cái gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước ra đi. Tất nhiên, đây là một vấn đề liên quan tới ngôn ngữ, hay chính xác hơn, đến những gam, những mảng quai quái, hoang dại của ngôn ngữ, từ tiếng địa phương, của giới quê mùa, cho tới thứ tiếng nói của giới văn học cao và Âu Châu hóa được những nhà văn Nga thi thố. Những trở ngại mà một Pushkin, một Gogol, một Anna Akhmatova bầy ra, nhằm ngăn chặn một bản dịch tròn trịa, giống như một con nhím xù lông ra khi bị đe dọa. Nhưng điều này có thể xẩy ra đối với những tác phẩm cổ điển của rất nhiều ngôn ngữ, và, nói cho cùng, có một mức độ, tới đó, những bản văn lớn lao viết bằng tiếng Nga vượt qua (Hãy tưởng tượng "quang cảnh quê ta" sẽ ra sao nếu thiếu Cha và Con, hay Chiến tranh và Hòa bình, hay Anh em nhà Karamazov, hay Ba chị em). Và nếu có người vẫn nghĩ rằng, không đúng như vậy, rằng Tây phương, khi quá chú tâm vào một bản văn thì đã làm méo mó, sai lạc điều mà một nhà văn Nga tính nói, thì không thể chỉ là do khoảng cách về ngôn ngữ.
Văn học Nga được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt. Người Nga cũng là giống dân đầu tiên đưa ra nhận xét có tính “chuyện thường ngày ở huyện” này. Lấy đơn vị là một năm, thì, chỉ chừng một năm thôi [“là phai rồi thương nhớ”], mọi thứ “sĩ” của Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy, viết, với con mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tác của Nga hiện hữu “mặc dù” chế độ. Nói rõ hơn, dưới chế độ độc tài kiểm duyệt, nhìn chỗ nào cũng thấy có cặp mắt của…cớm, vậy mà Nga vưỡn có tuyệt phẩm!
Một tuyệt phẩm như thế, nó chửi bố chế độ, nó mời gọi lật đổ, nó thách đố, hoặc trực tiếp, hoặc với một sự mặc cả hàm hồ nào đó, với chính quyền, hoặc Chuyên Chính Nhà Thờ, hoặc Mác Xít Lê Nin Nít, Xì Ta Lít.
Bởi vậy mà Nga có 1 thật câu thật hách [thật oách, cho đúng tiếng Bắc Kít], nhà văn nhớn là một “nhà nước thay đổi, xen kẽ, đổi chiều”, “the alternative state”. Những cuốn sách của người đó, là một hành động chủ yếu - ở nhiều điểm, độc nhất - của sự chống đối chính trị.
Trong trò chơi mèo chuột khó hiểu như thế đó, và nó gần như không thay đổi, kể từ thế kỷ 18, Viện Cẩm Linh cho phép sáng tạo, và có khi còn cho phát hành, quảng bá những tác phẩm nghệ thuật hiển nhiên mang tính nổi loạn, phản động.
Với dòng đời trôi qua, thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, những tác phẩm như thế đó - của Pushkin, Turgenev, Chekhov - trở thành cổ điển, chúng là những cái van an toàn chuyển vào miền tưởng tượng một số những đòi hỏi thay đổi, đổi mới chính trị, mà thực tại không cho phép. Cuộc truy lùng, săn đuổi những nhà văn-từng người, tống vào tù, cấm đoán sách của họ, là 1 phần của sự mà cả giữa đôi bên.
Một kẻ ở bên ngoài, không phải Nga, chỉ có thể biết đến cỡ đó. Anh ta nhìn vào nỗi đau khổ của Pushkin, sự chán chường của Gogol, hạn tù của Dostoevsky ở Siberia, cuộc chiến đấu thống khổ chống lại kiểm duyệt của Tolstoi, hay nhìn vào bảng mục lục dài những kẻ bị sát hại, mất tích, nó là cái biên nhận về sự thành tựu văn học Nga thế kỷ 20, và anh ta sẽ nắm bắt được “cơ chế”: Nhà văn Nga xục xạo, dính líu vào đủ thứ chuyện. Chỗ nào nhân dân Nga cần, là có nhà văn Nga. Anh ta dí mũi vào đủ thứ, khác hẳn thái độ buồn chán, và dễ dãi của đồng nghiệp Tây phương. Thường xuyên, trọn ý thức Nga được truyền vào ngòi viết của anh ta. Và để đổi lại, là mạng sống của anh ta, nói cách khác, anh ta trải đời mình, len lỏi đời mình, suốt địa ngục. Nhưng cái biện chứng tàn nhẫn này thực sự cũng không nói trọn sự thực, nó vẫn giấu đi ở trong chính nó, một sự thực khác, mà bằng trực giác, nó thì thật là hiển nhiên giữa những đấng nghệ sĩ Nga, nhưng kẻ bên ngoài đừng hòng nắm bắt được.
Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa thế tục thiên sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần Bạch Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan nào thực sự có thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng câm nín đó, lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế vi. Dùng cái từ “hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế! Họ không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại xuýt xoa, ui chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban cho, được một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết! Và họ gợi ý rằng, chỉ cái sự kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan Bạo Chúa là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận thế hay về lạ kỳ sáng tạo của số mệnh, Cuộc bàn luận giữa chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại, riêng tư, cá nhân. Người ngoài, nghe lén được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp ứng bằng 1 thái độ sẵn sàng, dễ dãi.

Những đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu gào tự do của họ, sự rất ư bực mình của họ trước cái lương tâm ù lì của Tây Phương, thì rất ư là rền rĩ và rất ư là chân thực. Nhưng họ không chờ đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng một thái độ thẳng thừng, ngay bong. Những giải pháp thì chỉ có thể có được, từ phía bên trong, theo kiểu nội ứng với những chiều hướng thuần sắc tộc và tiên tri. Nhà thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt, khinh miệt lũ chó săn, đám côn đồ cảnh sát truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế đứng với chúng, trong 1 liên hệ có tính cần thiết nhức nhối, cho dù đó là do giận dữ, hay là do thông cảm. Cái sự kiêu ngạo nguy hiểm, rằng có một mối giao hảo theo kiểu nam châm hút lẫn nhau giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan niệm như thế thì quá tổng quát, để mà xác định tính chất của bàu khí linh văn Nga. Nhưng nó gần gụi hơn, so với sự ngây thơ tự do. Và nó giúp chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại nhất giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì không phải là cầm tù, hay, ngay cả cái chết, nhưng mà là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u minh minh rất dễ tiêu trầm, may lắm thì mới có được sự sống sót.


Và cuộc lưu vong, phát vãng xứ người, ra khỏi khối u, hộp đau, cục uất đó, bây giờ ám ảnh Solzhnitsyn. Với con người mãnh liệt bị ám ảnh này, có một cảm quan thực, qua đó, sự nhập thân nơi Gulag đem đến vinh quang và sự miễn nhiễm ở Tây Phương. Solz ghét Tây Phương, và cái sự la làng lên của ông về điều này thì chỉ khiến người ta dửng dưng và… vô tri. Cách đọc lịch sử của ông theo lý thuyết thần học Slavophile thì cực rõ. Cuộc cách mạng Pháp 1789 thăng hoa những ảo tưởng thế tục của con người, cuộc nổi loạn hời hợt của nó chống lại Chúa Ky Tô, và mạt thế luận. Chủ nghĩa Mác là hậu quả tất nhiên không thể nào tránh được, của cái thứ tự do bất khả tri này. Và chính con vai rớt, khuẩn trí thức, “đặc mũi lõ” đó, được đám trí thức mất gốc, phần lớn là Do Thái, cấy vô máu Gấu Mẹ vĩ đại, là nước Nga Thiêng, the Holy Russia. Gấu Mẹ vĩ đại sở dĩ nhiễm độc là do những rất dễ bị tổn thương, và hỗn loạn của hoàn cảnh, điều kiện một nước Nga sau những khủng hoảng quân sự lớn 1914. Chủ nghĩa CS là một nhạo nhại của những lý tưởng thực sự về đau khổ, tình anh em đã làm cho nước Nga được Chúa chọn. Nhưng 1914 chứng kiến một nước Nga nhếch nhác, thảm hại tàn khốc, và vô phương chống lại cơn dịch của chủ nghĩa duy lý vô thần.
Từ đó, chúng ta nhận ra tầm quan trọng khủng mà Solz đánh vào năm đầu của cuộc Thế Chiến, và sự giải quyết của ông, để làm bùng nổ ra mọi khía cạnh vật chất và tinh thần của 1914 [một mùa Thu năm qua cách mạng tiến ra], và của những sự kiện đưa tới [Tôi nói đồng bào nghe rõ không] Tháng Ba, 1917, trong một dẫy những “sự kiện- giả tưởng” khổng lồ.
Nhưng trong cái khoa nghiên cứu quỉ ma này, Lenin đặt ra 1 vấn đề mà Solz cũng đã từ lâu quan tâm tới. Chủ nghĩa Mác có thể là thứ bịnh [quỉ] của Tây Phương và Hê-brơ [Do Thái], nhưng Lenin là một Trùm Nga, và chiến thắng Bôn sê vích chủ yếu là của ông ta. Rõ ràng, trong những bản viết đầu tay của Solz đã có những dấu vết chứng tỏ, một cá nhân con người, như là tác giả những bài viết, chống lại 1 hình tượng như là Lenin.
Trong một nghĩa chỉ có tí phần có tính ám dụ, Solz hình như cảm ra được rằng, ý chí, ước muốn kỳ quặc và viễn ảnh của riêng ông có gì xêm xêm của Lenin, và, cuộc chiến đấu cho linh hồn và tương lai của nước Nga, sẽ là cuộc tử đấu giữa ông và người tạo ra hệ thống Xô Viết: Trời cho mi ra đời là để dựng nên Xô Viết, còn ta, để huỷ diệt nó. Và tiếu lâm thay, đúng như 1 cú của định mệnh, thiên đường không đi, mà cả hai cùng hẹn nhau, không cùng lúc mà là trước sau, lần lượt: Solz thấy mình ở Zurich, cũng trong tình trạng lưu vong, với Lenin, là trước cú tận thế 1914. Solz đã đi 1 chương về Lenin trong “Tháng Tám 1914”, và còn dư chất liệu cho những tập kế tiếp mà ông đặt tên là “Knots". Nhưng cú tính cờ Zurich thì quá giầu có để mà bỏ đi. Từ đó, xuất hiện Lenin ở Zurich (nhà xb Farrar, Strauss & Giroux).

Kết quả thì không tiểu thuyết mà cũng chẳng luận văn chính trị, mà chỉ là một bộ, set, những điểm xuyết nặng ký, in depth. Solz nhắm “lên sơ đồ, hoạch định, tìm ra” những sở đoản, điểm bại, tử huyệt của Lenin. Tin tức về Cách Mạng Nga đến với Lenin trong kinh hoàng, theo nghĩa, ông hoàn toàn ngạc nhiên đến sững sờ. Ðầu óc thiên tài quỉ quyệt với những âm mưu gây loạn của Lenin khi đó chỉ nhắm tạo bất ổn ở Thuỵ Sĩ và đẩy đất nước này vào 1 cuộc chiến.

Ngồi ăn sáng mà Lenin buỗn nẫu ruột. Người quậy tứ lung tung cố moi ra tiền vỗ lớn cái bào thai cách mạng. Người nhức đầu vì một người đàn bà khác trong cuộc đời khổ hạnh của Người, nàng Inessa Armand cực phấn kích, làm rùng mình, và chấp nhận “lệch pha ý hệ” ra khỏi nàng, và điều này có nghĩa là một đệ tử của Thầy bị ăn đòn!
Trên hết, như Solz, đích thị xừ luỷ, Người nhận thấy cái sự khoan thứ, rộng luợng đã đư
ợc khử trùng và trở thành trong suốt của chủ nhà Thụy Sĩ khiến Người trở nên khùng:

Cả Zurich, chừng ¼ triệu con người, dân địa phương , hay từ các phần khác của Âu Châu, xúm xít ở dưới đó, làm việc, trao đổi công chuyện, đổi tiền, bán, mua, ăn nhà hàng, hội họp, đi bộ, lái xe lòng vòng, mỗi người mỗi ngả,   mỗi cái đầu thì đầy những ý nghĩ, tư tưởng chẳng có trật tự, chẳng hướng về đâu. Trong khi đó, đứng trên đỉnh núi, Người biết cách hướng dẫn họ, và thống nhất thành một mối ước muốn của họ.

Ngoại trừ điều này:  Người đếch có tí quyền lực cần thiết. Người có thể đứng trên đỉnh Zurich, hay nằm trong mồ, nhưng không thể thay đổi Zurich. Người đã sống hơn một năm ở đó, mà mọi cố gắng của Người đều vô ích, chẳng có gì thay đổi.

Và, kìa, chúng lại sắp hội hè nữa kìa!

Lenin trở về Nga, trong cái “xe đóng khằn” trứ danh, vi sự đồng lõa của nhà cầm quyền hoàng gia Ðức, và bộ tướng lãnh (họ mong làm sao chiến tranh đừng xẩy ra tại Nga). Nhưng Lenin chẳng hề có tham vọng này. Nó là từ cái đầu của Parvus, alias Dr. Helphand, alias Alexander Israel Lazarevich. Mặc dù cả một cuốn tiểu sử hoành tráng của Z.A. Zeman và W.E. Scharlau, “Tên mại bản cách mạng”, "The Merchant of Revolution", chúng ta chẳng biết chi nhiều, và rõ ràng, về ông này. Một nhà cách mạng a ma tưa, nhưng tầm nhìn đôi khi vượt cả của Lenin. Một tay gây vốn thiên tài cho Bolsheviks, nhưng còn là gián điệp nhị trùng, tam thùng, đi đi lại lại giữa các phần tử, đảng phái Thổ Nhĩ Kỳ, Ðức, và Nga. Ăn diện bảnh bao, dandy, người của muôn phương, cosmopolite, chàng bèn liền lập tức bị mất hồn và sướng điên lên vì chủ nghĩa khổ hạnh đến cuồng tín của những đường hướng của Lenin. Tòa villa sang trọng, giầu sang mà Parvus xây cho chính ông ta ở Berlin, và vào năm 1942, chết ở đó, sau này được Himmler sử dụng để đi một đường “giải pháp chót” [nhổ sạch cỏ] cho giống dân Do Thái.
*
Văn học Nga được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt. Người Nga cũng là giống dân đầu tiên đưa ra nhận xét có tính “chuyện thường ngày ở huyện” này. Lấy đơn vị là một năm, thì, chỉ chừng một năm thôi [“là phai rồi thương nhớ”], mọi thứ “sĩ” của Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy, viết, với con mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tá



Giới thiệu Đà Lạt qua mấy trang viết.

Viết về Đà Lạt mà bỏ qua không nhắc tới MCNK thì nhảm quá, và đọc như thế là hư cả Đà Lạt, do thiếu cái giai thoại nền tảng của nó, Đà Lạt là nghĩa địa của voi, đây cũng là ý nghĩa tương tự như Cội Rễ  Nhà Trời, Les Racines du Ciel, của Romain Gary

http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/10/da-lat-et-jentends-siffler-le-train.html

  1. có vẻ lần này Nguyễn Vĩnh Nguyên đã thực sự tìm được nhiều độc giả rồi đây :p

    Reply
    Replies
    1. "Như đôi mắt sớm thành ga cô quạnh..."

  2. thật không ngờ là đến một ngày sẽ có người trích thơ Lu Tử D. ở blog của tôi đấy :p

    Reply

Lu Tử D. Tuyệt kú nick. Đúng là chàng! Hà, hà!

Đâu phải vô tư mà Lê Cự Phách biến thành Du Tử Lê. Chàng biết chàng là ai, 1 kẻ làm thịt gái. Đúng là tên tìm tên, người tìm người, trâu tìm trâu, chó chơi với chó…. Bất giác lại nhớ đến 1 tay phóng viên, hỏi Naipaul 1 câu, Người sướng quá, cám ơn lia chia:
- Vào năm 1967, trong cuốn Lần Viếng Thăm Thứ Nhì, một thứ phóng sự về Ấn Độ, ông đã từng nói: "Tất cả những tự thuật Ấn Độ đều được viết bởi, vẫn chỉ có một người: dở dang". Phải chăng, đây là định nghĩa Willie? [nhân vật chính trong Nửa Đời Nửa Đoạn, La Moitié d'une vie, tác phẩm của Naipaul].
- Vâng, đúng như vậy. Cám ơn đã để ý tới điều này.
[Tạp Chí Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Chín 2005. Naipaul trả lời phỏng vấn].
Tên nhân vật, tên cuốn sách, số phận của 1 xứ sở, 1 dân tộc, là… 1. Tuyệt!
Cà, Lê, Táo…. Không thể so được với DÊ!
Tuyệt!
Trên TV có 1 bài viết về lần chàng về gặp lũ Cớm VC, từ 1 bài ở trong nước. Mới đây coi lại bài trong nước đã bị gỡ bỏ


2515. Hình ảnh họa sĩ/thi sĩ Đinh Cường trở về Đà Lạt và Dran lần cuối cùng tháng 11.2013 do phóng viên nhiếp ảnh Nguyễn Hữu thực hiện


Đà Lạt
5

Kiệt có, ở Đà Lạt, hai, trong số ba nàng của chàng: Oanh và Ly.
Hai Lúa có, hai, một cô bạn và một cô bé.
Cô Bé tức Bông Hồng Đen.
Cô bạn, là cái cô, y hệt Oanh, đã "miễn cưỡng" nhận lời mời đi coi ciné, với một anh chàng mê mình, ngày mai đi xa, ngày mai ra trận!
Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy.
"Lần đầu tiên anh cầm tay em, là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói: thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?"

Cô bạn là tác giả câu thơ mà bạn có thể để vào bài ai điếu, cho một nửa của bạn, khi nửa này chẳng may đi trước:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương.

Linda Lê, giữ mục "Trở Về Với Cổ Điển" cho tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Giêng 2005, trong bài viết "Tâm Hồn Lãng Mạn", L'Âme Romantique, nhân dịp tái xb tuyển tập "Những Nhà Lãng Mạn Đức", Les Romantiques Allemands, đã nhắc tới một định nghĩa, thế nào là dịch thuật, của Novalis.
Một bản dịch, thì, hoặc, có tính văn phạm [dịch theo nghĩa đen, bám chữ], hay có tính dẫn giải [mô phỏng, phóng tác], hoặc, có tính huyền hoặc, mythique. "Những bản dịch huyền hoặc là thứ bảnh, văn phong thuộc loại thượng thừa, de haute style. Chúng tái tạo nghệ phẩm, đưa nó trở về dạng trinh nguyên, toàn bích, ấy là nói về tính cách của nghệ phẩm, ở trong cái gọi là cá biệt, nhất khoảnh của nó. Nói một cách riết róng, không phải một nghệ phẩm mà nó dâng hiến cho chúng ta, mà chính cái gọi là lý tuởng".... Nó làm bật ra, còn quá bản văn, mà là linh hồn của tác phẩm.
Dịch mà làm sao cống hiến cho người đọc, không chỉ bản văn, mà là linh hồn của nó, ấy mới là dịch vậy!
Theo nghĩa đó, câu thơ "Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương" là một câu thơ dịch. Một bản sao.
Nó chuyển một Hồn Đông Phương thất lạc, không còn tìm thấy mình, thành nỗi buồn lưu vong, xa xứ.
Thành Buồn Tây Phương.

Borges đã từng suýt soa, dịch bản bảnh hơn nguyên bản, là vậy.
Cũng vẫn theo nghĩa đó, một tác phẩm chỉ là tác phẩm khi tìm được linh hồn của nó.
Ở trong dịch bản!

Cũng vẫn theo nghĩa đó, một nửa, nửa kia, của mình, mới là mình.
Mới là linh hồn của mình!

Mình là cái quái gì? Anh chỉ mong mọi người coi thường anh.
TTT: Một Chủ Nhật Khác
 *

Người đọc Một Chủ Nhật Khác, nếu tinh ý một chút, đã linh cảm ra được, kết cục bi thảm của nó, khi nhớ tới đoạn Kiệt gặp anh Trung Tá già, đã từng bị VC tóm được, trốn thoát. Hai người bàn về loài voi, khi biết mình sắp chết, là bò về nghĩa địa...

"Loài voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các nhà thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa địa voi"

"Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".


Một Chủ Nhật Khác

Một cuốn tiểu thuyết, một cách nào đó, giống như một bài toán đố. Những chi tiết, những sự kiện, giống như những giả thiết. Đọc, là tìm cách chứng minh bài toán, tìm ra cái định lý của nó.
Chính vì thế, người ta cho rằng, tiểu thuyết trinh thám mới đích thị là tiểu thuyết.
Theo nghĩa đó, Foucault cho rằng, bất cứ một kho tàng, dù chôn giấu kỹ lưỡng thế nào, người chôn cũng để lại tiêu ký, để cho người tìm có tí dấu vết mà lần mò.

Hai Lúa còn nhớ, có lần, tác giả Một Chủ Nhật Khác kể là, hình như trong một bài viết, lúc nghe tin ông Diệm bị làm thịt, ông đang ngồi với một vài ông bạn, cũng sĩ quan, lính tráng. Cả bọn đồng la lên: Hỏng rồi!

Hỏng rồi, là "đại cục" hỏng rồi?
Hỏng rồi, là vui sao nước mắt lại trào?
Hỏng rồi, là sẽ có 10 ngày ở... Thiên Thai?
Hỏng rồi, là sẽ có một con bọ?

Cái "tiêu ký" 'hỏng rồi' đó, sao mà... thảm thế!

Cách Mạng Vô Sản của Lê Nin
The Russian revolution
Missed connection
Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history

http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html

 TTT 10 năm

SN_GCC_2016
Quoc and Nguyễn are celebrating 3 years of friendship on Facebook!
See Your Memories


http://tanvien.net/new_daily_poetry/20.html

Son of Man and Son of God

Tuesday, July 29, 2014 4:11 PM

Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.

Nguyên tác:

Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine 

Theo tôi, nên dịch như sau:

Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Thưa bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là của bà 

Best regards,

DHQ
 

Phúc đáp:
Đa tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards

NQT


   Anh khoe khong?
K

OK rồi, không què đâu. Tks
NQT

Mạnh khỏe la vui roi!
O. 

Tks. Tưởng là què luôn.

V/v Đi tu tới bến.
Tôi đang đọc Weil, cũng có cảm giác đó

Bác Tru theo dao nao vậy?

Toi theo dao tho ong ba
Den gia, doc Weil, thi lai tiec.
Gia ma tre theo dao Ky To, chac là thành quả nhiều hơn, khi doc Weil.

*

NY Review Book 2005

Xuống phố, vô tiệm sách, vớ được cuốn trên. Đọc sơ sơ mấy dòng, thì vỡ ra tới hai điều rất ư là quan trọng, với riêng GNV:
Tại làm sao mà Gấu bị cái rìu phá băng Simone Weil bổ trúng đầu, đúng dịp Trần Trường Cờ Máu Hình Bác, tại ngay trung tâm Tiểu Sài Gòn, Cali?
Bản văn ‘Iliad hay là Bài thơ của Sức mạnh’ của Weil có một chị/em song sinh.
Khủng hơn nữa, cả hai tác giả, đều là nữ, và đều tự tử.

Bởi vì ngay cái tít của bài Intro cho cuốn sách trên, đã giải thích: Đây là câu chuyện của hai Iliads

Introduction: A tale of two Iliads

INTRODUCTION
A TALE OF TWO ILIADS 

The critic Kenneth Burke once suggested that literary works could serve as "equipment for living," by revealing familiar narrative patterns that would make sense of new and chaotic situations. If so, it should not surprise us that European readers in times of war should look to their first poem for guidance. As early as the fall of 1935, Jean Giraudoux's popular play La guerre de Troie n'aura pas lieu encouraged his French audience to think of their country as vulnerable Troy while an armed and menacing Hitler was the "Tiger at the Gates" (the play's English title). Truth was the first casualty of war, Giraudoux warned. "Everyone, when there's war in the air," his Andromache says, "learns to live in a new element: falsehood."

Giraudoux's suggestion that the Trojan War was an absurd contest over empty abstractions such as honor, courage, and heroism had a sinister real-life sequel when Giraudoux was named minister of wartime propaganda in 1939. In the wake of Munich, Minister Giraudoux announced that the most pressing danger to French security was not the Nazis but “one hundred thousand Ashkenasis, escaped from the ghettos of Poland or Rumania.”

After September 1939, the analogy between the crisis in Europe and the Iliad - which opens with broken truces and failed attempts to appease Achilles' wrath-seemed altogether too apt. During the early months of the war, two young French writers of Jewish background, Simone Weil and Rachel Bespaloff, apparently unaware of the coincidence, wrote arresting responses to the Iliad that are still fresh today. During the winter of 1940, Weil published in the Marseilles-based journal Cahiers du Sud her famous essay "L'Iliade, ou le poème de la force." Three years later - after both Weil and Bespaloff had fled France for New York - Jacques Schiffrin, a childhood friend of Bespaloff's who had become a distinguished publisher, published "De l'Iliade" in New York under the Brentano's imprint.

The idea of bringing these two complementary essays together was first pursued by Schiffrin and Bollingen editor John Barrett. After Mary McCarthy translated both essays into English plans were made to publish them in a single volume.' When rights to Weil's essay proved unavailable, Bespaloff's "On the Iliad" appeared separately in 1947, as the ninth volume in the Bollingen series, with a long introduction - nearly half as long as Bespaloff's own essay-by the Austrian novelist Hermann Broch, author of The Death of Virgil. In their respective essays, Weil and Bespaloff adopt some of the same themes while diverging sharply in their approach and interpretation. In her essay Weil condemns force outright while Bespaloff argues for resistance in defense of life's "perishable joys."

[suite]

NEW YORK REVIEW BOOKS CLASSICS
WAR AND THE ILIAD 

SIMONE WElL (1909-1943) was one of the first female graduates of the Ecole Normale Superieure and taught philosophy in provincial schools from 1931 to 1938. A socialist, she worked for a time on the Renault assembly line and volunteered to fight against the Fascists in the Spanish Civil War. In 1938, a mystical vision led Weil to convert to Roman Catholicism, though she refused the sacrament of baptism. Weil fled France for the United States in 1942, where, in solidarity with the people of Occupied France, she drastically limited her intake of food, so hastening her early death from tuberculosis. 

RACHEL BESPALOFF (1895-1949) was born to a Ukrainian Jewish family-her father was the Zionist theoretician Daniel Pasmanik-and raised in Geneva. Bespaloff intended to pursue a musical career, but after an encounter with the thinker Leo Shestov, she devoted herself to the study of philosophy. One of the first French readers of Heidegger, Bespaloff published essays in the 1930s about Kierkegaard, Gabriel Marcel, Andre Malraux, and Julien Green, among other philosophers and writers. In 1942, she left France for the United States, where she worked as a scriptwriter for the French Section of the Office of War Information before teaching French literature at Mount Holyoke. In 1949, Rachel Bespaloff committed suicide, leaving a note that said she she was "too fatigued to carry on."


Một chủ nhật khác

Lần trước còn học trong Thủ Đức, một chủ nhật được phép xuất trại, Kiệt không về nhà. Chàng thức giấc lúc trời tối mịt, không đợi xe buýt, ra khỏi doanh trại cùng vài người như những bóng ma. Một chuyến xe lam đưa chàng về Sàigòn còn đèn thắp ngoài đường. Trên phố vắng vẻ, gió không lộng như ngoài xa lộ, nhưng hun hút xào xạc. Kiệt đứng trên hè ngó dãy phố đóng ỉm cửa, và như bị nhiếp hồn.

Viết Mỗi Ngày

Frederic Dard, a master of French noir

This prolific novelist is little known to English-language readers. A new series of translations will introduce them to his sinister work
Trùm tiểu thuyết đen của Tẩy.
Như Simenon, cả hai đếch thèm chơi với giới văn nhân, và chẳng hề được coi là trí thức Tẩy

Dard, like Simenon, relished his status as a best-selling provincial outsider. “Neither of them had much connection with the literary world,” Bellos explains, “and neither could be considered a ‘French intellectual’: both left school at 15.” However, as much as his great counterpart, Dard roots slaughter and mayhem in the implacable collision of desire and destiny. That deadly machine can feel as classically French as a play by Racine or a novel by Balzac.
 
Both protagonist and victim, Albert cannot escape his fate, and nor does he wish to. Dard, notes Bellos, “had a view of humanity almost as unflattering as Simenon’s”. In a spasm of compassion, Albert gives a Christmas-tree decoration to Lucienne: a velvet bird in a silver cardboard cage. That present will help to damn him. The cage-door swings shut, and he locks himself inside.

Bird in a Cage by Frédéric Dard, translated by David Bellos (Pushkin Vertigo)

Ui chao, lại nhớ thời mới nhớn, mê Simenon như điên. Lúc nào cũng thủ 1 cuốn Simenon trong túi. Mỗi lần được phái đi sửa máy tại 1 đài Bưu Điện địa phương, là phải có Simenon cùng đi. Gấu khá tiếng Tẩy là nhờ tiểu thuyết đen Tẩy

Iceland’s penis museum pulls it off

Opened in 1997, the world’s only phallological museum has been growing ever since. This year the exhibition will attract 50,000 visitors


Mit Critic

From:
To:
Cc:
Sent: Thursday, August 23, 2001 5:30 PM
Subject: Fw: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Chao anh Tru
Them mot doc gia "sensitive" ve chuyen ve VN
Anh Tru co muon viet tra loi doc gia nay?
pcl
 ----- Original Message -----
From:
To:
Sent: Thursday, August 23, 2001 2:07 PM
Subject: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Xin cha`o ca'c ba.n,
Ma^'y tua^`n na`y ddo.c ba'o chi' ha?i ngoa.i cu~ng nhu+ trong nu+o+'c tha^'y dda(ng ba`i pho?ng va^'n Nguye^~n Quo^'c Tru.- mo^.t ngu+o+`i co^ng ta'c vo+'i qui' ba'o- ve^` chuye^'n vie^'ng tha(m Vn cu?a o^ng ta.
Xin qui' ba'o cho bie^'t y' kie^'n ve^` chuye^.n na`y. DDa^y co' pha?i la` ha`nh ddo^ng tro+? ma(.t ba('t tay vo+'i Cs cu?a NQT hay kho^ng?
To^i i't khi le^n tie^'ng ve^` chuye^.n chi'nh tri. nhu+ng vi` to^i la` ddo^.c gi?a thu+o+`ng xuye^ng cu?a VHNT online va` ra^'t ye^u me^'n ta.p chi' na`y ne^n to^i mo+'i le^n tie^'ng.
Xin tha`nh tha^.t ca'm o+n.


Để có được bài viết của HNH, Gấu phải làm 1 cuộc trở về Hà Nội, và là người đầu tiên dám mở đường máu, không đơn giản đâu.
Mang ra hải ngoại, lọ mọ đánh máy, tìm cách giới thiệu, không chỉ trong giới viết lách mà ra quảng đại quần chúng qua trang Việt Báo.
Vậy mà không được tên khốn kiếp cám ơn 1 lời.
Không chỉ vờ, mà hắn còn chọc quê GCC, bằng cách
cám ơn HNH.
Ông này ở Hà Nội đâu có biết gì đâu?

Subject: Re: Texts
Date: Fri, 8 Dec 2000 10:27:39 -0800
From:
To:
Ca?m o+n anh Tru.
Ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia Ta^n The^' Ky? la` do to^i so't.
DDe^m nay se~ ddi ba`i "Dde^m Tha'nh 3" va` dde^m mai (Thu+' Ba?y) se~ ddi
ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia
To^i phu.c anh kinh khu?ng, ve^` su+' ddo.c, su+'c vie^'t, su+. nha.y be'n
va` lo`ng tho+ mo^.ng.
Sau na`y ddo^.c gia? trong va` ngoa`i nu+o+'c se~ ghi o+n anh (nhu+ to^i
dda~ no'i ho^`i anh ghe' Calif.), nha^'t la` gio+'i sinh vie^n va` dda(.c
bie^.t la` gio+'i nha` va(n nhu+ to^i.
Tha^n a'i


PTH Việt Báo

Đa tạ

NQT

Lũ này, chỉ quen cái chuyện áo thụng vái nhau, thơ văn như kít, nhưng vịn thơ nhau mà đứng dậy,
cái gì gì dựa hơi [hơi gì ?] nhau mà viết, thế là ô hô ai tai cả 1 giấc mộng xâm nhập văn chương nước người, thế giới. Không tên nào đọc được văn chương mũi lõ, điều này không hẳn là do dốt tiếng mũi lõ, mà phần nhiều là do tâm thức, thói quen, khẩu vị… Gấu đã kể, vào lúc mới lớn, mê Buồn Nôn, La Nausée, của Sartre, ông anh rể là Hiếu Chân phán đưa tao đọc thử, đọc chỉ vài dòng là quăng lại, và quả thế thực, phần nhật ký không ngày tháng mở ra cuốn này, cực khó đọc, hà, hà!

Đọc/
Viết mỗi ngày

Viết Mỗi Ngày

Cách Mạng Vô Sản của Lê Nin
The Russian revolution
Missed connection
Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history

http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html



*

Chekhov, Pondering

Imagine Chekhov, at some point during the last weeks of his life, pondering old photographs. Imagine the dying man pausing over this image of his younger self. Consider the writer's possible responses, the clashing combinations of memory, observation, obsolete opinions, the present knowledge as he looks at himself sitting -posing, yes, definitely posing for the camera-on the steps of his country home in Melikhovo, little Khiva tucked in the crook of his arm. Perhaps the older Chekhov would observe the younger Chekhov with irritated amusement. He might even wince at the pretensions suggested by the pose, since he is an expert critic of insincerity and has filled his fiction with misguided poseurs- lovers, industrialists, peasants and landowners-who treat the world as their showcase. See how the cane cuts neatly toward the center of the picture, the tips of his shoes gleam-these details might provoke him to think with some chagrin of the author who claimed to have ideas for 1036 stories, who was planning to write a novel "a hundred versts long," and who intended someday to visit Tahiti, Chicago and the Arctic. And yet the older Chekhov, I believe, would forgive his younger self. Always a man who valued modesty above publicity, and "good literary manners" above ambition, he shows us in his work that some form of pretension, even awkward pretension, is necessary to survive in a civilized society. When we lose interest in the theatrics of behavior, we are in danger of succumbing to pernicious boredom. At best we end up like Laevsky in "The Duel." At worst, we drift off with poor Andrei Yefimich in "Ward No.6," muttering to the end, "It's all the same to me ... I won't answer ... It's all the same." Or perhaps Chekhov would marvel at this man a decade younger than himself, grandson of serfs and at the age of thirty-seven already the author of such masterpieces as "The Steppe" and "Three Years." Perhaps he would wonder how he fulfilled all of the obligations that fell on him that decade, when he became caretaker for his parents and sister, when he served as the doctor for the local peasants and as squire of the village of Melikhovo and still managed to make the grueling trip across Siberia to the island of Sakhalin. He might recall his pattern of responsible moderation with more than a little pride, seeing in this portrait a man who devoted himself to the problems of others and yet could come close himself in his study for hours at a time, pick up his pen and hear the grass singing in his mind. It could be, though, that the dying Chekhov would neither wince nor marvel at this picture but turn away in despair, comprehending more fully than ever before his own dishonesty. Here is Dr. Chekhov, villain of self-deception. What did it matter that he suffered his first bout of blood-spitting in 1884, shortly after graduating from medical school? What did it matter that for thirteen years, though he treated many victims of tuberculosis, he refused to identify the symptoms in himself? The disease probably would have progressed at the same speed even had he sought treatment earlier. But the lack of acknowledgement is troubling. If he'd been one of his characters, his pose of health would have revealed itself as a lie, and he would have seemed pathetic in his stubborn effort to make a lasting name for himself. Of course, this Chekhov, the Chekhov lounging on the steps of his Melikhovo home, collar turned up just so, will be remembered: as the jaunty, brilliant writer, as the modest poseur and as a dying man unable to acknowledge his illness because the telling would have made death sensible. He preferred to tell of life.            

-Joanna Scott
* *

Trong Duel, người ta nhận ra, đúng là chân dung Xì sau này. Người quan  tâm đến chuyện trồng người, cải thiện nó, và dưới mắt người, cái giống người như là hiện nay, thì là những tên nô lệ, những con vật......
Trong 1 lần gặp gỡ những nhà văn, Xì phán, trong văn chương, có Shakespeare, và Chekhov. Tớ, nếu là nhà văn, chỉ mong viết được như Chekhov!

La petitesse de l'homme chez Anton Tchekhov

De Tchekhov et sur Tchekhov, cette année (1), date du cinquantenaire de sa mort (1er juillet 1904), nous avons eu la possibilité de lire différentes choses, et chaque fois, au cours de ces lectures, nous n'arrêtions pas de nous demander: mais en quoi consiste vraiment le secret de cet homme? Quel est le secret qui le rend d'autant plus cher et grand et toujours actuel qu'il joue en «mineur », en décrivant une réalité limitée, quel est le secret qui le fait apprécier des lettrés les plus raffinés comme du grand public des quotidiens du soir (qui, aujourd'hui encore, lorsqu'ils veulent publier une nouvelle dont le succès sera certain, puisent à sa source)? Il existe pour lui, en Union soviétique, une affection qui touche à la vénération: et, de ce petit médecin au regard étincelant et ironique derrière son pince-nez, ils font presque un prophète de la sociéte socialiste; alors qu'en Occident il est célèbre tantôt comme un père du pessimisme et de l'agnosticisme libéraux, tantôt même comme un symboliste mystique. Et tout cela, il faut bien le souligner, sans que de son côté il ait jamais fait preuve de lègereté ou de flatterie; en restant toujours, au contraire, obstinément fidèle à lui-même, sans pitié dans ce qu'il avait à dire, en avancant sur un chemin sans détour, droit et linéaire. Cet amour, parfois très fort, que l'on peut éprouver pour lui, comme pour un frère péniblement retrouvé, avec lequel on va pouvoir enfin tout expliquer de soi-même et tout comprendre de lui, comment se justifie-t-il, s'il est par ailleurs le frère de tant de gens, qui peuvent m'être sympathiques ou antipathiques, amis ou ennemis?
    Mon amour pour Tchekhov, je l'avoue, a souvent été tourmenté par la jalousie.
    Nous qui ne lisons pas le russe et qui essayons de scruter la parole d'écrivains qui nous sont chers à travers les traductions de même que l'on devine les couleurs d'un visage à partir des ombres grises et noires d 'une photographie, nous avons eu enfin cette année, après tant de bonnes versions mais sans ordre et partielles, une édition complète et ordonnée chronologiquement de ses contes. «Édition complète », cela ne veut pas dire qu'elle comprend tous les récits de Tchekhov: en effet, il en a écrit plus de six cents, pendant les vingt et quelques années qui vont de ses débuts dans la nouvelle dans La Cigale, un journal humoristique banal, jusqu'aux longs récits des dernières années, où il luttait contre la maladie qui l'emporta à l'âge de quarante-quatre ans. Dans cette édition, il y a les deux cent quarante morceaux qu'il a choisis en 1899 pour l'édition définitive de ses oeuvres, en même temps que quatre-vingts morceaux environ qu'il avait écartés, Ainsi pouvons-nous suivre, année par année, les étapes d'un curriculum littéraire si court et, repétons-le, si linéaire qu'on a l' habitude de le considérer, dans l'ensemble, comme une totalité homogène. Pour nous aider à retracer le chemin de son développement, sont sorties cette année quelques biographies nouvelles dans des langues occidentales : et je veux rappeler non pas tant un gros volume paru en Angleterre (David Magarshack, Chekhov, Faber and Faber) que, plutôt, un petit volume francais (Elsa Triolet, L' Histoire d' Anton Tchekhov, Les Éditeurs francais réunis) qui offre un raccourci efficace et essentiel de la vie et de l'oeuvre, de son époque, des discussions et des problèmes d'alors, et qui focalise surtout l'attention sur les aspects de sa figure qu'il nous intéresse le plus d'éclaircir aujourd'hui.
    Déjà, dans ses petites nouvelles humoristiques, Tchekhov part avec une agressivite polémique cruelle, baignant uniquement dans les faits (Le Gros et le Maigre, Cameleon, Le Huitres, Le Sous-Officier Latrique) comme un Gogol qui n' pas eu besoin d'une caricature déformante pour trouver ses effets, mais les découvre sous ses yeux tels quels, prêts à être esquissés d 'une annotation rapide, à être racontés simplement, à voix basse. Mais si Gogol trouvait de l’intérêt à dévoiler le visage absurde, démoniaque, comiquement poignant qui se cachait sous la réalité bureaucratique la plus quotidienne de la Russie, Tchekhov, qui commence à écrire trente ans après la mort de Gogol, veut fouiller différemment la réalité, Dans la nouvelle La Fille d' Albion, qui date de 1885, nous trouvons déjà Tchekhov à son plus haut degré, et le métal dont il forge ses contrastes comiques ou dramatiques : la dignité de l'homme. Dans des nouvelles comme celle-ci, ou comme La Choriste (1886), plus il fouaille ses petits humains, plus il en découvre les égoismes, les faussetés et les mesquineries sous le masque de leur fausse «dignité», plus se révèle à nous quelque chose qui résiste à la dégradation, quelque chose de supérieur à la bassesse générale, une qualité impalpable que nous devons recommencer à appeler dignité humaine, une dignité tout à fait opposée à celle, hypocrite et formelle, des moeurs bourgeoises. Mais Tchekhov atteint ses meilleurs résultats lorsque la decouverte de la fausse dignité et les retrouvailles avec la vraie ont lieu chez le même personnage ; lorsque le couteau qui ouvre l' abcès touche la chair vive. Et l' on voit apparaitre alors la «pitié» de Tchekhov, toujours d'autant plus présente qu'il est «sans pitié » : voilà que, après avoir découvert sous le personnage le petit-bourgeois - sa mesquinerie et son horreur historique -, sous le petit-bourgeois, il découvre l 'homme.
    Avec La Steppe (1888), événement capital dans l'histoire de la narration moderne, Tchekhov commence à avoir une conscience plus précise de l'importance littéraire de son travail, et aussi de sa responsabilité de citoyen. La critique braque son regard sur lui, et on lui reproche, à droite comme à gauche, le fait de «ne pas prendre parti ». Mais Tchekhov, dans ce qu'il écrivait, avait toujours pris un parti, même s'il ne correspondait à aucun des partis qui évoluaient dans le monde intellectuel de la bourgeoisie russe d' alors. Au contraire, il en révelait les limites et les échecs : dans les longs récits qui vont du Jour de Fête (1888) jusqu'à La Fiancée (1904), ce n' est qu 'une galerie dintellectuels velléitaires et décus, de vies de province consumées dans la paresse, de mariages et d'amours gâchés, de femmes toujours plus vitales, ou plus justes, ou moins coupables que les hommes. Et au centre de ces histoires il y a presque toujours un «que faire?» politique et social, non pas avec la ferveur qui avait été celle de Tchernichevski et que l' on retrouvera chez Lénine, mais avec l'incertitude de la période de réaction et de reflux révolutionnaire du règne d' Alexandre III et des premières années de Nicolas II, avec un manque de perspectives historiques que l'écrivain voit se refléchir dans les vies privées, dans les habitudes, dans les sentiments.

   Plus on avance dans la lecture de Tchekhov, plus on rencontre de personnages qui, à la fin, décident de «travailler sérieusement » ou qui parlent de la vie merveilleuse qu'il y aura« sur la terre dans cent, deux cents ans », ou de la« belle bourrasque qui balaiera tout» : deux phrases qui ont aujourd'hui un sens prophétique suggestif, mais qui sont toujours indéterminées, qui n'évoquent pas d'images concrètes et précises comme nous avons l'habitude d'en trouver chez lui. Ce n'est que leur accent de sincérite, presque de document d'un état d'âme de l'époque, qui fait qu'elles ne nous paraissent jamais rhétoriques ; mais la mort de Tchekhov, à la veille de la première révolution russe de 1905, acquiert presque une signification symbolique: il est l'écrivain d'une humanité qui cherche sa voie.
    En ce sens, Salle 6 (1892) se détache de tous les autres longs récits non seulement parce que c'est l'acte d'accusation le plus terrible et géneral que Tchekhov ait jamais écrit (le jeune Lénine en fut fasciné et bouleversé), mais parce qu'il investit un moment de crise de la pensée scientifique et humanitaire bourgeoise, la tentation de penser que tout est inutile, que le mal est invincible, que la matière doit être considérée vanité, et la douleur illusion. Si quelques tentations spiritualistes peuvent avoir touché l'auteur du Pari ou du Moine noir, elles trouvent ici un démenti, résultat d'une décision en même temps douloureuse et féroce.
    Tchekhov, le médecin éducateur à l'ombre de la culture positiviste, et qui avait saisi ce qu'il y avait en elle d'élan humanitaire et progressiste, en cerne aussi, avec une sensibilité précise, les crises et les deviations. Dans Le Duel, il nous a donné, en 1891, un portrait parfait de nazi, un naturaliste qui soutient la suppression des plus faibles de la part des plus forts, un portrait où il n'y a rien à changer, ni le type physique, ni les discours, ni le nom allemand, ni l'idéologie pseudo-scientifique, pour retrouver en face de nous un de ceux qui, cinquante ans plus tard, vont torturer l'Europe. Et dans ce personnage (comme dans celui de Dans le domaine, qui est a peu près son pendant) Tchekhov n'a pas manqué de laisser entrevoir que lui aussi n'est qu'un pauvre homme qui pourrait être capable de bonnes actions, mais qui n'en est pas pour autant moins féroce et inhumain. II ne s'agit pas de superficialité sentimentale chez Tchekhov, ni d'un «Aimons-nous les uns les autres » de la sceptique indulgence amorale qui a tant de racines dans les moeurs italiennes; c'est la douleur sévère pour tout ce que l'homme gaspille de lui-même, pour ce qu'il pourrait être et qu'il n'est pas. Tchekhov a compris cela surtout de cette société qui est encore la société dans laquelle nous vivons: que de choses irrécupérables sont quotidiennement perdues, que de beauté, que d'amour, que de qualités qui pouvaient être tournées vers le bien, que de vies gaspillées, consumées vainement. Et en cela il n'est ni élégiaque, ni résigné : il s'en prend à nous, il est d'une sévérité féroce, C'est la sa morale, la “porte étroite” qu'il ouvre à ses personnages et à nous. C'est pour cela qu'il demeure, d'autant plus qu'il est clair et sans facons, un écrivain « difficile », «peu commode» : parce qu'il est plus facile de l'éviter et de broder autour de lui que de l'accepter tel qu'il est.

Italo: Pourquoi lire les classiques
La petitesse de l' homme chez Anton Tchekhov

Cõi người bé tí ở Chekhov

Mon amour pour Tchekhov, je l'avoue, a souvent été tourmenté par la jalousie: Cái tình yêu của tôi với Chekhov, có cái sự ghen tuông, đố kỵ ở trỏng.
Dans Le Duel, il nous a donné, en 1891, un portrait parfait de nazi, un naturaliste qui soutient la suppression des plus faibles de la part des plus forts, un portrait où il n'y a rien à changer, ni le type physique, ni les discours, ni le nom allemand, ni l'idéologie pseudo-scientifique, pour retrouver en face de nous un de ceux qui, cinquante ans plus tard, vont torturer l'Europe.
Trong Le Duel, ông ta đã cho chúng ta chân dung tuyệt hảo của Nazi...
Il existe pour lui, en Union soviétique, une affection qui touche à la vénération: et, de ce petit médecin au regard étincelant et ironique derrière son pince-nez, ils font presque un prophète de la sociéte socialiste; alors qu'en Occident il est célèbre tantôt comme un père du pessimisme et de l'agnosticisme libéraux, tantôt même comme un symboliste mystique.
Ở Liên Xô, ông được coi như nhà tiên tri của XHCN, ở Tây Phương, ông nổi tiếng, khi thì như là người cha của chủ nghĩa bi quan, khi thì như 1 biểu tượng thần bí..



Ai Điếu Roberto Bolaño,
người sáng tạo ra chủ nghĩa 
'infrarealism'

Chilean creator of 'infrarealism'
https://www.theguardian.com/news/2003/jul/17/guardianobituaries
Nick Caistor

Roberto Bolaño, who has died at Blanes in northern Spain of liver failure, aged 50, was one of the most talented and surprising of a new generation of Latin American writers.
Born in the Chilean capital of Santiago, Bolaño was typical of a generation of Latin American writers who had to cope with exile and a difficult relationship with their home country, its values and its ways of seeking accommodation with a turbulent history. Bolaño turned to literature to express these experiences, mixing autobiography, a profound knowledge of literature, and a wicked sense of humour in several novels and books of short stories that won him admirers throughout Latin America and Spain.
Bolaño spent much of his adolescence with his parents in Mexico. He returned to Chile in 1972, to take part in President Allende's attempts to bringing revolutionary change to the country. Arrested for a week after the September 1973 Pinochet coup, Bolaño eventually made his way once more to Mexico, where he embarked on his literary career. At first he wrote poetry, strongly marked by Chilean surrealism and experimentalism, but after moving to Spain in 1977 he turned to prose, first in short-story form and then more ambitious novels.
His mischievous spirit upset many fellow writers, who often bore the brunt of his attacks. Fed up with the pious sentimentalism of the kind of socially committed literature he felt was expected of Chilean writers, he aimed to subvert good taste, revolutionary or conservative. This iconoclasm led to books such as the History Of Nazi Literature In Latin America, an invented genealogy of writers.
In 1998, Bolaño published his best-known work, the sprawling novel Los Detectives Salvajes (The Wild Detectives), a challenging mixture of thriller, philosophical and literary reflections, pastiche and autobiography, which he baptised "infrarealism". The novel won him the Herralde and Romulo Gallegos prizes, and established Bolaño as one of the foremost writers in the Hispanic world.
English readers so far have only been able to read By Night In Chile, published by Harvill this year. This is the most straightforward of his books, looking back as it does to the Pinochet days in Chile and the coexistence of evil, compromise and literature in extreme situations.
When Bolaño came to London early this year for the English publication of By Night in Chile, he was already very ill from a longstanding liver complaint. Despite this, he was still talking non-stop of the many projects he was involved in, including a mammoth novel provisionally entitled 2666, already more than 1,000 pages long, that dealt with the murders of more than 300 young women in the Mexican border town of Ciudad Juarez, another novel, and a new collection of poetry.
But what most delighted him during his London visit was the fact that he was already becoming better known in Spain as a fictional character than as his "real" self. This is because he is one of the main characters in the Spanish bestseller by Javier Cercas, The Soldiers Of Salamis, where "Roberto Bolaño" helps the author to successfully complete his novel.
This mingling of reality and fiction seemed to Bolaño a confirmation that life and literature are of equal importance. As he said at the time, "You never finish reading, even if you finish all your books, just as you never finish living, even though death is certain."
Bolaño had faced this certainty for years, as his liver deteriorated. He died in hospital while awaiting a liver transplant, and is survived by his wife Carolina and two children, Alexandra and Lautaro.

· Roberto Bolaño, writer, born April 28 1953; died July 15 2003.

*

http://www.tanvien.net/tgtp_02/bolano.html

*

‘If a person erases him or herself in order to survive, how can they find that self again?’ … Madeleine Thien.
Photograph: Murdo Macleod for the Guardian
Nếu bạn xóa bạn để sống sót, thì làm sao tìm lại được cái con người là bạn đó
?
Bà này, báo nhà, Gấu hay đọc. OK lắm

Madeleine Thien: ‘In China, you learn a lot from what people don’t tell you’
The Man Booker-shortlisted writer on a solitary childhood in Canada and daring to question the Chinese regime

https://www.theguardian.com/books/2016/oct/08/madeleine-thien-interview-do-not-say-we-have-nothing

MADELEINE THIEN

Dream of the Red Chamber


My mother's favorite book was the Chinese classic novel Dream of the Red Chamber, also known as The Story of the Stone, also known as A Dream of Red Mansions. This was the only work of fiction on her bookshelf. I remember picking the novel up only once when I was young. I was drawn to its magisterial heft, to the consolidated weight of more than a thousand pages. But because I could not read Chinese, I gravitated instead to her Chinese-English dictionary, a heavy yet small book, the size of my hand that translated shapes into words (book). My mother passed away suddenly in 2002, and her copy of Dream of the Red Chamber vanished.
    The novel was written 250 years ago by Cao Xueqin, who was still writing it when he died suddenly in 1763. Approximately twelve copies of Dream of the Red Chamber existed in the years following his death, handwritten editions made by his family and friends. The manuscripts differed in small ways from one another, but each was eighty chapters long. Unfinished, the novel ended almost in mid-sentence.
    Those handwritten copies began to circulate in Beijing. Rumors spread of an epic, soul-splitting tale, a novel populated by more than three hundred characters from all walks of life, a story about the end of an era, about the overlapping lines of illusion and existence, a novel that took hold and would not let you go. In 1792, nearly thirty years after Cao Xueqin's death, two Chinese scholars came forward and claimed to be in possession of the author's papers. They proceeded to publish what they said was the complete manuscript, consisting of one hundred and twenty chapters, thirteen hundred pages. Movable type had existed in China since the eleventh century, but this was the first time Dream of the Red Chamber appeared in print.
    It has been the pre-eminent Chinese novel ever since, attracting legions of scholars-so many that they form a movement, Redology. Some believe that, for reasons unknown, Cao Xueqin destroyed the last forty chapters of his novel, that the two scholars finished the book themselves. Today in China there are more than seventy-five editions. Some are eighty chapters, others are one hundred and twenty, and some are one hundred and ten. Dream if the Red Chamber has multiple endings and it also has no ending.
    A few years ago, I began writing a novel set in Shanghai. My own novel circles around a hand-copied manuscript with no author, a story with no beginning and no end. I knew nothing about the story surrounding Dream of the Red Chamber because I had never read the novel; no one had mentioned it in any literature course I had ever taken. A couple of years ago, missing my mother, I finally began to read it. The novel took root in me. When I learned of the handwritten copies, the continuation, the unknown authorship, I felt oddly, exhilaratingly, as if I had always known this story. I had folded it into my own book: a truth unwittingly carried in a fiction, an illusion as the structure of a truth.
    Dream of the Red Chamber is hands down the most widely read book in the Chinese-speaking world, making it perhaps the most read novel in history. Professor John Minford, who translated an edition with celebrated translator and Chinese scholar David Hawkes, described it as a novel that combines the highest qualities of Jane Austen, William Thackeray, Marcel Proust, and Honore de Balzac. After 250 years, readers continue to decode its mysteries. Readers like my mother felt ownership over the novel. With Dream of the Red Chamber, none of us can ever know where the ending lies or what only another beginning is. The novel itself is a playful and profound mirror to the life of the imagination. Lines from the first chapter read, "Truth becomes fiction when the fiction's true. Real becomes not-real where the unreal's real. "
    I still have my mother's dictionary. I often wonder what happened to her copy if Dream of the Red Chamber. I wonder whether it had eighty chapters, one hundred and twenty, or one hundred and ten. It was her girlhood copy. She'd had it through all her migrations, carrying it across the seas from Hong Kong to Canada. I had wanted to keep it all my life, but while I grieved my mother's sudden death, someone reached out for the book on the shelf. They lost themselves in its love triangles, its forgotten era, its intricate dance between this world and its dream. They carried the book away with them, into its next life.

The Adventures of Tintin

PICO IYER

By the time I was five, I was used to my impenitently spirited father bringing strange things into our lives. I could perch on the stool he'd acquired made out of an elephant's foot, spying on the robed Tibetan monks who came to him for tutoring in Plato and Spinoza. I could stare at the photo he'd brought back of the Dalai Lama, four years old, already seated on the Lion Throne in Lhasa (a present the Tibetan leader had sent me, through my dad, following their first meeting, in 1960). After three months away in West Africa teaching political theory, suddenly my old man was dancing to highlife music in our little flat on Oxford's Winchester Road, cheerfully oblivious of the duffle-coated, tow-headed professors' children just outside, heading down the street to the Dragon School or its prequel, the Squirrel.
    As a child, of course, I took this to be quite normal; the old Englishwoman we went to see in the evenings used to magick elaborate horoscopes, all circles and esoteric scribbles, from the thick ephemerides on her shelves. The tall, no-nonsense the memsahib who looked after her-her daughter and the very picture of a commander of the British Empire-had (I learned much later) spent time as a Buddhist nun in Thailand. That handsome colleague of my father 1 saw at Christmas parties at St. Antony's turned out to be the legendary photographer of Tibet in the 1930s, Fosco Maraini, who had cut off his own finger during the war to shame his Japanese captors.
    One day-my parents had, quite fittingly, moved to California by now, though 1 continued going to school in Oxford-I headed down a narrow, barely     lit staircase in the home of the former Buddhist nun, now my unofficial godmother. Waiting for me at the bottom was a sparky boy journalist in an over-coat, who'd been pierced by a vision of a stricken Chinese friend in the snow and left Europe for the Himalayas. Within seconds, I was following this cub reporter to the Caucasus and then through the forests of Yugoslavia, all sinister black limousines and grimacing operatives. I thought nothing of accompanying him into the richly colored bazaars of the Andes, through rickshaw-filled streets in a red-lanterned Shanghai, even to the moon. I would never have guessed then that a journalist, who seemed to file no stories, had no apparent bosses or office, never thought about deadlines, and simply followed adventure wherever it took him would one day be a description of me.
    Oxford in those days was a network of children's possibilities, if you knew where to look. A few hundred yards from my bedroom was the pub where C. S. Lewis and J. R. R. Tolkien exchanged stories of Narnia and Middle Earth. Up the street a little was the garden in which the Mad Hatter and the Cheshire Cat leapt into life. Toad of Toad Hall was just around the bend, along a drowsy river, and my hero and designated alter ego-another foreigner appearing in England in almost the same year as I did, Paddington Bear-inhabited a world that seemed indistinguishable from the cozy rituals that kept us happily in place in North Oxford.
    But Tintin was the one to fling open a lifestyle for me, if only because he seemed so unrooted and so restless. We never saw his home; we could never associate him with a family. All he had was a movable feast of lovably unpredictable friends, a loyal four-legged companion, and a blend of curiosity and conscience that seemed to land him always in rapturously unexpected settings that his creator, Hergé, had fashioned out of constant trips to museums and through books.
    The stories were unexceptional. The characters were one-dimensional. I can't say my imagination was deepened or stretched by the books, as it would be by, say, Ursula Le Guin's ageless and profound Earthsea novels. Yet the beauty of Tintin was that the background was the point, at least for me. It was never the protagonist, the dialogue, the plot that mattered; what it gave this small reader was a hunger to be out in the world, in the midst of bustling markets and unreadable strangers, of words lost in translation and levitating monks, where everything we once thought strange would come in time to be familiar.
    Paddington Bear gave me a template out of which to form a character; but it was Tintin who threw open the doors to an entire destiny. +

On childhood Books
Brick, A Literary Journal, n# 95, Summer 2015

Six Poets Hardy to Larkin
The Moon 

 TTT 10 năm

SN_GCC_2016
Viết Mỗi Ngày

Frederic Dard, a master of French noir

This prolific novelist is little known to English-language readers. A new series of translations will introduce them to his sinister work
Trùm tiểu thuyết đen của Tẩy.
Như Simenon, cả hai đếch thèm chơi với giới văn nhân, và chẳng hề được coi là trí thức Tẩy

Dard, like Simenon, relished his status as a best-selling provincial outsider. “Neither of them had much connection with the literary world,” Bellos explains, “and neither could be considered a ‘French intellectual’: both left school at 15.” However, as much as his great counterpart, Dard roots slaughter and mayhem in the implacable collision of desire and destiny. That deadly machine can feel as classically French as a play by Racine or a novel by Balzac.
 
Both protagonist and victim, Albert cannot escape his fate, and nor does he wish to. Dard, notes Bellos, “had a view of humanity almost as unflattering as Simenon’s”. In a spasm of compassion, Albert gives a Christmas-tree decoration to Lucienne: a velvet bird in a silver cardboard cage. That present will help to damn him. The cage-door swings shut, and he locks himself inside.

Bird in a Cage by Frédéric Dard, translated by David Bellos (Pushkin Vertigo)

Ui chao, lại nhớ thời mới nhớn, mê Simenon như điên. Lúc nào cũng thủ 1 cuốn Simenon trong túi. Mỗi lần được phái đi sửa máy tại 1 đài Bưu Điện địa phương, là phải có Simenon cùng đi. Gấu khá tiếng Tẩy là nhờ tiểu thuyết đen Tẩy

Iceland’s penis museum pulls it off

Opened in 1997, the world’s only phallological museum has been growing ever since. This year the exhibition will attract 50,000 visitors


Mit Critic

Pham Nguyen Truong liked this.

Một ý nghĩ:

Đối với nhà văn đích thực, ngày mai phải viết hay hơn hôm qua, đó không chỉ là một đòi hỏi mang tính thẩm mỹ mà còn là, thậm chí trước hết là, một đòi hỏi mang tính đạo lý - cũng bức thiết và tự nhiên giống như ngày mai phải sống đẹp hơn hôm qua.

Tuy nhiên, mặt khác, nếu bạn không làm được như vậy, thì ít nhất bạn hãy bao dung với mình nếu biết bạn đã cố hết sức.

... See More

Đấng này, Gấu đọc, ngay từ khi vừa xuất hiện trên diễn đàn VHNT trên lưới, của PCL, và thú thực, không có ý kiến.
Khác hẳn trường hợp Nguyễn Quang Lập, cũng xuất hiện, cũng trên VHNT, đọc 1 phát là trúng đòn liền, và là cái mẩu Cục Uất của anh ta.
Bọ Lập sau đó, nổi như cồn, với loạt bài, trên TV có post lại. Nhưng sau đó, là hết. Gấu đã từng dùng hình ảnh ánh lửa ma trơi, để diễn tả trường hợp của anh ta.
Nhưng vấn đề của TTCD, khác hẳn.
Thì nói toạc ra ở đây, anh ta viết hoài thì cũng vẫn mãi như thế.
Và quả nó liên quan đến mỹ, đến đạo lý, như
ng không phải như anh ta hiểu.
Trường hợp của TTCD, là trường hợp của…  GCC, thời mới lớn, và Sartre diễn tả thật là thần sầu. Nhớ, Gấu, thú thực, đọc 1 phát, lại 1 phát, là thấm cả 1 đời.
Sartre phán: Vảo mỗi thời đại, con người nhận ra mình, lọc ra mình, khi đối diện với tha nhân, tình yêu và cái chết
A chaque époque, l'homme se choisit en face d'autrui, de l'amour et de la mort.
Theo GCC, TTCD, như cả 1 thời của anh ta, khôn quá, hoặc nhát quá, chẳng chọn gì!
Anh ta không dám lọc mình ra
, giữa cả 1 thời của anh ta! (1)

(1)

http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/chuoi_5.html

Tại sao mày cứ viết về mấy chuyện "chính trị", nhắc đến tụi chúng nó làm gì vậy? Chúng nó đâu có đáng để cho mày viết?
Một ông nhà văn Miền Nam, cũng bạn văn của Hai Lúa ngày nào, tỏ ra bực mình.

Nhưng Hai Lúa đâu có viết về chúng nó, mà viết về những người mà chúng nó ngồi lên đầu!

http://www.tanvien.net/gioithieu_02/cuc_uat.html

Ui chao, Sartre, Camus và thời mới lớn của Gấu, và những câu thần chú.
Con người bị kết án phải tự do. L’homme est condamné à être libre.
Địa ngục là tha nhân. L’enfer, c’est les autres.
Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về siêu hình học của tiểu thuyết gia, une technique romanesque renvoie toujours à la métaphisique du romancier. Sartre đọc Âm Thanh và Cuồng Nộ của Faulkner. Câu phán này quả là quá khủng khiếp, vì nó trở thành kim chỉ nam đối với cái việc điểm 1 cuốn sách. Sartre đọc Faulkner, và khám phá 1 siêu hình học về thời gian: Trong Âm Thanh và Cuồng Nộ, Faulkner đập nát thời gian của tiếng tích tắc của đồng hồ, và xây dựng 1 thời gian khác, với tiếng hú của 1 tên khùng, đây là câu chuyện được kể bởi 1 tên khùng, đầu âm thanh và cuồng nộ, và chẳng có ý nghĩa gì hết



1. Thế kỷ 20 của ai?

Triết gia người Pháp, Bernard-Henry Lévy trả lời bằng cả một cuốn sách: Thế kỷ của Sartre (nhà xb Grasset, Paris).
 
G. Steiner, trong bài viết "Triết gia cuối cùng?" trên tờ TLS (The Times Literary Supplement 19 May, 2000), đã nhắc tới một phương ngôn của người Pháp, theo đó, trong những thập kỷ cuối thế kỷ 20, ngôi sao của Sartre lu mờ so với những "địch thủ" của ông như Camus, Raymond Aron, bởi vì thời gian này, ông còn ở trong lò luyện ngục (purgatoire). Và đây là "phần số", chỉ dành cho những triết gia lớn, tư tưởng lớn. Theo ông, hiện nay, ở Pháp, Đức, Ý, Nhật, và một số quốc gia Đông Âu, thế giá và huyền thoại của nhà văn đã từng từ chối giải thưởng Nobel văn chương này, đang ở trên đỉnh. Ở đâu, chứ ở Pháp thì quá đúng rồi: sau 20 năm ở trong lò luyện ngục, Sartre trở lại, và đang tràn ngập trong những tiệm sách, với nào là tiểu sử (loại multi-volume), nào hội thảo, đối thoại, gặp gỡ (rencontres)… Theo như Jennifer Trần tôi được biết, tạp chí Văn, trong tương lai, sẽ dành trọn một số báo để nhìn lại "triết gia cuối cùng của nhân loại", đặc biệt bởi những nhà văn Miền Nam đã một thời coi ông là "thần tượng", như Huỳnh Phan Anh, Đặng Phùng Quân…

 "Địa ngục là những kẻ khác", "Người ta không thể bỏ tù Voltaire", "Con người bị kết án phải tự do", "Con người là một đam mê vô ích", "Tự do phê bình là hoàn toàn ở Liên Bang Xô-viết (La liberté de critique est totale en URSS), "chủ nghĩa Cộng sản là chân trời đừng mong chi vượt được của thời đại chúng ta (Le marxisme est l’horizon indépassable de notre temps)… nhưng hình ảnh một ông già mù phải nhờ bạn dẫn tới bàn hội nghị, để tranh đấu cho một con thuyền cho người vượt biển, vì muốn cứu những xác người trên biển Đông mà đành phải bắt tay với kẻ thù và cũng đã từng là bạn… hình ảnh đó đã vượt lên tất cả… nhưng thôi, xin hẹn gặp Văn, số đặc biệt!

Cái tay TTCD này, khi anh ta và đồng bọn làm trang e-Văn, Gấu mặt dầy gửi bài liền, chẳng đợi mời. Chỉ đến khi GCC gửi 1 bài dịch trên TLS, kèm luôn bản tiếng Anh, và khi bài post lên, thấy đề TTCD hiệu đính, Gấu bèn mail hỏi, anh ta chỉ ra mấy chỗ Gấu dịch sai, mà sai thật, Gấu mới hỡi ơi, vì cái đạo hạnh của anh ta.
Cái từ hiệu đính, như Gấu đã từng nói, rất cao quí, không thể đem ra dùng 1 cách khinh xuất như thế, mà dùng như thế là làm nhục tòa soạn e- Văn, chứ không phải người cộng sự.
Sến cũng y chang, vô tư đè bài viết của GCC ra đề tên 1 tên khốn kiếp vô, hiệu đính!
Đây là sự khác biệt giữa văn minh và dã man mà DTH đã từng chỉ ra.
Với đám Ngụy, đây là công việc bếp núc của 1 toà soạn, khi họ “edit”, biên tập,
một bài viết của cộng sự, và nó không chỉ hạn hẹp trong việc sửa những lỗi dịch sai.
Khi biên tập xong, họ gửi cho tác giả, và xin ý kiến, nếu OK, họ đăng, không, họ gửi trả lại bài viết.
Từ “hiệu đính” được dùng trong những nghi lễ trang trọng hơn nhiều.
Một tay mới viết, biết sức mình, bèn nhờ 1 đàn anh mà anh thực tình coi trọng, coi lại bài viết, “xin anh hiệu đính cho em, và cho phép em để tên anh lên đầu bài viết”
Đó là 1 vinh dự của lũ văn minh, vậy mà bị tên này, cũng như Sến, làm thành 1 trò nhục mạ người cộng sự.
Sến chẳng đã từng đăng bài viết của Nguyễn Vă
n Lục, và khi từ chối, ông ta viết mail hỏi, Sến làm nhục ông ta bằng câu trả lời, viết dưới tầm của trang của tôi!

Gấu đã từng làm những công việc như vậy, mà chưa từng để tên Gấu vô, như 1 kẻ hiệu đính. Nhờ vậy mà thoát chết trong nhà tù VC, như đã từng lèm bèm nhiều lần, khi sửa bài viết của Nguyễn Mai, khi phụ trách phụ trang văn học của tờ Tiền Tuyến

Những Hình Hài Nobel
http://www.tanvien.net/chuyen_ngu_2/nobel_bodies.html
Nguồn: Nobel Bodies, Phụ trang văn học Thời báo London (TLS), số ngày 15/10/2004.
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Chú thích: Đăng lại bản dịch trên e-Văn. Cám ơn BBT, đặc biệt TTCĐ, đã sửa giùm một số sai sót.
NQT


http://phovanblog.blogspot.ca/2016/10/jane-eyre-ban-tay-che-dong-bao.html

Nhân loại ngày nay thừa hưởng không ít những tác phẩm văn học thường được gọi là kinh điển. Chúng là những công trình trước tác của nhiều thiên tài thuộc nhiều dân tộc, và từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay, trải qua nhiều thế hệ người đọc, vẫn không phai nhạt giá trị nghệ thuật lẫn nhân sinh. Dù trải qua nhiều thử thách và những biến đổi ý thức hệ, lịch sử, chính trị, xã hội, chúng vẫn không hề có dấu hiệu chìm vào quên lãng. Nếu cần chúng ta có thể liệt kê vài cuốn tiêu biểu như Don Quixote của văn hào Tây Ban Nha Miguel de Cervantes, hay cuốn Chiến tranh và hoà bình của văn hào Nga Lev Tolstoy, hay cuốn Những người khốn khổ của văn hào Pháp Victor Hugo. Chúng là gia sản văn hóa chung muôn đời của tất cả chúng ta, không riêng một ai, và đóng góp một phần không nhỏ vào đời sống tinh thần của mọi sắc dân trên thế giới.
TYT

Note: GCC sợ đấng này lộn từ kinh điển, academic, với từ cổ điển, classic.

Bởi thế, Calvino mới hỏi và cùng lúc, trả lời bằng cả 1 cuốn sách: Tại sao chúng ta vưỡn đọc cổ điển? Và cái câu khen bảnh nhất 1 cuốn sách vừa mới ra lò, là đã thành cổ điển!
Đã 1 bạn Cà lầm “kinh điển” với “kinh nguyệt”, khiến cả 1 một diễn đàn Bi Bi Xèo lầm theo.
Giờ đến đấng này!

GCC đã nói rồi, lưu vong, trễ quá, càng trễ, mộng càng lớn, nghĩa là chỉ mong kết bạn với đám viết lách, cái sự
chửi bới, dọn dẹp như sau này, là sau khi được bẩy bó, bèn dùng cái bonus thời gian vào cái việc nhơ bẩn.
Hai vị hộ pháp của TV có lúc bực mình, sao ưa cà khịa như thế, chửi người, dù thắng, thì cái phần người của mi cũng bị sứt mẻ.
Nhưng theo GCC, rõ ràng là, trong giới viết lách hải ngoại, gần như không có lấy
1 tên, có lấy 1 chút đạo hạnh.
Đó là sự thực.
Và phải có 1 tên dám vào địa ngục, làm cái việc, chỉ cho chúng thấy, chúng nhơ bẩn quá, hà, hà!

Bởi là vì, không lẽ lui cui mất 20 năm, làm trang Tin Văn, không được tí quà?
Quà làm trang TV là vạch ra cái phần vô hạnh, vô đạo đức của lũ Mít cầm viết!
Chúng viết như kít, là do đạo hạnh khốn nạn quá!

Cái gì làm cho tên ngồi bên ly cà phê, làm thơ, nhớ bạn hiền, chôm thơ Joseph Huỳnh Văn, trên trang Tin Văn nhưng lại nhớ mang máng là đọc trên tờ Thời Tập của VL?
Cái gì làm 1 tên núp váy đàn bà viết cực nhơ bẩn về những người viết đã chết, như TTT, NXH, hay những vị còn sống, như MN, TTNgh, đều là những người thành danh, có tác phẩm nổi tiếng, chẳng hề
thù oán gì hắn, và, như Gấu, chẳng hề biết hắn là thằng chó nào?

From:
To:
Cc:
Sent: Thursday, August 23, 2001 5:30 PM
Subject: Fw: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Chao anh Tru
Them mot doc gia "sensitive" ve chuyen ve VN
Anh Tru co muon viet tra loi doc gia nay?
pcl
 ----- Original Message -----
From:
To:
Sent: Thursday, August 23, 2001 2:07 PM
Subject: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Xin cha`o ca'c ba.n,
Ma^'y tua^`n na`y ddo.c ba'o chi' ha?i ngoa.i cu~ng nhu+ trong nu+o+'c tha^'y dda(ng ba`i pho?ng va^'n Nguye^~n Quo^'c Tru.- mo^.t ngu+o+`i co^ng ta'c vo+'i qui' ba'o- ve^` chuye^'n vie^'ng tha(m Vn cu?a o^ng ta.
Xin qui' ba'o cho bie^'t y' kie^'n ve^` chuye^.n na`y. DDa^y co' pha?i la` ha`nh ddo^ng tro+? ma(.t ba('t tay vo+'i Cs cu?a NQT hay kho^ng?
To^i i't khi le^n tie^'ng ve^` chuye^.n chi'nh tri. nhu+ng vi` to^i la` ddo^.c gi?a thu+o+`ng xuye^ng cu?a VHNT online va` ra^'t ye^u me^'n ta.p chi' na`y ne^n to^i mo+'i le^n tie^'ng.
Xin tha`nh tha^.t ca'm o+n.


Để có được bài viết của HNH, Gấu phải làm 1 cuộc trở về Hà Nội, và là người đầu tiên dám mở đường máu, không đơn giản đâu.
Mang ra hải ngoại, lọ mọ đánh máy, tìm cách giới thiệu, không chỉ trong giới viết lách mà ra quảng đại quần chúng qua trang Việt Báo.
Vậy mà không được tên khốn kiếp cám ơn 1 lời.
Không chỉ vờ, mà hắn còn chọc quê GCC, bằng cách
cám ơn HNH.
Ông này ở Hà Nội đâu có biết gì đâu?

Subject: Re: Texts
Date: Fri, 8 Dec 2000 10:27:39 -0800
From:
To:
Ca?m o+n anh Tru.
Ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia Ta^n The^' Ky? la` do to^i so't.
DDe^m nay se~ ddi ba`i "Dde^m Tha'nh 3" va` dde^m mai (Thu+' Ba?y) se~ ddi
ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia
To^i phu.c anh kinh khu?ng, ve^` su+' ddo.c, su+'c vie^'t, su+. nha.y be'n
va` lo`ng tho+ mo^.ng.
Sau na`y ddo^.c gia? trong va` ngoa`i nu+o+'c se~ ghi o+n anh (nhu+ to^i
dda~ no'i ho^`i anh ghe' Calif.), nha^'t la` gio+'i sinh vie^n va` dda(.c
bie^.t la` gio+'i nha` va(n nhu+ to^i.
Tha^n a'i


PTH Việt Báo


Trong khi chờ Nobel Văn Chương, sẽ công bố vào ngày 13.10. 2016

Tự nhiên nhớ Chekhov kinh khủng. Nhà văn Nga mình ấn tượng nhất, không hẳn là thích. Nhớ những nhân vật đàn ông đàn bà của ông, ai cũng nửa rụt rè nửa bạo liệt, tinh tế nửa chừng chất phác nửa đoạn, rất hay chán đời, đàn bà xức nước hoa đàn ông râu quai nón, đọc sách và xem kịch rất nhiều, đắm đuối vì gia đình mà ngoại tình cũng nhanh như chảo chớp. Như một Hà nội cũ, nhỉ ;)
Mà sao truyện Nga ngố ...
...



*

Truyện ngắn của Munro ảm đạm. Nếu thế, nó ghi lại 1 đất nước Canada “tiền kỳ” của 1 xã hội dân chủ hơn, thoải mái hơn, trong quan hệ giữa đàn ông & đàn bà, con trai & con gái, ven biên & thành thị.

Đây là cách đọc Chekhov, qua vở kịch “La Cerisaie” của tờ Obs, số đặc biệt, “Tuyệt Tác Thế Giới”

*

*

Truyện ngắn: Mission Impossible

Cái vụ trao Nobel văn chương cho Munro, thực sự mà nói, không phải vì bà viết truyện ngắn, mà là vì bà là Bắc Mỹ!

Có 1 cú chửi cha anh Mẽo ở trong đó. Tay thư ký Nobel chẳng đã nhiều lần chê văn chương Mẽo, 1 thứ văn chương di dân, chưa từng đau vết thương Lò Thiêu, Lò Cải Tạo… làm sao mà hay cho được. Cú cho Munro, không chỉ vinh danh truyện ngắn, mà vinh danh đất nước Canada, đúng hơn.

Quá cả nỗi đau Lò Thiêu, là nỗi đau làm người, mà Munro đã viện ra được qua những truyện ngắn, mà 1 tác giả Mít phải phán, tôi không chịu nổi thứ truyện ngắn này!

* *

In the thirteen rich stories that make up Something I've Been Meaning to Tell You, Alice Munro demonstrates the precise observation, straightforward prose style, and masterful technique that have won her comparisons to Chekhov. Exploring the mysteries, dangers, joys, and bewilderment in the lives of ordinary girls and women, Munro tells of sisters, mothers and daughters, aunts, grandmothers, and friends who shimmer with hope and love, anger and reconciliation, as they contend with their histories and their present, and what they can see of the future,

"[Munro] is one of those few living writers who, in the way of greats, must simply be read," The Globe and Mail

Trong 13 truyện ngắn giầu có làm thành tập truyện “Một điều gì tôi tính nói với bạn”, Munro chứng tỏ một sự quan sát chính xác, một thứ văn xuôi thẳng, trực, và một kỹ thuật viết bậc thầy, nhờ vậy, bà thường được so với Chekhov.

Trong bài viết giới thiệu Chekhov, của Oz, (1) trên Tin Văn, ông viết:

Đó là một thành phố nhỏ, thê thảm còn hơn cả một làng quê. Toàn những người già, họa hoằn lắm mới chịu nằm xuống, thế mới bực! Hơn nữa, ít khi người ta cần tới quan tài, dù là ở nhà thương, hay ở nhà tù. Nói ngắn gọn, chẳng làm sao buôn bán làm ăn ở đây. Nếu Yakov Ivanov làm nghề đóng hòm ở một chốn thị tứ, chắc là ông đã có được một căn nhà, và được gọi là Ông Ivanov. Nhưng ở cái chốn tệ mạt này, giản dị chỉ là Yakov. Vì một lý do nào đó, ngoài đường họ gọi ông bằng biệt hiệu Đồng. Ông sống nghèo khổ như bất cứ một người dân quê bình thường trong một túp lều, cùng với bà vợ Marfa, một cái bếp, cái giường, mấy cái hòm... 

.... Viên cảnh sát địa phương bịnh dầm dề hai năm ròng, và đang chờ đi luôn. Yakov nóng ruột, đợi hoài đợi hủy chuyến tầu suốt của ông này. Nhưng viên cảnh sát dời lên thành phố chính để chữa trị, và chắc là phó thác linh hồn cho quỉ ma ở đó... thế là mất toi ít nhất 10 rúp, bởi vì đây là thứ hòm đắt tiền. Cứ đêm đêm Yakov lại bị nỗi mất mát lớn lao hành hạ. Ông để cây vĩ cầm kế bên giường và những lúc không thể chịu đựng nổi cơn dầy vò, ông mân mê mấy sợi dây. Cây vĩ cầm "tinh, tinh" trong đêm tối, và ông ta cảm thấy đỡ đi. 

Cái buồn dìu dịu, cái diễu ấm áp, nhân hậu, tha thứ... thật không ăn khớp gì với cách chọn lọc thật lạnh lùng những chi tiết, cách nhìn thiên nhiên như một ông y sĩ giải phẫu, cách đo đạc thật chi ly khoảng cách giữa nhân vật và sự thực.

Những nhân vật thường chẳng để ý, hoặc chẳng thừa nhận chân lý, sự thực, nhưng độc giả được mời nhận ra nó, giữa những dòng chữ. Ở đây cũng như ở trong những chuyện khác, Chekhov tạo một sự cân bằng thật chính xác, như một nhà hóa học cân đo đong đếm, giữa dị hợm (ridiculous) và nỗi đau xé ruột xé gan. Khế ước là sự đồng cảm, giữa người đọc và người kể, qua những con chữ. Thường xuyên người đọc phải nhận ra bằng cách đảo ngược. Thí dụ như những câu mở đầu: nỗi khóc than ca cẩm, về chuyện "hiếm" người chết ở trong làng, về chuyện người già "họa hoằn mới chết và chuyện này thật là bực". Khế ước là từ người kể chuyện, không phải từ nhân vật, nhưng người đọc nhận ra, sau khi đã hết ngỡ ngàng, đây chính là lời than van của người làm hòm, do công việc ế ẩm. Cũng vậy, "Marfa, cái bếp, mấy cái hòm...", người để kế bên vật; ở đây độc giả biết, người kể đã trộn giọng nói của mình với giọng của "Đồng không tim".

Đồng ngần ngại làm hòm cho con nít, "mất thì giờ vì chuyện không đâu", chi tiết này, ngay ở đầu truyện, cho thấy đây là một con người biển lận. Nhưng tới nửa truyện, người đọc biết, Đồng cố xóa khỏi trí nhớ, và cuộc đời, cái chết của bé gái độc nhất của hai vợ chồng, 50 năm trước. Chỉ sau khi bà vợ chết, độc giả mới hiểu, Đồng cố làm cho trái tim của ông trơ ra, để cho ông đỡ đau.

Như thế, sự quan sát chi ly chính xác, ở nơi Chekhov, 1 phần nào đó, là còn của 1 thầy thuốc, một nhà hoá học - khi cân đo đong đếm dược phẩm & độc phẩm làm sống & làm chết người - của ông mà ra.

Italo Calvino, cũng nhận ra điều này, khi nhận xét về cái nhỏ bé của con người ở Chekhov:

Càng nhìn sâu vô con người, ông càng nhìn ra cái xấu xa cái biển lận… nhưng khi lưỡi dao thầy thuốc của ông ngoáy tới thịt tươi, ở tít bên dưới, thì ông kiếm thấy cái gọi là "phẩm giá của con người", cũng trong tên khốn kiếp đó!

Hà, hà!

Dans la nouvelle La Fille d' Albion, qui date de 1885, nous trouvons déjà Tchekhov à son plus haut degré, et le métal dont il forge ses contrastes comiques ou dramatiques : la dignité de l'homme. Dans des nouvelles comme celle-ci, ou comme La Choriste (1886), plus il fouaille ses petits humains, plus il en découvre les égoismes, les faussetés et les mesquineries sous le masque de leur fausse «dignité», plus se révèle à nous quelque chose qui résiste à la dégradation, quelque chose de supérieur à la bassesse générale, une qualité impalpable que nous devons recommencer à appeler dignité humaine, une dignité tout à fait opposée à celle, hypocrite et formelle, des moeurs bourgeoises. Mais Tchekhov atteint ses meilleurs résultats lorsque la decouverte de la fausse dignité et les retrouvailles avec la vraie ont lieu chez le même personnage ; lorsque le couteau qui ouvre l' abcès touche la chair vive. Et l'on voit apparaitre alors la «pitié» de Tchekhov, toujours d'autant plus présente qu'il est «sans pitié » : voilà que, après avoir découvert sous le personnage le petit-bourgeois - sa mesquinerie et son horreur historique -, sous le petit-bourgeois, il découvre l 'homme. (2)

Calvino còn tiên tri ra được 1 tên Nazi nằm trong nhân vật của ông nhà văn thầy thuốc người Nga này.

Nói rõ hơn, chỉ tới đỉnh cao Nazi, chỉ tới khi đó, thì mới ló ra con quỉ Á Châu, bậc đàn anh của nó!

Tchekhov, le médecin éducateur à l'ombre de la culture positiviste, et qui avait saisi ce qu'il y avait en elle d'élan humanitaire et progressiste, en cerne aussi, avec une sensibilité précise, les crises et les déviations. Dans Le Duel, il nous a donné, en 1891, un portrait parfait de nazi, un naturaliste qui soutient la suppression des plus faibles de la part des plus forts, un portrait où il n'y a rien à changer, ni le type physique, ni les discours, ni le nom allemand, ni l'idéologie pseudo-scientifique, pour retrouver en face de nous un de ceux qui, cinquante ans plus tard, vont torturer l'Europe.

Sở dĩ GCC phải dài dòng văn tự, như trên, để chứng minh, lần từ Munro, ra Chekhov, chỉ mới được nửa đường, có cái giống giữa thầy và trò, nhưng trò không làm sao bằng Thầy được, bởi là vì đằng sau Thầy là Cái Ác Á Châu, cái ác làm cho măng “không lớn thành người được”, cứ đắng ngắt, như “ý” của Updike [“lời” của GCC], khi đọc Mạc Ngôn:

Bằng 1 văn phong mà với những ai không rành về văn học Trung Quốc, tác phẩm của ông gợi ra một món nộm, không phải của Đông Phương, mà là Tây Phương: Trộn ở trong đó, là Rabelais (với những quá đáng của ông Tây này), Kafka (những ẩn dụ), Gunter Grass (sự rạch ròi trong những vấn nạn chính trị và gia đình), Garcia Marquez (hơi thở nóng bỏng của sử thi), ông đã vẽ nên được cuộc chiến đấu dai dẳng, có từ thời khai thiên lập địa, của, không chỉ dân TQ mà còn của rất nhiều giống dân Á Châu khác, trong có lũ Mít -  Bắc Kít đúng hơn - chống lại Cái Ác khủng khiếp ngự trị trên phần đất này. Đọc ông 1 phát, là ngửi ngay ra vị đắng chát của măng non, không bao giờ trở thành tre già!

Nói rõ hơn nữa, ở 1 xứ như Mít, Tẫu không bao giờ có con người trưởng thành, xã hội trưởng thành, như 1 xứ Tây Phương, thí dụ Canada của GCC!

Rushdie gọi, những xã hội một nửa. Updike, xã hội đắng nghét của măng non.


Kỷ Niệm 100 Năm Mất Chekhov (1904-2004)
Giữa địa ngục, xung quanh là biển
Chekov và Kafka
Cây vĩ cầm cho Rothschild


Cuốn "Tại sao đọc cổ điển", bản tiếng Pháp có bài viết về Chekhov, bản tiếng Anh, không.
Bản tiếng Pháp Cô Út làm từ thiện mất.
GCC mua hai bản, tính giới thiệu 1 số bài trong đó.


The Colombian president’s premature Nobel peace prize: Chết Yểu!
It is not clear whether the accolade will hurt or help efforts to end the country’s long guerrilla war

THE Norwegian Nobel Committee has a penchant for awarding premature peace prizes. It gave one to Barack Obama less than a year into his presidency. And now it has bestowed one on Colombia’s president, Juan Manuel Santos, just days after Colombian voters rejected in a plebiscite his plan to end the country’s 52-year-long war with the FARC, a hybrid revolutionary army and organised-crime outfit.
Ủy
ban Nobel có cái thú, trao 1 thứ giải thưởng Nobel Hòa Bường Yểu Tử.
Chưa kịp cho Hoà Bường đã ngỏm củ tỏi!

The committee’s head, Kaci Kullman Five, acknowledged the “real danger” that the war will resume after voters vetoed the peace accord on October 2nd. She thinks that the prize will make that less likely. “We hope it will encourage all good initiatives and all the parties who could make a difference in this process in Colombia,” she said. Whether it will is the question of the hour in Colombia. The majority against the accord was a narrow one—50.2% to 49.8%—and turnout was low. Both Mr Santos and the FARC promised to continue working towards peace. In accepting the prize, Mr Santos called on Colombians to “unite our efforts, our minds and our hearts so that we all win the most important prize: peace for Colombia.”


Thơ Mỗi Ngày

http://tanvien.net/new_daily_poetry/Haiku_Buson.html

*

mi no aki ya
koyoi o shinobu
asu mo ari
 
Autumn weighs upon me
but tomorrow will come
and I will miss tonight

Thu đè lên Gấu
Nhưng ngày mai sẽ tới
Và Gấu sẽ nhớ đêm nay

Since Basho went
not a single year
has lived up to its promise

Kể từ Basho đi xa,
Không có năm nào vươn tới chỉ,
Như nó hứa hẹn với ông!

A woman is gathering
the ashes of someone she loves
a violet flowering close to her
Một người đàn bà thu gom tro than của một người thân thương của bà
Một bông hoa nở tím, ngay kế bên bà.

Collected Haiku of Yosa Buson

Translated by W.S. Merwin & Takako Lento

Note: Bài thơ haiku, trên, làm GCC nhớ tới bài thơ của Thích Nhất Hạnh, rất nổi tiếng, trong thời chiến tranh Mít, và hình như đã từng được PD phổ nhạc, dưới đây.
Lạ, là khi đặt hai bài thơ song song, thì 1 hình ảnh mới, bật ra, với GCC, và nó lại làm GCC nhớ đến cái lần, thằng em trai, vô nhà bảo sanh thăm thằng con trai lớn của Gấu, mới sinh, rồi đi luôn:
Liệu cái bông hoa màu tím, mớ tro than thu gom, là một?

Peace

They woke me this morning
To tell me my brother had been killed in battle.
Yet in the garden, uncurling moist petals,
A new rose blooms on the bush.
And I am alive, can still breathe the fragrance of roses and
    dung.
Eat, pray, and sleep.
But when can I break my long silence?
When can I speak the unuttered words that are choking me?

                                                                         -Nhat Hanh

Hòa Bường
Người ta đánh thức tôi
Để báo tin thằng em tôi tử trận
Ngoài vườn, một bông hoa mới nở....

At Suma Temple

The waves too draw closer
to the notes of a flute
at Suma in the autumn

Sóng
Cũng mon men tới gần
Tiếng sáo thu
Ở Suma

Suma Temple houses as its treasure the famed flute played by Atsumori, the youthful nobleman-warrior
who was killed in a battle on the shore of Suma.
 Both Basho and Buson visited this temple.

Is there a woman here somewhere
who would steal the elixir of life
in the hazy spring moonlight

In Chinese legend, a man was given the elixir of life. His wife stole and drank it.
This turned her into a supernatural being, and she flew away and became the spirit of the moon.

Borges Golem
Six Poets Hardy to Larkin
The Moon

THE LIMIT

The silent friendship of the moon
(I misquote Virgil) has kept you company
since that one night or evening
now lost in time, when your restless
eyes first made her out for always
in a patio or a garden since gone todust,
For always? I know that someday someone
will find a way of telling you this truth:
"You'll never see the moon aglow again.
You've now attained the limit set for you
by destiny. No use opening every window
throughout the world. Too late. You'll never find her."
Our life is spent discovering and forgetting,
that gentle habit of the night.
Take a good look. It could be the last.
-A.S.T.

J.L. Borges
[Penguin ed]

Giới hạn

Tình bạn lặng lẽ của trăng
[Tớ trích lộn Virgil] là bạn đồng hành của bạn
Kể từ chiều hay đêm đó đó
Bi giờ mất mẹ nó rồi theo thời gian
Khi mắt bạn lần đầu mải miết theo dõi nàng
Nơi sân, hoặc vườn
Nếu còn chăng, chỉ là bụi mà thôi
Mải miết?
Tớ biết, một ngày nào đó, một người nào
đó
Sẽ tìm ra cách để nói cho bạn biết sự thực này:
Bạn sẽ chẳng bao giờ được nhìn thấy trăng sáng ngời nữa.
Bạn đã tới giới hạn của bạn rồi
Số mệnh phán như thế nào thì phải chịu thế nấy
Vô ích, cái chuyện bạn lăm le mở cửa sổ
Mọi cửa sổ mở ra thế giới.
No way. No use!
Trễ quá rồi, bạn ơi!
Bạn sẽ chẳng bao giờ tìm được nàng
[Đời của mi đâu rồi, sao bữa nay không đón mi?]
Đời của chúng ta được xài vào cái việc khám phá và quên lãng
Cái thói quen dịu dàng của đêm
Hãy nhìn 1 phát
Có thể phát cuối cùng

 TTT 10 năm

SN_GCC_2016
Mit Critic

http://phovanblog.blogspot.ca/2016/10/jane-eyre-ban-tay-che-dong-bao.html

Nhân loại ngày nay thừa hưởng không ít những tác phẩm văn học thường được gọi là kinh điển. Chúng là những công trình trước tác của nhiều thiên tài thuộc nhiều dân tộc, và từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay, trải qua nhiều thế hệ người đọc, vẫn không phai nhạt giá trị nghệ thuật lẫn nhân sinh. Dù trải qua nhiều thử thách và những biến đổi ý thức hệ, lịch sử, chính trị, xã hội, chúng vẫn không hề có dấu hiệu chìm vào quên lãng. Nếu cần chúng ta có thể liệt kê vài cuốn tiêu biểu như Don Quixote của văn hào Tây Ban Nha Miguel de Cervantes, hay cuốn Chiến tranh và hoà bình của văn hào Nga Lev Tolstoy, hay cuốn Những người khốn khổ của văn hào Pháp Victor Hugo. Chúng là gia sản văn hóa chung muôn đời của tất cả chúng ta, không riêng một ai, và đóng góp một phần không nhỏ vào đời sống tinh thần của mọi sắc dân trên thế giới.
TYT

Note: GCC sợ đấng này lộn từ kinh điển, academic, với từ cổ điển, classic.

Bởi thế, Calvino mới hỏi và cùng lúc, trả lời bằng cả 1 cuốn sách: Tại sao chúng ta vưỡn đọc cổ điển? Và cái câu khen bảnh nhất 1 cuốn sách vừa mới ra lò, là đã thành cổ điển!
Đã 1 bạn Cà lầm “kinh điển” với “kinh nguyệt”, khiến cả 1 một diễn đàn Bi Bi Xèo lầm theo.
Giờ đến đấng này!

Sách & Báo Mới
Robert Walser
Imaginary Beings Book