Tribute to NCT: Vietnam's Solzhenitsyn
Vietnam's Solzhenitsyn
Note: Bài “ai điếu” trên
Người Kinh Tế rất mùi! Mũi tẹt không
sao viết nổi. TV sẽ đi 1 đường tiếng Mít, sau.
Tribute to NCT: Vietnam's Solzhenitsyn
Thơ thì ở dưới áo,
400 bài. Ngày thì là 16 Tháng Bẩy, 1979;
đúng hai ngày, ông ghi nhận – sau kỷ niệm phá
ngục Bastille. Ngày Tự Do. Ông chạy qua cổng Tòa Đại
Sứ Anh ở Hà Nội, qua người gác, yêu cầu được gặp vị đại
sứ. Người gác, thua, không cản được ông. Trong khu tiếp
nhận, có vài Mít ngồi ở một cái bàn. Ông
xô họ, lật đổ cái bàn. Nơi tủ treo áo khoác
gần đó, một cô gái người Anh đang chải tóc. Cô
sợ quá, đánh rớt cái lược. Những tiếng ồn ào
khiến ba anh Hồng Mao thò ra coi chuyện gì xẩy ra, và
ông ném tập thơ vào một trong họ.
Sau đó, tĩnh lặng như… núi, ông chờ VC tóm ông.
Câu chuyện Nguyễn Chí Thiện gửi thơ của ông ra khỏi Việt
Nam Cộng Sản là như vậy đó. Những bài thơ sau đó
được xb dưới cái tít Hoa Địa Ngục, và được dịch
ra chừng nửa tá ngôn ngữ, và đợp giải thưởng Thơ Quốc
Tế vào năm 1985. Ông mơ hồ biết chuyện gì xẩy ra với
tập thơ, khi rong ruổi những trại tù VC. Ở Hoả Lò, khách
sạn Hilton, Hà Nội, một những viên cai tù cầm tập thơ
khuơ khuơ trước mặt ông. Sướng điên lên, ông nhận
ra thơ của mình.
Về thể chất, ông không
được mạnh. Nếm mùi ho lao ngay từ khi còn là 1 đứa trẻ,
bố mẹ ông phải bán căn nhà để mua trụ sinh trị bịnh cho
ông. Và rồi, kể từ năm 1960, với cớ này, cớ nọ - tố cáo
nhà nước bịp, về mặt lịch sử, bợ đít Liên Xô, ngợi
ca Hồng Quân đánh sụp Trục Ma Quỉ Ý – Nazi - Nhựt bổn,
vờ biến vụ Nhựt ăn hai trái bom nguyên tử, phải đầu hàng
vô điều kiện, làm thơ – ông trải qua vài án
tù dài, trong nhà tù và ở trại lao động.
Cơm gạo hẩm, và thịt cọp khiến ông gầy nhom, tóc rụng
còn mỏng dính, khi còn là trung niên thi
sĩ. Tuy nhiên, về mặt nội lực, ông trở thành cứng như
thép: Cái đầu, trái tim, linh hồn. Nếu không,
làm sao có được quyết định tuyệt đối, xông vô tòa
đại sứ Anh bữa đó. Nhà nước khốn kiếp đập ông chừng nào,
ông cứng thêm lên, trưởng thành thêm lên
chừng đó:
They exiled me to the heart of the
jungle
Wishing to fertilise the manioc with my remains.
I turned into an expert hunter
And came out full of snake wisdom and rhino fierceness.
They sank me into the ocean
Wishing me to remain in the depths.
I became a deep sea diver
And came up covered with scintillating pearls.
Chúng đầy tôi tới đáy
rừng
Hẳn là chúng chắc mẩm cái thân tàn của
tôi sẽ trở thành phân bón sắn
Tôi biến mình thành 1 tên thợ săn siêu phàm
Có được sự khôn ngoan của loài rắn, và sức mãnh
liệt của loài tê giác
Chúng dìm tôi
xuống đáy biển sâu
Và cứ mãi dưới đó.
Tôi biến thành một anh thợ lặn
Và khi trồi lên mặt biển, thì là với một mớ ngọc
trai lấp lánh.
Nguyên tác:
ĐẢNG
ĐẦY TÔI
Đảng đầy tôi trong rừng
Mong tôi xác bón từng gốc sắn
Tôi hóa thành người săn bắn
Và trở ra đầy ngọc rắn, sừng tê
Đảng dìm tôi xuống bể
Mong tôi đáy nước chìm sâu
Tôi hóa thành người thợ lặn
Và nổi lên ngời sáng ngọc châu
Đảng vùi tôi trong đất
nâu
Mong tôi hóa bùn đen dưới đó
Tôi hóa thành người thợ mỏ
Và đào lên quặng quý từng kho
Không phải quặng kim cương hay quặng
vàng chế đồ nữ trang xinh nhỏ.
Mà quặng uranium chế bom nguyên tử
Những viên ngọc
trai là những bài thơ của ông. Ông giữ những cố
gắng đầu đời của mình ở trong 1 ngăn kéo bàn, và
sau này, khi kiếm thấy, giấy gián gặm nham nhở. Cái
đầu hóa ra là nơi cất giữ an toàn cho thơ. Và
cũng là nơi cất giữ độc nhất mà ông có được, trong
gần như 1 nửa đời người. Ở trong tù, giấy bút mực sách
báo, ông đâu được phép. Chỉ có mỗi 1 cách
là ghi nhớ những bài thơ, từng bài một, trong từng đêm
im ắng, hàng trăm bài thơ, nhẩm đi nhẩm lại nhiều lần, rồi
cho vô kho tàng, là 1 góc sâu ở trong đầu.
Nếu không ổn, thì bỏ bài thơ đó.
Nếu nó bốc mùi – như bài thơ về Bác Hồ, người
lãnh đạo CS đầu tiên – ông cho tới luôn, và
biến nó thành 1 mũi tên nhọn hoắt:
Let the hacks with their prostituted pens
Comb his beard, pat his head,
caress his arse!
To hell with him!
Nguyên tác:
Hôm
nay 19-5
Hôm nay 19-5
Tôi
nằm
Toan
làm thơ chửi Bác
Vần
thơ mới hơi phang phác
Thì
tôi thôi
Tôi
nghĩ Bác
Chính
trị gia sọt rác
Không
đáng để tôi
Đổ mồ
hôi
Làm
thơ
Dù
là thơ chửi Bác
Đến
thằng Mác
Tổ sư
Bác!
Cũng
chưa được tôi nguệch ngoạc vài câu!
Thôi
hơi đâu
Mặc thây
bọn văn sĩ cô đầu
Vuốt râu, xoa đầu, mơn trớn Bác.
Thế rồi tôi đi làm việc khác.
Kệ cha Bác!"
(1964)
(1)
Nguyên tác:
ĐẢNG ĐẦY TÔI
Đảng đầy tôi trong rừng
Mong tôi xác bón từng gốc sắn
Tôi hóa thành người săn bắn
Và trở ra đầy ngọc rắn, sừng tê
Đảng dìm tôi xuống
bể
Mong tôi đáy nước chìm sâu
Tôi hóa thành người thợ lặn
Và nổi lên ngời sáng ngọc châu
Đảng vùi tôi trong
đất nâu
Mong tôi hóa bùn đen dưới đó
Tôi hóa thành người thợ mỏ
Và đào lên quặng quý từng kho
Không phải quặng kim cương hay quặng
vàng chế đồ nữ trang xinh nhỏ.
Mà quặng uranium chế bom nguyên tử
(1972)
NCT
Những lần ra đồng lao động với
bạn tù, nhiều người trong họ cũng là thi sĩ, ông đọc những
bài thơ của ông cho họ nghe, và họ đáp lại bằng
thơ của họ. Một số trong họ đếm nhịp thơ bằng ngón tay để nhớ. Ông
không bao giờ làm vậy. Chỉ hồi nhớ là đủ. Hồi nhớ không
chỉ phục vụ thơ, mà còn cứu ông. Sau 1979, ông
trải qua phần đẹp nhất của tám năm trời trong cô đơn, trong
nhà kho, trong gông cùm, trong bóng tối. Thơ của
ông trở thành những tiếng sụt sùi, những tiếng khò
khè, những trận ho lao thổ máu. Nhưng trong đầu, ông vẫn
làm những chuyến đi câu, hay ngắm bình minh làm
nhạt nhòa những vì sao. Ông ngửi mùi hoa nhài,
hơi phở nóng trên phố đêm Hà Nội. Ông nhớ
bà chị Hảo của ông và những lần bà dạy ông
tiếng Pháp, khi ông mới sáu tuổi – ôi chao, đúng
là thiên đàng, cái thời kỳ thuộc địa Tây,
khi nhìn lại – và ông nhập vào với Đạc Ta Nhan
và đồng bọn. Bằng cách đó, nó giữ ông sống.
Uống rượu với Lý Bạch
Bạn tù ưng ý nhất
của ông, là Lý Bạch, nhà thơ lớn TQ, thế kỷ 18.
Ông nhắm rượu với Lý Bạch từ những ly hổ phách, uể oải
toài người trên những chiếc ghế dài, ngắm mấy em hầu
rượu trong những chiếc xường xám lụa Tô Châu, dưới hàng
dương liễu, “nhìn những mùa thu đi”, cùng những cánh
đào rơi rụng. Ông sẽ lèm bèm với Lý Bạch
bằng cái giọng say say, rổn rảng, và, "vãi linh hồn"
biết mấy! Ẩn chìm trong nỗi vui cùng cụng ly với bợm nhậu,
thánh thi Tẫu, là cái tuổi trẻ của ông, những
năm tháng lê la nơi... Khâm Thiên, ăn ngủ hút
sách cùng đám cô đầu, y chang Nguyễn Tuân
hồi trước Cách Mạng! Cả hai, ông, và Lý Bạch đều
chọc quê hoàng đế, cha già dân tộc, đều nhổ vào
cái hệ thống giáo dục, và đều bị trừng phạt. Hình
như là cái quá khứ xa vời đó lại có vẻ
chịu đựng được. Nhưng đúng là chịu đếch nổi, những hành
động của Quỉ Đỏ VC, với những chiếc loa nơi đầu phố
oang oang tối ngày sáng đêm về Hạnh Phúc và
Ánh Sáng.
Ra khỏi tù, như Lý
Bạch, ông chơi quốc lủi một dạo, và cố kiếm sống bằng cách
bán những chiếc nan hoa xế đạp. Chẳng đi đến đâu. Từ 1995, ông
xoay sở để có được 1 chốn ra vô ở Mẽo. Ông sống khiêm
nhường ở Tiểu Sài Gòn, Quận Cam, California, cùng vài
đồng hương, bạn bè. Trà và thuốc lá là
hai món an ủi ông mỗi ngày. Một cái mũ, như trong
hình, là thương hiệu của ông. Ông chẳng có
gì để chia sẻ, ngoài những bài thơ, và những
hồi ức về những bạn thi sĩ tù, mà những ngôi mộ của họ,
rải rác đâu đó, làm thành những nét
chấm phá, trên những mảnh đồi, chung quanh trại tù, trại
lao động cải tạo. Chỉ có thế, và thêm vào đó,
là lòng thù hận chế độ VC ở quê hương của ông,
nơi bọn chúng cấm tiệt thơ của ông.
Nếu có người có
thể nhìn thấy trái tim của tôi, ông viết hồi năm
1960, trong lần đi tù VC đầu tiên, người đó sẽ nhìn
thấy nó là một cây viết cũ, một giá viết, mờ bụi; hay một cái quán nghèo nàn
bên đường, mà tiện nghi độc nhất là ngọn đèn dầu.
Nhưng nó cũng còn là một cánh đồng lúa
đợi những cơn mưa lũ tháng Tám,
Và như thế nó có thể ứ
tràn
Cả ngàn con sóng
Những con sóng bạc
đầu
Cuốn trôi đi tất cả
https://nguyenchithien2012.wordpress.com/2012/11/14/dang-day-toi/
Note: Tks.
NQT
Obituary by The Economist
Nguyen
Chi Thien
Nguyen
Chi Thien, a Vietnamese poet, died on October 2nd, aged 73
Oct 13th 2012 | from the print edition
THE poems were under his shirt, 400 of them. The date was
July 16th 1979, just two days—he noted it—after the anniversary of the fall
of the Bastille. Freedom day. He ran through the gate of the British embassy
in Hanoi, past the guard, demanding to see the ambassador. The guard couldn’t
stop him. In the reception area, a few Vietnamese were sitting at a table.
He fought them off, and crashed the table over. In a cloakroom nearby, an
English girl was doing her hair; she dropped her comb in terror. The noise
brought three Englishmen out, and he thrust his sheaf of poems at one of
them. Then, calm again, he let himself be arrested.
Thus Nguyen Chi Thien sent his poems out of Communist Vietnam.
They were published as “Flowers of Hell”, translated into half a dozen languages,
and won the International Poetry Award in 1985. He heard of this, vaguely,
in his various jails. In Hoa Lo, the “Hanoi Hilton”, one of his captors furiously
waved a book in his face. To his delight, he saw it was his own.
He was not strong physically. He contracted TB as a boy; his
parents had to sell their house to pay for his antibiotics. Then since 1960,
on various pretexts—contesting the regime’s view of history, writing “irreverent”
poetry—he had done several long spells in prison and labour camp. Hard rice
and salt water had made him scrawny and thin-haired by his 40s. Internally,
though, he was like steel: mind, heart, soul. Sheer determination had forced
him through the British embassy that day. In fact, the more the regime hurt
him, the more he thrived:
They exiled me to the heart of the jungle
Wishing to fertilise the manioc with my remains.
I turned into an expert hunter
And came out full of snake wisdom and rhino fierceness.
They sank me into the ocean
Wishing me to remain in the depths.
I became a deep sea diver
And came up covered with scintillating pearls.
The pearls were his poems. He kept his early efforts in a
table-drawer where he found them later, the paper gnawed by cockroaches.
The mind’s treasury was a safer place for them. It was also, for almost half
his life, the only place he had. In prison he was allowed no pen, paper or
books. He therefore memorised in the night quiet each one of his hundreds
of poems, carefully revised it for several days, and mentally filed it away.
If it didn’t work, he mentally deleted it. If it started to smell bad—like
the one about Ho Chi Minh, Vietnam’s first Communist leader—he turned it
into a stinging dart instead:
Let the hacks with their prostituted pens
Comb his beard, pat his head, caress his arse!
To hell with him!
Walking out to till the fields with his fellow prisoners,
many of them poets too, he would recite his poems to them and they would
respond with theirs. Some of them counted the beats on their fingers to remember.
He never did; memory alone served him. It saved him, too. After 1979 he spent
the best part of eight years in solitary, in stocks or shackles in the dark.
His poems became sobs, wheezes, bloody tubercular coughs. But in his mind
he still set out fishing, and watched dawn overtake the stars. He sniffed
the jasmine and hot noodle soup on a night street in Hanoi. He remembered
his sister Hao teaching him French at six—what a paradise the French occupation
seemed, in retrospect!—and went swashbuckling again with d’Artagnan and his
crew. That way, he kept alive.
Drinking with Li Bai
A favourite prison companion was Li Bai, the great poet of
eighth-century China. He would sup wine with him from amber cups, loll on
chaises longues, watch pretty maidens weaving silk under the willow trees
and the peach blossoms falling. He would talk to the moon with him and get
wildly, romantically drunk. There was a flavour here of his own careless
youth, his teahouse years of girls and smoking. Both he and Li Bai had offended
the emperor, mocked the education system, and been punished. But somehow
the oppressions of the distant past seemed bearable. Not so the acts of Vietnam’s
red demons, with their nauseating loudspeaker jingles about Happiness and
Light.
Out of prison, Li Bai-like, he dealt in rice brandy for a
while, and tried to sell bicycle spokes. He could not make a go of it. From
1995 he managed to get shelter in America. He lived humbly in Little Saigon
in Orange County, California, lodging with fellow countrymen. Green tea and
smoking remained his chief comforts. A flat cap or a fedora were his trademarks.
He had nothing to share but his poems and his memories of fellow poets, whose
cattle-trodden graves now dotted the hills around the labour camps. That,
and his roaring hatred of the regime in his country, where his writings remained
banned.
If people could see his heart, he had written back in 1964,
during his first spell in prison, they would see it was an ancient pen and
inkstand, gathering dust; or a poor roadside inn, offering only the comfort
of an oil lamp. But it was also a paddy field waiting for the flood-rains
of August,
So that it can overflow into a thousand waves,
White-crested ones that will sweep everything away!
Nhà Thơ Nguyễn Chí
Thiện đi xa
"Trong tôi còn
lại chi? Gia đình, bạn bè. Những bài thơ, chắc chắn
rồi, đã được đọc, được ghi thầm. Đúng một lúc nào
đó, ký ức nhanh chóng bật dậy, đọc, cho mình tôi,
những bài thơ. Luôn luôn, ở đó, bạn sẽ gặp những
tia sáng lạ. Thời gian của điêu tàn làm mạnh thơ
ca… cõi thơ êm đềm ngự trị bên trên sự bình
thản của vũ trụ."
Sự tương phản càng nổi
bật, khi so sánh những dòng thơ của một "ngục sĩ" Nguyễn Chí
Thiện – mộc mạc, chơn chất - với những dòng thơ của một sĩ quan cải
tạo như Nguyễn Xuân Thiệp trong "Tôi Cùng Gió Mùa".
Như "hắn" và ông Thanh Vân, ‘mỗi người một mặt bằng khác
nhau’, số phận của Nguyễn Chí Thiện nghiệt ngã hơn nhiều: ông
từ chối những chói lòa của thơ văn cách mạng, từ chối
làm cai tù, chấp nhận làm ngục sĩ liên miên.
Ông đâu biết trút nỗi đau của ông vào đâu,
nên đành cứ nhè ông Hồ mà "vạc", nhè
chế độ mà "chửi", rồi quăng vào tòa đại sứ, hy vọng
những lời chửi của ông vọng tới thế giới bên ngoài. "Tã
trắng thắng cờ hồng", một ẩn dụ thơ như thế là từ đời sống mà
ra. Hy vọng "tã trắng thắng cờ hồng" của ông, là trông
vào một Miền Nam ông chưa từng biết tới. Hãy nhớ lại
nỗi đau của ông, khi nghe tin Miền Nam thất trận.
Còn những dòng thơ nhẹ nhàng, thanh thoát của
Nguyễn Xuân Thiệp, là do đằng sau ông có cả một
đồng đội, cả một chân lý, lẽ phải, chính nghĩa mà
chỉ khi vào tù ông mới có được. (Hãy nhớ
lại giấc mơ của "nhân loại", khi Cộng Sản Miền Bắc còn che giấu
được mục đích chiếm đoạt Miền Nam, bằng cuộc kháng chiến thần
thánh chống Mỹ cứu nước, thống nhất hai miền: Mơ sáng ngủ dậy,
thấy biến thành người Việt!)
Văn nào, thơ nào?
Ngay cả những dòng thơ của Paul Celan mà còn bị lạm
dụng. Nhưng đây không phải lỗi của ông, như nhà
thơ Auden đã từng nói: "Không một thi sĩ nào có
thể ngăn cấm, thơ của mình bị người đời sử dụng như là một
trò phù thuỷ." Bài thơ "Điệu Tango của Thần Chết" của
Celan, sau chiến tranh, đã đem đến cho người Đức một niềm khuây
khỏa lớn lao, kỳ diệu, chẳng thua gì câu chuyện "khôi
hài đen", một nghệ thuật lớn vốn thịnh hành cùng lúc
đó: "Người Đức sẽ chẳng bao giờ có thể tha thứ cho người Do
Thái về Auschwitz!". Chính vì thế, mà Adorno
cảnh cáo tiếp: Hãy coi chừng! Ngay cả nỗi đau lớn, khi được
đưa vào thành tứ thơ, khổ thơ, phổ thành vần thành
điệu, thì vẫn làm cho hiện tượng kia có thêm sự
huyền nhiệm, về một điều có thể chấp nhận được – a mystery of acceptability
– (Phỏng vấn G. Steiner). Đây cũng là lý do tại sao những
vần thơ mộc mạc của Nguyễn Chí Thiện vẫn chuyển tải được Cơn Kinh
Hoàng của thế kỷ: nó vẫn còn đúng với thực tại
Việt Nam:
Còn Đảng là còn
Khổ,
Hết Đảng là có Phở!
NQT đọc CKN2000 (1)
Mayakovsky , nhà thơ,
nhà tiên phong, người cổ võ lớn lao nhất cho chế độ mới
tại Nga, đã tự sát bằng súng vào năm 1930. Lẽ
dĩ nhiên, những ông thần Đỏ đã làm ông thất
vọng, nhưng "có thể", ông nhận ra, cái phần trách
nhiệm của ông, từ những vần thơ "hắn và Phương thích"
ở trên. Như Kundera chỉ ra, cách mạng Nga cần cả hai: nhà
thơ Maia và trùm mật vụ Dzherzhinsky (xin xem bài "Mùa
Thu, những di dân", đã đăng trên VHNT). Theo ông,
đây là thời đại mà nhà thơ ngự trị cùng
với đao phủ. Kundera nhớ lại những năm tháng sống dưới ánh
sáng cách mạng tại xứ sở quê hương (Tiệp khắc, 1948),
ông đã nhận ra sự mù lòa trữ tình và
vai trò cao cả của nó (the eminent role played by lyrical blindness).
Những "giơ cao thẻ Đảng-bài thơ," "mặt trời chân lý chiếu
qua tim"… là không thể thiếu trong thế giới toàn trị.
"Tự thân, thế giới đó không là ngục tù,
gulag. Nó là nhà tù khi trên tường nhà
giam dán đầy thơ, và mọi người nhẩy múa trước những
bài thơ đó" (Kundera, Những Di Chúc Bị Phản Bội). Cây
đa Tân Trào (biểu tượng cách mạng Mùa Thu) biến
thành trại tù là vậy. Những cô trung sĩ béo,
quân phục chật căng sẽ đọc gì cho bớt béo, cho bớt buồn
những khi nhớ nhà, những khi rảnh rang không phải chăm sóc
tù; nhà quản giáo ham học Thanh Vân sẽ đọc gì,
nếu thiếu những vần thơ Maia, những dòng văn đẹp như mơ của "hắn":
"Những giờ phút trí
tuệ thăng hoa. Những đêm khuya, như một con ngựa kéo cày,
đánh vật với ngôn ngữ. Và những chuyến ra khơi mê
hoặc. Sóng cứ to lên mãi. Nước cứ xanh lên mãi.
Biển đó. Lòa nắng…. Hắn lắp bắp như người nghẹn thở:
-Quyển sách của tôi.
Cô trung sĩ nhìn giấy tờ của hắn. Rồi lại nhìn tên
hắn in trên bìa sách."
(CKN 2000, trang 80).
Lần đầu, Gấu nhìn thấy
NCT, thời gian mới tới Xứ Lạnh, cc 1994, khi ông ghé Toronto,
đọc diễn văn trước 1 “audience”, do PEN Canada tổ chức để vinh danh ông.
Và Gấu nhớ hoài, cái câu cái tay Cà
Na Điên giới thiệu ông, bây giờ tôi giới thiệu tới
quí vị cái “tay này”, "this guy", một vị anh hùng.
A Hero.
Ông ta không dùng từ “nhà thơ”.
Lần thứ nhì, diện kiến NCT thì cũng từ xa: Gấu đứng trên
lan can căn nhà “mobile home” của họa sĩ NDT nhìn xuống, ông
đi qua nhà [khi đó ông ở chung với vị anh hùng
khác nữa, là Phan Nhật Nam, [trong 1 xóm mobile home,
Cali]. Mặt ông ngó lên trời, đếch thèm nhìn
ai.
Bà xã NDT cho biết, trước cũng qua đây chơi, đâu
một hai lần, nhưng chẳng ai ngửi được thái độ phách lối của
ông ta, nên anh Th. mời ông đi chỗ khác chơi.