|
30.4.2014
The Paris Review
It seems to me that your novel is akin
to something like this
end of history. It’s written from the vantage point of the early 2000s,
yet it
captures the moment at the fall of Communism in 1990, a moment at which
various
currents merge and collide, forming a point of crystallization, and
possibly
liquidation, for twentieth-century history.
Hình như
cuốn tiểu thuyết của ông giống như tận cùng lịch sử. Nó được viết vào
khoảng đầu
thập niên 2000 [chắc cùng thời gian với Chuyện Kể Năm 2000, của Bùi Ngọc
Tấn],
tuy nhiên, nó tóm được cái khoảnh khắc CS gục, năm 1990, một thời điểm
mà những
dòng hợp lưu & xung đột & va chạm…. tạo thành điểm kết tinh, có
thể nói, điểm
“làm thịt” thế kỷ 20.
KERTÉSZ
Actually, you’re completely right.
It’s exactly like that. We’ve
got the man who was born in Auschwitz, and then Judit, the woman who
experiences Auschwitz through him and who attempts to find a conclusion
to her
own history. But then she escapes that world and marries a man who is
untouched
by totalitarianism. She decides to have children, and thus commits
herself to
life. That was the secret, the gesture—bearing children is the gesture
that
creates the possibility of continued life. Faced with choosing between
life and
death, she opts for life.
Đúng quá!
Chúng ta có 1 thằng dàn ông sinh ra tại Lò Thiêu, rồi có 1 cô gái kinh
nghiệm Lò Thiêu qua anh ta, cô toan
tính tìm một kết luận cho chính câu chuyện của riêng cô. Thế rồi cô bỏ
chạy thế
giới đó, kết hôn với 1 người đàn ông vô can với chế độ toàn trị. Cô bèn
quyết định
sống, có con. Có con là 1 cử chỉ tiếp tục cuộc đời, chọn cuộc đời thay
vì chọn
cái chết.
For even
there, next to the chimneys, in the intervals between the torments,
there was
something that resembled happiness. Everyone asks only about the
hardships and
the "atrocities," whereas for me perhaps it is that experience which
will
remain the most memorable. Yes, the next time I am asked, I ought to
speak
about that, the happiness of the concentration camps. If indeed I am
asked. And
provided I myself don't forget.
Ngay cả ở đó,
kế bên những ống khói, trong những giờ nghỉ giữa những thống khổ, có
một điều gì
đó giống như hạnh phúc. Mọi người chỉ hỏi về những cực nhọc, những “tàn
bạo”,
trong khi với tôi, có lẽ chỉ cái kinh nghiệm đó đáng
nhớ nhất. Vâng, đúng như thế, lần tới,
nếu được hỏi, tôi sẽ nói về cái đó, về hạnh phúc ở trại
tập trung.
Nếu được hỏi, cầu tôi chẳng quên.
Kertesz: Fateless
Apr 26, 2014
Sài Gòn, 30
tháng Tư 1975 (1)
Ai
điếu
Viết cho
nạn nhân 4/6
Không phải
người sống mà kẻ chết
kết đoàn
cùng đi
dưới bầu
trời sậm đỏ tận thế
khổ nạn
dắt dìu khổ nạn
tận cùng
thù hận là hận thù
nước suối
cạn khô, lửa cháy triền miên
đường về
xa vời vợi.
Không phải
ông trời mà con trẻ
nguyện
cầu
giữa tiếng
loảng xoảng va đập của nón sắt và nón sắt
mẹ cưu mang
ánh sáng
bóng tối
cưu mang mẹ
những hòn
đá lăn, đồng hồ chạy ngược
nhật thực
đã tới
Không phải
xác thịt mà linh hồn
các bạn
cùng một lứa bên trời lận đận
mỗi năm
cùng đón sinh nhật một lần
tình yêu
mang đến cho người chết
một đồng
minh vĩnh cửu
các bạn ôm
chặt lấy nhau
trong danh
sách dài thật dài của nỗi chết không lìa.
Bei Dao
Dã Viên [dịch]
REQUIEM
for the
victims of June Fourth
Not the
living but the dead
under the
doomsday-purple sky
go in
groups
suffering
guides forward suffering
at the end
of hatred is hatred
the spring
has run dry, the conflagration stretches unbroken
the road
back is even further away
Not gods but
the children
amid the
clashing of helmets
say their
prayers
mothers
breed light
darkness
breeds mothers
the stone
rolls, the clock runs backward
the eclipse
of the sun has already taken place
Not your
bodies but your souls
shall share
a common birthday every year
you are all
the same age
love has
founded for the dead
an
everlasting alliance
you embrace
each other closely
in the
massive register of deaths
Bỏ báo
Ai tin tiếng
nức nở của những cái mặt nạ?
Ai tin nhà nước khóc?
Nhà nước mất
mẹ hồi ức của nó
Hồi ức bỏ đi
xa, xa ơi là xa, như buổi sáng ngày hôm nay
Thằng bé giao
báo sáng nay lên đường
Cả thành phố
rộn tiếng kèn thê lương
Điềm xấu, của
VC hay của VNCH?
Rau cỏ rầu rĩ
Dân quê trồng
tay mình vô đất
Mong một mùa
gặt vàng
Chính trị
gia xịt tiêu vô lưỡi
Cứng đơ như
gỗ giữa cuộc họp QH:
Chúng mình
phải hy sinh chúng mình
Cho nghệ thuật,
Hay cho mấy cánh cửa?
Buổi sáng của
nhân dân, sáng nay
Được cậu bé
giấy tạo ra
Cách mạng khóc
nức nở qua xó xỉnh
Nó buồn ngủ
Bei Dao: The Rose of Time
GCC &
Nguyễn Đông Ngạc, nhà xb Sóng @ Niagara Falls cc 1996
Những truyện
ngắn hay nhất của quê hương chúng ta.
Gấu “sống sót”
cuộc chiến, và có được cuộc đời thứ nhì ở hải ngoại là nhờ cuốn này.
Bức hình độc
nhất của suốt 1 thời trẻ tuổi, viết văn viết viếc, xì ke xì kiếc, cùng
tí
tiểu sử, trong có ghi "phê bình, điểm sách", trở thành bùa cứu mạng,
Gấu
lèm bèm về nó
nhiều lần rồi, nhân 30 Tháng Tư bèn tự sướng thêm 1 cú!
3.4.2008
@ Little Sàigon
30.4.1975
with Đỗ Khờ
Trong quân đội
miền Nam, sĩ quan gốc Võ bị Quốc gia Đà Lạt là thành phần ưu tú, không
bao giờ
để bị nhầm lẫn với lại sĩ quan xuất thân từ trường Bộ binh trừ bị Thủ
Đức, Long
Thành. Vì vậy mà những bút ký của Phan Nhật Nam (Mùa Hè Đỏ Lửa, Dọc
Đường Số
1...) mặc dù tác giả không ý thức hay là chủ ý, không phải là những bút
ký về
"người lính Việt Nam Cộng hòa" mà là về sĩ quan Võ bị.
DK
Theo GCC, nhận
xét này sai.
Gấu đọc PNN,
không thấy cái gọi là không ý thức hay chủ ý, mà chỉ thấy anh chọn nghề
binh,
chọn cả chuyện chống cộng ở trong đó. Chứng cớ, là, khi đi tù cũng
không thay đổi,
đếch thèm nhận quà thăm nuôi của phía thắng trận, đếch thèm tiếp phần
“họ” của
mình, ở ngoài Bắc.
Võ Bị Đà Lạt
là của đám chọn binh nghiệp, khác hẳn Thủ Đức, là của những người bị
động
viên, phải
vô lính. PNN có những dòng thổi Võ Bị Đà Lạt, tất nhiên, là cái nôi của
anh, làm sao không. Nhưng đâu có dòng nào coi khinh đám Thủ Đức.
Nhận xét về
văn nghiệp của PNN như thế, thì cũng cho phép GCC nhận xét về văn của
DK, cũng
y thế, một thứ văn chương Thủ Đức, đếch phải văn chương thứ thiệt của
Đà Lạt,
như của PNN!
Viết tiếng
Việt còn thấy đỡ đỡ, bày đặt viết tiếng Tây, ai đọc?
Thú thực, đọc
đám Mít viết tiếng Tây, GCC thấy buồn cười, tởm, đúng hơn.
Đó là thứ tiếng Tây viết
đúng văn
phạm, nhưng đếch phải văn chương.
Văn chương, là
thể nào cũng có cái gì đó, có tính u hoài, gọi đại như vầy, về 1 xứ Mít
đã mất.
Linda Lê có bao giờ nhận bà là người Mít đâu, vậy mà đọc, vẫn cảm thấy
cái đó,
dù bà phán, tôi viết văn như kẻ giảng đạo ở giữa sa mạc.
NQT
Phạm Duy
Khiêm, xưa chê đám Mít viết văn bằng tiếng Mít, là tụi “ratés”, thất
bại.
Có thể, vì
tiếng Mít hồi đó còn hoang dại lắm.
Nhưng ratés,
bi giờ là để chỉ đám viết văn bằng tiếng Tây, nhất là đám con cháu VC!
Chúng đếch
biết viết, bằng thứ tiếng gì nữa, mặt trái/theo kiểu Kafka phán, tớ
nói tất cả
ngôn ngữ,
nhưng bằng tiếng Do Thái
Với Kafka,
là hãnh diện, còn đối với đám CCCC/VC này, là nhục nhã, mặt phải/theo
kiểu
Malaparte chửi
Đồng Minh:
Thắng trận nhục nhã lắm!
Bạn DK này, ở
Mẽo, nhưng đọc, thấy có vẻ rất ghét Mẽo!
Y chang đám Bắc Kít!
Hà, hà!
Như Lính Giữa
Rừng
Đà Lạt 1969
Đà Lạt
[Viết bên lề MCNK]
Vợ chồng GCC
& Nồi bánh chưng Tết @ Trại tị nạn Thái Lan cc 1990
Thời gian đầu
mới tới Trại, Gấu có nhận được tiếp tế của 1 số bạn bè, không phải bạn
quí, mà
là bạn thường, trong số đó, người lo cho Gấu nhiều nhất là Nguyễn Ðông
Ngạc, ở
Montreal. Và cái sự có được địa chỉ NDN quả là thật may mắn vô cùng.
Liền sau
khi thấy tên người đẹp trên măng sét báo Khiến Chán, mừng quá, GCC bèn viết
thư cầu cứu nữ văn sĩ, cũng bạn 1 thời, và được bà viết thư trả lời,
[hết mùa
vượt biển
rồi, đi trễ quá], và cho cái địa chỉ ông chủ tịch PEN hải ngoại, ra ý,
mi cầu cứu ông này này.
Đúng ra, là cái thư của vị
này, viết cho bà văn sĩ, bà biểu tôi giúp đỡ 1 "ông
bạn nào đó" của bà, mà lại không cho tôi biết, ông ta là ai, địa chỉ ở
đâu…
Gấu
viết thư cho ông ta, theo cái điạ chỉ ở bìa thư, kể rõ hoàn cảnh.
Chuyện có thể
ngưng tại đây, nếu không có những diễn biến tiếp theo.
Ðúng lúc đó, có
1 ông ở
trong trại, khi biết Gấu viết lách, mới hỏi, ông có quen Nguyễn Ðông
Ngạc không.
Gấu nói, quen quá, sao không, ông ta bèn cho biết, ông là hàng xóm ở
VN, của
NDN. Và
cho địa chỉ NDN, ở Montreal.
Gấu bèn đi 1 đường cầu cứu bạn ta, nhận ngay
được 1 cái
money order 50 đô Canada, cùng thư chúc mừng, và thông báo,
tao đã gọi điện thoại cho Viên Linh, Ðịnh Nguyên… Yên chí lớn. Thể
nào tụi
nó cũng ra tay nghĩa hiệp.
Quả đúng như
thế. Viên Linh bèn phôn cho ông chủ tịch Văn bút hải ngoại, cùng lúc
phôn nhiều nơi. Nhờ những cú phôn liên tiếp như thế, ông chủ tịch PEN
mới
giở lại cái
hồ sơ cũ ra, đi một đường làm giấy chứng nhận, gửi cho Gấu, kèm sách
báo, tác phẩm
của ông, trong có cuốn bằng tiếng Anh, Ý Trời, The Will of Heaven….
Ui chao,
giả
như không gặp được cái ông ở trại biết địa chỉ NDN, không biết ra sao!
Story-Bearers
Marina
Warner
Je parle
toutes les langues, mais en arabe
by Abdelfattah Kilito
‘I
speak all languages but in Yiddish,’ Kafka
remarks in his Diaries; and
when it came to writing, he might have chosen any
one of them, besides German. We now read him in all languages,
receiving
glimpses, like faraway signals at sea, of the original German, and
beyond the
German of the other languages that made up Kafka’s mindscape, with
Yiddish
beating out a bass line, familiar ground. Echoing Kafka, the Moroccan
writer
and scholar of Arabic literature Abdelfattah Kilito declares ‘I speak
all
languages but in Arabic,’ in the title of his recent collection of
essays.
Kilito is a writer who reads (not all do) – and widely, in several
languages.
He’s an amphibian creature, living in Arabic and French with equal
agility, and
ambidextrous with it, continuing to use one language or other at will
for his
critical studies or his ‘récits’ – his gnomic, often poignant memoirs
and
fictions.
Tôi nói tất
cả thứ tiếng, bằng tiếng Do Thái, Kafka phán, trong Nhật Ký của ông. Và
khi viết,
thì bên cạnh tiếng Đức, ông có thể viết bằng bất cứ 1 trong những thứ
chữ. Và bây
giờ, chúng ta đọc ông, trong tất cả các thứ tiếng, và nhận được, những
loáng
thoáng, như những ký hiệu xa xa ở mặt biển, của tiếng gốc Đức, và quá
nó, của
những thứ tiếng khác, chúng làm thành “mindscape” của ông, với tiếng Do
Thái,
như là tiếng đập giữ nhịp [a bass line, familiar ground].
Lập lại
Kafka, nhà văn Ma Rốc và nhà học giả văn học Ả Rập,
Abdelfattah
Kilito, tuyên bố, tớ nói tất cả tiếng nói, bằng tiếng Ả Rập,
trong cái tít
của tuyển tập tiểu luận mới ra lò. Ông là 1 nhà văn đọc rộng
vài ngôn
ngữ, một sinh vật lưỡng cư - vừa ở trên cạn, vừa ở dưới nước, sống
thoải mái,
lanh lẹ như nhau, ở trong tiếng Ả Rập và tiếng Tẩy, thuận cả hai tay
với nó, tiếp
tục sử dụng, hoặc tay phải, hoặc tay trái, để đi những đường tiểu luận
hay “récits”
- những giả tưởng, hồi ức có tính châm ngôn, thường là nhức nhối.
Two
Dogs
by Charles Simic
for Charles and Holly
An old dog afraid of his
own shadow
In some Southern town.
The story told me by a woman going blind,
One fine summer evening
As shadows were creeping
Out of the New Hampshire woods,
A long street with just a worried dog
And a couple of dusty chickens,
And all that sun beating down
In that nameless Southern town.
It made me remember the
Germans marching
Past our house in 1944.
The way everybody stood on the sidewalk
Watching them out of the corner of the eye,
The earth trembling, death going by . . .
A little white dog ran
into the street
And got
entangled with the soldier’s feet.
A kick
made him fly as if he had wings.
That’s
what I keep seeing!
Night
coming down. A dog with wings.
Hai Con Chó
Một con chó già sợ cái
bóng của chính nó
Trong 1 thành phố Nam Kít nào đó
Chuyện này tôi nghe qua một bà sắp mù
Vào một buổi chiều tuyệt vời mùa hạ
Khi bóng tối
từ những cánh rừng Sát
Bò ra
Con phố dài Hồng Thập Tự
Với chú chó già rầu rĩ
Và cặp gà bụi bặm
Và cả mặt trời đổ xuống
Một thành phố mất tên Nam Kít
Nó làm
tôi nhớ buổi 30
Tháng Tư 1975
Ðám VC
Bắc Kít diễu hành qua căn nhà của tôi
Người dân
đứng bên lề nhìn chúng bằng một góc con mắt
Mặt đất
rung chuyển, và cái chết thì lờ vờ quanh đó..
Một con
chó trắng nhỏ chạy ra đường
Làm quẩn
chân đám nón cối
Và 1 cú
đá làm con chó bay lên trời
Như thể
nó có cánh
Ðó là
điều mà tôi đã nhìn thấy, và vẫn còn nhìn thấy!
Ðêm xuống
thành phố mất tên
Một con
chó có cánh.
CHARLES
SIMIC
Một lần trên đường về, khi chạy
xe đến gần
khu chợ Bến Thành, từ xa đã nhìn thấy một gói đồ nằm giữa mặt lộ, đường
Trần
Hưng Đạo, dưới ánh đèn chói lòa. Có tiếng súng nhỏ rồi tiếng còi xe
Quân Cảnh
thổi dạt xe cộ, người đi đường qua hai bên. Khi cơn báo động hoảng đã
qua đi,
trong một thoáng bỗng nhận ra vẻ tiều tụy của thành phố. Của mối tình.
Ngay cả
những giây phút êm đềm ngồi quây quần bên mấy đứa em, mấy cô bạn, vẫn
cảm thấy
cực kỳ cô đơn, có cảm giác như không còn thương yêu nổi ai, đã tự lừa
dối khi
nghĩ rằng đã yêu thương cô bạn. Đã lấy mức độ pháo kích làm thước đo
tình yêu,
đã lầm tiếng hỏa tiễn là tiếng reo hò đắc thắng của mối tình: Nhiều khi
quẩn
trí còn mong mỏi thành phố bị pháo kích hoài hoài để được sống mãi mãi
những
giờ phút thê thảm nhất của mối tình. Những ngày Mậu Thân căng thẳng,
Đại Học
đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng
hoàng
khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng
hỏa tiễn
réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy
cùng với
những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn
sống sót,
vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị
như thế
nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Trong vòng
21 năm sống ở đất nước này tôi chưa bao giờ sự bất mãn với
chế độ
của trí thức và doanh nhân đến mức độ như hiện nay."
Peter R.
Ryder, giám đốc điều hành của Quỹ đầu tư Indochina Capital
Câu dịch
trên của BBC. (1)
Gấu đọc,
không hiểu, bèn mò nguyên bản:
“In my 21
years here I’ve never seen this level of disenchantment with the system
among
the intelligentsia and entrepreneurs,” said Peter R. Ryder, the chief
executive
of Indochina Capital, an investment company in Vietnam. (2)
Gấu dịch:
Trong 21 năm
ở đây, tôi chưa từng nhìn thấy, sự bất mãn với chế độ, trong giới trí
thức và
doanh nhân, đến mức này.
Lẽ tất
nhiên, câu tiếng Việt, high-lighthed, do cẩu thả, bỏ mất từ “nhìn
thấy”, tuy trong bài
viết, thì có.
Một diễn đàn
“tiếng tăm” như BBC, biến thành “tai tiếng”, đến mức như thế này!
Đây cũng là 1 trong những
thành quả của ngày 30 Tháng Tư 1975.
NQT
Bắc Bộ Phủ
triều kiến Bắc Kinh
CAMEO
APPEARANCE
I had a
small, nonspeaking part
In a bloody
epic. I was one of the
Bombed and
fleeing humanity.
In the
distance our great leader
Crowed like
a rooster from a balcony,
Or was it a
great actor
Impersonating
our great leader?
That's me
there, I said to the kiddies.
I'm squeezed
between the man
With two
bandaged hands raised
And the old
woman with her mouth open
As if she
were showing us a tooth
That hurts
badly. The hundred times
I rewound
the tape, not once
Could they
catch sight of me
In that huge
gray crowd,
That was
like any other gray crowd.
Trot off to
bed, I said finally.
I know I was
there. One take
Is all they
had time for.
We ran, and
the planes grazed our hair,
And then
they were no more
As we stood
dazed in the burning city.
But, of
course, they didn't film that.
Charles
Simic
Cameo Apperance:
Sự xuất hiện của 1 nhân vật nổi tiếng, trong 1 phim….
CAMEO
APPEARANCE
Tớ có cái phần
nhỏ mọn, không nói
Trong cuốn sử
thi đầy máu của dân tộc tớ.
Tớ là một
trong cái nhân loại
Bị bom, oanh tạc, pháo kích, và bỏ chạy té đái!
Từ xa, vị lãnh
đạo của chúng tớ lúc đó, hình như là Sáu Dân thì phải
Gáy như 1
con gà trống, từ ban công dinh Độc Lập
Hay là thằng
khốn nào đóng vai Sáu Dân vĩ đại?
“Tớ đó”, tớ
nói với lũ con nít
Tớ bẹp dí,
giữa một người đàn ông
Hai tay băng
bó, cùng giơ lên
[Sao giống
TCS quá, khi chào mừng Sáu Dân,
sau khi ca Nối Vòng Tay Lớn?]
Và một bà già
miệng há hốc
Như thể bà
muốn chỉ cho coi một cái răng của bả.
Đau thật. Nhức
nhối thật.
Hàng trăm lần,
tớ coi đi coi lại You tube,
Không chỉ 1
lần
Liệu họ nhận
ra tớ không nhỉ,
Trong cái đám
đông ở Dinh Độc Lập bữa đó?
Thì cũng như
mọi đám đông xám xịt,
Bè lũ Cách Mạng 30 Tháng Tư,
Đứa nào cũng có 1 cái băng đỏ
ở cánh tay!
Thôi đi ngủ,
tớ sau cùng phán
Tớ biết, có
tớ ở đó.
Một cú [cameo appearance]
Họ đâu có thì giờ, 1 cú là đủ rồi.
Chúng tớ chạy,
và những chiếc trực thăng thổi tóc chúng
tớ,
Như muốn giật chúng ra khỏi đầu.
Và rồi chẳng
còn gì hết
Chẳng còn máy
bay trực thăng
Khi chúng tớ
đứng bàng hoàng trong Sài Gòn bốc cháy.
Nhưng, tất
nhiên, lũ khốn VC có bao giờ cho nhân loại coi cảnh này!
Hà, hà!
30.4.2014
.
Boris
Pasternak
Pasternak's
poems are like the flash of a strobe light-for an instant they reveal a
corner
of the universe not visible to the naked eye. I fell in love with these
poems
as a child. They were magical, fragments of the natural world captured
in words
that I did not always understand. Pasternak was my father's favorite
poet. In
the evenings he often recited his poems aloud, as did Marina
Tsvetayeva, a
friend of the family who often came to our house in those years before
the war.
Long
afterwards, George Plimpton and Harold Humes brought the live Pasternak
into my
life. A year or so after the resounding success of Doctor Zhivago, when
the
dust had begun to settle on the scandal of his being forced to give up
the
Nobel Prize, they sent me on a mission to Moscow to interview the poet
for The
Paris Review.
I'll never
forget that sunny day at Peredelkino in the winter of 1959-1960, a few
months
before Pasternak died. The sparkling snow, the fir trees, the half torn
note
pinned to the door on the veranda at the side of the house: "I am
working
now. I cannot receive anybody. Please go away." On an impulse, thinking
of
the small gifts I was bringing the poet from admirers in the West, I
did knock.
The door opened.
Pasternak
stood there, wearing an astrakhan hat. When I introduced myself he
welcomed me
cordially as my father's daughter- they had met in Berlin in the
twenties.
Pasternak's intonations were those of his poems. In an instant the
warm,
slightly nasal singsong voice assured me that my parents' country still
existed
and that it had a future as real as that sunny day. Today, no matter
how harsh
life in Russia is, that flash of feeling is proven true. Russia has
survived,
and the natural world around us which Pasternak celebrated is as
wondrous as
ever.
- Olga
Carlisle
Thơ của
Pasternak thì như “strobe light” – nhoáng 1 phát, nó
vén lên một góc vũ trụ,
mắt thường, mắt trần không nhìn thấy. Tôi tương tư những bài thơ, ngay
từ
khi còn là 1 đứa trẻ. Chúng mới thần kỳ, ma mị làm sao, những
mảnh vụn của thế
giới tự nhiên, bình thường được tóm bắt vào những từ mà tôi luôn không
hiểu.
Pasternak là
nhà thơ “favorite” của ông già tôi. Vào những buổi chiều tối, ông
thường lớn giọng
đọc cho tôi nghe những bài thơ của Pasternak, hay của Marina
Tsvetayeva, một
nguời bạn trong gia đình, thường tới nhà tôi những năm trước chiến
tranh.
Mãi, mãi,
sau đó, George Plimpton and Harold Humes mang một Pạt sống vào trong
cuộc đời của
tôi. Một năm, hay cỡ đó, sau cái không khí sang sảng kêu như chuông,
của Dr. Zhivago, khi bụi đã bốc lên xóa mờ xì
căng đan - bị bắt buộc không được nhận giải - họ, hai đấng trên, trao
cho tôi mission,
tới Moscow, gặp nhà thơ, làm 1 cú phỏng vấn cho tờ The
Paris Review.
Tôi
không bao giờ quên được ngày nắng đó, ở Peredelkino, vào mùa đông
1959-1960, chỉ
vài tháng trước khi Pasternak mất. Tuyết long lanh, những cây linh sam,
một nửa
mẩu giấy găm trên cánh cửa hành lang bên phiá căn nhà: “Lúc này tôi
đang bận việc.
Tôi không tiếp ai. Làm ơn khi khác.” Nghĩ đến những gói quà nhỏ tôi
mang tới
cho nhà thơ từ những người mến mộ ông, từ Tây Phương, bất giác tôi giơ
tay gõ cửa.
Cửa mở.
Pasternak
đứng đó, đội 1 cái mũ astrakhan. Khi tôi tự giới thiệu, ông niềm nở đón
tiếp,
như là cô con gái của ba tôi - cả hai đã từng gặp nhau ở Berlin, vào
thập niên
1920. Giọng nói của ông như giọng thơ của ông. Trong một thoáng, cái
giọng nói ấm
áp, có tí giọng mũi, nghe như hát, bảo đảm cho tôi một điều, là xứ sở
của cha mẹ
tôi vẫn hiện hữu, và nó đã có 1 tương lai, thực, như ngày nắng này. Bây
giờ, dù
cuộc sống ở Nga cực nhọc cỡ nào, cái thoáng chốc của cảm giác đó, được
chứng thực.
Nga xô đã sống sót, và cái thế giới thiên nhiên chung quanh chúng tôi
mà
Pasternak ăn mừng, thì thần kỳ, tuyệt cú mèo, như vẫn là, như mãi mãi
vưỡn là.
*
Đọc bài viết 1 phát, thì
cái đầu óc bịnh hoạn của Gấu Cà Chớn
lại hiện ra cái cảnh 1 nhà thơ hải ngoại, đi cùng, cũng 1 nhà thơ hải
ngoại -
bạn của GCC, nhưng còn là cựu sĩ quan VNCH, bỏ chạy kịp trước 30 Tháng
Tư 1975,
không có lấy 1 ngày cải tạo làm thuốc chữa bịnh lưu vong - bèn bò về,
xin yết
kiến nhà thơ HC, và 1 ông châm cái đóm, hầu thuốc lào nhà thơ số 1 Đất
Bắc!
Và
nhà
thơ HC bèn an ủi
hai nhà thơ hải ngoại, quê hương của
chúng ta vưỡn còn!
Thơ
Mít vưỡn còn!
Lá
diêu bông cũng vưỡn còn, nhưng thuộc hàng chiến lược, hàng xuất khẩu
quan
trọng, qua xứ người nhiều rồi!
30.4.2014
NHÂN CHUYỆN
CÙ HUY HÀ VŨ, NGHĨ VỀ LƯU VONG
Đọc bài này,
thấy Thầy Kuốc không biết 1 tí gì về 1 số nhân vật được Thầy nêu ra để
chứng
minh cho lập luận của Thầy.
Chính cũng suy nghĩ như thế mà những nhà nước CS tống họ ra khỏi đất
nước quê
hương của họ.
Solzhenitsyn, thí dụ, bị tống khỏi Nga đúng như ý của Thầy Kuốc, nhưng
mà do
Kremlin - tuân lệnh Thầy - thi hành: Tống nó ra hải ngoại, là nó trở
thành vô dụng,
hết xài.
Pasternak đếch dám ra khỏi Nga đi nhận Nobel, vì CS LX cấm về, nếu đi.
Và cũng nghĩ như Thầy Kuốc, ông không dám đi.
Ngược hẳn Pạt, Solz,
Brodsky, đi, và trở thành hữu ích hơn so với ở
trong nước.
Solz ở Mẽo, sau khi làm mất lòng chủ nhà, ông lui về ẩn và biến căn nhà
ở
Vermont, thành pháo đài, tạ từ “loài người”, cả nhà xúm nhau cùng ông
trước
tác, hoàn thành đại tác phẩm Bánh Xe Đỏ.
Thầy Kuốc có thể đọc những điều
này, qua 1 số bài viết của tay David
Remnick, ký giả
Mẽo, đã từng ghé pháo đài Vermont của gia đình Solz.
DTH cũng thế. Qua Pháp bà viết được rất nhiều. Nổi tiếng hơn nhiều,
nhưng không
theo kiểu ồn ào như Thầy Kuốc nghĩ.
Trường hợp họ
Cù, ông đi Mỹ trước hết, để chữa bịnh. Và đây là kết quả của cả 1 công
cuộc
dài, nhằm cứu ông khỏi nhà tù, không chỉ ông, mà còn 1 số người nữa.
Sau này,
giả như ông chìm vào quên lãng, thì may quá, cho ông, đâu có sao.
Ra hải ngoại,
chỉ có mỗi 1 cách chiến đấu, là bằng ngòi viết. Băng đảng, tổ chức nào
thì cũng
vứt đi hết. Người Việt, CS hay QG đều như nhau, theo GCC.
Cái bộ lạc Cờ Lăng sống bằng xác chết của bao nhiêu con người, bằng
chiêu bài
Chống Cộng, nhưng nuôi Cộng trong nhà: Đám VC ra hải ngoại đều đến đó
trú ngụ.
Một trong những ông Trùm của nó, đã từng yết kiến Đại Sứ VC.
Không lẽ Ông Cù gia nhập bộ lạc này?
Hay viết Blog cho VOA, như BT, như NHQ?
Thầy Kuốc đã
từng nhắc tới Solz, trong bài viết “Hộ Chiếu của nhà văn”. Trong bài
viết của
Thầy, nhắc tới bài viết của Ha Jin, “Phát ngôn viên và Bộ lạc”. Chính
trong bài
viết này, Ha Jin phân biệt 1 nhà văn như Solz với 1 nhà văn như Mít,
hay Tẫu.
Solz, với niềm
tin Ky Tô, có thể sống, viết, lẻ loi, một mình, đếch cần bầy đàn:
In fact, I
am always moved by Solzhenitsyn's bravery and his acceptance of
isolation as
the condition of his work. "All my life consists of only one
thing-work," he once said. The village
of Cavendish
didn't even
have a doctor at the time, according to his biographer D. M.
Thomas, and,
because of sciatica, the aging Solzhenitsyn would stand at a lectern
when
writing. What made him so tenacious, I believe, was not only his
dedication to
work but also his Christian faith, which had inculcated in him a sense
of
continuity beyond this life. The belief in the afterlife can enable one
to live
this life fearlessly. At an interview before departing for Russia,
Solzhenitsyn was asked if he feared death, and he replied with obvious
pleasure
on his face: "Absolutely not! I t will just be a peaceful transition.
As a
Christian, I believe there is life after death, and so I understand
that this
is not the end of life. The soul has a continuation, the soul lives on.
Death
is only a stage, some would even say a liberation. In any case, I have
no fear
of death." In another context he said, "The goal of Man's existence
is not happiness but spiritual growth." That may account for the
spiritual strength with which he completed his work in exile.
His words remind me of my meeting with a group of
Chinese
poets in River Falls,
Wisconsin,
in the summer of 2001. One of them was my former schoolmate. He greatly
admired
the small Midwestern town because its climate and landscape brought to
mind the
northeast of China
where we were both from. I asked him, "If possible, would you mind
living
in this town alone so that you can concentrate on writing poetry?" He
answered, "I need a friend at least." That was a typical Chinese
answer.
The Chinese mind does not rely on a power beyond humanity for spiritual
sustenance. This explains why very few Chinese exiles in North
America have lived in isolation and why most of them have
been city
dwellers. Gregariousness is only a surface characteristic, and deep
down it is
the absence of the religious belief that produces a different outlook
on life.
Sự thực, tôi
luôn thấm thía bởi sự can đảm của Solz, chấp nhận cô đơn như là 1 điều
kiện để
viết của ông. Cả đời tôi, chỉ có 1 điều, viết, làm việc. Theo nhà viết
tiểu sử
của ông, D.M. Thomas, làng Cavendish không có bác sĩ, và vì bị bịnh đau
thần
kinh hông, ông nhà văn già Solz phải đứng để viết.
Điều gì khiến ông kiên
cường
như thế, theo tôi, không chỉ do ông dâng hết mình cho việc viết, mà còn
do niềm
tin Ky Tô, niềm tin này khiến ông tin là có sự tiếp tục, quá cả cuộc
đời này. Niềm
tin vào cõi sau khiến con người sống mà đếch có sợ chết. Trong 1 cuộc
phỏng vấn,
khi được hỏi, có sợ chết không, ông bật cười, tuyệt đối không….
Lần khác, ông
phán, làm người không phải là để hưởng hạnh phúc, mà là tăng trưởng
tinh thần.
Ông làm tôi
nhớ đến Tẫu của tôi. Tẫu đếch tin có đời sau, và sống thì phải có bầy.
(2). Tớ cần có
bạn quí, bạn văn, đang ngồi uống cà phê, bỗng nhớ bạn, đếch có bạn là
đếch sống
được!
(2)
The
writer Lin Yutang (1895-1976) discusses the Chinese ideal of life at
length in
his book My Country and My People (1935).
(14). He points out that to the
Chinese the essence of the ideal life is the enjoyment of this life. In
the absence
of a belief in an afterlife, the Chinese hold dearly on to this life
and try
their hardest to make the best of it. As a result, most Chinese fear
death and
the isolation that leads to loneliness. Their ideal of life, according
to Lin
Yutang, is "brilliantly simple" and is a "concentration on
earthy happpiness."15 Confucius, the man who has influenced Chinese
culture more than anyone else, once replied when asked about death, "I
don't know enough about life, how can I know about death?" It is the
deliberate
focus on this life that makes the Chinese afraid of missing out on the
joy this
life offers and that makes them believe the best death is inferior to
the worst
life-a theme, the novelist Yu Hua dramatized eloquently in his novel To
Live
(1993).
Tay Ha Jin,
chắc là không biết tiếng Tẩy, thành ra có ái ngại cho Solz, sợ ông chết
mất xác
nơi quê người.
Solz bảnh hơn thế nhiều, ông tin là chế độ Liên Xô sẽ sụp đổ, và ông sẽ
trở về, sau đó. Ông phán điều này, khi trả lời 1 tay Tẩy,
trên Đài
Tẩy, nhân đó, còn cho biết Miền Nam xứ Mít sẽ bị Miền Bắc làm thịt.
Nghề Đọc
Bernard
Pivot, em-xi [MC] chương trình văn học D' Apostrophes trên TV Tây,
trong cuốn Métier de Lire, đã
kể lại với nhà báo Pierre Nora, về những cuộc gặp gỡ giới viết
văn thế giới qua chương trình trên.
-
Chương trình nào tới bi giờ vẫn còn gây ấn
tượng ở nơi ông?
Hai tay nhà
văn, đều là Nga cả, một, Nabokov, một Soljenitsyne, là hai độc chiêu
[scoop] đẹp
nhất của tôi. Trước ông khổng lồ, một kẻ sống sót ba trận "đại" hồng
thuỷ của thế kỷ 20: chiến tranh, ung thư và những trại tù cải tạo, tôi
thấy
mình nhỏ bé như một chú lùn. Đây là lần đầu tiên tại Pháp, người ta có
thể tiếp
cận, sờ mó, nhìn, và nghe người chứng tố cáo số một chủ nghĩa cộng sản
Stalin,
chủ nghĩa cộng sản ngắn gọn.
Cuộc gặp gỡ
trên là vào tháng Tư, 1975. Mười lăm năm sau, những người hiện diện
trong
chương trình còn nhớ, Soljenitsyne đã chống lại việc người Mỹ bỏ của
chạy lấy
người tại Việt Nam, và ông đã tiên đoán, miền bắc sẽ "nắm lấy"
[mainmise] miền nam.
Người ta đã
chê trách tôi, là tại sao không mời thêm một tay trí thức cộng sản,
nhưng chẳng
lẽ lại để một con rệp bên cạnh một người khổng lồ, trước ống kính của
Lịch sử?
Thú vị nhất,
theo Pivot, là người khổng lồ Soljenitsyne đã tiên đoán, [trong lần gặp
sau
đó], là ông ta sẽ sống sót, và chứng kiến chế độ cộng sản Liên Xô sụp
đổ, và
ông sẽ trở về quê hương:
Trong thâm
tâm, tôi cảm thấy, tôi tin tưởng, tôi sẽ trở về quê hương, và còn sống
nhăn." [J'ai en moi le sentiment, la conviction, que je reviendrai,
vivant, dans ma patrie".]
Tôi [Pivot]
còn nhớ phản ứng của mình: ngưỡng nể, và không thể nào tin nổi!
(b)
Solzhenitsyn
bị trục xuất khỏi Liên Xô vào năm 1974 và cư ngụ tại Mỹ đến năm 1994.
Năm 1985,
ông nộp đơn xin vào quốc tịch Mỹ nhưng đến ngày tuyên thệ, ông lại đổi
ý.
NHQ
Không phải như vậy. Đây là
do Thầy Kuốc không đọc thủng bài
viết của Ha Jin. Vợ
và con của ông có xin nhập quốc tịch Mỹ. Còn ông, không. Khi Mẽo làm
cái lễ nhỏ
phát thẻ công dân, ông không dự là vậy, và khi ký giả hỏi, vợ nói, ông
không
được khoẻ. Sau đó, bà giải thích:
Years later the mystery
surrounding his non-appearance was
explained by Alya. Throughout the years of exile, her husband "never
wanted to, and did not, become a US citizen, since he could not imagine
himself
to be a citizen of any country except Russia (not the USSR!)." During
the
early eighties, at the height of the Afghan war and at a time of
failing hopes
for short-term change in the USSR, Solzhenitsyn did in fact experience
a moment
of some doubt, but ultimately he decided to "remain stateless-right up
until Russia's liberation from communism, an event for which he had
always
hoped."
GCC đọc cuốn
của Ha Jin cũng lâu rồi. Cái tít của cuốn sách, là đúng cái điều mà tay
thư ký
Nobel chê Mẽo, ở đó làm gì có nhà văn lưu vong, mà chỉ có di dân, thành
ra không
có văn chương!
Bài Thầy Kuốc đọc cũng khá lâu, thấy Thầy viết ẩu, nhưng, Thầy dốt, kệ
cha
Thầy. Lần này, dính tới ông Cù, thành ra nhân tiện khui luôn! NQT
Trong cuốn
The Writer as Migrant (The University of Chicago Press, 2008), Ha Jin,
nhà văn
gốc Hoa viết bằng tiếng Anh tại Mỹ, trích dẫn một quan điểm của Nabokov
mà tôi
rất tâm đắc: Với một nhà văn, quốc tịch chỉ là điều thứ yếu; trong khi
đó chính
nghệ thuật mới là hộ chiếu thực sự của hắn.
Ha Jin dẫn
ra trường hợp của hai nhà văn Aleksandr Solzhenitsyn và Lâm Ngữ Đường
làm ví dụ.
NHQ
Câu phán trứ
danh của Nabokov mà Thầy Kuốc tâm đắc, GCC không kiếm thấy, trong cả
cuốn sách
của Ha Jin. Bài viết của Ha Jin không chỉ về Solz và Lâm Ngữ Đường, mà
còn nhắc
tới hai ông nữa, là Rushdie và Naipaul. Ha Jin nhắc tới Nabokov, khi so
sánh
ông với Conrad, liên quan tới vấn đề ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ ngoại,
cách sử
dụng tiếng Anh của hai người này trong sáng tác. Một bài là về "nhà văn
như là phát ngôn viên của bộ lạc của mình", một, về thành tựu văn học,
khi
đếch viết bằng tiếng mẹ đẻ. Chẳng bài nào mắc mớ đến hộ chiếu nhà văn
cả.
Rushdie mới
là người nhắc đến hộ chiếu, trong bài viết, cuốn sách quí nhất của tôi
là tờ
thông hành [hộ chiếu] mà TV đã từng giới thiệu. Ông coi “quê hương mỗi
người chỉ
có một”, là… kít. Chính trong bài Thầy
Kuốc trích dẫn, Ha Jin có nhắc tới nhân vật kể chuyện trong Shame,
của Rushdie. Anh này “phản biện”
Thầy Kuốc: Chúng ta biết trọng lực, nhưng đếch biết nguồn gốc của nó,
và bèn giải
thích cái sự quê hương chỉ có một, khi coi mình là cây, cần có gốc.
Nhảm. Nhìn
coi có sợi rễ cây nào chui ra khỏi gót giầy của anh không.
"We
know the force of gravity, but not its origins; and to explain why we
become
attached to our birthplaces we pretend that we are trees and speak of
roots. Look
under your feet. You will not find gnarled growths sprouting through
the soles.
Roots, I sometimes think, are a conservative myth, designed to keep us
in
places."
Còn Naipaul, ông trả lời
tờ Paris Review, nếu còn ở
quê hương, Trinidad, thì ông
sẽ tự tử (b)
Ha Jin
Note: Viên Linh viết về Võ
Phiến.
Ra hải ngoại,
một bữa VL được VP gọi điện thoại, thông báo, tôi có đi đường về anh.
VL mừng
quá. chờ hoài, đếch thấy. Quê quá, phôn hỏi, ông Trùm cho biết, tính đi
rồi,
nhưng anh đụng nặng với tụi LV, đăng, không tiện!
Giai thoại này
“đích thân” VL kể GCC nghe, lần ghé thăm anh, lần đầu tiên, ở Quận Cam,
cc 1998. NQT
30.4.2014
Note: Viên Linh viết về Võ
Phiến.
Ra hải ngoại,
một bữa VL được VP gọi điện thoại, thông báo, tôi có đi đường về anh.
VL mừng
quá. chờ hoài, đếch thấy. Quê quá, phôn hỏi, ông Trùm cho biết, tính đi
rồi,
nhưng anh đụng nặng với tụi LV, đăng, không tiện!
Giai thoại này
“đích thân” VL kể GCC nghe, lần ghé thăm anh, lần đầu tiên, ở Quận Cam,
cc 1998. NQT
Bệnh tự hào
dân tộc của người Nga
Tháng 4 13,
2014
Natalja
Kljutcharjova
Phạm Thị
Hoài dịch
Tôi là nhà
văn, và các liên tưởng tôi thường dính líu tới văn học. Sau các sự kiện
ở Krym,
cuối cùng tôi đã hiểu ra rằng dân nước tôi và vị Tổng thống do “toàn
dân” bầu
nên của đất nước này khiến tôi liên tưởng đến ai.
Họ giống các
nhân vật của Dostoevsky, ông gọi họ là “những kẻ ở xó hầm”. Đó là những
con người
sống rất lâu, thường là suốt đời, trong trạng thái bị hạ nhục, khiến
tâm lí họ
hoàn toàn bị méo mó. Cả cuộc đời họ, toàn bộ những ước mơ và nguyện
vọng của họ
chỉ rút gọn vào một mục tiêu: trả thù, rửa nhục. Nỗi khao khát trả thù
bệnh hoạn
ấy phần lớn không nhằm cụ thể vào những kẻ nào đó đã làm nhục họ, mà
chĩa vào
toàn thế giới. Dostoevsky đã miêu tả nhiều giai đoạn phát triển của căn
bệnh mà
giới tâm lí học hiện đại chắc sẽ gọi là một “chấn thương bỏ ngỏ” này.
Nó đặc biệt
ăn sâu ở những người không bao giờ ra khỏi trạng thái bị hạ nhục.
Ở Nga ngày
nay cũng hệt như ở thời Dostoevsky, cả cuộc đời người ta thường là sự
hạ nhục:
từ khi sinh ra trong một bệnh viện bình dân (một chi nhánh thực thụ của
địa ngục)
đến lúc say xỉn ở góc đường mà chết. Những con người sống một cuộc đời
như thế
thường hình thành một lòng tự hào bệnh hoạn. Để phục hồi sự cân bằng
nội tâm vốn
liên tục bị những hoàn cảnh ê chề bên ngoài tàn phá, muốn sống còn thì
họ buộc
phải có một điều gì đó để tự hào.
Cơ sở để tự
hào có thể hoàn toàn ngớ ngẩn và viển vông, nhiều khi đơn giản là bịa
đặt và hầu
như bao giờ cũng phi lí, khiến người có tư duy bình thường, lành mạnh
phải bật
cười hoặc nhún vai cho qua. Nhưng những kẻ bị hạ nhục kinh niên thì bám
chặt lấy
những ảo ảnh ấy, đầy đức tin, cuồng tín, nhiệt thành và trong thâm tâm
càng bất
mãn thì càng hăng say phụng sự chúng.
Từ góc nhìn
này, tôi thấy tất cả những gì đang được bộ máy tuyên truyền ở Nga mệnh
danh là
“làn sóng yêu nước”, “tinh thần yêu nước” v.v. là biểu hiện của một căn
bệnh
tâm hồn trầm trọng mà không ai buồn chạy chữa.
Bao giờ cũng
vậy: hiện thực ngay trước mắt càng tồi tệ, đất nước càng ngập ngụa
những vấn đề
không được giải quyết thì những tiếng “Hura” trong các cuộc biểu tình
càng to,
dân chúng càng cuồng nhiệt hân hoan khi lãnh tụ xuất hiện trên khán đài
trước
Lăng Lenin.
Nếu không được
“xả hơi” đều đặn, một kẻ bị hạ nhục sớm hay muộn sẽ nổ tung, khi đó hắn
sẽ giết
một bà già và làm một cuộc cách mạng, như nhân vật Raskolnikov của
Dostoevsky
trong tiểu thuyết Tội ác và Hình phạt. Chế độ Nga hoàng đã không thèm
đếm xỉa đến
tình cảnh đó và vì thế mà tiêu vong.
Nhà cầm quyền
hiện nay biết chọn một đường lối an toàn để dân chúng quy phục, bằng
cách đều đặn
cấp cho dân chúng những dịp tốt để tự hào và hô “Hura” thật to. Với hệ
thống
truyền hình do nhà nước triệt để định hướng thì việc đó không khó khăn
gì. Điều
này khiến tôi nhớ đến những bệnh viện tâm thần ở Nga, tại đó bệnh nhân
không được
điều trị, mà được bình trị bằng uống thuốc an thần và diệt mọi khả năng
nhận thức.
Tất nhiên
người dân Nga không nên tự hào về bản thân mình như những cá nhân độc
đáo (vì
các cá nhân thì khó chăn dắt hơn một bầy đàn), mà tự hào về mình như
một bộ phận
của cộng đồng, họ thuộc về cộng đồng không nhờ những cống hiến nào đó
mà chỉ nhờ
huyết thống. Lòng “tự hào dân tộc” thật đắc dụng cho việc này.
Nhưng cứ
nghe những tiếng như “lòng yêu nước” và “ý niệm dân tộc” là trong tâm
trí tôi
hiện lên cảnh sau đây: Tôi còn nhớ một người đàn ông đầu cạo trọc, xăm
trổ đầy
mình, bẩn thỉu, tuyệt đối méo mó và bệ rạc, chân vòng kiềng, lảo đảo
giữa một
thành phố tỉnh lẻ buồn thiu. Ông ta mặc một chiếc áo phông mới tinh, có
in dòng
chữ kiêu hãnh: “Tôi là người Nga!”
Người ta tự
hào, chẳng hạn về Thế vận hội Olympic hoành tráng và nhắm mắt trước
thực tế là
cái sự kiện rùm beng đó đã ngốn một khoản khổng lồ trong ngân sách quốc
gia (một
phần lớn vì tệ quan chức ăn cắp của công đã đạt tới những kích thước
cực đại).
Không lâu nữa chúng ta sẽ được ngấm mùi hậu quả của sự phung phí ngân
sách khủng
khiếp này. Nhưng phần lớn người Nga không nhìn ra tương quan giữa những
hình ảnh
rực rỡ từ Sochi và những đợt tăng giá, những khoản nợ công và thâm hụt
ngân
sách sắp tới.
Họ lại ru
mình một lúc lâu trong giấc mơ ngọt ngào đẹp đẽ về một “cường quốc”,
trong đó đời
sống mỗi ngày một “vui tươi và khấm khá”, như Stalin từng nói. Họ quên
mất rằng
cái gọi là cường quốc ấy không có tiền cho những nhu cầu thiết yếu nhất
của người
dân. Rằng trường học thì cũ nát, đổ sập và con cái họ sẽ vùi xác ở đó.
Rằng người
già, cả đời lao động cho nhà nước để rồi phải đi ăn xin vì lương hưu
không trả
nổi tiền nhà. Có thể kể vô tận những ví dụ như vậy.
Hoặc họ tự
hào về một điều mà lẽ ra người ta nên hoảng sợ, chẳng hạn về vụ sáp
nhập Krym,
khiến nước Nga rơi vào vị trí không mấy hay ho là bị cô lập trên trường
quốc tế
và dấn sâu vào một cuộc chiến với lân bang… Một chân dung thế lực thù
địch, thật
dễ dàng và tiện lợi để trút mọi cảm xúc của một dân tộc bị hạ nhục vào
đó, như
trút xuống cống nước thải.
Hình ảnh đại
diện cho thế lực thù địch Chechnya, một kẻ khủng bố đeo bom tự sát, đã
quá nhàm
chán, cả những người mà truyền hình nói gì đều tin hết cũng không còn
tin vào
đó nữa. Sau những vụ khủng bố mới đây trong ga tàu điện ngầm ở Moskva,
thậm chí
cả những người về hưu và các bà nội trợ cũng bảo nhau rằng Chechnya
chẳng liên
quan gì hết, đó chỉ là trò mở màn cho chiến dịch tranh cử mà thôi.
Một hình ảnh
khác của thế lực thù địch, kẻ tranh đấu cho tự do, tham gia các cuộc
tuần hành
của những phần tử phẫn nộ và mang cách mạng ra đe đất nước, cũng đã hết
thời:
người ta lấy đó làm ngáo ộp để dọa dân chúng và nhân tiện đả thông
luôn, rằng
chỉ có Putin mới cứu nổi đất nước này khỏi nguy cơ hỗn loạn. Và vị “cứu
tinh”
duy nhất ấy lại được nhất trí bầu thêm một nhiệm kì phi pháp nữa, nhiệm
kì thứ
ba. Bầu xong thì những phần tử phẫn nộ bị vứt luôn, như vứt những quân
bài đã hạ,
biểu tình bị dẹp, người biểu tình bị tống vào nhà tù, những cơ quan
truyền
thông độc lập cuối cùng còn sót lại bị đóng cửa.
Bây giờ
chúng ta có một chân dung thế lực thù địch mới: những người anh em
Ukraine và
“bọn Mỹ xấu xa”, khui ra thật nhanh từ kho đạn dược của bộ máy tuyên
truyền
Xô-viết.
Vậy là những
kẻ bị hạ nhục có việc để bận tâm: họ tự hào về đất nước (vì cuối cùng
thì “sự
công bằng của lịch sử đã được khôi phục”!) và giơ nắm đấm lên dọa thế
lực thù địch
nóng hổi vừa ra lò. Vậy là họ, những kẻ bị hạ nhục, không nguy hiểm.
Trong một
thời gian nhất định. Sau đó người ta sẽ dành cho họ một chân dung thế
lực thù địch
mới. Tất nhiên người ta sẽ lo sao để chiến tranh thực sự không xảy ra
(nếu tình
hình không đến nỗi mất kiểm soát). Vì chiến tranh, với hậu quả của nó
là chết
chóc và đau thương, tất yếu khiến dân chúng tỉnh ra và trở về với hiện
thực.
Nhưng chính quyền cần những cái đầu mụ mị, dễ lái về hướng cần lái hơn.
“Tự hào dân
tộc” thật là tiện. Nó chỉ bất tiện ở một điểm: phải liên tục tăng liều
lượng, nếu
không thì nó hết tác dụng. Hiện tại, chính quyền Nga đã phải dùng đến
những chất
rất dễ tuột khỏi tầm kiểm soát. Như một kẻ nấu rượu đang tâm dụ cho dân
uống, để
rồi chính mình rơi dần vào vòng ma men và đánh mất khả năng tỉnh táo
trước hiện
thực.
Bất kì ai biết
tư duy lành mạnh đều thấy không thể cứ như vậy mãi được. Nhưng ở Nga,
những người
còn có khả năng đánh giá đúng tình hình thật ít ỏi. Phải thắp đuốc lên
đi tìm họ.
Người thì đã bỏ nước mà đi, trước khi quá muộn. Người thì ngồi trong
tù. Người
thì đã khiếp nhược, rút về an phận nhà cửa ruộng vườn.
Cả trong
hàng ngũ chính quyền lẫn trong dân chúng đều không có những người biết
tư duy
lành mạnh như vậy. Ở Nga, những nhân vật nêu trên của Dostoevsky cũng
có mặt
trong chính quyền, những kẻ bị đè nén và vì thế mà méo mó đến vô vọng
do mặc cảm.
Và khi một kẻ bị đè nén leo được lên đến đỉnh quyền lực thì điều gì sẽ
xảy ra?
Dostoevsky cũng đã viết rất nhiều về chuyện đó, chẳng hạn trong tiểu
thuyết
Làng và dân Stepanchikovo. Điều gì sẽ xảy ra? Không có gì là tốt đẹp.
Kết quả
là một bạo chúa cỡ nhỏ và một nhà độc tài hèn nhát.
________
Natalja
Kljutcharjova (1981) sống ở ngoại ô Moskva, là tác giả của hai cuốn
tiểu thuyết
Nước Nga – Ga cuối và Làng dân ngu.
Nguồn: Welt,
09-4-2014
Bản tiếng Việt
© 2014 pro&contra
Note: Những
nhận xét về 1 nước Nga, dân Nga, như trên, thực ra, nhiều người nhận ra
rồi,
nhưng với
những tên Bắc Kít, thì lại thấy thêm một điều, sao quá giống Bắc Kít!
Tuy nhiên
Nga còn 1 điều gì hơn thế rất nhiều.
Gấu nhớ là, đã từng đọc ở đâu
đó, 1 tay nào đó, phán, giả như Chúa [lại] nhập thế, thì không thể đâu
khác, mà
phải là ở nước Nga.
Đúng như thế. (1)
Có lẽ bạn phải
đọc thêm 1 số bài viết, trên…. Tin Văn, thì mới thấm câu phán của Gấu!
Hà, hà!
(1)
Lịch sử Nga
là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được,
hay, chấp
nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ -
nuôi dưỡng
những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất
vô nhị,
hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một
thành
ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ
sở thiêng
liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào
khác, sẽ
nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại
với trần
gian.
Steiner
Russia The Wild East
Một xứ sở rộng
lớn nhất: một phần sáu đất đai địa cầu. Nơi máu đổ nhiều nhất: Trước
tiên, là
cách mạng 1905, bị đè bẹp bằng máu. Tới cách mạng 1917, thành công,
cũng bằng
máu. Rồi thời đại Stalinism, với hàng triệu mạng người bị giết, bằng
tống xuất,
diệt chủng, trại tù; địch thủ của nó: cuộc xâm lăng của Nazi, đã lấy đi
chừng
20 triệu công dân Xô-viết. Như Anatol Lieven, tác giả cuốn sách vừa
xuất bản,
viết về cuộc chiến Chechnya: Bia mộ của Quyền lực Nga: Đối với hầu hết
cư dân của
nó, Liên-bang Xô-viết (là một điều gì) còn hơn cả một nền văn minh. Còn
hơn cả
một ấn bản méo mó, hư ruỗng của điều gọi là hiện đại tính. Đây thực sự
là một
thế giới. Thế giới độc nhất mà cư dân của nó hiểu, và có được. Và theo
như tiền
nhân của họ: Đây là đỉnh cao lịch sử, sự hiểu biết, và thành tựu của
nhân loại.
Steiner có hai bài viết trên tờ
The New Yorker,
[sau in lại trong
Steiner @ The New Yorker] về văn học Nga, thật tuyệt. Một, “De
Profundis”, về Gulag, và một về Solz và những nhà văn Nga khác: Dưới
cái
nhìn Ðông phương, Under Eastern Eyes.
Steiner viết, những đòi hỏi của
Solz, ở những người Nga đọc lén
lút ông [bao nhiêu độc giả?], và khối độc giả bao la ở Tây Phương, thì
thật là
dữ dằn, nghiệt ngã. Ông biết, và coi khinh sự đáp ứng dễ dãi của người
đọc Tây
Phương, và cái khiếu thưởng ngoạn về sự khổ đau ở xa, distant
suffering, của
họ. Ông rành chúng ta, hơn là chúng ta rành ông. Và như thế, ông là một
tác giả
hướng ngoại, a searcher-out, một thứ chó săn ăn tìm sự yếu ớt về thể
xác của
con người. Và, vẫn như thế, ông là 1 tác giả gây bực.
Every time a
human being is flogged, starved, deprived of self-respect, a specific
black
hole opens in the fabric of life. It is an additional obscenity to
depersonalize
inhumanness, to blanket the irreparable fact of individual agony with
anonymous
categories of statistical analysis, historical theory, or sociological
model-building. Consciously or not, anyone who offers a diagnostic
explanation,
however pious, or even condemnatory, erodes, smoothes toward oblivion,
the
irremediable concreteness of the death by torture of this man or that
woman, of
the death by hunger of this child. Solzhenitsyn is obsessed by the
holiness of
the minute particular. As happens with Dante and Tolstoy, proper names
cascade
from his pen. He knows that if we are to pray for the tortured dead, we
must
commit to memory and utter their names, by the million, in an incessant
requiem
of nomination.
Mỗi một
sự sỉ
nhục, mỗi một sự tra tấn giáng lên một con người là một trường hợp
riêng lẻ
không thể giản đơn và không thể đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh
đập, bị
bỏ đói, bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm lại mở toạc ra
trên tấm
dệt đời. Đây là một sự bẩn thỉu bồi thêm, làm cho sự phi nhân không còn
có tính
cá biệt, và phủ lên sự vô phương sửa chữa, về cơn hấp hối của từng cá
nhân, bằng
đủ thứ phạm trù vô danh về nghiên cứu thống kê, về lý thuyết lịch sử,
hay xây dựng
mẫu mã xã hội. Cố ý hay không, bất cứ người nào tìm cách đưa ra một lời
giải
thích chẩn đoán, dù có đầy thiện ý cách nào, hoặc ngay cả chỉ trích đi
nữa,
cũng làm tiêu hao, bào nhẵn đến gần như quên béng đi tính cách cụ thể
không
thay đổi được về cái chết do sự tra tấn của ông này, bà kia, hoặc cái
chết vì
đói khát của em bé nọ. Solz. bị ám ảnh
bởi sự linh thiêng của khoảnh khắc đặc biệt, dị thường. Như đã từng xẩy
ra với
Dante, và Tolstoy, tên riêng của con người trào ra như thác dưới ngòi
viết của ông.
Ông biết, nếu chúng ta cầu nguyện cho những người chết vì tra tấn,
chúng ta phải
nhập tâm và thốt lên tên của họ, trong dòng kinh cầu hồn không ngừng,
từng tên
một, hàng triệu tên.
UNDER EASTERN EYES
Dưới con mắt Đông phương
Có một nghịch
lý về thiên tài văn chương Nga. Từ Pushkin đến Pasternak, những sư phụ
của thơ
ca và giả tưởng Nga thuộc về thế giới, trọn một gói. Ngay cả ở trong
những bản
dịch què quặt của những vần thơ trữ tình, những cuốn tiểu thuyết và
những truyện
ngắn, chúng vẫn cho thấy một điều, không có chúng là không xong. Chúng
ta không
thể sẵn sàng bầy ra cái bảng mục lục những cảm nghĩ của chúng ta và của
nhân loại
nói chung, nếu không có chúng ở trong đó. Ngắn gọn, khiên cưỡng, theo
dòng lịch
sử, chỉ có văn học cổ Hy Lạp là có thể so đo kèn cựa được với văn học
Nga, nếu
nói về tính phổ quát. Tuy nhiên, với một độc giả không phải là người
Nga, khi đọc
Pushkin, Gogol, Dostoevsky, Mandelstam, họ vẫn luôn luôn là một kẻ đứng
bên lề,
một tên ngoại đạo. Họ có cảm giác mình đang nghe trộm, đọc lén một bản
văn, một
cuộc nói chuyện nội tại, rõ ràng thật dễ hiểu, sức truyền đạt cao, sự
thích hợp
phổ thông, vậy mà giới học giả, phê bình Tây phương, cho dù ở những tay
sắc sảo
nhất, vẫn không tin rằng họ hiểu đúng vấn đề. Có một cái gì đó mang
tính quốc hồn
quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước ra đi.
Tất
nhiên, đây là một vấn đề liên quan tới ngôn ngữ, hay chính xác hơn, đến
những
gam, những mảng quai quái, hoang dại của ngôn ngữ, từ tiếng địa phương,
của giới
quê mùa, cho tới thứ tiếng nói của giới văn học cao và Âu Châu hóa được
những
nhà văn Nga thi thố. Những trở ngại mà một Pushkin, một Gogol, một Anna
Akhmatova bầy ra, nhằm ngăn chặn một bản dịch tròn trịa, giống như một
con nhím
xù lông ra khi bị đe dọa. Nhưng điều này có thể xẩy ra đối với những
tác phẩm cổ
điển của rất nhiều ngôn ngữ, và, nói cho cùng, có một mức độ, tới đó,
những bản
văn lớn lao viết bằng tiếng Nga vượt qua (Hãy tưởng tượng "quang cảnh
quê
ta" sẽ ra sao nếu thiếu Cha và Con,
hay Chiến tranh và Hòa bình, hay Anh em
nhà Karamazov, hay Ba chị em). Và nếu có người vẫn
nghĩ rằng,
không đúng như vậy, rằng Tây phương, khi quá chú tâm vào một bản văn
thì đã làm
méo mó, sai lạc điều mà một nhà văn Nga tính nói, thì không thể chỉ là
do khoảng
cách về ngôn ngữ.
Văn học Nga
được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt. Người Nga cũng là giống
dân đầu
tiên đưa ra nhận xét có tính “chuyện thường ngày ở huyện” này. Lấy đơn
vị là một
năm, thì, chỉ chừng một năm thôi [“là phai rồi thương nhớ”], mọi thứ
“sĩ” của
Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy, viết,
với con
mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tác của
Nga hiện
hữu “mặc dù” chế độ. Nói rõ hơn, dưới chế độ độc tài kiểm duyệt, nhìn
chỗ nào
cũng thấy có cặp mắt của…cớm, vậy mà Nga vưỡn có tuyệt phẩm!
Một tuyệt phẩm
như thế, nó chửi bố chế độ, nó mời gọi lật đổ, nó thách đố, hoặc trực
tiếp, hoặc
với một sự mặc cả hàm hồ nào đó, với chính quyền, hoặc Chuyên Chính Nhà
Thờ, hoặc
Mác Xít Lê Nin Nít, Xì Ta Lít.
Bởi vậy mà
Nga có 1 thật câu thật hách [thật oách, cho đúng tiếng Bắc Kít], nhà
văn nhớn
là một “nhà nước thay đổi, xen kẽ, đổi chiều”, “the alternative state”.
Những
cuốn sách của người đó, là một hành động chủ yếu - ở nhiều điểm, độc
nhất - của
sự chống đối chính trị.
Trong trò
chơi mèo chuột khó hiểu như thế đó, và nó gần như không thay đổi, kể từ
thế kỷ
18, Viện Cẩm Linh cho phép sáng tạo, và có khi còn cho phát hành, quảng
bá những
tác phẩm nghệ thuật hiển nhiên mang tính nổi loạn, phản động.
Với dòng đời
trôi qua, thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, những tác phẩm như thế đó -
của
Pushkin, Turgenev, Chekhov - trở thành cổ điển, chúng là những cái van
an toàn
chuyển vào miền tưởng tượng một số những đòi hỏi thay đổi, đổi mới
chính trị,
mà thực tại không cho phép. Cuộc truy lùng, săn đuổi những nhà văn-từng
người,
tống vào tù, cấm đoán sách của họ, là 1 phần của sự mà cả giữa đôi bên.
Một kẻ ở bên
ngoài, không phải Nga, chỉ có thể biết đến cỡ đó. Anh ta nhìn vào nỗi
đau khổ của
Pushkin, sự chán chường của Gogol, hạn tù của Dostoevsky ở Siberia,
cuộc chiến
đấu thống khổ chống lại kiểm duyệt của Tolstoi, hay nhìn vào bảng mục
lục dài
những kẻ bị sát hại, mất tích, nó là cái biên nhận về sự thành tựu văn
học Nga
thế kỷ 20, và anh ta sẽ nắm bắt được “cơ chế”: Nhà văn Nga xục xạo,
dính líu
vào đủ thứ chuyện. Chỗ nào nhân dân Nga cần, là có nhà văn Nga. Anh ta
dí mũi vào
đủ thứ, khác hẳn thái độ buồn chán, và dễ dãi của đồng nghiệp Tây
phương. Thường
xuyên, trọn ý thức Nga được truyền vào ngòi viết của anh ta. Và để đổi
lại, là
mạng sống của anh ta, nói cách khác, anh ta trải đời mình, len lỏi đời
mình, suốt
địa ngục. Nhưng cái biện chứng tàn nhẫn này thực sự cũng không nói trọn
sự thực,
nó vẫn giấu đi ở trong chính nó, một sự thực khác, mà bằng trực giác,
nó thì thật
là hiển nhiên giữa những đấng nghệ sĩ Nga, nhưng kẻ bên ngoài đừng hòng
nắm bắt
được.
Lịch sử Nga
là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được,
hay, chấp
nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ -
nuôi dưỡng
những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất
vô nhị,
hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một
thành
ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ
sở thiêng
liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào
khác, sẽ
nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại
với trần
gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa thế tục
thiên sứ
[chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần Bạch
Ðằng đã
từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của CS
về một xã
hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý tuyệt đối
cho con
người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm
quan chọn
lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính Nga, với
thiên
hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một liên
hệ tam
giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu
cũng có của
nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định. Lần
đầu tiên
tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu
đó sau
khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói về cái sự
sống sót
của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan nào
thực sự
có thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng câm
nín đó,
lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế vi.
Dùng cái từ
“hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế!
Họ không
quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại xuýt xoa,
ui chao,
may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban cho,
được một
Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết! Và họ gợi ý rằng,
chỉ cái
sự kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan Bạo
Chúa là một
bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận thế hay về lạ kỳ sáng tạo của số
mệnh, Cuộc
bàn luận giữa chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại, riêng tư,
cá nhân.
Người ngoài, nghe lén được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp ứng bằng
1 thái độ
sẵn sàng, dễ dãi.
Những
đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu gào
tự do của họ, sự rất ư bực mình của họ trước cái lương tâm ù lì của Tây
Phương,
thì rất ư là rền rĩ và rất ư là chân thực. Nhưng họ không chờ đợi được
lắng
nghe hay được đáp ứng bằng một thái độ thẳng thừng, ngay bong. Những
giải pháp thì
chỉ có thể có được, từ phía bên trong, theo kiểu nội ứng với những
chiều hướng
thuần sắc tộc và tiên tri. Nhà thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt,
khinh miệt lũ
chó săn, đám côn đồ cảnh sát truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế
đứng với
chúng, trong 1 liên hệ có tính cần thiết nhức nhối, cho dù đó là do
giận dữ,
hay là do thông cảm. Cái sự kiêu ngạo nguy hiểm, rằng có một mối giao
hảo theo
kiểu nam châm hút lẫn nhau giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan niệm
như thế
thì quá tổng quát, để mà xác định tính chất của bàu khí linh văn Nga.
Nhưng nó gần gụi hơn, so với sự ngây thơ
tự do. Và nó
giúp chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại nhất giáng xuống
đầu một
nhà văn Nga, thì không phải là cầm tù, hay, ngay cả cái chết, nhưng mà
là lưu
vong qua Tây Phương, một chốn u u minh minh rất dễ tiêu trầm, may lắm
thì mới có
được sự sống sót.
Và
cuộc
lưu vong, phát vãng
xứ người, ra khỏi khối u, hộp đau, cục uất đó, bây giờ ám ảnh
Solzhnitsyn. Với
con người mãnh liệt bị ám ảnh này, có một cảm quan thực, qua đó, sự
nhập thân nơi
Gulag đem đến vinh quang và sự miễn nhiễm ở Tây Phương. Solz ghét Tây
Phương, và
cái sự la làng lên của ông về điều này thì chỉ khiến người ta dửng dưng
và… vô
tri. Cách đọc lịch sử của ông theo lý thuyết thần học Slavophile thì
cực rõ. Cuộc
cách mạng Pháp 1789 thăng hoa những ảo tưởng thế tục của con người,
cuộc nổi loạn
hời hợt của nó chống lại Chúa Ky Tô, và mạt thế luận. Chủ nghĩa Mác là
hậu quả
tất nhiên không thể nào tránh được, của cái thứ tự do bất khả tri này.
Và chính
con vai rớt, khuẩn trí thức, “đặc mũi lõ” đó, được đám trí thức mất
gốc, phần lớn
là Do Thái, cấy vô máu Gấu Mẹ vĩ đại, là nước Nga Thiêng, the Holy
Russia.
Gấu Mẹ vĩ đại sở dĩ nhiễm độc là do những rất dễ bị tổn
thương, và hỗn loạn của hoàn cảnh, điều kiện một nước Nga sau những
khủng
hoảng quân sự lớn
1914. Chủ nghĩa CS là một nhạo nhại của những lý tưởng thực sự về đau
khổ, tình
anh em đã làm cho nước Nga được Chúa chọn.
Nhưng 1914 chứng
kiến một nước Nga nhếch nhác,
thảm
hại tàn
khốc, và vô phương chống lại cơn dịch của chủ nghĩa
duy lý vô
thần.
Từ
đó, chúng ta nhận ra tầm quan trọng khủng mà Solz đánh vào năm đầu của
cuộc Thế
Chiến, và sự giải quyết của ông, để làm bùng nổ ra mọi khía cạnh vật
chất và
tinh thần của 1914 [một mùa Thu năm qua cách mạng tiến ra], và của
những sự kiện
đưa tới [Tôi nói đồng bào nghe rõ không] Tháng Ba, 1917, trong một dẫy
những “sự
kiện- giả tưởng” khổng lồ.
Nhưng
trong cái khoa nghiên cứu quỉ ma này, Lenin đặt ra 1 vấn đề mà Solz
cũng đã từ
lâu quan tâm tới. Chủ nghĩa Mác có thể là thứ bịnh [quỉ] của Tây Phương
và Hê-brơ
[Do Thái], nhưng Lenin là một Trùm Nga, và chiến thắng Bôn sê vích chủ
yếu là của
ông ta. Rõ ràng, trong những bản viết đầu tay của Solz đã có những dấu
vết chứng
tỏ, một cá nhân con người, như là tác giả những bài viết, chống lại 1
hình tượng
như là Lenin.
Trong
một nghĩa chỉ có tí phần có tính ám dụ, Solz hình như cảm ra được rằng,
ý chí, ước
muốn kỳ quặc
và viễn ảnh của riêng ông có gì xêm xêm của Lenin, và, cuộc chiến
đấu cho linh
hồn và tương lai của nước Nga, sẽ là cuộc tử đấu giữa ông và người tạo
ra hệ thống
Xô Viết: Trời cho mi ra đời là để dựng nên Xô Viết, còn ta, để huỷ diệt
nó. Và
tiếu lâm thay, đúng như 1 cú của định mệnh, thiên đường không đi, mà cả
hai cùng
hẹn nhau, không cùng lúc mà là trước sau, lần lượt: Solz thấy mình ở
Zurich, cũng
trong tình trạng lưu vong, với Lenin, là trước cú tận thế
1914. Solz
đã
đi 1 chương về Lenin trong “Tháng Tám 1914”, và còn dư chất
liệu cho những tập kế tiếp mà ông đặt tên
là “Knots". Nhưng cú tính cờ Zurich thì quá giầu có để mà bỏ đi. Từ đó,
xuất
hiện Lenin ở Zurich (nhà xb Farrar,
Strauss & Giroux).
Kết quả
thì
không tiểu thuyết mà cũng chẳng luận văn chính trị, mà chỉ là một bộ,
set, những
điểm xuyết nặng ký, in depth. Solz nhắm “lên sơ đồ, hoạch định, tìm ra”
những sở
đoản, điểm bại, tử huyệt của Lenin. Tin tức về Cách Mạng Nga đến với
Lenin
trong kinh hoàng, theo nghĩa, ông hoàn toàn ngạc nhiên đến sững sờ. Ðầu
óc thiên
tài quỉ quyệt với những âm mưu gây loạn của Lenin khi đó chỉ nhắm tạo
bất ổn ở
Thuỵ Sĩ và đẩy đất nước này vào 1 cuộc chiến.
Ngồi ăn sáng mà Lenin buỗn
nẫu ruột. Người
quậy tứ lung tung cố moi ra tiền vỗ lớn cái bào thai cách mạng. Người
nhức đầu
vì một người đàn bà khác trong cuộc đời khổ hạnh của Người, nàng Inessa Armand cực phấn kích, làm rùng mình, và
chấp nhận “lệch
pha ý hệ” ra khỏi nàng, và điều này có nghĩa là một đệ tử của
Thầy bị ăn
đòn!
Trên hết, như Solz, đích thị xừ luỷ,
Người nhận
thấy cái sự khoan thứ, rộng luợng đã được khử trùng và trở thành
trong
suốt của chủ nhà Thụy Sĩ khiến Người trở
nên khùng:
Cả Zurich,
chừng ¼ triệu
con người, dân địa phương , hay từ các phần khác của Âu Châu, xúm xít ở
dưới đó,
làm việc, trao đổi công chuyện, đổi tiền, bán, mua, ăn nhà hàng, hội
họp, đi bộ,
lái xe lòng vòng, mỗi người mỗi ngả, mỗi cái đầu thì đầy những ý nghĩ, tư tưởng chẳng
có trật tự, chẳng hướng về đâu. Trong khi đó, đứng trên đỉnh núi, Người
biết
cách hướng dẫn họ, và thống nhất thành một mối ước muốn của họ.
Ngoại trừ
điều này: Người đếch có tí quyền lực cần
thiết. Người có
thể đứng trên đỉnh Zurich, hay nằm trong mồ, nhưng không thể thay đổi
Zurich. Người
đã sống hơn một năm ở đó, mà mọi cố gắng của Người đều vô ích, chẳng có
gì thay
đổi.
Và, kìa,
chúng lại sắp hội
hè nữa kìa!
Lenin trở về
Nga, trong
cái “xe đóng khằn” trứ danh, với sự đồng lõa của nhà cầm quyền hoàng gia Ðức,
và bộ tướng lãnh (họ mong làm sao chiến tranh đừng xẩy ra tại Nga).
Nhưng Lenin
chẳng hề có tham vọng này. Nó là từ cái đầu của Parvus, alias Dr.
Helphand, alias Alexander Israel Lazarevich. Mặc dù cả một
cuốn tiểu sử hoành tráng của Z.A. Zeman và W.E. Scharlau, “Tên mại bản
cách
mạng”, "The Merchant of Revolution", chúng ta chẳng biết chi nhiều,
và rõ ràng, về ông này. Một nhà cách mạng a ma tưa, nhưng tầm nhìn đôi
khi vượt
cả của Lenin. Một tay gây vốn thiên tài cho Bolsheviks, nhưng còn là
gián điệp
nhị trùng, tam thùng, đi đi lại lại giữa các phần tử, đảng phái Thổ Nhĩ
Kỳ, Ðức,
và Nga. Ăn diện bảnh bao, dandy, người của muôn phương, cosmopolite,
chàng bèn
liền lập tức bị mất hồn và sướng điên lên vì chủ nghĩa khổ hạnh đến cuồng tín của
những đường hướng của Lenin. Tòa villa sang trọng, giầu sang mà Parvus xây
cho chính ông ta ở Berlin, và vào năm 1942, chết ở đó, sau
này được Himmler sử dụng để đi một đường “giải pháp chót” [nhổ sạch cỏ]
cho giống
dân Do Thái.
*
Văn
học Nga được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt. Người Nga cũng là
giống
dân đầu tiên đưa ra nhận xét có tính “chuyện thường ngày ở huyện” này.
Lấy đơn
vị là một năm, thì, chỉ chừng một năm thôi [“là phai rồi thương nhớ”],
mọi thứ “sĩ”
của Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy,
viết, với
con mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tá
Kỷ Vật Cho Em
Kỷ Vật Cho Em Youtube
Linh Phương FB
Người ở lại
Charlie: Đại Tá Nguyễn Đình Bảo
Toumorong,
Dakto, Krek, Snoul
Ôi Dambe, Đức Cơ, Krek, Snoul
Trưa Khe Sanh gió mùa, đêm Hạ Lào thức sâu
Anh! Cũng anh vừa ở lại một mình,
vừa ở lại một mình
Charlie, tên vẫn chưa quen người dân thị thành.
|