*





The Saigon Execution
October 2004
by Horst Faas

*

Regarding the Pain of Others
by Susan Sontag.

"the clarity of everything is tragic"
- Witold Gombrowicz

Charles Simic

Note: Bức hình, trên 1 số NYRB đã cũ, May 1, 2003, tình cờ GNV vớ lại được, trong bài viết của Charles Simic, điểm cuốn của Susan Sontag: Nhìn nỗi đau của kẻ khác, Regarding the Pain of Others.
Trong bài viết, Simic cũng nhắc đến cái thú của quản giáo Khờ Me Ðỏ, trước khi làm thịt ai, thì cho nguời đó được chụp 1 tấm hình làm kỷ niệm.
Bài viết của Simic, quả đúng là của thi sĩ, thật tuyệt. Ông viết về kinh nghiệm ấu thời của ông, ở vùng Balkans.
Có thể nói, qua bài viết của ông, thì cả lịch sử nhân loại được chia ra làm hai, một thời kỳ không có hình, và một, có hình.
Chỉ khi có hình, thì chúng ta mới được thưởng thức nỗi đau của kẻ khác, dù không là chứng nhân tận mắt.
Archives of Horror, Ảnh Khố của Sự Ghê Rợn, là theo nghĩa đó.

Tỏa Sáng Ðộc Ác  

*

Quản giáo, cai tù Pol Pot, giống như của Stalin, có cái thú trước khi làm thịt ai thì cho chụp hình làm kỷ niệm

"Who are you who will read these words and study these photographs, and through what cause, by what chance, and for what purpose, and by what right do you qualify to, and what will you do about it?"

"Perhaps the camera promises a festive cruelty", Judith Butler has suggested, of the images of Abu Ghraib; she writes provokingly of "the moral indifference of the photograph, coupled with its investment in the continuation and reiteration of the scene as a visual icon". Thus are Sontag's theories dealt with. Butler's are still current. Linfield joins a select company.


Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi mơ giấc mơ của mình ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là một tên phản bội quê nhà, và một tên lừa đảo.
Sebald:
Phát biểu khi là ông Hàn

Liệu có một tên VC nào cảm thấy bị lột mặt nạ, trơ ra là một tên phản bội, và một tên lường gạt, ở ngay trên chính quê hương của nó?

Hay 1 tên VNCH, nhưng gốc Bắc Kít Di Cư, ở quê hương…. Mẽo của nó?

Ðược đằng đầu lân đằng chân

Ðọc bài bình loạn chính trẹo của Ông Số 2, Gấu thấy nực cuời, do cái sự ấu trĩ của nó. Làm sao mà lại so sánh hai sự kiện Tây đánh VN từ hổi nảo hồi nào với chuyện TQ xử lý [nội bộ] thằng em Bắc Kít ngày hôm nay.

Khi Tây đánh VN, chúng đánh Miền Nam trước, vì dễ ăn hơn, chúng quen thuộc đường đi nước bước ở Ðàng Trong hơn so với Ðàng Ngoài, chưa kể đến lý do tiềm ẩn của cuộc chiến: khai hoá, mang văn minh đến cho những xứ sở bán khai, nhưng “Chúa đi trước, võ khí đi sau”: sự đàn áp Ky Tô giáo của Nhà Nguyễn là ngòi nổ làm bùng ra cuộc chiến xâm luợc. Giả như nhà Nguyễn khôn ngoan, như nước Nhật đã từng làm, lịch sử VN chắc là khác đi nhiều.
Ðây là chiến thuật đầu cầu, trong quân sự, xưa như trái đất, mắc mớ đến chiến thuật dạy cho Việt Nam một bài học của TQ?

Ðâu có phải chuyện nắm cái đầu, là đám chóp bu Bắc Bộ Phủ.

Giữa VC và TQ có rất nhiều mắc míu, và cái sự sợ hãi TQ của đám chóp bu VC là do đó mà ra. Ông số 2 này, trí nhỏ, bàn toàn chuyện tào lao, lại thêm cái tâm cũng chẳng lớn gì cho lắm, đọc chán phèo.
Một người thực sự đau cú đau TQ, thì lập tức lại thấy nhói lên cái đau của Miền Nam. Bởi vì chính là do đối xử khốn nạn  trong thời gian chiến tranh, bằng mọi cách phải chiến thắng, đánh 100 năm, đốt sạch Trường Sơn… và để chiến thắng, thì lạy lục thằng Tẫu, cung phụng chúng. Bắt gái Bắc làm hộ lý, phục vụ sex chúng… và hậu quả là ngày hôm nay. 

Chúng ta cứ giả thử, sau 30 Tháng Tư, Bắc Kít thực sự ôm lấy Nam Kít, cả nước cùng nhau xây dựng cái nhà Mít, thì làm sao thằng Tẫu dám ngó ngoé?

Chính là do Tây đánh Nam Kỳ trước, cho nên Gia Long mới bị VC & Bắc Kít qui tội cõng rắn cắn gà nhà, còn Ky Tô giáo trở thành kẻ thù muôn đời của những tên VC cực VC như Thái Dúi.

Cứ giả dụ như thằng Tây ngu ngốc, đánh Bắc Kít trước, thì chúng được cái gì?

Hỏi là trả lời. Tuy nhiên Bắc Kít mới là mục tiêu sau cùng của Tây, cùng với nó, là giấc mộng ngược sông Hồng lên tận Vân Nam của Ðồ Phổ Nghĩa. Lịch sử lập lại, khi Kissinger gặp Mao Xếnh Xáng là giấc mộng này, lại một lần nữa được thực hiện giữa Mafia Do Thái [chữ của Bà Huệ, Gió O], và anh Tẫu.

Tay Số 2 này, Bắc Kít di cư, khôn tổ cha, chưa hề sứt 1 sợi lông chim suốt cuộc chiến, rồi ra hải ngoại lo học lấy đủ thứ bằng cấp, rồi lo làm báo, cả 1 cơ sở báo chí to tổ bố, trong bao nhiêu năm trời, chưa làm được 1 việc thiện, chưa sứt 1 đồng đô la. Thời gian Gấu qua Cali, ghé thăm bạn làm tại đây, thấy ông VC nhà văn VTH được tòa báo o bế, ban cho cả 1 văn phòng tổ chảng, còn Gấu, bạn "thân", cùng giới viết văn Sài Gòn ngày nào, ông vờ luôn, Gấu còn mừng.

Tuy nhiên, khôn cỡ đó, làm sao không mất Miền Nam.
Có 1 lần Gấu đọc 1 bài ký của ông trên tờ Thế Kỷ 21, ông sót sa, Sài Gòn có người chết đói rồi đó.
Ngay bên hông Chợ Bến Thành!
Quí hoá thật.

V/v không sứt 1 đồng đô la, thì không chỉ ông số 2, mà cả một bộ lạc, clan, [cờ lăng] đều y chang.
“Giai thoại” sau đây, là do DN, báo SGN, kể: Lần tưởng niệm, hay giỗ đầu Mai Thảo, hình như vậy, băng Cờ Hoa Lăng Bác đứng ra tổ chức, và cái tay DNY hô hào, lập giải thưởng văn học Mai Thảo, thế là 1 cái quỹ được thành lập, và 1 trong những vị thính/khán giả có mặt bèn xung phong bỏ vô… túi DNY 200 đô.

Và bà DN tự hỏi, giải thưởng thì sẽ muôn đời lục quân… Miền Nam, nhưng còn hai trăm đô, chắc là sau đó DNY bỏ vô account của ông ta, tiền lời của nó, bi giờ là bao nhiêu?

Cả 1 băng đảng, suốt cuộc chiến không đứa nào sứt 1 sợi lông… chân, bỏ chạy cũng lẹ nhất, bao nhiêu năm ở hải ngoại, không làm được chỉ 1 việc nhỏ cho ‘đại cuộc’, chỉ chăm chăm lo làm giầu, cả 1 đám bây giờ giầu xụ, bao nhiêu cơ quan báo chí, truyền thanh… đều thuộc vào tay chúng hoặc hậu duệ của chúng, thử hỏi sự khốn kiếp đâu có thua gì VC ở trong nước? Chúng chửi VC, bằng thứ tâm địa khốn kiếp như thế, làm sao có… phép lạ xẩy ra?

The Saigon Execution
October 2004
by Horst Faas 

Câu chuyện về anh VC bị làm thịt trong bức hình của Eddie xem ra cũng nhiêu khê: Tướng Loan biểu, hắn giết nhiều người Miền Nam, và cả Mẽo nữa. Đám nhiếp ảnh viên Mít nói, hắn là 1 tên phản bội, hai mang, vừa làm cho VC, vừa làm cho Cảnh Sát Quốc Gia. Những người khác thì nói, anh ta là VC, thứ tép riu, vừa mặc 1 cái áo sơ mi ca rô mới tinh, tính lặn…
32 năm sau tôi gặp bà vợ góa của anh, vẫn sống trong căn nhà ngoại ô phía Nam Sài Gòn, và tưởng nhớ chồng. Tại một góc phòng khách, đằng sau mớ hoa ni lông, là bức hình của Nguyễn Văn Lắm, một người, bởi vì là VC nên cũng có nick [như Sáu Dân, như Ba Dzũng, thí dụ], và bí danh của anh là Bẩy Lốp. Đúng, anh ta là thành viên của MTGP, tức VC, và chỉ mới biến mất khỏi gia đình trước Cú Mậu Thân, và chẳng hề trở về.
Bức hình của Eddie làm anh ta trở thành kẻ tuẫn đạo, nhưng không, không, bà vợ chẳng có, và chẳng hề muốn có, bức hình anh bị Loan xử. Bả sẽ tưởng nhớ chồng cho tới khi xác của chồng được tìm thấy, bà thố lộ như thế, vào năm 2000, khi VC ăn mừng 25 ăn cướp Miền Nam.
[Bản dịch không đúng theo bản tiếng Anh, có tí lệch pha, sorry]

Ui chao, đọc, sao lại nhớ đến ông già Gấu. Cũng biến mất đúng dịp Tết 1945, đầu Cách Mạng VC, và cũng chẳng bao giờ trở về!
*

…. in those days it took 20 minutes to transmit a single photo, which often had to be repeated - and the single radiotelephone circuit to Paris, shared with UPI, was closing down after three hours. AP's radiophoto operator, Tran von Hung, already had gone to sleep beneath his transmitter because of the curfew and continued fighting.
Horst Faas

[Vào những ngày đó, phải mất 20 phút để chuyển  chỉ một tấm hình, và thường phải lập lại – và chỉ một mạch vô tuyến điện thoại đi Paris, chia với UPI, và đang đóng cửa tiệm sau 3 giờ. Chuyên viên chuyển hình vô tuyến của AP, Tran von Hung, [Trần Văn Hưng] đã ngủ bên cạnh máy chuyển hình bởi vì giới nghiêm và trận chiến tiếp tục.]

Note: Một tấm hình, khi chuyển bằng VTD, mất đúng 15 phút, [không phải 20 phút], thời gian quét bức hình, bao kín cái rouleau máy gửi hình. Vì chuyển bằng mạch được sử dụng cho điện thoại viễn liên, nên coi như là 1 cuộc nói chuyện kéo dài 15 phút, khi tính tiền. Vì là vô tuyến, sử dụng làn sóng ngắn [short waves, như những đài VOA, BBC hồi đó], cho nên phụ thuộc điều kiện thời tiết. Một cái hình bị nhiễu quá, khi in ra đầy sọc, thì phải lập lại. Có khi chỉ 1 bức hình mà phải lập lại tới ba, bốn lần. Chị Linh, nữ điện thoại mạch Sài Gòn – Paris được ông Trưởng Đài giao cho trách nhiệm kiểm tra, tính tiền, vố sổ kế toán, nhưng vì tin tưởng GCC [UPI] và ông Hưng [AP] nên để cả hai muốn ghi bao nhiêu phút thì ghi, khi chấm dứt 1 cas gửi. Những lần lập đi lập lại quá ba, tới bốn, hoặc hơn nữa, thì cả hai AP/UPI đều đồng ý với nhau, chỉ tính ba, hoặc hai, nếu bữa đó, chất lượng quá tệ.
Lần Gấu gửi tấm hình đám phóng viên báo chí thế giới, trên 10 mạng, ngồi xe Jeep lùn có gắn bảng PRESS, bị VC tóm được tại khu Chợ Thiếc, Chợ Lớn, chúng giữ rất lâu, chắc tính đem ra Bắc, hẳn thế, để khoe, nhưng cuối cùng, thua, chạy, chẳng biết ai ra lịnh, [có ai dám nhận đâu, Trần Bạch Đằng lắc đầu, đếch biết], tàn sát tập thể. Bữa đó, máy phát tín đặt tại khu Chí Hòa, bị hư, mà hư 1 cách thật là kỳ cục: Sóng phát ra OK, nhưng lâu lâu, mất, chỉ chừng một, hoặc hai giây đồng hồ!
Nói chuyện thì đâu có sao, nhưng gửi hình, là hư liền tù tì, vì mất đồng bộ giữa hai máy gửi và nhận. Gấu nhớ là bức hình 15 phút, gửi đi gửi lại không biết bao nhiêu lần, Tokyo vẫn trả lời, đếch được, mất “synchro” [thường, nhiễu mạnh quá cũng làm mất synchro]. Lần chót, Gấu vừa gửi vừa căn làn sóng phát, OK được đúng 15, thế là thoát!
Tay Faas, bữa sau, thấy tấm hình trên báo chí toàn thế giới, hỏi ông Hưng, biết được, bèn viết thư cho ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện [Thầy Nguyễn Văn Điều, dậy GCC khi học trường Quốc Gia Bưu Điện], tố thằng “Jeune Technicien” UPI – anh ta đâu biết tên Gấu, biết cũng đếch gọi được - gửi hình trong giờ giới nghiêm, chuyện này cũng lèm bèm rồi.
Ông Hưng, trước là nhân viên Bưu Điện, sau bị sa thải, vì bị 1 đồng nghiệp tố ông là VC nằm vùng - Gấu biết tay tố ông - bị An Ninh bắt, giam giữ 1 thời gian, không có chứng cớ, thả, nhưng Bưu Điện bye bye.
Nhờ ông làm cho AP, cho nên khi UPI thiết lập mạch Radiophoto, sau AP ít lâu, Nguyễn Thành Tài, nhiếp ảnh viên UPI bèn giới thiệu GCC với họ. Cho tới nay, Gấu vẫn không hiểu được, tại làm sao mà anh giới thiệu Gấu, vì thực sự không quen biết, anh lên Đài thấy Gấu làm việc ở đó, bèn nói với UPI, thế mới lạ! Sau anh bị UPI sa thải, do ngụy tạo hình. Gấu cũng viết về chuyện này rồi.

1969

Những đêm trực ở Đài, hoặc ngủ ngay sau khi đọc vớ vẩn một mẩu báo, một trang tiểu thuyết, nghe lơ đãng một điệu nhạc, một giọng hát, chập chờn theo khói thuốc rồi ngủ lúc nào không hay. Có khi ngủ luôn tới sáng. Đó là những đêm thành phố may mắn không bị pháo kích, tình hình chiến sự tương đối yên tĩnh. Nhưng hầu như đêm nào cũng bị dựng dậy. Khi thì nhân viên viễn ký hai hãng AP, UPI yêu cầu chỉnh lại tín hiệu. Hoặc đồng nghiệp trực Đài phát tín Phú Thọ nhắc đến giờ thay đổi tần số liên lạc. Có khi một đồng nghiệp Phi Luật Tân ở mãi Manila réo chuông máy viễn ký liên hồi, chỉ để hỏi thăm thời tiết Sài-gòn, tình trạng vợ con gia đình, hay nhờ dịch giùm một message bằng tiếng Pháp của hãng SITA than phiền nhân viên RCA Manila làm ăn cẩu thả. Một lần ngủ quá say dù đã cẩn thận để điện thoại ngay kế bên, và chỉ giật mình thức giấc khi nghe tiếng đập cửa ầm ầm: Anh chàng Mẽo trưởng phòng tin tức AP và nhân viên viễn ký, cũng đồng nghiệp Bưu Điện làm ngoài giờ cho hãng thông tấn ngoại quốc, một đỏ gay tức giận, một lắc đầu ái ngại, hình như vào lúc đó hai ông Thiệu Kỳ đang gặp tổng thống Johnson tại đảo Midway. Hôm sau bị ông Tổng Giám Đốc, cũng may còn là thầy dậy cũ khi học trường Quốc Gia Bưu Điện, gọi lên văn phòng giũa cho một trận. Bị nặng nhất là trong Mậu Thân đợt hai. Khoảng gần nửa đêm, UPI vớ được hình đặc biệt, bằng mọi giá phải chuyển ngay đi Tokyo: Chừng trên dưới một chục ký giả, phóng viên ngoại quốc, ngồi xe díp lùn có gắn bảng báo chí, Press, ở kính trước, không may bị Việt Cộng tóm được tại khu chợ Thiếc. Sau cùng là thảm sát. Người gục chết trên vô lăng, kẻ vắt nửa khúc đầu trên sàn xe, nửa khúc đuôi trên mặt lộ. Sau này, khi cuộc chiến nghiêng về phía Miền Bắc, dư luận thế giới hình như chỉ còn nhớ cảnh tướng Loan xử bắn tù binh ngay trên đường phố. Hôm sau, Horst Fass, trưởng phòng hình ảnh AP, thay vì gọi điện thoại than phiền với Trưởng Đài Vô Tuyến Điện Thoại, anh viết văn thư tố cáo gã chuyên viên trẻ, Jeune Technicien, nhân viên Bưu Điện làm cho UPI, đã gửi hình trong giờ giới nghiêm. Sau cùng mọi chuyện cũng ổn thỏa, vì ngay những ngày đầu biến cố Mậu Thân, khi hai bên đang tranh giành từng viên gạch, hoặc đánh cuộc xem tao Dù hay mày Biệt Động Thành, ai chết trước tại Đài Phát Thanh Sài-gòn ngay kế bên, khi đám quân cảnh Mỹ đang vật lộn tay đôi với Việt Cộng tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cách đó cũng không xa, gã chuyên viên trẻ do nhà ở cạnh Đài, lại đúng đêm trực nên đã một mình "tử thủ", sau thêm tay phóng viên AP được đám lính Dù, lính chiến xa mở vòng kẽm gai cho vào bên trong phòng tuyến. Gã chuyên viên trẻ đã chuyển hình cho AP, giùm ông bạn già trước cũng nhân viên Bưu Điện nhưng bị An Ninh Quân Đội cho đi nằm ấp một thời gian dài, khi được thả bị Bưu Điện cho về hưu non, do có kẻ tố cáo ông là Việt Cộng nằm vùng ngay từ hồi còn ông Diệm. Sự thực ông bị một đồng nghiệp mưu hại chỉ vì nhất định không vào đảng Cần Lao hay tham gia phong trào Cách Mạng Quốc Gia. Những ngày đầu tháng Tư, AP đề nghị cho cả gia đình ông đi Mỹ, nhưng ông từ chối.

Cõi khác


Xử VC
Tôi sẽ không bao giờ gột nổi thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan trong bức hình nổi tiếng của Eddie Adams ra khỏi trí nhớ….
PTH

The stories surrounding the victim in Eddie Adams' execution photo differed. Lt. Colonel Loan had said that the man had killed many South Vietnamese and even Americans. Vietnamese photographers said that he was a traitor, working for both sides - the Vietcong and the South Vietnamese police. Others said he was a small-time Vietcong who had put on a fresh shirt hoping to slip away.

Thirty-two years later, I met his widow, who still lived in their home in a southern Saigon suburb and mourned him. In a corner of the living room, behind plastic flowers, was a heavily retouched photograph of Nguyen Van Lam, who, as a Viet Cong, had the "secret name" (alias) Bay Lap. Yes, he had been a member of the National Liberation Front, the Vietcong. He just disappeared shortly before the Tet Offensive, and never came back.

Eddie Adams' photograph made him a martyr, but, no, she does not have and does not want to see the photograph of her husband's death. She will mourn Nguyen Van Lam until his body is found, she said in 2000, when the Vietnam government celebrated the 25th anniversary of the end of the war. 

The Saigon Execution
October 2004
by Horst Faas
 

Câu chuyện về anh VC bị làm thịt trong bức hình của Eddie xem ra cũng nhiêu khê: Tướng Loan biểu, hắn giết nhiều người Miền Nam, và cả Mẽo nữa. Đám nhiếp ảnh viên Mít nói, hắn là 1 tên phản bội, hai mang, vừa làm cho VC, vừa làm cho Cảnh Sát Quốc Gia. Những người khác thì nói, anh ta là VC, thứ tép riu, vừa mặc 1 cái áo sơ mi ca rô mới tinh, tính lặn…
32 năm sau tôi gặp bà vợ góa của anh, vẫn sống trong căn nhà ngoại ô phía Nam Sài Gòn, và tưởng nhớ chồng. Tại một góc phòng khách, đằng sau mớ hoa ni lông, là bức hình của Nguyễn Văn Lắm, một người, bởi vì là VC nên cũng có nick [như Sáu Dân, như Ba Dzũng, thí dụ], và bí danh của anh là Bẩy Lốp. Đúng, anh ta là thành viên của MTGP, tức VC, và chỉ mới biến mất khỏi gia đình trước Cú Mậu Thân, và chẳng hề trở về.
Bức hình của Eddie làm anh ta trở thành kẻ tuẫn đạo, nhưng không, không, bà vợ chẳng có, và chẳng hề muốn có, bức hình anh bị Loan xử. Bả sẽ tưởng nhớ chồng cho tới khi xác của chồng được tìm thấy, bà thố lộ như thế, vào năm 2000, khi VC ăn mừng 25 ăn cướp Miền Nam.
[Bản dịch không đúng theo bản tiếng Anh, có tí lệch pha, sorry]

Ui chao, đọc, sao lại nhớ đến ông già Gấu. Cũng biến mất đúng dịp Tết 1945, đầu Cách Mạng VC, và cũng chẳng bao giờ trở về!


Xử VC

Horst Faas, nhiếp ảnh viên, đã từng là trưởng phòng hình ảnh AP, Sài Gòn, nay đã về hưu, nhớ lại cái ngày mà ông nhìn thấy bức hình được giải thưởng Pulitzer của Eddie Adams, nhiếp ảnh viên AP, chụp cảnh hành quyết 1 tay VC vào năm 1968
TheDigitalJournalist

London, Sept. 19, 2004 –

Biên tập phim có thể là 1 công việc buồn nản, nhưng vào cái ngày cách đây 36 năm –ngày thứ nhì của những cuộc tấn công của VC vào những khu trung tâm đông đúc của những thành phố Miền Nam VN – tôi cảm thấy mình trúng lô độc đắc.
Theo dõi thật nhanh những thước phim của Eddie Adams trên cái máy Nikon của tôi, tôi thấy điều mà tôi chưa từng nhìn thấy, cái "giây phút đông lạnh" của 1 sự kiện mà tôi ngửi ra liền, đây rồi, cái giây phút trở thành “cái biểu tượng, cái đại diện, cái minh chứng, cái bằng chứng…” cho sự tàn bạo của cuộc chiến Việt Nam.
Cả 12, hoặc 14 tấm hình còn ở dạng âm bản, xoáy vào chỉ một tấm hình, chụp giây phút tới đỉnh của khoảnh khắc của cái chết của tên VC, đã đưa nhiếp ảnh gia, người chụp hình, người “ăn linh hồn” [chữ của Rushdie], Eddie Adams, vào vinh quang đời đời.
Bức hình chụp cuộc hành quyết 1 tên VC dưới đích tay Tướng Nguyễn Ngọc Loan, chỉ huy trưởng lực lượng Cảnh Sát Miền Nam, trưa ngày 1 Tháng Hai 1968, đã vượt quá lịch sử Cuộc Chiến Đông Dương – nó đứng riêng ra, vượt hẳn lên trên, vào những ngày này, như là đỉnh cao chói lọi của sự tàn bạo của thế kỷ vừa qua của chúng ta.

The Saigon Execution

*

To War with Eddie Adams
October 2004
by Peter Arnett

Outside the AP and NBC offices near Lam Son Square, Vo Huynh and Ron Nessen of NBC, Eddie Adams, Peter Arnett and two Vietnamese soldiers that NBC was using to guide them around the city. Taken early in the Tet offensive a day or so before Eddie took the execution shot.
Công trường Lam Sơn. Hình chụp 1 ngày, c
ỡ đó, trước khi xy ra cú Xử VC

Có thể nói, một trong những bức hình Polaroid đầu tiên ở Sài Gòn, là bức Forst Faas chụp thằng cu Tuấn, con trai đầu của GCC, khi ông từ trên văn phòng AP, ở phía bên trên Passage Eden đi xuống, tới vườn hoa trước Tòa Đô Chính, trước Rạp Rex, thấy bố con Gấu đứng trên bãi cỏ, như thử máy, ông bèn giơ nó về thằng phía thằng bé, bấm 1 phát, chỉ chừng  một, hai phút sau, ông đưa tấm hình. Cu Tuấn cũng là 1 trong những con nít đầu tiên được chơi đồ chơi chạy bằng pin, do đám phóng viên đi chơi Hồng Kông mua về.

Sau Gấu lộn tấm hình này với tấm  - khi Gấu ở Trung Tâm Phục Hồi Nhân Phẩm, Bình Triệu, sắp sửa đi nông trường Đỗ Hòa, bà cụ vô thăm, đưa - chụp thằng con trai đứng trước Nhà Thờ Đức Bà, trước khi vượt biên - và ghé tai nói nhỏ, nó đi thế chỗ của mày, thoát rồi!

Bà cụ Gấu, mặt lúc đó rất là mừng, nhưng mà là mừng hụt. Chỉ ít lâu sau thì được tin Anh Cu Tuấn được đưa vô Chí Hoà. Gấu Cái lo thăm nuôi con, quên béng Gấu Đực.

Vả chăng, cũng chẳng biết VC tống đi cải tạo ở đâu, cho đến khi 1 thằng nhóc ở trong Trại trốn thoát, ghé nhà cho biết tin. Gấu Cái đi thăm, trong số đồ thăm nuôi, có cái bị cói đựng gạo, trong giấu mấy trăm bạc.
Nhờ mấy trăm bạc, Gấu mua chức Y Tế Đội, thoát kiếp ngày ngày đổ mồ hôi, biến sỏi đá thành cơm.
Nhờ cái bị gạo, bằng cói, dùng làm bẫy, bắt chuột, lần đầu tiên Gấu được thưởng thức món ăn đặc sản số 1 của đồng bằng sông Cửu Long.
Trong bữa đại tiệc thịt chuột, bữa sáng chủ nhật đó, lần đầu tiên GCC được nghe bản nhạc Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng.

Những biến động liên tiếp như trên, chỉ về già, thì GCC mới nhận ra, chúng có tính "nhân quả", chứ không phải liên tưởng, hay ẩn dụ.
Để cho GCC được thưởng thức món thịt chuột, thì phải chờ cái bị đựng gạo, chờ mấy trăm bạc giấu trong đó. Nhưng nếu không gặp cái tay TNXP đã từng đọc Gấu Dịch Giả, dịch Cronin, thì chắc chắn mất mẹ mấy trăm bạc.
Nhưng để có Gấu Dịch Giả, thì là nhờ Nguyễn Mai, giới thiệu Gấu với ông Nhàn, chủ nhà xb Vàng Son.
Để được NM giới thiệu, thì là nhờ cái ơn đăng bài viết của anh, trên trang VHNT nhật báo Tiền Tuyến.
Không chỉ đăng, mà hầu như viết lại toàn thể bài viết, như 1 tên thư ký tòa soạn, và đây là công việc của người đó, điều mà đám Bắc Kít, như Sến Cô Nương, gọi là “hiệu đính”, và tên thằng/con hiệu đính thì để đè lên trên tên người dịch!
Khốn kiếp thật!

Trong giới giang hồ Nam Kít, cũng có lưu truyền từ "hiệu đính", nhưng hách hơn nhiều, lịch sự hơn nhiều. Thí dụ, một thằng đàn em mến phục thằng đàn anh, về tài, về khả năng, về ngoại ngữ, về tính tình, về tư cách, nhân cách… bèn kính cẩn đưa bản thảo cho đàn anh, và xin phép, thưa anh, anh hiệu đính giùm em.
Và chỉ khi đó, thằng đàn anh mới được phép để tên mình vô bài viết!

Hiểu chưa?

Đâu có phải sửa một, hai chỗ dịch sai, nhờ rành ngoại ngữ, rồi đề tên vô, thêm chữ “hiệu đính”!

Chuyện hiển nhiên đang xẩy ra, cái tay Hà Súc Sinh chắc chắn không thể nào dịch hay hơn Nhị Linh, vì muốn dịch hay hơn, là phải dịch chuyên, phải tạo cho mình một văn phong, độc giả đọc 1 phát là biết ngay tên người dịch. Đâu có phải mang kính hiển vi ra, rồi soi, rồi chỉ ra những chỗ dịch sai, rồi la làng, làm công việc nhục nhã của 1 tên cớm. Làm như thế, là lộ ra tâm địa đốn mạt, bởi vì chẳng có ai mất công như vậy, điều này cho thấy, đấng này chắc là thù NL hơn cả bạn quí của Gấu thù Gấu!
Cả một lũ bây giờ chắc là đang hả hê vì đập bể nồi cơm nhà NL.

Chán thật.
Lại phò tên nhóc VC rồi!

Hà, hà!

Trong đời GCC, dịch dọt cũng nhiều, nhưng nếu biểu giữ lại cuốn gì, nếu phải thẩy hết vô lửa thì chỉ có cuốn Istanbul. Một vị độc giả đọc nó, gửi mail khen, đọc thấy nhớ Sài Gòn và những ngày xưa kinh khủng. Một vị khác, dịch mướt lắm, và than, bao giờ thì Việt Nam có 1 tác phẩm như vầy… Những nhận xét tựu chung là muốn nói cùng 1 điều, bản dịch của GCC được quá, đạt được cái điều, giả như 1 độc giả Thổ Nhĩ Kỳ đọc Istanbul bằng tiếng của họ, thì "cẩm", comme, như 1 độc giả Việt đọc Istanbul, bản tiếng Mít, do GCC dịch!

Khi dịch, Gấu nhớ Sài Gòn, nhớ BHD, nhớ những ngày có em, chưa bị em đá, có Sài Gòn...  đến muốn… khóc, và có thể nhờ vậy mà bản dịch tới.... chỉ?

Thành thử bạn có giỏi ngoại ngữ cách mấy, mà không phải là dịch giả, không mê văn chương, thì chưa chắc dịch hay.
Cái tay HTL này quả đúng như thế, ông ta làm nghề thầy cò, làm nghề cớm, thì được.

Khác CVD. Anh có thể dịch sai, nhưng bắt buộc thôi.
Bản thân GCC, mỗi lần tính dịch cuốn nào, là phải cố tậu cho được cả hai, bản chính, và bản dịch, qua tiếng Anh, hay ngược lại.
Những tác phẩm của bậc thầy, sở dĩ những dịch giả không dám bập vô ngay, là cũng chờ cho nó chín nẫu, toả mùi rộng ra, rồi mới dám đụng vô.
Tây mũi lõ, đến bây giờ mới có bản dịch Inner Workings, của Coetzee, thí dụ.
Bạn CVD này, giá mà chờ thêm ít lâu, có thêm bản tiếng Anh, của Bản Đồ, rồi hãy dịch, hãy vẽ, [Không biết bạn có hiểu “vẽ bản đồ” nghĩa là gì không], thì khoẻ hơn nhiều.

Mà thôi, để ý làm đéo gì, nghỉ ngơi ít lâu, đọc tiếp, viết tiếp, dịch tiếp. Nó không nhã thì mình… bất nhã [nam] vậy: Kiếm 1 nhà xb khác.
Dễ ợt!

Hà, hà!

Bị VC xử

Tôi sẽ không bao giờ gột nổi thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan trong bức hình nổi tiếng của Eddie Adams ra khỏi trí nhớ….
PTH

*

gau

The New York Times
April 19, 2011, 5:00 am

The Pulitzer Eddie Adams Didn’t Want
By DONALD R. WINSLOW

Eddie Adams và bức ảnh đoạt giải Pulitzer mà ông đã không mong muốn

Tình cờ thấy bài trên, đã được Blog Ba Sàm dịch.
Post lại ở đây, và nhớ ra là bài viết của Faas cũng chỉ được dịch có một nửa!

GCC đang tính chơi cú chót, thật là bảnh, trước khi đi xa, - cái gì gì, "Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời", [bắt chước ông số 2], thuổng cái tít của Mai Thảo: Dịch những bài viết, truyện ngắn có liên quan tới cuộc chiến Mít, dưới mắt của Gấu Nhà Văn, còn là thằng thợ máy Bưu Điện, ngồi ở “Mắt Bão”, tức ngọn đỉnh trời, đỉnh cồn, tầng lầu chót, building số 5 Phan Đình Phùng, kế ngay bên Đài Phát Thanh Sài Gòn, vừa đọc sách, vừa viết văn, vừa gửi hình cho hãng tin Mẽo, UPI, đi toàn thế giới.
Bạn nào rảnh, giỏi tiếng Anh, làm ơn ới 1 tiếng qua email, nhe!
Trân trọng
NQT 

Cái hình GCC ngồi gửi hình cho UPI, tay trái chưa cử động OK, vì mìn VC mà chẳng bảnh sao?

*

Shell-shocked US marine, Hue, Vietnam, February 1968.
Photograph: Don McCullin

Don McCullin's most celebrated image is his portrait of a dazed American soldier, entitled Shellshocked US Marine, Hue, Vietnam. It was taken during the battle for the city of Hue in 1968 and, in its stillness and quiet intensity, says as much about the effects of war on the individual psyche as many of McCullin's more graphic depictions of conflict and carnage. The eyes that stare out beneath the grimy helmet are not staring at the camera lens, but beyond it, into nowhere.
Surprisingly, when I ask McCullin about the photograph, which features in this retrospective of his reportage in Manchester, he grimaces. "It kind of gets on my nerves now," he says, "because it has appeared everywhere. It's like the Eddie Adams shot of the execution of a Vietnamese prisoner."

Lính Mẽo kinh hồn bạt vía vì pháo VC.
Hai con mắt thất thần, nhìn xuyên qua ống kính, tới hư vô!
Bức hình trở thành “thương hiệu” của McCullin. Nhưng khi nhắc tới, ông nhăn mặt: Nó làm tôi đau đầu. Bởi vì nó xuất hiện ở khắp mọi nơi. Chẳng khác chi bức hình xử VC của Eddie Adams. Những dòng chữ viết tay trong nhật ký cho thấy Eddie đã thừa nhận ông rất muốn được giải Pulitzer cho bức ảnh ông chụp đệ nhất phu nhân Jacqueline Kennedy đang giơ tay đón lấy lá cờ Mỹ được gấp lại mà người ta trao cho bà tại lễ tang Tổng thống John F. Kennedy vào tháng 11 năm 1963.
Source
Surprisingly, when I ask McCullin about the photograph, which features in this retrospective of his reportage in Manchester, he grimaces. "It kind of gets on my nerves now," he says, "because it has appeared everywhere. It's like the Eddie Adams shot of the execution of a Vietnamese prisoner."
Source
Hình Eddie Adams chụp tướng Loan khử VC, và hình MC Culllin chụp anh GI chết sững vì pháo VC, hai cái hình bổ túc cho nhau.
Cả hai nói lên nhận xét của Rushdie:
There is something predatory about all photography. The portrait is the portraitist's food. In a real-life incident I fictionalized in Midnight's Children, my grandmother once brained an acquaintance with his own camera for daring to point it at her, because she believed that if he could capture some part of her essence in his box, then she would necessarily be deprived of it. What the photographer gained, the subject lost; cameras, like fear, ate the soul.
Source
Có cái gọi là ăn thịt sống, làm thịt sống, ăn tươi nuốt sống con mồi, trong chụp hình. Bức hình là thức ăn của người chụp hình. Bà tôi đã có lần cầm cái máy chụp hình của chính nạn nhân, để đập bể đầu anh này, một gã quen biết, vì dám đưa cái máy về phía bà, bởi vì bà tin rằng, nếu anh ta có thể xén một phần nào của cái tinh túy ở nơi bà, và đưa vô cái hộp đen, thì bà sẽ mất đi cái phần đó. Cái mà bức hình có, thì người bị chụp, mất; máy chụp hình, giống như sự sợ hãi, "ăn" linh hồn.

*

C. Simic

*

To catch a death actually happening and embalm it for all time is something only cameras can do, and pictures taken by photographers out in the field of the moment of (or just before) death are among the most celebrated and often reproduced of war photographs. There can be no suspicion about the authenticity of what is being shown in the picture taken by Eddie Adams in February I968 of the chief of the South Vietnamese national police, Brigadier General Nguyen Ngoc Loan, shooting a Vietcong suspect in a street in Saigon. Nevertheless, it was staged-by General Loan, who had led the prisoner, hands tied behind his back, out to the street where journalists had gathered; he would not have carried out the summary execution there had they not been available to witness it. Positioned beside his prisoner so that his profile and the prisoner's face were visible to the cameras behind him, Loan aimed point-blank. Adams's picture shows the moment the bullet has been fired; the dead man, grimacing, has not started to fall. As for the viewer, this viewer, even many years after the picture was taken ... well, one can gaze at these faces for a long time and not come to the end of the mystery, and the indecency, of such co-spectatorship.

Susan Sontag 

Eddie Adams ân hận, ông đã giết Loan vì bức hình, như Loan giết VC bằng viên đạn.
Không hẳn như vậy, vì Loan không thể nào giết tên VC nếu không có
"co-spectatorship", đúng như Susan Sontag viết.
Phải có màn trình diễn. VC bị trói tay dẫn ra sàn lịch sử, giữa đường phố Sài Gòn, báo chí quốc tế vây quanh: Loan sẽ không bắn tên VC nếu không có màn trình diễn, không có công chúng chứng kiến.

Đây là sự rất ư khác biệt, giữa VC và Quốc Gia, thì cứ gọi đại như vậy. Cả cuộc chiến, “nhân loại” chỉ được chứng kiến, độc nhất chỉ 1 tội ác của VC, như GCC đã từng có lần chỉ ra, là bức hình du kích chặt đầu 1 ông xã trưởng rồi để cái đầu tên cái bụng xác chết, làm đồ chặn bản án của Cách Mạng, đăng tên bìa 1 số báo Time (1)

(1)

Nguyễn Quốc Trụ
Thư góp ý cùng độc giả Nguyễn Việt Kiều [talawas]

Vụ da cam đang nóng, nóng dây chuyền tới những vụ khác, như thảm sát Mậu Thân, mà những tài liệu từ một diễn đàn trên lưới cho thấy, không phải VC mà là CH [Cộng Hoà] gây nên. Rồi ngày nào, là vụ pháo kích vô một trường học ở Cai Lậy, cũng pháo CH, không phải hoả tiễn VC.
Nếu có chăng, là độc nhất một tấm hình, chụp một ông xã trưởng bị VC chặt đầu, rồi dùng chính cái sọ dừa, dằn bản án lên bụng tử thi, trên bìa tờ Time của Mẽo ngày nào, mà độc nhất Gấu tui còn nhớ.
Ngoài ra là… chấm hết!
Cả cuộc chiến, VC không gây một tội ác nào khác. Nếu có, là phải đợi tới sau 1975.
Chúng ta tự hỏi, liệu sau này, lịch sử sẽ phải giải thích như thế nào, về trường hợp quái dị trên đây?

Cả một dân tộc chạy ra biển cả để trốn VC, mà VC thì tốt như thế, không hề gây ra tới… “hai” tội ác.

Để giải thích trường hợp quái dị trên đây, Gấu tui đành mượn một câu, nhà văn Đức Sebald trích dẫn, trong cuốn Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt (On The Natural History Of Destruction) của ông: 

Cái mánh loại trừ là bản năng tự vệ của mọi chuyên viên
The trick of elimination is every expert’s defensive reflex
(Stanislaw Lem: Imaginary Magnitude) 

Nói rõ hơn, mấy ông VC rất rành về chuyện chùi mép - nghĩa là loại trừ mọi rủi ro, bị phanh phui, bị bật mí - này.
Chỉ tội ông tướng Loan, nghe nói, đã từng mời báo chí Mẽo tới chứng kiến ông xử một anh VC ngay tại trận tiền, những ngày Mậu Thân. 

Độc giả Tin Văn [tanvien.net] đã biết về Sebald, qua bài tưởng niệm ông, khi ông qua đời sau một vụ đụng xe. Cuốn Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt, có, cũng là do một sự ngạc nhiên quái dị liên quan tới Đồng Minh uýnh nhau với Nazi: Trong thời Đệ Nhị Chiến, 131 thành phố và đô thị là mục tiêu ăn bom của Đồng Minh, nhiều nơi biến thành bình địa. Sáu trăm ngàn thường dân bị chết, gấp đôi con số thương vong của Mẽo. Bẩy triệu rưởi thường dân Đức không còn nhà ở. Sebald ngạc nhiên tự hỏi, tại làm sao mà lịch sử lại vờ đi một sự kiện như thế, nhất là ở nơi ký ức văn hoá của chính nước Đức? 

Trong những lời ca ngợi cuốn sách lạ kỳ của ông, có:

Hầu hết mấy ông nhà văn, ngay cả thứ ngon cơm, viết cái điều có thể viết... Thứ quá sá ngon cơm, nghĩa là thứ đại hảo hạng, viết cái không thể viết... Tôi nghĩ đến nữ thi sĩ Nga, Akhmatova, và nhà văn Ý gốc Do Thái, Primo Lévi. Nay có thêm W.G. Sebald.
(Nữu Ước Thời Báo) 

Bí mật của nỗi ngạc nhiên đến phải cầm viết viết, và lên tiếng, của Sebald, là, ông tự thấy mình cổ lỗ sĩ, khi chọn cho mình thứ tiếng nói của lương tâm mà hầu như chẳng còn ai nhớ. Đó là thứ lương tâm của một người nào đó, và người này nhớ đến sự bất công, và nói thay cho những người không còn có thể nói được.
(Điểm Sách Nữu Ước) 

Trong bài viết Không chiến và văn chương (Air War and Literature) ông giải thích về cái sự im hơi bặt tiếng, của hồi ức văn hoá Đức: Họ coi đây là một điều cấm kỵ, một vết thương, vết nhục ở trong gia đình, [a kind of taboo like a shameful family secret].

Người Việt thường tự hào về một Điện Biên Phủ trên không. Chưa thấy ai nói tới cái tủi nhục như là niềm bí ẩn trong gia đình, về con số thương vong, thí dụ như trong những ngày Mậu Thân, chỉ ở Sài Gòn không thôi, bởi những trái hoả tiễn của VC?

Source

Ocean Vuong

The Photo

After the infamous 1968 photograph of a Viet Cong officer executed by South Vietnam's national police chief.

What hurts the most
is not how death
is made permanent
by the cameras flash
the irony of sunlight
on gunmetal
but the hand gripping the pistol
is a yellow hand,
and the face squinting
behind the barrel
a yellow face.

Like all photographs this one fails
to reveal the picture.
Like where the bullet
entered his skull
the phantom of a rose
leapt into light, or how
after smoke cleared
from behind the fool
with blood on his cheek
and the dead dog by his feet

a white man
was lighting a cigarette.

ASIA LITERARY REVIEW
SUMMER 2010

*

*

Bức hình

Điều làm đau thật là khủng
Thì không phải như thế nào
Cái chết trở thành chuyện thường ngày ở huyện,
Chuyện cơm bữa,
Chuyện thường hằng,
Nhờ cái ánh chớp của máy camera,
Cái tiếu lâm của ánh mặt trời
Trên thép súng,
Nhưng mà là, cái bàn tay nắm chặt khẩu súng
Là của 1 tên da vàng mũi tẹt
Và cái bộ mặt liếc xéo
Đằng sau nòng súng
Là bộ mặt của 1 tên da vàng mũi tẹt.

Như tất cả những tấm hình
Tấm này thì cũng thất bại
Không nói lên được cái chó gì cả.
Thí dụ,
Khi viên đạn chui vô sọ anh ta
Thì một bóng ma của một bông hồng nở ra
Hay
Làm sao mà lại xẩy ra cái cảnh, sau khi khói thuốc súng tan đi
Ở đằng sau tên khùng với máu ở trên má
Và một con chó chết ở dưới chân

Một tên da trắng mũi lõ
Bật quẹt hút thuốc lá.

Vietcong Execution, Saigon, 1968
Photo by Eddie Adams

Note: Bài này tháng nào cũng "top", theo server.

Bài viết của Horst Faas, Trưởng phòng hình ảnh AP về vụ Tướng Loan xử bắn VC trên đường phố Sài Gòn.
Gấu post, và quên dịch ra tiếng Việt, bữa nay đọc, hóa ra ông còn viết về Gấu nữa, đúng hơn, về công việc gửi hình của Gấu, khi làm cho UPI.
Ông còn giải ra 1 “nghi án”, về người cứu Loan, khi bị VC hăm làm thịt, sau khi xử Bẩy Lốp. Ông bị 1 tay VC chuyên bắn sẻ, bắn què cẳng, và tay này tính "kết liễu" Loan thì ông được 1 tay ký giả người Úc, Pat Burgess, cõng, cứu thoát.
Gấu khi còn làm trên Đài VTD, có nghe 1 tay ký giả Pháp, làm cho AFP, nói với Gấu, chính anh ta cứu Loan.
Hoá ra không phải.
Faas viết, vào những ngày đó, gửi 1 tấm hình là mất 20 phút, và thường phải lập lại [in those days it took 20 minutes to transmit a single photo, which often had to be repeated].
Chính xác là 15 phút. Và thường phải lập lại, nếu thời tiết xấu, vì gửi bằng phương pháp vô tuyến điện.
So với bây giờ, chỉ cần giơ cái điện thoại, bấm 1 phát, là xong, không phải 1 pose, mà cả 1 “You Tube”!

*

Gấu đang gửi Radiophoto cho UPI.
Bên cạnh là ông Hưng, AP Radiophoto operator.
Đài Liên Lạc VTĐ thoại quốc tế, số 5 Phan Đình Phùng, kế bên Đài Phát Thanh Sài Gòn.
Bức hình trên sau 1975 đã được gửi tới văn phòng ODP tại Bangkok, để xin đi Huê Kỳ, theo diện nhân viên Mẽo.

Hình chụp thời gian viết “Cõi Khác”:

Đau khổ nhất là những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành phố xa lạ phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không còn chỗ để ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người Nhật, người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước này hay không, chỉ muốn la lớn tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế giới, cả loài người đều nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.

Nhìn tấm hình, Gấu nhớ ra là, khi đó, cái tay trái còn chưa sử dụng OK. Như vậy là chụp sau cú ăn mìn VC ở Mỹ Cảnh, 1965

Bài viết của Faas, Gấu thấy trên trang báo điện tử của Dirck Halstead, TheDigitalJournalist, Sếp UPI đầu tiên của GCC.
Cái sự có địa chỉ của Me-xừ Dirck này thì cũng thú vô cùng, GCC hình như cũng đã nói rồi.
Mười năm làm cho UPI là 1 thời gian dài, lại vào những năm cuộc chiến không còn hứa hẹn mà ngày ngày bầy ra những điều khủng khiếp, bây giờ đi 1 đường hồi tưởng thì cũng "ấn tượng" lắm nhe!
Khi Gấu làm cho UPI, ngoài AP ra, chưa có hãng tin nào có văn phòng hình ảnh. GCC chưa có sếp. Hãng có hình, cho người mang lên Đài, là Gấu bèn gửi, cuối tháng xuống hãng lấy tiền. Chừng đâu một, hai tháng sau đó, Dirck mới qua Sài Gòn.

Gấu có cái job UPI là nhờ Nguyễn Thành Tài, một nhiếp ảnh viên của UPI.
Anh thấy AP có ông Hưng, bèn giới thiệu Gấu với UPI. Mà Gấu hồi đó, quá tệ, cũng chẳng biết ám ơn anh gì cả.
Không biết thật. Không biết cả chuyện anh giới thiệu nữa. Anh chẳng thèm nói. Nhờ chị Linh, nữ điện thoại viên mạch Paris cho Gấu hay mà cũng mãi sau này.

Khuynh hướng lúc đó là mướn nhân viên Bưu Điện, vì máy móc cũng để ở Bưu Điện, nhân viên điều hành thì cũng họ, như vậy dễ dàng, tiện lợi cho hãng. Ông Hưng cũng là dân Bưu Điện, bên Bưu Vụ, không phải VTD, nhưng bị Bưu Điện cho về vườn, sau khi ông bị an ninh bắt, vì có người tố là VC nằm vùng.

Vì là dân Bưu Vụ, cho nên ông thực sự không rành việc gửi hình. Thường ông để mức tín hiệu tối đa, cho chắc ăn, nên hỏng cẳng, bởi là vì tín hiệu tối đa, thì nhiễu, noise, cũng tối đa theo. Phải dân VTD như GCC thì mới biết điều chỉnh, sao cho tín hiệu tối đa, mà nhiễu tối thiểu. Vì hình UPI luôn luôn đẹp hơn hình AP khi xuất hiện trên mặt báo chí quốc tế, nên lúc đầu Faas nghĩ thằng "chuyên viên trẻ" chơi xấu. "Jeune Technicien" là nick ông gọi Gấu. Ông Hưng và sếp nói chuyện với nhau bằng tiếng Tây, vì ông Hưng không biết tiếng Anh. Faas bèn kêu 1 tay chuyên viên từ Tokyo qua, lên Đài ăn ngủ với Gấu cả hơn 1 tháng, cỡ đó, để chỉnh máy, và đồng thời căn chừng Gấu. Nhưng cái tay Isawas, -Gấu còn nhớ tên - hóa ra lại khoái Gấu quá, nhất là cái khoản nói tiếng Tây, đọc sách Tây, và đọc Faulkner, tếu thế. Anh là độc giả đầu tiên truyện ngắn Lan Hương, do Gấu dịch qua tiếng Anh, vừa dịch bằng miệng, vừa dùng tay để diễn tả thêm. Phục ra mặt!
Khi về Tokyo tiếc nhớ hùi hụi những ngày ở Sài Gòn!

Ra hải ngoại, Gấu mới hỡi ơi về cái chuyện Cô Tú là nhân viên AP.
Gấu đến AP hoài, mà không hề để ý đến Cô Tú.
Tiếc hùi hụi!

Hình như để bù trù cho cái sự “ngu ngơ mù lòa” [Bạn phải đọc Kim Dung thì mới “cảm” cái ý này, Kiều Phong chỉ vờ không nhìn Đại Ma Nữ mà biến thành thân tàn ma dại]: Cô Tú là nhà thơ Mít đầu tiên ở hải ngoại GCC được đọc, và bèn đi 1 đường "vinh danh": người tình của Cô là tiếng Việt, và đây cũng là luật bù trừ với nhà thơ.

Vì lời vinh danh Cô Tú mà GCC bị ông chủ báo HL "cà khịa", thơ “luân lý giáo khoa thư” mà cũng khen um lên như thế, không sợ mất tiếng nhà phê bình, tên "sa đích văn nghệ" NQT ư?

Hà, hà!

Cái mail của Dirck, lần gặp lại trên net.

From:
Date: Thursday, July 21, 2005 11:36:18 PM
To: Nguyen_Quoc_Tru
Subject: Re:
It's wonderful to hear from you Tru. How are you?
We missed you at the reunion in Saigon in May.

Tiibute to Châu Văn Nam

Gide, khi viết về Dos, đưa ra câu khủng: Tác phẩm lớn có sự đóng góp của Quỉ.
GCC chôm câu này, phán về "Cuộc Tình Trong Ngục Thất", của Nguyễn Thị Hoàng, có sự đóng góp của con quỉ chiến tranh trong câu chuyện 1 em Mít lặn lội xuống địa ngục cứu chồng.

V/v Luật bù trù. Có lẽ phải phán như vầy: Cũng sống sót cuộc chiến, nhưng GCC bị Cái Ác BK cắn trúng, còn Cô Tú thì lại được ân sủng:

"Ba mươi năm ở Mỹ làm được dăm bài thơ, viết được vài truyện ngắn. Lập gia đình vốn liếng được ba đứa con (2 trai, 1 gái: các cháu 22, 20, 19), một căn nhà để ở.... lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là người giầu có lắm.... trong túi luôn có một bài thơ đang làm dở. Thấy Trời rộng lượng với mình quá. Mấy chục năm trước Trời có lấy đi nhà cửa người thân. Bây giờ Trời lại đền bù. Còn quê hương thì lúc nào cũng thấy ở trong tim, chắc khó mà mất được..."

Source


In sách, gặp những trường hợp như thế này là sung sướng nhất, là khoái cảm của nghề nghiệp :p (Roland Barthes nói đến khoái cảm văn bản, le plaisir du texte, thì cũng có khoái cảm đọc trước hehe). Trường hợp này cụ thể là: những nhà văn không đặc biệt nổi tiếng, không phải nói đến tên một cái là độc giả văn học thông thường thích tìm hiểu biết ngay được là như thế nào, nhưng lại là những nhà văn đặc biệt giỏi, những người viết ra những thứ kinh dị huy hoàng.
Tập truyện ngắn Runaway của Alice Munro có một truyện theo lối suy tư về Shakespeare và bi kịch vô cùng cao thủ, không thể tưởng tượng nổi.
Tại sao người ta có thể viết được truyện ngắn đến mức như thế? Điều này chẳng hiểu nổi. Tôi đã rất cố gắng đọc thật kỹ Con thuyền của Nam Lê, và không thấy nổi tại sao nó lại được "highly acclaimed" như thế. Đó không phải là tài năng, đó là sự khéo léo, sự khôn ngoan trong chọn lựa. Điều đó tôi cũng thấy ở những người như Dao Strom, Monique Truong hay Lê Thị Diễm Thúy. Điều gì làm cho cũng những người qua Iowa như Yiyun Li viết được như thế, mà Nam Lê không được như thế?
Blog NL

Alice Munro là 1 tên tuổi lớn, độc giả bình thường và trong nước ít nghe về bà, nhưng với giới chuyên môn, bà là một tác giả viết truyện ngắn cự phách, và đã từng đoạt Man Booker.
Tuy nhiên, vấn đề mà GCC muốn nêu ra ở đây là, trí thông minh, “đoán trước những gì sắp xẩy ra ở trong 1 cuốn tiểu thuyết”, thí dụ, liệu có phải là 1 khí cụ để đánh giá một tác giả, hay tác phẩm của người đó?

Giả đúng như thế, thì, truyện trinh thám là dạng văn học số 1.
Đây là quan điểm của 1 số người, trong có cả Borges, nếu GCC nhớ không lầm.

Truyện ngắn của Borges, đa số đều giống như 1 truyện trinh thám. Cái truyện thần sầu của ông Phép Lạ Bí Ẩn mà chẳng khủng ư. Làm sao mà độc giả đoán ra nổi?

Quái 1 cái là, Borges gần như tiên đoán được cái thứ văn học Miền Nam sau 1975, và tất nhiên thứ kéo dài ở hải ngoại: Chỉ là "một năm" mà 1 anh nhà văn Ngụy xin Thượng Đế, để hoàn thành tác phẩm!

“Anh đã xin Thượng Đế cho anh một năm để hoàn thành tác phẩm: Quyền năng vô hạn của Người đã bảo đảm điều này. Vì anh, Thượng Đế đã hoàn thành một phép lạ bí ẩn: Sự thắng thế, dẫn đầu của đối thủ Đức sẽ giết anh, ở một giờ giấc nhất định, nhưng trong tư tưởng của anh, một năm đã qua đi, giữa lệnh bắn của viên đội, và cuộc hành quyết. Hoang mang, anh đi tới ngỡ ngàng; từ ngỡ ngàng tới cam phận, từ cam phận tới lòng tri ân bất ngờ.
Phép Lạ Bí Ẩn

GCC đã từng kể, về lần đi Montreal với NTV ghé thăm 1 ông bạn của anh, tay này chuyên về phim, trong bữa nhậu, GCC do hơi rượu bèn nói phét, phim ảnh Hồ Ly Út, chỉ cần coi nửa phim là GCC biết kết cục. Tay này bực quá, bèn lôi ra 1 phim ra. GCC coi, toát cả mồi hôi, tỉnh cả rượu, nói, thua, tôi không làm sao đoán ra cái kết cục của phim.

Đó là phim chuyển thể truyện ngắn chàng Hôi Chi cụt tai

Sau đó, Gấu kiếm truyện ngắn để đọc, thì mới ngớ người: Cái kết cục của phim khác hẳn kết cục của truyện.
Có 1 cái gì đó của Phép Lạ Bí Ẩn ở trong cái kết luận của phim.

Anh chàng Hôi Chi giỏi đàn, và được đám oan hồn Ngụy đêm đêm vời đi hát, vừa hát vừa kể lại cuộc chiến.
Sư phụ ngôi chùa Hôi Chi trú ngụ bèn sai người dùng bút vẽ lên khắp người Hôi Chi bản kinh trục quỉ, nhưng quên hai cái tai.
Quỉ Ngụy tới, không thấy Hôi Chi mà chỉ thấy hai cái tai, bèn vặt đem về trình.
Từ đó Hôi Chi biến thành anh chàng Hôi Chi cụt tai.
Truyện chỉ có vậy. Nhưng phim mới bảnh.
Ngay ngày hôm sau, giữa ban ngày ban mặt, cả 1 đoàn oan hồn Miền Nam xuất hiện, tới nghe Hôi Chi hát "giải oan cho cuộc bể dâu này", [chắc là có đọc bài thơ Ta Về của Tô Thùy Yên nữa] và sau đó tan biến, và đi đầu thai, không làm dân Mít nữa, hẳn thế!

V/v Đỉnh cao văn chương: Truyện trinh thám?

Giả đúng như thế, thì làm sao có chân lý, cổ điển là thứ người ta không đọc, mà đọc đi đọc lại?
Biết rồi, thì đọc làm khỉ gì nữa?

GCC bị mấy đấng độc giả, cũng thứ bạn quí, chê, có mỗi chuyện ăn mìn VC khi ham ăn ham uống tại Bar Mỹ Cảnh, chuyện thằng em trai tử trận, mà viết hoài!

Nhưng rất nhiều nhà văn cho rằng, chúng tớ là thứ có mỗi 1 truyện viết đi viết lại hoài.
Kafka mà chẳng có mấy truyện ngắn, không chỉ viết đi viết lại, còn kéo dài ra thành truyện dài.
Buzzati viết trong sổ tay: Mọi nhà văn, nghệ sĩ sống dai, dài, dở cỡ nào, thì cũng chỉ viết có mỗi một điều.” [“All writers and artists, however long they live, say only one same thing."].

The Palestinian poet Mahmoud Darwish: "I am myself alone an entire generation." (1)
Chỉ tớ không thôi, là cả 1 thế hệ.

Ui chao, y chang GCC: Chỉ mấy truyện ngắn quèn, cả 1 thế hệ văn chương Miền Nam, tụ vào cú Mậu Thân!

The Saigon Execution

October 2004

by Horst Faas

Horst Faas, photographer and photo editor now retired from The Associated Press, remembers the day he saw Eddie Adams' Pulitzer Prize-winning photo of the execution of a Vietcong in 1968.
London, Sept. 19, 2004 - Editing film could be a dreary business, but on that day, 36 years ago - the second day of the communist attacks into the very centers of South Vietnam's cities - I felt as though I had won the jackpot of a lottery.
Running my Nikon eyeball quickly over a roll of black-and-white film from Eddie Adams, I saw what I had never seen before on the lightbox of my Saigon editing desk: The perfect newspicture - the perfectly framed and exposed "frozen moment" of an event which I felt instantly would become representative of the brutality of the Vietnam War.

The 12 or 14 negatives on that single roll of film, culminating in the moment of death for a Viet Cong, propelled Eddie Adams into lifelong fame. The photo of the execution at the hands of Vietnam's police chief, Lt. Colonel Nguyen Ngoc Loan, at noon on Feb. 1, 1968 has reached beyond the history of the Indochina War - it stands today for the brutality of our last century.

*

Vietcong Execution, Saigon, 1968
Photo by Eddie Adams

Eddie had come back to Vietnam a few weeks before the Tet Offensive to take a third crack at this story. He had initially arrived in 1965, when the first U.S. Marines had landed. We knew Eddie as a former Marine photographer of some repute gained in the Korean War. He was a personal friend of General Lewis Walt, the erstwhile commander of the Marines in Danang.
Eddie was after more than just good day-to-day newsphoto coverage of the war. He was after the perfect, meaningful photograph expressing the frustrations, the bravery, the suffering of the war - all expressed in one image. He had tried for three years, on countless military operations - and would become very moody and depressed when it did not work out perfectly. New York headquarters was happy with his work - but Eddie wasn't. Until Feb. 1, 1968. "I got what I came to Vietnam for," he told somebody in the office.
I found myself in the role of editor and coordinator during the Tet Offensive. Six weeks earlier, shrapnel from a rocket- propelled grenade had ripped into my legs and I could not walk unaided beyond the fourth-floor office of The AP in Saigon. I had dodged evacuation to a hospital in Hong Kong or Honolulu - and I was delighted with my good luck in being able to edit the AP photo report of the Tet Offensive, which brought the Vietnam story back onto the front pages of the world press for many weeks.
The first 24 hours of the Tet Offensive were confusing. Vietcong had penetrated the city and were fighting inside the grounds of the U.S. embassy a few blocks away from the AP office. Eddie concentrated on that action on day one. Vietnamese photographers living across the city reported that Vietcong were fighting in their districts. It was not a time to venture out to find them. Most photos of this first day came from Vietnamese cruising the city on their motorbikes - including a 14-year-old boy photographer, Lo Hung, moving about on a bicycle and bringing back his films every few hours. Another youngster was Huynh Cong Ut, then 18, who was endearingly called Nick Ut by Eddie Adams.
But at the time, Eddie did not like the "kids'" competition.
On day two, news reports came in of fighting around a Buddhist pagoda (known for the monks' opposition to the government) in an area where Saigon becomes Cholon, the Chinese section of the capital. Eddie teamed up with one of NBC's most experienced cameramen - NBC was an office neighbor of AP and tips and transport were often shared. Eddie and Vo Su were driven slowly towards the area where fighting was reported, then walked when they found the streets had become abandoned and litter from a fight was visible.
The pagoda occupied by Viet Cong had been recaptured by Vietnamese marines. Hearing shots, they moved towards the action.
From a later interview Hal Buell, then Eddie's boss in New York, reconstructed what happened next.
He wrote: "Adams watched as two Vietnamese soldiers pulled a prisoner out of a doorway at the end of the street. The soldiers then pushed and pulled what appeared to be a Viet Cong in a plaid shirt, his arms tied behind his back. They escorted the man toward the spot where Adams and Vo Su were located.
Eddie Adams said, 'I just followed the three of them as they walked towards us, making an occasional picture. When they were close - maybe five feet away - the soldiers stopped and backed away. I saw a man walk into my camera viewfinder from the left. He took a pistol out of his holster and raised it. I had no idea he would shoot. It was common to hold a pistol to the head of prisoners during questioning. So I prepared to make that picture - the threat, the interrogation. But it didn't happen. The man just pulled a pistol out of his holster, raised it to the VC's head and shot him in the temple. I made a picture at the same time.'
"The prisoner fell to the pavement, blood gushing," Buell wrote, quoting Eddie. "After a few more pictures of the dead man, Adams left."
The shooter was later identified as Lt. Colonel Nguyen Ngoc Loan, police chief of South Vietnam. Adams said he walked up to him and said, "They killed many of my people, and yours, too" and then just walked away.
Typewriters stopped clattering for a few moments when the first transmission prints emerged from the darkroom. Peter Arnett, who had just come back from "the town that had to be destroyed to save it," got ready to interview Eddie.
Eddie had made a stop at his hotel, then meandered slowly into the office, as was his habit. He hid his excitement under a cloak of slight, feigned boredom - but headed straight to the editing lightdesk. Yes, I had selected the right first four pictures - but Eddie wasn't happy. Of course, like all of us, he wanted the whole sequence radioed out to the world to tell the full story. He had to wait for another day - in those days it took 20 minutes to transmit a single photo, which often had to be repeated - and the single radiotelephone circuit to Paris, shared with UPI, was closing down after three hours. AP's radiophoto operator, Tran von Hung, already had gone to sleep beneath his transmitter because of the curfew and continued fighting.
But all of Eddie's pictures, the full sequence of the incident, were finally sent to the world by radiophoto. "They made it for the PMs," we said in those days.
The days after Adams' execution photo, Vietnamese photographers competed with a whole horror scenario of similar events. AP's Le Ngoc Cung came up with a heartbreaking sequence showing a South Vietnamese soldier sharing a sandwich and water from a canteen with a Vietcong prisoner. The last pictures show how he shot him.
Dang Van Phuoc, also roaming the city for AP, had photos of diehard Vietcong dragged from the ruins and then summarily shot.
No pardons were given, and the photos showed that for days.
The stories surrounding the victim in Eddie Adams' execution photo differed. Lt. Colonel Loan had said that the man had killed many South Vietnamese and even Americans. Vietnamese photographers said that he was a traitor, working for both sides - the Vietcong and the South Vietnamese police. Others said he was a small-time Vietcong who had put on a fresh shirt hoping to slip away.
Thirty-two years later, I met his widow, who still lived in their home in a southern Saigon suburb and mourned him. In a corner of the living room, behind plastic flowers, was a heavily retouched photograph of Nguyen Van Lam, who, as a Viet Cong, had the "secret name" (alias) Bay Lap. Yes, he had been a member of the National Liberation Front, the Vietcong. He just disappeared shortly before the Tet Offensive, and never came back.
Eddie Adams' photograph made him a martyr, but, no, she does not have and does not want to see the photograph of her husband's death. She will mourn Nguyen Van Lam until his body is found, she said in 2000, when the Vietnam government celebrated the 25th anniversary of the end of the war.
General Nguyen Ngoc Loan continued to take the fight to the Vietcong and, despite his notoriety after the execution, U.S. commanders and newsmen who knew him respected him for his bravery and determination. Eddie Adams felt that his famous photo unfairly maligned Loan, who lived in Virginia after the war and died in 1998.
The next time I saw a photograph of Nguyen Ngoc Loan, then promoted to Brigadier General, was during the "Mini-Tet" Offensive in May 1968. Vietcong had again reached the inner ring of the city and were fighting at the bridge that connects the district of Gia Dinh with Saigon. Brig. Gen. Loan had led a charge of South Vietnamese troops across the bridge when a machine gun ripped his leg off. The photograph showed the burly, rugby-sized Australian war correspondent, Pat Burgess, carrying the bleeding general back to his lines. Pat Burgess died a few years after the war of a painful sclerosis of the nervous system, similar to the type which ended Eddie Adams' life.
I am certain that even back in Vietnam, Eddie was already dreaming of his workshops for young photographers, which have now become his legacy.
He loved young Nick Ut, whose brother, Huynh Cong La (Thanh My), had died photographing for the AP in 1965. And he admired the art and sensitivity of Henri Huet, whom he helped to bring over to The AP from UPI in 1965.
It was these two great photographers and close friends who made me feel like a lottery winner twice over again when I edited their film: Henri Huet with his moving sequence of a wounded medic aiding others wounded in battle (1967) and, of course, Nick Ut and his "napalm girl," Kim Phuc, in 1972.
Henri died in 1971 in the flames of a helicopter. Nick Ut mourns Eddie in Los Angeles.
Eddie Adams, Henri Huet and Nick Ut wrote our history with perfect, singular newsphotos.

*

*

To catch a death actually happening and embalm it for all time is something only cameras can do, and pictures taken by photographers out in the field of the moment of (or just before) death are among the most celebrated and often reproduced of war photographs. There can be no suspicion about the authenticity of what is being shown in the picture taken by Eddie Adams in February I968 of the chief of the South Vietnamese national police, Brigadier General Nguyen Ngoc Loan, shooting a Vietcong suspect in a street in Saigon. Nevertheless, it was staged-by General Loan, who had led the prisoner, hands tied behind his back, out to the street where journalists had gathered; he would not have carried out the summary execution there had they not been available to witness it. Positioned beside his prisoner so that his profile and the prisoner's face were visible to the cameras behind him, Loan aimed point-blank. Adams's picture shows the moment the bullet has been fired; the dead man, grimacing, has not started to fall. As for the viewer, this viewer, even many years after the picture was taken ... well, one can gaze at these faces for a long time and not come to the end of the mystery, and the indecency, of such co-spectatorship.

Susan Sontag

*

Note: Bức hình, trên 1 số NYRB đã cũ, May 1, 2003, tình cờ GNV vớ lại được, trong bài viết của Charles Simic, điểm cuốn của Susan Sontag: Nhìn nỗi đau của kẻ khác, Regarding the Pain of Others. Trong bài viết, Simic cũng nhắc đến cái thú của quản giáo Khờ Me Ðỏ, trước khi làm thịt ai, thì cho nguời đó được chụp 1 tấm hình làm kỷ niệm. Bài viết của Simic, quả đúng là thi sĩ, thật tuyệt. Ông viết về kinh nghiệm ấu thời của ông, ở vùng Balkans. Có thể nói, qua bài viết của ông, thì cả lịch sử nhân loại được chia ra làm hai, một thời kỳ không có hình, và một, có hình. Chỉ khi có hình, thì chúng ta mới được thưởng thức nỗi đau của kẻ khác, dù không là chứng nhân tận mắt.
Archives of Horror, là theo nghĩa đó.




Regarding the Pain of Others

by Susan Sontag.

Farrar, Straus and Giroux, 131 pp., $20.00

"the clarity of everything is tragic"

- Witold Gombrowicz

I still have a memory of a stack of old magazines I used to thumb through at my grandmother's house almost sixty years ago. They must have dated from the early years of the century. There were no photographs in them, just engravings and drawings. I was especially enthralled by scenes of battles that were most likely depictions of past Balkan wars and rebellions. They were done in the heroic manner. The soldiers charged with grim determination through smoke and carnage; the wounded hero lay with his chest bared in the arms of his comrades seemingly happy as to how things turned out. It was the kind of stuff that made me want to play war immediately. I'd run around the house shooting an imaginary rifle, crashing down on the floor mortally wounded, then immediately jumping up again to fire at the enemy until my grandmother ordered me to stop. Her nerves were frayed enough already since there was plenty of real shooting to be heard all around us.

The year was 1944, the Russian army was closing in on Belgrade, the Germans were digging in to fight, while the Americans and the English took turns bombing us. If one escaped the city, one was in even greater danger, since a civil war raged in the countryside between Communists, royalists, and several other factions, with civilians being killed indiscriminately. Like many others, my parents went back and forth. Even a six-year-old had numerous opportunities to see dead people and be frightened. Still, I made no connection then that I recall, between what I saw in those magazines and the things I witnessed in the streets. That was not the kind of war I and my friends were playing. This may sound unbelievable, but it took war photographs and documentaries that I saw a few years later to impress upon me what I had actually lived through.

One day when I was in third or fourth grade our whole class was taken to a museum to see an exhibition of photographs of atrocities. The intention, I suppose, was to show the youth of a country whose official slogan now was "brotherhood and unity" what the fascists and their local collaborators had brought about. We, of course, had no idea what we were about to see, suspecting that it would be something boring, like paintings of our revolutionary heroes. What we saw instead were photographs of executions. Not just people hanged or being shot by a firing squad, but others whose throats were being cut. Ordinarily, we took the opportunity of these class trips to tease the girls and generally make a complete nuisance of ourselves, but that day we were mostly quiet. I recall a photograph of a man sitting on another man's chest with a knife in his hand, looking pleased to be photographed.

As terrifying as the scenes were, they tend to blur in my mind except for a few vivid details. A huge safety pin instead of a button on the overcoat of one of the victims; a shoe with a hole in its sole that had fallen off the foot of a man who lay in a pool of blood; a small white dog with black spots who stood in the distance, wary but watching. It was like seeing hard-core pornographic images for the first time and being astonished to learn that people did such things to one another. I could not talk about this to anybody afterward; neither did my schoolmates say anything to me. Our teachers probably lectured us afterward about what we saw, but I have no memory of what they said. All I know is that I never forgot that day.

I suspect Susan Sontag has written a book others thought of writing but chickened out of. The images of war atrocities may seem like a subject about which there'd be plenty to say, but somehow it turns out not to be the case. As with other all-powerful visual experiences, there's a chasm between what one sees and what one can articulate. For instance, I can recall down to its minutest details Ron Haviv's close-up photograph taken in 1992 of a Muslim man begging for his life on the streets of the town of Beljina in Bosnia. I feel the horror at what is about to take place, can even imagine what is being said, know well enough that these men with guns are without pity. And yet nothing that I can imagine or say equals the palpable reality of this terrified, pleading face on the verge of tears. Who is this witness, I ask myself, this photographer who gives himself the godlike right to be there? Did he just happen to come along? What took place after the camera's click? How come the killers let him go with the evidence of their crime? Did they exchange any words before he went his way? Is it true then, as Sontag wrote in On Photography (1977), that the camera is a passport that annihilates moral boundaries, freeing the photographer from any responsibility toward the people photographed? If there's anyone capable of answering these thorny questions, it is she. As that early book demonstrated, she is a most probing critic, one of the very best writers on photography in its history.

Regarding the Pain of Others is a book about photographs without a single illustration. It begins with a discussion of Virginia Woolf's Three Guineas, a book of reflections on the roots of war. In order to test our "difficulty of communication," Woolf proposes that we look together at images of Spanish Civil War atrocities. She wants to know whether when we look at the same photographs, we feel the same thing. Sonntag tells us that Woolf professes to believe that the shock of such pictures cannot fail to unite people of good will:

Not to be pained by these pictures, not to recoil from them, not to strive to abolish what causes this havoc, this carnage-these, for Woolf, would be the reactions of a moral monster. And, she is saying, we are not monsters, we members of the educated class. Our failure is one of imagination, of empathy: we have failed to hold this reality in mind.

Who are the "we" at whom shock pictures such as these are aimed, Sonntag wonders. In 1924, Ernst Friedrich published in Germany his Krieg dem Kriege! (War Against War!), an album of more than 180 photographs drawn from German military and medical archives, almost all of which were deemed unpalatable by government censors while the war was going on, thinking that circulating them widely would make a lasting impact. As Sonntag describes it, the reader gets a photo tour of four years of slaughter and ruin: pages of wrecked and plundered churches, obliterated villages, torpedoed ships, hanged conscientious objectors, half-naked prostitutes in brothels, soldiers in death agonies, corpses putrefying in heaps, close-ups of soldiers with huge facial wounds, all of them meant to shock, horrify, and instruct. Look, the photographs say, this is what it is like. This is what war does. By 1930, War against War! had gone through ten editions in Germany and had been translated into many languages. Judging by the refinements in cruelty in the next war, its effect was zero. Here's what Sontag has to say:

The familiarity of certain photographs builds our sense of the present and immediate past. Photographs lay down routes of reference, and serve as totems of causes: sentiment is more likely to crystallize around a photograph than around a verbal slogan. And photographs help construct-and revise-our sense of a more distant past, with the posthumous shocks engineered by the circulation of hitherto unknown photographs. Photographs that everyone recognizes are now a constituent part of what a society chooses to think about, or declares that it has chosen to think about. It calls these ideas "memories," and that is, over the long run, a fiction. Strictly speaking, there is no such thing as collective memory-part of the same family of spurious notions as collective guilt. But there is collective instruction.

All memory is individual; un-reproducible-it dies with each person. What is called collective memory is not a remembering but a stipulating: that this is important, and this is the story about how it happened, with the pictures that lock the story in our minds. Ideologies create substantiating archives of images, representative images, which encapsulate common ideas of significance and trigger predictable thoughts, feelings.

I imagine most of the people carrying out the butchery in Croatia and Bosnia in the 1990s had already seen 1 previous photographs of war everything they were now doing. In the days of nationalist euphoria that preceded these crimes, television audiences all over Yugoslavia were being shown pictures of what one ethnic group did to the others in the past. Sontag is right when she points out that images of dead civilians serve mostly to quicken the hatred of your enemy. She writes:

To an Israeli Jew, a photograph of a child torn apart in the attack on the Sbarro pizzeria in downtown Jerusalem is first of all a photograph of a Jewish child killed by a Palestinian suicide-bomber. To a Palestinian, a photograph of a child torn apart by a tank round in Gaza is first of all a photograph of a Palestinian child killed by Israeli ordnance.

Looking at pictures of Serbian atrocities in Croatia, it occurred to me that Serbs who saw them may have been envious. They yearned to do the same to Croats. Today, of course, Serbs find it difficult to look at photographs of what was done in their name. The usual response, as Sontag notes, is that these pictures must be fabrications since our brave fighting men are incapable of such barbarities. It seems that, for nationalists everywhere, feeling remorseful for the wrong one has done to others is a sign of weakness and nothing more.

Do photographs that permit one to linger over a single image make a· greater impact on viewers than violence on television and in the movies? Sontag believes they do, and I agree. The collapse of the World Trade Center towers on September 11, 2001, was almost universally described as "unreal," "surreal," or "like a movie," and it was. The still images made by both professional and amateur photographers are at times more direct and thus more powerful, as anyone who has seen them will testify. Even the death and destruction in the Vietnam War, ·which was documented day after day by television cameras and brought to our homes, did not seem to make as much of an impression as a few famous photographs of that war did. "Memory freeze-frames; its basic unit is the single image," Sontag writes in Regarding the Pain of Others. Photographs, her argument runs, seem to have a more innocent and more accurate relation to reality, or so we tend to believe. They furnish concrete evidence, a way of certifying that such and such did actually happen.

We are more suspicious of movies and documentaries since we know that they can be edited to make a particular aesthetic or political point. Even though the same can be done to a photograph, we rarely question what we are seeing. The most famous photograph of the Spanish Civil War is a blurred, blackened-white image of a Republican soldier shot by Robert Capa's camera at the same moment as he is struck by an enemy bullet. The photographer, we think, had the presence of mind to point his camera and bear witness and we admire him for it. "Everyone is a literalist when it comes to photographs," Sontag writes. It's disconcerting to learn from her book that this photo may have been staged, as were many other long-familiar war photographs of the past, for reasons of expediency and propaganda.

Is there a shame in finding oneself peering at a close-up of some unspeakable act of violence? Yes, there is. Can you bear to look at this without flinching, a photograph asks, and often we can barely find the strength to do so, as in the well-known Vietnam War photograph taken by Huynh Cong Ut, of children shrieking with pain and fear as they run away from a village that has just been doused with American napalm. What makes it shameful is that the photograph is not only shocking, it is also beautiful, the way a depiction of excruciating torments of some martyr can be in a painting. "The aesthetic is in reality itself," the photographer Helen Levitt once said. One ends up by complimenting the man with the camera who not only documents the horror but manages to take a good picture. Sontag writes:

That a gory battlescape could be beautiful-in the sublime or awesome or tragic register of the beautiful-is a commonplace about images of war made by artists. The idea does not sit well when applied to images taken by cameras: to find beauty in war photographs seems heartless. But the landscape of devastation is still a landscape. There is beauty in ruins.... Photographs tend to transform, whatever their subject; and as an image something may be beautiful -or terrifying, or unbearable, or quite bearable-as it is not in real life.

"The photograph gives mixed signals," Sontag says. "Stop this, it urges. But it also exclaims, What a spectacle!" The Khmer Rouge took thousands of photographs between 1975 and 1979 of men and women just before they were to be executed. They stare straight at the camera, the number tags pinned to the top of their shirts. Their expressions are in turn serious, disbelieving, worn-out, and somehow still curious about what comes next. It's hard to meet their eyes, while at the same time one can't stop looking at them. We are all voyeurs, whether we like or not, Sontag writes, and who could pretend otherwise? "All suffering people look the same," a friend of mine likes to say. This is true up to a point, that is, before the camera makes them distinct. A little private light bulb that illuminates the life of each of us comes to be lit by the photograph. Our memories are dark, labyrinthine museums with an occasional properly illuminated image here and there.

"Is it correct to say that people get used to these?" Sontag asks. Are we better off for seeing images of atrocities? Do they makes us better people by eliciting our compassion and indignation so we want to do something about injustice and suffering in the world? Finally, are we truly capable of assimilating what we see? She notes the mounting level of acceptable violence and sadism in mass culture, films, television, and video games. Scenes that would have had the audiences cover their eyes and shrink back in disgust forty years ago are now watched without a blink by every teenager. The same is true of the world out there. People can get used to bombs, mass killings, and other horrors of warfare. Today I find it hard to believe that I once swiped a helmet off a dead German soldier, but I did. Despite what believers in long-repressed and buried memories may think, fear and shock unfortunately have expiration dates. For every dreadful image I recall, I have forgotten thousands of others. In On Photography, Sontag argued that an event known through photographs after repeated exposure becomes less real. As much as they create sympathy, she wrote then, photographs shrivel sympathy.

In her new book, she's no longer sure. "What is the evidence that photographs have a diminishing impact, that our culture of spectatorship neutralizes the moral force of photographs of atrocities?" she asks. Our military shares her uncertainty and has no intention of testing its truth by letting photographers roam freely on the battlefield. There are hardly any images of the dead in the first Gulf War, mainly stories of wild dogs tearing at the corpses of the Iraqi dead. A few pictures slipped past censorship of the war in Afghanistan, but the overall policy is to conceal the effects of warfare, especially on civilians. The military learned its lesson in Vietnam. "The war itself is waged," Sontag writes, "as much as possible at a distance, through bombing, whose targets can be chosen, on the basis of instantly relayed information and visualizing technology, from continents away." When local television stations begin showing images of civilian casualties we do not hesitate to bomb them into silence, as happened in the NATO bombing of Yugoslavia and with al-Jazeera in Kabul. "When there are photographs," Sontag-writes, a war becomes "real." The revulsion at what the Serbs had done in Croatia, Bosnia, and Kosovo and the almost universal demand that something be done about it were mobilized by images. Unfortunately, as we've seen with Cambodia and Rwanda, photographs do not always guarantee accountability. Still, a war without pictures, or rather a war sanitized to a few propaganda images, is a frightening prospect.

Sontag is rightfully angry with certain French intellectuals fashionable in academic circles who speak of "the death of reality" and who assure us that "reality" is now a mere spectacle. "It suggests, perversely, usuriously," she writes, "that there is no real suffering in the world." And yet, there was a time when she was somewhat inclined toward that view, when she was tempted to say that it is images and not reality that photography makes accessible. She charged photography of doing as much to deaden conscience as to arouse it, and she was not wrong. "Photography implies," she wrote, "that we know about the world if we accept it as the camera records it. But this is the opposite of understanding, which starts from not accepting the world as it looks." Some reviews of the new book I have seen claim that she has now repudiated this view. This simplifies her ideas in the earlier book about the relationship of the image world to the real one which are not only more nuanced, but are also mindful of the long history of that question going back to Plato. By insisting that there is indeed such a thing as reality, it does not mean that she now embraces a reductive, either / or approach with truth and beauty as irreconcilable opposites. Lastly, it's not photographs of bell peppers, nudes, or the Grand Canyon that are her subject here, but rather what she once called "the slaughter-bench of history."

Timely as it is, Sontag's extended meditation on the imagery of war in Regarding the Pain of Others is guaranteed to make some readers uneasy. These are things they'd rather not dwell on. Consumers of daily violence, she knows, are schooled to be cynical about the temptation of strong feelings. Her book on the other hand bristles with indignation. She has no patience for those who are perennially surprised that depravity exists, who change the subject when confronted with evidence of cruelties humans inflict upon other humans. "No one after a certain age," she goes on to say, "has the right to this kind of innocence, of superficiality, to this degree of ignorance, and amnesia."

Sontag is a moralist, as anyone who thinks about violence against the innocent is liable to become. The time she spent in Sarajevo under fire gives her the authority. Most of us don't understand what people go through, she writes. True, we only have photographs. Even if they are only tokens, they still perform a vital function, Sonntag insists. They certainly do for me. Like the one by Gilles Peress I saw some years ago of a child with eyes bandaged being led by his mother down a busy street in Sarajevo. Or another, by the same photographer, where we see a man in a morgue approach three stretchers with bodies lying on them and cover his face as he recognizes a friend or a relative. The morgue attendant is expressionless as he stands watching.

Men and women who find themselves in such circumstances, one says to oneself, do not have the luxury of patronizing reality. Such photographspreserve, however tenuously, the mark of some person's suffering in the great mass of faceless and anonymous victims. We ought to be grateful to Susan Sontag for reminding us of this. If photography is a form of knowledge, writing about it with critical discernment and passion, as she does, is bound to make trouble for every variety of intellectual and moral smugness. +