Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Thăm
Cha Brisson 10.8.2010

Thằng Bàu,
cháu ngoại, đứng thứ tư.
Thơ Mỗi Ngày
Two Dogs
by Charles
Simic
for Charles
and Holly
An old dog
afraid of his own shadow
In some
Southern town.
The story
told me by a woman going blind,
One fine
summer evening
As shadows
were creeping
Out of the
New Hampshire woods,
A long
street with just a worried dog
And a couple
of dusty chickens,
And all that
sun beating down
In that
nameless Southern town.
It made me
remember the Germans marching
Past our
house in 1944.
The way
everybody stood on the sidewalk
Watching
them out of the corner of the eye,
The earth
trembling, death going by . . .
A little
white dog ran into the street
And got
entangled with the soldier’s feet.
A kick made
him fly as if he had wings.
That’s what
I keep seeing!
Night coming
down. A dog with wings.
Hai Con Chó
Một con chó
già sợ cái bóng của chính nó (1)
Trong 1 thành
phố Nam Kít nào đó
Chuyện này tôi
nghe qua một bà sắp mù
Vào một buổi
chiều tuyệt vời mùa hạ
Khi bóng tối
từ những cánh
rừng Sát
Bò ra
Con phố dài
Hồng Thập Tự
Với chú chó
già rầu rĩ
Và cặp gà bụi bặm
Và cả mặt trời đổ xuống
Một thành phố
mất tên Nam Kít
Nó làm tôi
nhớ buổi 30 Tháng Tư 1975
Ðám VC Bắc Kít
diễu hành qua căn nhà của tôi
Người dân đứng
bên lề nhìn chúng bằng một góc con mắt
Mặt đất rung
chuyển, và cái chết thì lờ vờ quanh đó..
Một con chó
trắng nhỏ chạy ra đường
Làm quẩn chân
đám nón cối
Và 1 cú đá làm
con chó bay lên trời
Như thể nó có
cánh
Ðó là điều mà
tôi đã nhìn thấy, và vẫn còn nhìn thấy!
Ðêm xuống thành
phố không tên
Một con chó
có cánh.
(1)
Sau cùng phải
cảm ơn cô bạn đã cho có đủ thời giờ kể hết mối tình. Con chó dại trong
một phút
cô đơn, tỉnh táo không còn sợ hãi cái bóng của chính nó. Những lần từ
biệt cô
trên đường trở về, thành phố những đêm run rẩy chờ đợi những đợt pháo
kích bất
thần giáng xuống. Những ngã tư đường chằng chịt những vòng kẽm gai. Có
những
khoảng đường phải xuống xe dẫn bộ. Đôi khi đi lầm vào một quãng đường
cấm phải
đi ngược trở lại. Trong bóng đêm nhợt nhạt của những ngọn đèn đường,
nhìn thấy
những mũi súng đen sâu thăm thẳm chứa đầy ngờ vực đe dọa. Nhìn thấy hết
mọi nỗi
bi thương, nếu chẳng may sinh ra mà không được gặp cô bạn, nếu chẳng
may bị cô
hất hủi, nói không, nói không thể yêu, không thể hiểu được tình yêu là
gì. Nhiều
lần tới nhà khi đã quá khuya, trong nhà đèn đã tắt, tất cả chắc đã yên
ngủ từ
lâu: Hoặc hết sức muốn gặp. Muốn nhìn thấy bóng dáng. Nghe tiếng chân
di động.
Tiếng lách cách mở cửa. Rồi tiếng nói, tiếng nói... Muốn liều lĩnh đập
cửa ầm ầm.
Bắt buộc cô hốt hoảng trở dậy, vội vã bật đèn, vội vã mở cửa. Bắt buộc
cô phải
nghe, phải nói, phải gật đầu ưng thuận, trong khi không có thì giờ để
phân vân,
cân nhắc...
Cõi Khác
Ngoài hai cái
nhớ, một, nhớ câu thơ thần sầu, “đứng trước gió/lúc lắc cho thằng nhỏ
thức giấc”,
và, nhớ bản nhạc thần sầu, “người đi qua đời tôi, không nhớ gì sao
người”, Gấu
còn tới hai kỷ niệm cũng thần sầu với nhà thơ Nobel Diệm ban, TDT.
Kỷ niệm thứ
nhất, là vào cái lần thứ nhất ông bạn quí HPA từ Ðà Lạt về Sài Gòn sau
những
ngày học sư phạm, và có bài đầu tiên đăng trên Văn.
Như còn nhớ thì chưa 1 lần Gấu được nhìn thấy Ông Số 2 ghé Quán Chùa.
Nhưng bạn
ông, là nhà thơ Nobel Diệm ban, TDT, thì có đôi lần, vào những ngày
Diệm mới ngỏm
ít lâu, tờ Nghệ Thuật thì cũng mới ngỏm, cả đám quay qua viết cho tờ
Văn, và tờ
này bèn ra 1 ấn bản mới đặc biệt về phê bình văn học, và Gấu là người
giới thiệu
ông bạn quí với NDT, và qua NDT, ông viết cho Văn, một bài biên khảo,
hay tiểu
luận.
Và cái lần ở Quán Chùa đó, có NDT & HPA & GNV, và sau, TDT xà
vô bàn.
Câu đầu tiên, ông phán, là, cái thằng chó chết nào viết cái bài…., tao
đếch hiểu
nó viết cái gì cả!
[Ðây là ngôn
ngữ của Gấu. Ông nói lịch sự hơn, tất nhiên, nhưng thực chất thì cũng
rứa, thì
vẫn cái giọng “lúc lắc” trên!]
Khỏi cần nói
thì bạn đọc cũng biết, cả ba đứa, ông bạn quí HPA, NDT người giới thiệu
con gà
nòi mới xuất hiện, và Gấu Cà Chớn, cả ba mặt mày sượng trân:
Biết nói gì đây!
Có thể, nhìn ba bộ mặt ngẩn tò te, ông nhà thơ lúc lắc chắc hiểu, và
sau vài
câu xã giao, chuồn qua bàn khác.
Kỷ niệm thứ nhì, có nhà văn nhớn Mai Thảo ngồi cùng bàn, và cùng chia
sẻ.
Tham dự, đúng hơn.

Ký sự về một trận đói đã được báo trước
Chronicle
of
a famine foretold
Did
the world react
too late to signs of famine in Somalia?
có hẹn với
ti vi
Nguyễn Ngọc
Tư
Cái quán đá
đậu đó chừng mười năm rồi mình không ghé. Một bữa tạt qua với bạn học
hồi cấp
ba, bật cười nhận ra những cái ghế gỗ xưa hai đứa học trò có thể ngồi
chung giờ
quá nhỏ nhắn so với những cái mông đàn bà đã chảy nhão, sồ sề. Bạn với
mình đã
con cái đùm đề. Quán vẫn nằm chỗ cũ, vẫn cách bài trí cũ, bàn cũ, ghế
cũ, hương
vị cũ... Chỉ những người cũ ngồi đây chiều nay là bị thời gian thể
nghiệm sự
nghiệt ngã, ráo riết của nó. Tóc hai chị em bà chủ quán đã trắng xóa.
Hồi mình còn
học thì hai mái đầu kia chỉ bạc lai rai, đôi lần thấy họ nhuộm. Khi
chị, khi
em. Những khi tóc một trong hai người đàn bà lỡ thời bỗng trở lại xanh
mịt
mùng, luôn xuất hiện một ông ăn mặc chải chuốt bắc ghế ngồi gần quầy
nước, cười
nói rù rì. Mấy đứa học trò tinh quái ó ré lên, kêu
“Tụi bây ơi, Năm sắp lên xe bông kìa”. Và
theo sau đó là tiếng nạt nộ sượng trân của người đàn bà đã qua xuân
sắc, “đồ
con nít quỷ”.
Nhưng hai chị
em mãi chưa kiếm được tấm chồng. Cũng đẹp, hiền hậu, giỏi giắn, chỉ chữ
duyên
là hẹn nay hẹn mai, rồi biệt mù. “Mấy thằng cha đó hả, toàn hứa rồi
xách đít đi
mất”, bà Hai cười, trả lời câu hỏi của khách cũ rằng mấy ông hồi xưa
chàng ràng
ở đây, giờ đâu? Miệng bà móm vì mấy cái răng sâu bị rụng một cách mất
trật tự,
như hậu quả một cuộc cướp bóc thô bạo. Như không phải tự dưng mà chúng
rụng. Một
lời hứa lấy đi vài ba năm tuổi, ít nhiều hy vọng, lôi tuột thuốc nhuộm
ra khỏi
tóc, khắc nhì nhằng thêm vài nếp nhăn lên da. Thời gian đã bạc, biết
lấy gì nhuộm
bây giờ.
“Em ơi lửa tắt
bình khô rượu…”, tự nhiên câu thơ của Vũ Hoàng Chương nhảy nhót trong
đầu mình,
khi thấy bà Hai cặm cụi dọn ly, còn bà Năm túc tắc cầm giẻ lau bàn, và
tiếng ho
rớt lay lắt nhẹ hều, không đủ sức nảy lên sàn nhà nhiều mảng gạch đắp
vá. Chỗ
mà mấy ông tán tỉnh xưa ngồi chéo nguẩy, giờ là cái ti vi màu đang chạy
chữ giới
thiệu chương trình phát sóng buổi chiều. Hai bà già trở nên rạo rực,
“không biết
bữa nay họ bắt được thằng trời đánh ấy không hen?”. “Ừ, phim gì vô
duyên, lòng
vòng mấy bữa rày mà thằng ôn dịch đó vẫn chưa đền tội”.
Cái xao xuyến
đó khuấy cái không khí chìm nghỉm ù lì của buổi xế trưa lên, mơn man
loang qua
chỗ tụi mình ngồi. Bạn dẹp mình qua một bên, phụ họa với hai bà già, hồ
hởi bàn
tán cái phim Đài Loan dài tập chiếu trên đài truyền hình đang vào độ
gay cấn nhất.
Mình ngạc nhiên khi biết bạn có thể thảnh thơi khóc cười với phim sến
rện ngay
vào giờ cơm tối, giờ cả nhà xúm về.
- Giờ đó có
ai ở nhà đâu mà không rảnh.
Bạn bồi hồi
giải thích. Chồng hứa về ăn cơm, nhưng thường hứng chí tạt qua quán
nhậu. Con
cũng đi chơi bóng rổ sau buổi học thêm. Có bữa cả nhà rủ nhau đi ăn ốc
thì cơ
quan chồng tiếp khách đột xuất, “thôi để mai…”. Chừng chục cái mai thì
mới
thành một bữa ngồi quán tiu nghỉu vì nguội thèm, cụt hứng.
Và gốc cột bị
mối ăn, bếp dột, một người họ hàng nằm bệnh cần thăm viếng… bạn hay
nhận được lời
hẹn: mai. Những hẹn hò bẽ bàng, mòn mỏi vì người hẹn nghĩ rằng mình còn
nhiều
thời gian phía trước.
Chỉ ti vi là
đúng hẹn. Rủ mình đứng lên về, bạn nói phải nấu cơm cho xong trước khi
kênh Tám
chiếu tập năm mươi bộ phim tình cảm, xong xúc tô cơm vừa ăn vừa coi tập
mười
hai trên kênh Ba, đến tập ba mươi sáu trên kênh Bảy thì đi ngủ là vừa.
Hai bà
già bán quán gật gù tán đồng. Buổi tối của những người đàn bà này giống
hệt
nhau.
Lúc mình với
bạn chẻ nhau mỗi đứa đi một hướng, mình sực nhớ tụi mình không hẹn lại
cuộc
sau, mà hai bà già bán quán cũng không đon đả kêu mai nhớ ghé ăn đá
đậu, như mười
năm trước. Hẹn hò trở nên đầy rủi ro, gây sát thương trong đời sống quá
nhiều bất
trắc. Về ngang qua ngôi mộ cổ nằm bên đường, tự hỏi cùng với người nằm
dưới mộ
này, có bao nhiêu lời hứa được chôn theo, có bao nhiêu thời gian của
người ở lại
bị bạc màu?
*
Mẩu tản văn
thần sầu!
Làm Gấu nhớ 1 truyện ngắn của Chekhov, cũng một em già như trong hai
bà già ở đây, gặp một buổi chiều đẹp trời, bỗng hứng lên, thắng bộ, đi
thăm cuộc đời.
Ghé 1 quán, gặp 1 cặp trẻ ngồi cũng khá gần bàn, thấy chúng âu yếm
nhau, bà già
nghĩ thầm "bồng bồng, đời đẹp thật", cố rỏng tai nghe, thằng bồ nói với
em, “đù má” con già, sao không chết đi, coi nó kìa,
làm cụt hứng của chúng mình!
Truyện của
Chekhov cay đắng hơn, thua cái nhân hậu của Cô Tư!
Tuyệt nhất
là câu thơ của ông Thầy của Gấu:
“Em ơi lửa tắt
bình khô rượu…"
Tks. NQT
Ðến hẹn với
TV [Tin Văn] lại lên, là 1 trong những nét đặc trưng của Miền Nam,
thoát thai từ
cái thú nghe đọc truyện mà TTT đã từng nhìn ra, qua hình ảnh một đứa bé
gái, vào
mỗi buổi tối, đốt ngọn đèn dầu, trải tờ nhựt trình ra, và đọc lên một
đoạn fơi ơ
tông - cái không khí tỉnh lẻ đêm buồn đặc Nam Kít nhờ đó mà văn chương
nở rộ - cho
bà nội hoặc bà ngoại, và chắc là mấy bà hàng xóm, cùng nghe. Những đoạn
ông tả
cảnh chợ trên sông, giữa những ghe thuyền, cảnh đi phà, M. Duras [em
đầm Nam Bộ,
tiền thân của một Linda Lê có thể], cũng rất mê những xen này, nhất là
cái cảnh
hì hụp húp cháo vịt trên sàn phà… hà, hà!
Vậy mà Gấu,
phải đợi đến khi mất Miền Nam, khi Gấu Cái mang mấy đứa nhỏ về quê
ngoại, cuối
tuần thằng chồng cà chớn về thăm, sáng chú nhật hoặc thứ hai thì mới
được hưởng
cái thú đi phà đêm, đò đêm, dọc theo 1 con lạch, 1 nhánh sông, ra
sông lớn,
tới phố
thị, lên xe đò về lại Sài Gòn.
Vợ Cọp
Rồi tôi lại
đi mượn quyển sách về. Đọc mấy ngày nay vẫn chưa đến đâu. Tác giả (Téa
Obreht)
có nói về sự thiếu thốn hàng hóa (của xứ nào ấy nhỉ ? hình như một quốc
gia Cộng
Sản gần Nga như Yugoslavia) làm tôi nhớ đến đoạn văn của ông Bùi Ngọc
Tấn trong Chuyện Kể Năm 2000.
Thật là khổ
cho
một tác giả trẻ sống trong một xã hội thừa
mứa khó lòng mà kể cho hay những điều tác giả không thật sự trải nghiệm.
Đọc
ông Bùi Ngọc Tấn, ông kể chuyện dân Việt đi mua cá mè ở cửa hàng tổng
hợp
rồi so sánh với đoạn văn của quyển The
Tiger’s Wife thì bạn sẽ thấy
quyển Vợ của
Cọp không hấp dẫn chút nào.
Nếu một quyển
như The Tiger’s Wife được giải thưởng thì tôi tin văn học VN có chỗ
đứng trên
thị trường văn học nước ngoài.
Blog HH
Charles Simic
và em nhí không chỉ cùng quê hương, mà còn cùng sinh ra tại Belgrade.
Ông mê em
nhí là phải thôi. Có thể, ông còn thèm viết được 1 cuốn như thế. Nhưng
những tác
giả khác cũng mê em nhí, viết về cuốn tiểu thuyết bằng những dòng thật
trang
trọng, thật mừng rỡ, như thể cả cuộc chiến ở vùng đất này đến nay mới
có tác
phẩm lớn lao của nó.
Vả chăng TV giới thiệu đến
4 tác giả viết về Vợ Cọp. Và
còn
thêm cách đọc của riêng Gấu nữa, khi, không thể nào đồng ý với HH, khi
so sánh nó
với nhà văn lớn VC Bùi Ngọc Tấn, và nhất là cái câu phán thật bảnh của
HH:
Nếu một quyển
như The Tiger’s Wife được
giải thưởng thì tôi tin văn học VN có chỗ đứng trên
thị trường văn học nước ngoài.
Có thể nói,
Gấu là người đầu tiên viết về Nỗi
Buồn Chiến Tranh ở hải ngoại, và cách đọc của
Gấu đã khiến NMG đi 1 đường cảnh báo, ông may lắm đó, vào cái thời điểm
tôi viết
MBD, mà ông viết như thế, là chúng làm thịt ông rồi!
Nhưng cũng chính Gấu, là người đầu tiên cảnh báo về cái đẹp và con thú
là 1,
khi đọc CKN2000, đến nỗi NTV
lại cảnh báo, ông viết như thế là làm hỏng “thiện
chí của con người” [nhớ đại khái], con người ở đây, theo ý NTV, là theo
cái
nghĩa, đem đến cho chủ nghĩa CS bộ mặt người, qua những tác phẩm “nhân
văn” như CKN2000.
Charles
Simic, The Art of Poetry No. 90
Charles
Simic, Nghệ thuật Thơ
Charles
Simic sinh tại Belgrade, Yugoslavia, vào ngày 9 tháng Năm, 1938. Tuổi
thơ của ông
như thế làm sao không mang nặng dấu ấn của cuộc xâm lăng Nazi, và một
số bài thơ
mãnh liệt của ông là từ hồi ức những năm đó. Trong bài "Hai con chó",
thí dụ, ông
nhớ lại cảnh lính Ðức đi tuần hành qua nhà ông, vào năm 1944:
Ðất rung
chuyển, chết tiếp diễn…
Một con chó
chạy ra đường
Làm quẩn chân
lính
Một cú đá làm
nó bay bổng như có cánh
Ðúng thế, đúng
như tôi phán thế
Ðêm xuống. Một
con chó có cánh.
Ông già của
Simic bị tó vài lần, và sau cùng bỏ chạy quê hương Yugoslavia vào năm
1944 qua Ý,
ở đây, ông lại bị bỏ tù. Khi được thả vào lúc chấm dứt cuộc chiến ông
bố trải
qua 5 năm ở Trieste, và sau đó dời đi Mẽo; chỉ tái hợp với gia đình là
vợ và
hai con trai vào năm 1954.
Simic học tiểu
học ở Belgrade. Bà mẹ, Helen, nhiều lần toan tính bỏ chạy Yugoslavia
thời kỳ hậu
chiến, và cùng với mấy đứa con, bị nhà cầm
quyền CS hỏi thăm sức khoẻ. Sau cùng họ có được thông hành vào năm
1953, và bèn
lập tức chuồn qua Paris liền ngay tối hôm đó bằng xe lửa. Sau nhiều lần
bị trì
hoãn sau cùng họ có được nhập cảnh Mẽo, và xuống thuyến qua New York
vào Tháng
Tám 1954.
Lần chót ông “về” Belgrade?
1982. Tôi được học bổng
Fulbright và trải qua mùa hè ở đó, đi đủ
thứ nơi. Thú lắm, tuy nhiên tôi cảm thấy xa lạ hơn, so với chuyến 1972.
Nhiều nhà
văn, nhà trí thức, nhân sĩ vẫn giả đò như là VC thuận thành, hoặc ít
lắm thì cũng
Mạc xịt, thành ra có nhiều chuyện phải tránh hỏi hay phê. Tôi không
được phán nhảm
như mình vẫn thường, và cũng thấy mệt mất 1 thời gian. Sau đó, vào
những năm
Milosevic thì lại khác hẳn. Những báo chí lề trái mà tôi cộng tác, thì
thật là tự
do, và can trường hơn cả đồng nghiệp ở Tây Phương.
Ông thường không viết thẳng về những biến
cố chính trị hoặc tai ương
đặc biệt nào, nhưng rõ ràng là cuộc chiến vùng Balkans mà những viễn
tượng lịch
sử u ám của nó là nền của những bài thơ như “Ðọc lịch sử”, và “Ðế
Quốc”, cả hai
đóng vào lịch sử những năm đầu thập niên 1990
Ðúng như thế.
“Ðọc Lịch Sử” được viết sau 1 trận nhậu tới chỉ và đọc cả một đống sách
lịch sử
Tầu và Ấn. Cứ vài trang là cái có 1 cú tàn độc, một cuộc đâm chém,
chiến trận, cả
ngàn người chết. "Ðế Quốc" là 1 bài thơ về bà ngoại của tôi, mất năm
1948 khi tôi
10 tuổi. Bà trông nom săn sóc tôi, từ khi còn nhỏ xíu, khi bố mẹ tôi
phải đi làm.
Bà thường nghe đám khùng điên lèm bèm trên la dô, những đấng như
Hitler,
Stalin, Mussolini… Bà biết vài ngôn ngữ, còn tôi thì chẳng hiểu gì cả,
và bà rất
bực vì những lời dối trá của đám này. "Có gì trật với thế giới", bà ưa
hỏi mọi
người. Quả là 1 câu hỏi thật bảnh. Tôi tới giờ mà cũng không tìm ra câu
trả lời.
Có quá nhiều cuộc chiến trong cuộc đời của
tôi. Có quá nhiều chết chóc, chém giết. Tôi cũng không hiểu được, như
bà ngoại
của tôi. Cái sự dễ dàng, và ngạo mạn, và luôn cả cái khốn nạn "đường ra
trận mùa
này đẹp lắm", qua đó, bao nhiêu người được đưa đi gặp cái chết của họ,
vẫn luôn luôn
làm tôi ngạc nhiên. Cái sự sử dụng sát nhân để làm cho thế giới tốt đẹp
hơn, thí
dụ, là phổ thông ở trong giới trí thức Mẽo, như thể chưa từng có tiền
lệ lịch sử. Tôi luôn nghĩ về những điều này.
Ai không ưa
Sartre (như tôi chẳng hạn:), hẳn khoái trá khi đọc câu này của Vargas
Llosa viết
về các tác phẩm của Sartre: "They have aged terribly."
Cũng trong bài này, Vargas Llosa còn viết:
"There is no great art without a certain measure of unreason, because
great art always expresses the whole of human experience, in which
tuition,
obsession, madness and fantasy play their part as well as ideas. In Sartre's work, man seems to be made of
ideas alone." Câu này trong tập
Making Waves.
Blog Gỗ Mun
Sartre là “thầy”
của Llosa, khi ông còn hăm hở dấn thân, còn coi chữ là hành động, và
cái cú đoạn
tuyệt, là do câu phán của Sartre về tác phẩm của chính ông: Trước đứa
trẻ chết đói,
cuốn La Nausée chẳng là gì cả.
Tuy nhiên, cách
đọc của Llosa, và của rất nhiều người về Sartre, thường bỏ qua những
tác phẩm văn
học thực sự của ông, thí dụ như chính cuốn La Nausée, hay như truyện
ngắn Bức Tường,
mà Koestler đã coi là 1 trong những tác phẩm số 1 về cuộc nội chiến Tây
Ban
Nha.
Những truyện ngắn của TTT,
thí dụ, Cuối Ðường, là từ Bức Tường
mà ra.
Sở dĩ TTT không ưa Camus, là vì đã bị ảnh hưởng của Sartre, nhà văn,
với
truyện ngắn thần sầu Bức Tường.
TTT cũng mê làm cách mạng, và không chịu nổi thái
độ đạo đức của Camus, 1 kẻ đứng ở lưng chừng trời lo chuyện thế gian.
Camus, phải
đến sau cú 911, thì mới lại xuất đầu lộ diện, hào quang đầy mình!
Cả 1 trào lưu
tiểu thuyết mới, là đã thoát thai từ La
Nausée, từ những gì mà Sartre,
bỏ dở, vì
mê làm cách mạng.
Lạ nhất, là
GNV phát giác ra điều này, ngay từ khi còn trẻ, và viết ra, trong bài
viết về Bếp
Lửa, của TTT: Bếp Lửa trong Văn Chương, 1973.
Ngay cả Sartre, phải đến
cuối đời mới nhận ra điều này, khi thú nhận, trong những
tác phẩm đầu đời, nếu phải giữ lại, thì chỉ 1 cuốn La Nausée!
Khủng thật!
Ðây có thể là
do ngay từ hồi còn trẻ, Gấu đã quá mê cuốn này, lúc nào cũng mang theo
nó, nhất
là những lần ngồi đồng, chờ gặp BHD.
Mỗi lần em ra khỏi nhà, đâu có dễ!
*
Tôi
đọc ông [Sartre] lần đầu, vào mùa hè năm 1952, khi làm phụ biên tập, a
copy
editor, cho một tờ nhật báo, Đó là thời gian độc nhất, tôi đóng vai nhà
văn nhà
báo, theo cái kiểu mà nhiều người vẫn còn nghĩ về họ: một cuộc đời lãng
du. Khi
công việc tòa báo xong xuôi, thường là muộn, trời đã khuya, tay ký giả
là tôi
bèn chạy vội đến những quán, những ba, ánh đèn mờ, hay những ổ nhện,
những xóm
đêm, và, với một đứa trẻ 15 tuổi, thì đúng là một cuộc phiêu lưu lớn.
Và tôi đã gặp cuộc phiêu lưu thực sự, vào một buổi sáng, khi anh bạn,
Carlos
Ney Barrionuevo, giúi vào tay tôi cuốn Bức Tường. Những truyện
ngắn ở
trong đó, cùng với Buồn Nôn, và những vở kịch - Những con
ruồi, Huis
Clos, Một bướm đáng kính trọng, Những bàn tay bẩn - những tập đầu
của bộ
Những Con đường của sự tự do, và những tiểu luận của Satre đã làm
cho rất
nhiều người trong đám chúng tôi khám phá ra văn chương hiện đại của đầu
thập
niên 1950.
Chúng già đi, lão hoá, một cách thật là khủng khiếp. Ngày nay,
chúng ta
tìm thấy, chỉ một tí ti, cái gọi là hàng nguyên, hàng xịn, the
originality, ở
trong những tác phẩm đó. Sự không thể bắt nối, incommunication, sự phi
lý, the
absurd, được diễn tả bởi Kafka, bằng một đường hướng dữ dằn hơn, nhức
nhối hơn,
kỹ thuật viết từng mảng, the technique of fragmentation, thuổng của
John Dos
Passos, và Malraux viết những đề tài chính trị sống động như bao giờ
sống động
đến như thế. Ngay cả thứ bảnh nhất của Sartre, là Tuổi thơ của một
ông Sếp,
cũng không bén gót.
Llosa: The Mandarin
*
Như vậy, Llosa biết Sartre qua truyện ngắn Bức
Tường. Gấu nhớ là,
tay giáo sư triết gia khoa bảng, ĐPQ, bạn của giáo sư khoa bảng ĐTĐ, có
một
truyện ngắn mang hơi hướng Bức Tường.
Câu chuyện một tay làm cách mạng, bây giờ, có thể gọi, một tay khủng
bố, bị bắt,
bị tra tấn tới chỉ, bắt phun ra đồng bọn. Anh lắc đầu, tới một bữa, bực
quá, phụt
đại một địa chỉ.
Đúng cái địa chỉ cả đám đang ẩn náu!
*
Tay Llosa, hơn Gấu 1 tuổi, ông bằng tuổi TTT, đọc một số tác giả, giống
Gấu.
Ông cũng mê Steiner, hồi đầu, và sau này, có vẻ bực, khi Steiner muốn
nổi cộm,
muốn là một thứ "enfant terrible" [chữ của Llosa], của thế kỷ.
Llosa cũng quan tâm tới phong trào tiểu thuyết mới, và không cưỡng lại,
ý muốn,
đưa ra ý kiến của riêng ông, về một căn cước Tẩy [French
Identity], khi tờ La Nouvelle Revue Francaise đưa ra câu hỏi
thăm dò
dư luận:
-Ngoại trừ ba biểu tượng "rượu vang, ăn mặc đúng mốt, hight fashion, và
nước
hoa", liệu còn những biểu tượng khác về nước Tây?
-Bạn có đồng ý, là văn chương Tây bắt đầu thất thế, ở hải ngoại, kể từ
khi xuất
hiện trường phái Tiểu Thuyết Mới?
-Bạn còn hy vọng gì ở nước Tây?
Riêng câu đầu, Ian Jack có câu trả lời: Còn ba biểu tượng khác nữa, Tự
Do, Bình
Đẳng, Thân Ái.
Mấy ông VC áp dụng, thông minh và thiên tài, thành "logo", của nước
VC:
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Độc Lập Tự Do, Hạnh Phúc.
Cũng là noi gương Bác, thuổng Mẽo, khi viết Tuyên Ngôn Độc Lập.
Source
The
Mandarin
Of all the
writers of my time, there were two that I preferred above all others
and to
whom I was most indebted in my youth. One of them, William Faulkner,
was well
chosen for he is an author that any aspirant novelist should read. He
is
perhaps the only contemporary novelist whose work can be compared, in
volume
and in quality, with the great classics. The other, Sartre, was less
well
chosen: it is unlikely that his creative work will last and although he
had a
prodigious intelligence and was, on balance, an honest intellectual,
his ideas
and his position on issues were more often wrong than right. Of him we
can say
what Josep Pla said of Marcuse: that he contributed, with more talent
than
anyone else, to the confusion of our times.
Mario Vargas
Losa
Trong tất cả
những nhà văn của thời của tôi, có hai đấng mà tôi mê nhất, mang nợ
nhiều nhất,
vào thời trẻ.
Một, William
Faulkner, chọn đúng bong, quá bảnh, bởi ông là một tác giả mà bất cứ
thằng chó
nào lăm le viết văn, viết tửu thiết, cũng nên đọc! Ông có lẽ là tiểu
thuyết gia
đương thời độc nhất mà tác phẩm có thể so sánh, về bề dầy cũng như phẩm
chất, với
những đấng sư phụ cổ điển nhớn nhao, vĩ đại.
Một, Sartre,
chọn lựa không khấm khá: có vẻ như tác phẩm mang tính sáng tác của ông
không
trường thọ, mặc dù ông thông minh có thừa, và ông, nếu có nói đi thì
phải nói lại,
là một tay trung thực, lương thiện, những tư tưởng và vị trí của ông,
về những vấn đề, giải pháp, thì trật
nhiều hơn trúng.
Về Sartre,
chúng ta có thể lấy câu của Josep Pla, nói về Marcuse, để nói về ông,
trúng
ngay bong:
Bằng tài
năng Sartre đóng góp, nhiều hơn bất cứ một ai, vào cái phần, làm nhiễu
nhương
thêm, cho thời của chúng ta!
Tuyệt!
Vargas Llosa: Quan
Sartre [The Mandarin]
Sau khi ẵm
Nobel, Llosa có viết 1 bài rất thú vị, “Ý nghĩ của tôi về văn hóa”,
đăng trên tờ Letras Libres, tờ Books Dec
2010/Jan 2011, dịch qua tiếng Tây, trong đó, ông thổi
một trong vị thầy sau này của ông, là Lionel Trilling, phạng Foucault
và đệ tử tơi bời hoa lá. TV tính scan, post, và dịch nhưng lần lữa quên
luôn.
Như hầu hết
các bài thơ của Adam Zagajewski, có lẽ bác dịch thơ của nhà thơ này là
tới nhất
(mặc dù tôi không đủ năng lực tiếng Anh để kiểm chứng), khác với
thơ dịch
Simic, khó nuốt, (xin lỗi bác, đây chỉ là cảm nhận riêng mà thôi).
Ðộc giả TV
Thơ Simic trầm
trọng hơn so với Zagajewki. Trong thơ Simic có cái quá khứ Mít. Có
thể vì
thế mà chúng ta thích đọc thơ Zagajewski hơn chăng?
Bài dưới đây mà chẳng trầm
trọng sao?
Gấu cứ nghĩ đến 1 anh cu
Gấu, của một thời
vị lai, đang đọc sử Mít, và chứng kiến cái cảnh ông cụ của Gấu bị lịch
sử cho
đi mò tôm!
READING
HISTORY
for Hans
Magnus
At times,
reading here
In the library,
I'm given a
glimpse
Of those
condemned to death
Centuries
ago,
And of their
executioners.
I see each
pale face before me
The way a
judge
Pronouncing
a sentence would,
Marveling at
the thought
That I do
not exist yet.
With eyes
closed I can hear
The evening
birds.
Soon they
will be quiet
And the
final night on earth
Will commence
In the
fullness of its sorrow.
How vast,
dark, and impenetrable
Are the
early-morning skies
Of those led
to their death
In a world
from which I'm entirely absent,
Where I can
still watch
Someone's
slumped back,
Someone who
is walking away from me
With his hands tied,
His graying head
still on his shoulders,
Someone who
In what
little remains of his life
Knows in
some vague way about me,
And thinks
of me as God,
As Devil.
Đọc Sử Ký
Gửi Hans
Magnus
Đôi khi đọc ở
đây
Tại thư viện
Tôi được đưa
mắt nhìn
Những người
bị kết án tử hình
Những thế kỷ
đã qua
Và những đao
phủ của họ
Tôi nhìn mỗi
khuôn mặt nhợt nhạt
Cách ông tòa
tuyên án
Lạ làm sao,
là, tôi thấy mừng
Khi nghĩ rằng,
May quá, khi
đó mình chưa ra đời!
Với cặp mắt
nhắm tít, tôi có thể nghe
Những con chim chiều tối
Chẳng mấy chốc,
chúng sẽ mần thinh
Và đêm sau
cùng trên trái đất
Sẽ bắt đầu
Trong trọn nỗi
thống khổ của nó
Bao la, tối,
không cách nào xuyên thủng,
Là những bầu
trời sáng sớm
Của những
con người bị dẫn tới cái chết của họ
Trong một thế
giới mà tôi thì hoàn toàn vắng mặt
Từ cái chỗ của
tôi, tôi vẫn có thể ngắm
Cái lưng lảo
đảo,
Của một người
nào đó,
Một người
nào đó đang bước xa ra khỏi tôi
Với hai tay
bị trói
Cái đầu xám
của người đó thì vẫn còn trên hai vai
Một người
nào đó
Trong tí xíu
thời gian còn lại của cuộc đời của mình
Biết, một
cách mơ hồ về tôi
Và nghĩ về
tôi, như là Thượng Đế
Như là Quỉ
EMPIRES
My
grandmother prophesied the end
Of your
empires, O fools!
She was
ironing. The radio was on.
The earth
trembled beneath our feet.
One of your
heroes was giving a speech.
"Monster,"
she called him.
There were
cheers and gun salutes for the monster.
"I
could kill him with my bare hands,"
She
announced to me.
There was no
need to. They were all
Going to the
devil any day now
"Don't
go blabbering about this to anyone."
She warned
me.
And pulled
my ear to make sure I understood.
Charles
Simic
Đế Quốc [Đỏ]
Bà tôi
tiên
đoán ngày tàn của đế quốc [VC].
Ôi, lũ
khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ.
Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung
chuyển dưới chân chúng tôi.
Một trong những
anh hùng, Sáu Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,”
bà tôi la lên.
Có những tiếng
vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có
thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên
bố với thằng cháu của bà.
Bà ui, đâu cần
làm dzậy.
Tất cả bọn
chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà
rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh
cáo.
Và kéo tai
tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.
Biệt Kích Văn Hóa
Những người
Sơn Tây - Giao Chỉ - San Jose
Note: Tác giả
bài viết, do không phải dân Sơn Tây, nên viết hơi bị nhảm. Ngay cả cái
ước, muốn
làm dân Sơn Tây, trong 1 lúc hứng bậy, cũng nhảm.
Bởi vì bài
viết là về “Qui est Qui [Ky]?, mà thiếu quá nhiều giai thoại thật tuyệt
về Phó
Tông Tông.
Thiếu cái câu
thần sầu của de Gaulle, Ky est Ky, mà không nhảm sao?
Thật là đại
thiếu sót.
Thiếu vài dòng
về bộ râu khiến ông ta nổi danh với cái nick “Tướng Râu Kẽm”.
Thiếu giai
thoại thần sầu về 1 đứa con nít Miền Nam, do trốn học, bị bố đánh, và
hỏi, bé
không học, lớn làm gì:
-Lớn lên làm
Phó Tổng Thống!
Nhưng Kỳ đã
từng là học trò của Thầy Vũ Khắc Khoan.
Ðâu phải thứ
chăn trâu, lớp 1 như... Hồ Tôn Hiến?
Dân Sơn Tây
còn nhiều tay bảnh lắm. “Kỳ” tới Gấu thử đi 1 đường nối điêu, coi có
bảnh hơn GC không.
Tướng Râu Kẽm,
sau này chắc chắn sẽ vào Guinness Mít, vì:
Chưa từng có
1 nhà lãnh đạo của xứ Mít được De Gaulle hỏi thăm, và xoa đầu!
Chưa từng có
nhà lãnh đạo xứ Mít nào được nhà văn nhà thơ Mít xoa đầu thật tuyệt
diệu như Râu
Kẽm.
Hà Chưởng Môn,
tức thi sĩ Hà Thượng Nhân đã từng “nưng bi” cả Kỳ lẫn Mai, lẫn cuộc
tình Kỳ Duyên
Mai, và cái tên Kỳ Duyên xuất xứ từ đó, khi ca Râu Kẽm:
Ông về ông kẻ
lông mày tí chăng?
Câu thơ này
cũng có kỳ tích của nó.
Tướng Râu Kẽm
rất mê chưởng Kim Dung, và rất mê Cô Gái Ðồ Long. Truyền thuyết kể là,
đấng nào
muốn vô Không Quân là bắt buộc phải đọc Cô Gái Ðồ Long.
Nhưng câu thơ
lại có ý muốn khuyên Kỳ Râu Kẽm nên nhường ngôi cho Thiệu, và, bắt
chước Vô Kỵ, phong kiếm quy ẩn, lo kẻ lông
mày lông mi cho cô vợ gốc Mãn Thanh là Triệu Minh?
Bolano
Nén
nhang muộn
cho Nguyễn Khải
UNDER EASTERN EYES
Cuộc
gặp
gỡ
giữa Parvus và Lenin là cái nơ, cú khủng nhất trong cuốn sách của Solz.
Có
những nét cọ thật tuyệt ở đó, khi hai mảng băng hoại, hư ruỗng cuốn
quít với
nhau, vờn lẫn nhau: một là âm mưu toàn thế giới, và một là ước muốn bất
khả tri
về quyền lực. Còn có những giọng ngầm chói tai. Parvus là 1 tên Do Thái
lang
thang nhập thân, một kẻ “chuyên sửa chữa” thuộc bậc đại sư. Ông đầu tư
vào hỗn
mang, chao đảo, hoảng loạn, như đầu tư vào chứng khoán. Không có
Parvus, Solz
nhủ thầm, là Lenin hỏng cẳng, đếch làm sao thành công. Lenin với sức
mạnh, sự dẻo
dai Tartar, trở thành kẻ mang con “vai rớt” ngoại [chủ nghĩa CS quỉ
ma]. Trong
bản gốc, những ám dụ mang tính biểu tượng sắc tộc này, có người cho
rằng, thuổng Dos: cuộc đối đáp giữa Lenin-Parvus là từ những cuộc đối
đáp lớn về
siêu hình học về cái ác trong Anh em nhà
Karamazov của Dos.
|
|
|
|