*






*

1902, năm khánh thành

Người tù đi qua cầu Long Biên, thò tay sờ lên thành cầu, như rụt rè hỏi thăm bao mùa nóng lạnh, bao dấu vết bom đạn.
Anh đang trên đường vào Hà-nội, mang theo với anh tro than của những cuốn sách
(1)

Chán Hà Nội

Danh ca Khánh Ly đã về Việt Nam

Họ Trịnh đã từng hầu đờn Hồ Tôn Hiến, lấy ly rượu, thì tại làm sao người tri kỷ của ông không hầu đờn Bắc Bộ Phủ cho đủ cặp?

Trên TV có kể chuyện sinh thời, Sáu Dân Hồ Tôn Hiến, mỗi lần rảnh việc triều đình, thường cho vời họ Trịnh tới hầu đờn. Và có lần họ Trịnh kéo theo một bạn thơ. Lần sau, kêu bạn thơ cùng đi, ông lắc đầu, than, thấy mi gân cổ hạc gầy, hát lấy ly rượu, thảm quá, tao thà ở nhà còn hơn nhìn thấy bạn mình bị “Cách Mạng” làm nhục!

Martin, tiểu sử gia của Garcia Marquez, viết, chính là sự thành công của GGM như là 1 tiểu thuyết gia, đã cho ông cơ hội thân cận với đám độc tài, và ông là nhà văn độc nhất viết từ bên trong tâm lý của nhân dân, more than any of his contemporaries, he wrote from inside the psyche of el puello, vào cái thời kỳ mà số phận nhân dân Mỹ Châu La Tinh bị đưa lên bàn mổ ở Mẽo, qua những nhà làm chính sách ngoại giao của họ, y chang như ở khu vực Ả Rập bây giờ. Chính là vì lý do đó, ông bợ đít họ, vì nhân dân Mỹ Châu La Tinh nhiều hơn là vì bản thân của ông!

Áp dụng vào trường hợp họ Trịnh và tiếng hát ma quái KL, chúng ta nhận ra, 1 cách nào đó, con quỉ chiến tranh lợi dụng họ, theo cái nghĩa “viết từ bên trong tâm lý nhân dân”. Hoặc nói thẳng ra, phản chiến, bởi là vì rõ ràng là Miền Nam nói không với nó.

GCC đã từng viết về tiếng hát làm sụp đổ đền thiêng Miền Nam, và sau đó, 1 cách nào đó, cũng tiếng hát đó, lại được cất lên 1 lần nữa, ở bên ngoài đất nước, như 1 đền bù, ăn năn.

"Sao không hát cho những người vừa nằm xuống..."

Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt hải chạy ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.

Nhớ, nhớ..."Nếu mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường nghêu ngao một mình trước khi bỏ đi. 

Như những lời chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng. 

Trong mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời. 

Buổi sáng cuối cùng, cùng với Sài-gòn, ngồi một mình trong quán vắng, nghe giọng ca Thanh Tuyền... Cũng vẫn giọng hát cũ, bài ca xưa mà sao nghe lòng mình thay đổi. Cảm giác đắng cay, tủi nhục những ngày tháng Tư nay đã hết hẳn rồi. Người Sài-gòn đọc trong mắt kẻ thắng trận nỗi thèm khát, mong sao được là nguỵ. Giờ này, tiếng hát như được cất lên từ đáy mồ biển cả, từ quần đảo ngục tù, như được sống lại từ một con ngựa thành Troie mà Cộng sản miền Bắc trong cơn điên cuồng vơ vét đã vô tình rước về. Nàng Mỵ Nương đang nhỏ lệ hòa tan bao nỗi tủi hờn của những anh chàng Trương Chi suốt đời không biết hát, suốt đời chưa từng được nghe một người hát cho một người...

Và tôi bỗng thấy bớt nhớ Sài-gòn.



*

Isle of Light: A Look Back at the Boat People and the European Left

Đảo Ánh Sáng: Nhìn lại phong trào Thuyền Nhân và hiện tượng Tả Phái Âu Châu


Phỏng vấn người trong cuộc: Thi sĩ Thi Vũ

*thuyen_nhan
bateauvictim

gau

Gấu @ tòa soạn báo Văn Hóa, của Lý Kiến Trúc

Hình trên tường là quang cảnh ngày Trần Trường năm nào, tại Tiểu Sài Gòn.

30.4.2005



*

Điện Biên Phủ dởm

*

Võ tướng quân về Trời

Đâu phải chỉ có tay TNS Mẽo nói về tài nướng quân của Giáp, mà tướng Mẽo, Westmoreland cũng cúi chào địch thủ:

"Of course, he was a formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius..."

William Childs Westmoreland

Đúng rồi ông ta là 1 địch thủ khủng khiếp... Như chính ông ta thừa nhận, vào đầu năm 1969, ông ta nướng nửa triệu tên VC. Một cái sự coi mạng người rẻ như bèo như thế, có thể làm nên 1 địch thủ khủng khiếp, nhưng đéo phải 1 thiên tài quân sự!

Hà, hà!

Graham Greene vinh danh Giáp bảnh nhất:

Còn 1 hồi nhớ khác nữa mà tôi cảm thấy thật khó mà vờ đi được, là 24 tiếng đồng hồ sặc mùi tận thế là đây, mà tôi trải qua ở Điện Biên Phủ, vào tháng Giêng 1954. Chín năm sau, tôi được tờ Sunday Times đi 1 đường hỏi thăm, và đề nghị viết, về 1 “trận đánh quyết định”, tùy tôi chọn, tôi bèn nghĩ ngay tới DBP.

Mười lăm trận quyết định trên thế giới, là cái tít thật là cổ điển mà Edward Creasy đã ban cho cuốn sách của Sir, vào năm 1851. Nhưng thật đáng ngờ, là trong 15 trận đó, có một, bảnh, “quyết định”, như là “Điên Biên Phủ”, vào năm 1954.

Điện Biên Phủ không chỉ là hồi chuông báo tử cho quân đội Pháp, mà hơn thế nhiều! Nó đánh dấu chấm hết mọi hy vọng ăn cướp của Tây Phương đối với Đông Phương! Chín năm sau trận đánh, khi tờ Thời Báo Chủ Nhật gợi ý, tôi nghĩ liền đến trận đánh thần sầu này.

Võ tướng quân đọc mà chẳng sướng mê tơi sao?

The assault began on 13 March 1954, and Dien Bien Phu fell on 7 May, the day before the delegates turned at last from the question of Korea to the question of Indo-China.
But General Giap could not be confident that the politicians of the West, who showed a certain guilt towards the defenders of Dien Bien Phu while they were discussing at such length the problem of Korea, would have continued to talk long enough to give him time to reduce Dien Bien Phu by artillery alone.
So the battle had to be fought with the maximum of human suffering and loss. M. Mendes-France, who had succeeded M; Laniel, needed his excuse for surrendering the north of Vietnam just as General Giap needed his spectacular victory by frontal assault before the forum of the Powers to commit Britain and America to a division of the country.

The Sinister Spirit sneered: 'It had to be!'
And again the Spirit of Pity whispered,
'Why?'

Cuộc tấn công bắt đầu này 13 Tháng Ba 1954, và DBP thất thủ ngày 7 Tháng Năm, trước khi các phái đoàn, sau cùng rời vấn đề Korea qua số phận Đông Dương.

Nhưng Tướng Giáp không thể yên trí, chính trị gia Tây Phương - vốn cảm thấy có tí tội đối với những người chống giữ DBP, khi họ lèm bèm quá lâu về Korea - bi giờ kéo dài cuộc cò cưa, đủ thời giờ cho ông, chỉ dùng pháo, đủ san thành bình địa lòng chảo DBP.

Và thế là trận DBP đi vào cuộc nướng người....  Thủ Tướng Tẩy cần xin lỗi, về cái sự đầu hàng VC Bắc Kít, còn Tướng Giáp, cần chiến thắng huy hoàng, trước khi những thế lực Tây Phương kéo Mẽo và Anh vô bàn hội, để xẻ thịt xứ Mít.

Con ma nham hiểm Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn của Kafka, bèn cười khinh bỉ: Phải thế thôi!
Và Linh Hồn Trắc Ẩn của một miền đất, bèn thì thầm,
'Tại sao?'

Graham Greene: Ways of Escape


*

Trở lại Anh, Greene nhớ Việt Nam quá và đã mang theo cùng với ông một cái tẩu hít tô phe, như là một kỷ niệm tình cảm: cái tẩu mà ông đã hít lần chót, tại một tiệm hít ngoài đường Catinat. Tay chủ, người Tầu hợp với ông, và ông đã đi vài đường dậy tay này vài câu tiếng Anh. Tới ngày rời Việt Nam, tay chủ tiệm hít bèn giúi vào tay Greene cái tẩu. Cây gậy thiêng nằm trên một cái dĩa tại căn phòng của Greene, ở Albany, bị sứt mẻ tí tí, do di chuyển, đúng là một thần vật cổ, của những ngày hạnh phúc.

31 Tháng Chạp 1953, Sàigòn.

Một trong những cái thú của một nơi chốn xa xôi lạ hoắc, đó là, cái thú "bạn của bạn", theo nghĩa, một cái nét đẹp của nó, đã từng quyến rũ một người bạn của bạn, đột nhiên, nó cũng tóm lấy bạn!
Tôi đã gặp đúng một tình trạng như vậy, một buổi chiều, một người bạn như trên, tới gặp tôi, sau một vài hơi whisky, đèo tôi đi trên chiếc xe gắn máy của anh ta, một bác sĩ hải quân, dạo chơi Sàigòn. Chúng tôi tới thăm mấy tiệm hút.
Tiệm đầu tiên ghé, thuộc loại rẻ tiền, ở trên một tầng lầu, bên dưới là một trường học, nơi đám học trò đang lo thi kỳ thi "tiểu học và trung học đệ nhất cấp". Ông chủ tiệm cũng dân trong nghề, một bệnh tưởng, a malade imaginaire, người khô quắt, như bị vắt sạch nước, hậu quả của sáu chục bi một ngày. Một bé gái ngủ gật, và một cậu trai. Thuốc phiện không nên để cho người còn trẻ vướng vào, như ngưòi Tầu tin tưởng, mà chỉ để dành riêng cho những ngưòi đứng tuổi, hoặc già cả. Một bi ở đây tốn mười đồng. Sau đó, chúng tôi tới một tiệm sang hơn, Chez Pola. Ở đây, bạn có phòng dành riêng, và có thể mang theo bạn. Một cái dù Tầu thật lớn che trên một cái giường tròn lớn. Một quầy đầy những sách ở ngay kế bên giường. Lạ làm sao, và cũng tuyệt vời làm sao, tôi thấy hai cuốn của tôi, trên quầy sách: Le Ministère de la peur và Rocher de Brighton. Tôi bèn lôi xuống, viết mấy lời đề tặng.
Một bi ở đây tốn ba chục đồng.
Kinh nghiệm hít tô phe của tôi bắt đầu vào Tháng Mười năm 1951, khi tôi ở Hải Phòng trên đường ra Vịnh Hạ Long...
Graham Greene. Tam Thập Lục Kế, Tẩu Vi Thượng sách: Ways of Escape

Để tưởng nhớ mùi hương

 


Slavoj Žižek

Lenin v. Stalin in Kiev

Barbarism with a Human Face


Trường hợp Nhã Thuyên



30.4.2014

/tribute/truong_xua.html
/Tap_ghi_6/from_russia.html

Hai trang trên, nhờ đầu tháng, bèn lòi ra

*

*

How Berlin copes with its memory?

STUMBLING OVER THE PAST


Our Top 10 in 2013. No 4: in Berlin, more and more victims of the Nazis are being remembered with Stolpersteine—brass plates, embedded in concrete, in the streets where they lived. Andreas Kluth traces the stories behind the stones

From INTELLIGENT LIFE magazine, May/June 2013

ON A HOT July evening in 2012, Menasheh Fogel, his wife and three children were returning from a favourite haunt, the sandy beach at Wannsee, one of the lakes on the western outskirts of Berlin. Fogel, still in his beach clothes, parked near their home on Bamberger Strasse, a charming street of old buildings with high ceilings. As he unloaded their beach toys, his wife started chatting with an older man on the other side of the street. "He was just talking in English to anybody walking by," Fogel recalls. "He came off as a bit loony, but he was just emotional." So Fogel, still in his flip flops, walked over and started to listen. The half-hour chat that followed changed the way he relates to his street and city, its past and his present.

The man outside Bamberger Strasse 3 turned out to be Howard Shattner, from Santa Rosa, California, about an hour from Berkeley, where the Fogel family had lived until a year earlier. Like Fogel, Shattner is American and Jewish. And this address was where his family had lived before the war. In 1938, Shattner’s father and two uncles fled Germany. But his grandfather Chaim and aunt Jente stayed. In September 1942, the Nazis came to this building and took them away.

Twelve days before he met Fogel, Shattner had commemorated his grandfather and aunt by embedding two Stolpersteine—"stumbling stones"—in the pavement at Bamberger Strasse 3. He had come back on this day to talk to residents and passers-by about them. They are brass plates sitting on concrete cubes of ten centimetres on each side. Printed into each plate are the details of one victim of National Socialism—Jewish, gypsy, homosexual or other—who had his or her last address at this spot. The information is deliberately kept terse. The stone for Shattner’s grandfather reads:

HERE LIVED CHAIM SHATTNER
BORN 1867
DEPORTED 22.9.1942
THERESIENTSTADT
MURDERED 20.12.1943

There are now almost 40,000 such Stolpersteine in several European countries, most in Germany, thousands in Berlin alone. Some streets that used to be centres of Jewish life teem with them. My own street, in elegant Charlottenburg, is one. In front of my own front door are five Stolpersteine, and they were among the first things that my kids and I noticed when we first came to look at the place. We bowed down and I read the inscriptions out loud. My seven-year-old daughter wondered what this might be about. Since she asked, I began to tell them, for the first time, about the Holocaust. As I did so, some of our neighbours-to-be paused and joined us and an ad hoc conversation arose—all before we had even moved in.

In the same way, Fogel had also noticed Stolpersteine in the streets almost immediately after moving to Berlin. There were already several in his own neighbourhood, Bayerische Viertel (Bavarian Quarter) in Schöneberg, not far from Charlottenburg. Built by and for the bourgeoisie in the years just before the first world war, this was and still is a well-to-do area. Most of the streets are named after Bavarian cities, hence the name of the quarter. But so many Jews once lived there, Albert Einstein among them, that its other nickname was "the Jewish Switzerland".

Berlin, and all Germany, has many memorials and monuments to the Holocaust. But for Fogel these small blocks in the sidewalk made remembrance concrete and therefore more touching, immediate, even eerie. "You can go to the Holocaust Museum in Washington or to the Holocaust Memorial here in Berlin and it’s kind of impersonal and abstract. But this is one person, in one place, and you can imagine what his daily life was like." 

At first I assumed that the Stolpersteine were a government project, organised by the city. Fogel had thought so too. Then, during one of his German lessons, his language teacher told him that they were a private initiative run by an artist, Gunter Demnig, who was born in Berlin and now lives in Cologne. "When I learned that the Stolperstein project was actually a private art project and not something done by a public agency," Fogel says, "I actually got a little upset. I realised that while there are quite a few Stolpersteine throughout Berlin, the streets would be literally covered in them if all of the victims were memorialised. It really made me realise how many people could easily be forgotten." 

And so the Stolpersteine dredged up every conflicted feeling that Fogel, as a Jew, had about living in Germany. Nobody in his own family died in the Holocaust. On his father’s side, he is fourth-generation American; on his mother’s side, he is fifth-generation. But he is still Jewish. And not only does he now live in Germany, but he works there – in information technology—for Bayer. Today, Bayer is known predominantly for Aspirin, which it invented. But during the Holocaust, Bayer was part of IG Farben, a chemical conglomerate that made, among other things, Zyklon b, the gas used in the death chambers. 

Fogel had made a sort of peace with his mixed feelings about his career move. As a tech guy, he is the linear and logical type. "My left brain overrides my right brain," he says. "I have nuanced feelings because Germany has dealt with the Holocaust so openly and modern Germany has some of the most progressive politics in the world—environment, governance, companies and all that." 

And yet, the past is always there, sedimented into every place. Take that sandy beach at the Wannsee, where the Fogel family had been swimming just before they met Shattner. On a warm day, there are kids splashing in the shallow safe area, bigger kids tumbling from the water slide farther out, and off to the right the nudists are enjoying themselves. But looking diagonally left from the beach, one can see, just across the water, a grey mansion. This is the Villa Wannsee, where 15 leading Nazis met on January 20th 1942—nine months before Chaim Shattner was deported—to decide the "Final Solution to the Jewish Question". 30.4.2014

*

Cái cú đưa sĩ quan Ngụy đi cải tạo tại vùng Cực Bắc Bắc Việt không giống giải pháp chót [final solution] của Nazi, mà mô phỏng Gulag của Xì. Đúng hơn, của Nga Hoàng. Tống tù đi Miền Đông Hoang Dã, lập những trại tù, thành 1 quần đảo, không chỉ đưa sĩ quan Ngụy, mà là tất cả vợ con họ hàng của chúng.
Cuối cùng, lũ Ngụy chỉ còn 1 quê hương là Trại Tù, Lò Cải Tạo. Dù có thả chúng ra, thì chúng cũng không có nơi nào để mà trở về.
Trên TV có dành 1 trang để viết về cú độc này, tất nhiên của Thầy của VC, là Xì.
Cuộc chiến VC Bắc Kít vs Tẫu làm hỏng chương trình tàn độc này.

Amoz Oz đọc Chekhov & Kafka

Bạn đọc Y Sĩ Đồng Quê, và tưởng tượng ra rằng thì là, đây chính là linh hồn của một miền đất, nghe tiếng cầu cứu của một con bệnh trầm trọng ở mãi tận miền nam, và, tìm đủ mọi cách để đến bên giường người bệnh, do không có ngựa, nên phải mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn, và vì thế mà phải hy sinh cô hầu gái, cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và ngửa mặt lên trời la lớn: "Ta bị lừa, bị lừa, bị lừa!"
Và đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị lừa:
"Trần trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời bất hạnh nhất, với cỗ xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng" ("Naked, exposed to the frost of this most unhappy of ages, with an earthly vehicle, unearthly horses, old man that I am, I wander astray."
Một cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn xuất hiện dưới cái mặt nạ của một vua Lear, của một ông tướng về hưu.
Thê thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục, với sự đóng góp của mình ở trỏng, viên tướng già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng lợn của cô con dâu, được vỗ béo bằng những thai nhi !

Dương Thu Hương: “30 tháng Tư 75, nền văn minh đã thua chế độ man rợ”

Phỏng vấn của Đinh Quang Anh Thái

Dương Thu Hương: (thở dài) Ðiên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc.

Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ . . . nếu người ta muốn. Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Ðó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Ðó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.

Lần thứ hai tôi khóc là năm 1984 khi tôi đến Mascơva. Tất cả những người Việt Nam khác đến đấy đều hớn hở, sung sướng. Riêng tôi thì nhục nhã không thể tả được. Vì khi ở trong nước, tôi vẫn có ấn tượng dân tộc mình là dân tộc anh hùng và là một dân tộc cũng có được một cuộc sống xứng đáng. Nhưng khi đến Mascơva trong một phái đoàn điện ảnh trẻ thì tôi mới nhìn thấy ra rằng, người Việt Nam bị khinh bỉ. Người Việt Nam đầu đen chỉ xếp hàng trong các đội quân dài dặc các bà già Nga bụng to để mua nồi áp xuất, bàn là điện nhằm gởi về nước. Những người bán hàng họ mắng cho như là mắng khỉ ấy. Họ mắng cũng đúng vì người mình khuân hàng đống nồi, hàng đống sản phẩm của người ta để tuồn về nước. Khi đứng ở khách sạn Peking nhìn xuống đường, tôi thấy những đoàn đại biểu Việt Nam trong những bộ quần áo complet gớm giếc trông như những đàn bò đi trong thành phố. Tôi hoàn toàn vỡ mộng và tôi khóc. Một nhà văn Nga mắng tôi. Anh ta bảo rằng, “người ta đi Nga người ta sung sướng, còn bà thì tại sao bà lại khóc như cha chết vậy. Sao lại vớ vẩn thế”. Anh ta không biết nỗi đau đớn của tôi khi thấy thân phận của người Việt Nam.

Man rợ thắng Văn minh.

Hiển nhiên, trước mắt thì ai cũng thấy như thế. Nhưng đấy là mặt nổi của vấn đề. Ngay cả bà DTH, cũng không thể nhìn sâu hơn, để mà nhận ra, là, đâu có phải tự nhiên mà thanh niên Miền Bắc nhỏ máu đầu ngón tay viết đơn tình nguyện vô Nam.
Nhà văn Bùi Ngọc Tuấn nhìn "sâu" hơn, coi tình trạng man rợ của Miền Bắc, là nằm trong chính sách “pha lê hóa”, ông bị nhà nước bỏ tù, mà còn phải cám ơn nhà nước, bởi nếu không, làm sao lấy được Miền Nam?

BNT viết:

Trong chiến tranh, việc gìn giữ hậu phương là vô cùng quan trọng. Hậu phương là gốc rễ, là cội nguồn, là căn cứ bảo đảm sống còn cho tiền tuyến, cho chiến đấu và chiến thắng.
Khẩu hiệu: Dù phải đốt cháy dẫy Trường Sơn cũng vẫn chiến đấu tới thắng lợi hoàn toàn đã thể hiện rõ quyết tâm của miền Bắc giành chiến thắng bằng bất kỳ giá nào. Sự có mặt của 50 vạn sĩ quan và binh lính Mỹ cùng quân đội các nước đồng minh như Nam Triều Tiên, Úc,... tại miền Nam Việt Nam đã đẩy miền Bắc Việt Nam vào những năm tháng cực kỳ gay go gian khổ: Dốc toàn bộ nhân lực, vật lực, hy sinh tất cả cho cuộc chiến.
Trong cuộc chiến tranh khốc liệt này, miền Bắc thực hiện chủ trương pha lê hoá hậu phương. Những người đã từng cộng tác với Pháp, với Mỹ, những người có biểu hiện thiếu lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, những phần tử đáng ngờ, những kẻ trộm cắp, du thủ du thực,... tóm lại tất cả những gì là vẩn đục so với yêu cầu trong như pha lê của một xã hội cần pha lê hoá, đều bị tập trung cải tạo và đó được coi là một biện pháp không thể thiếu. Hơn nữa, nó còn có ý nghĩa răn đe những người khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung.

Giả như Miền Bắc văn minh như...  Miền Nam, thì liệu có "thoát" cuộc chiến "lầm lẫn"?
Giả như đúng là man rợ thắng văn minh, thì kể từ 30 Tháng Tư 1975, đất nước thống nhất, xứ Mít có đủ mọi khả năng, cơ hội, cứ phăng phăng mà tới văn minh, vậy mà đi lùi đến như hiện nay, là sao?

Rồi còn cái đám tinh anh Miền Nam, được Miền Nam cho đi du học, như là 1 cái nguồn dành cho hậu chiến, chúng quá rành chế độ văn minh của Miền Nam, tại sao cho đến giờ chúng vẫn bợ đít… man rợ?
GCC nhìn khác bà DTH: Cuộc chiến Mít là giấc mơ đẹp nhất của dân Mít. Dân Mít được Thượng Đế cho có mặt ở trên cõi đời này, là để thực hiện nó, dòng dã theo suốt chiều dài lịch sử Nam Tiến của nó.
Bạn có thể giải thích lịch sử Nam Tiến của dân Mít, như là 1 cuộc chạy trốn man rợ, mà nguồn gốc của nó là Cái Ác Bắc Kít, như trường hợp Nguyễn Hoàng bỏ chạy Miền  Bắc, tìm chốn vạn đại dung thân.
Cái khốn kiếp, chỉ xẩy ra sau ngày 30 Tháng Tư 1975.

Làm gì có hàm hồ, lầm lẫn của lịch sử.

INTELLIGENCE

THE BIG QUESTION

What is the deadliest sin? Richard Holloway makes the case for envy, Will Self for pride, Ann Wroe for ingratitude, Jesse Norman for greed and Aminatta Forna for gluttony, while Camila Batmanghelidjh says it is sloth and Robert Guest chooses lust

Tờ Intel, Intel Life, số mới nhất, đưa ra câu hỏi, tội lỗi khốn kiếp nhất, là tội gì?
Một độc giả/tác giả chọn "envy".
Đọc bài viết, liên tưởng khùng, thì ngộ ra là, Cuộc Chiến Mít, là do thèm muốn mà ra.
Đói quá, thấy cái gì của Nam Kít, cũng thèm.
Bốn ngàn năm đói, làm sao tha tụi chúng cho được!

Hà, hà

ENVY IS THE DEADLIEST SIN

The Big Question: Richard Holloway thinks that envythe sin we rarely own up tois the meanest and most desolate

From INTELLIGENT LIFE magazine, May/June 2014

In the Greek New Testament the word used for sin is a term from archeryhamartaneinmeaning “to miss the mark”. We aim to do the right thing, gain a positive end, even if it’s only some sort of pleasure, but our arrow veers off and instead of the bull’s eye we hit someone in the field beyond. In other words, our mistakes are usually misdirected attempts at the good rather than intentional pursuit of the bad. But there is one exception to this positive understanding of sin: envy.

Every other sin offers some gratification, if only in its early stages, but envy is an empty and desolating experience from beginning to end. It is the meanest sin in the book, which is why few people ever own up to it. François de La Rochefoucauld captured its joyless secrecy in 1665: “We often pride ourselves on even the most criminal passions, but envy is a timid and shame-faced passion we never dare acknowledge.” Virginia Woolf thought it was the besetting sin of writers, and Gore Vidal agreed with her. Whenever a friend succeeded, he wrote, a little something in him died; for him it was not enough to succeedothers had to fail. Vidal’s spleen captures both aspects of envy: sorrow at another’s good and satisfaction at another’s misfortune, what the Germans call Schadenfreude, shame-joy, pleasure in the distress of others.

The most obvious symptom of envy is malice. However witty and entertaining you may find their skilful dismembering of the reputations of others, you can be certain that the malicious person is being eaten alive with envy at another’s success or celebrity. Behind many a bitchy comment there lurks a troubled and dissatisfied heart.

And since envy is a sin between friends or equals, another of its symptoms is hypocrisy, acting pleasure in another’s good fortune when you actually feel gut-clenching pain. It shows in the tightness of your smile and the shadow behind your eyes as you dredge up your congratulations from a well of bitterness.

Is there any remedy for this nasty little sin? There are two steps we can take to get it under control. The first is to acknowledge its presence and admit our own meanness of spirit. The other step is to recapture our capacity for sharing the joy of others. It is not what John Donne said, of course, but it is nevertheless true that another’s good also increases meso rejoice!


Slavoj Žižek

Lenin v. Stalin in Kiev

Barbarism with a Human Face

*

*

*

Hồn thiêng thành phố thức giấc ở trong tôi

 Trước 1975, tôi làm ở… bên trong Bưu Điện. Sau 1975, tôi làm ở… bên ngoài, ở vỉa hè tòa nhà Bưu Điện, kế bên Nhà Thờ Đức Bà. Viết mướn. Điện tín, thư từ tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Việt. Thân chủ đa số là những người có bà con, thân nhân vượt biển, đang ở trại tị nạn, hoặc đã định cư nơi nước ngoài.
Thời gian này cả Sài Gòn, nói rộng ra, cả nước đang đói. Đám Ngụy, lại càng đói. Một lần, một thân chủ tốt bụng cho tôi địa chỉ một nữ tu viện Thiên chúa giáo ở Thái Lan. Ôi, quí giá biết là chừng nào. Viết thư cầu cứu, mấy bà sơ gửi cho một thùng đồ, trị giá gần một cây vàng. Đám viết mướn vỉa hè Bưu Điện chúng tôi cứ thế trao đổi, chuyền cho nhau những địa chỉ tương tự. Tới tai nhà nước. Chúng tôi được đặc biệt để ý, một phần là vậy: làm nhục nhà nước. Ngoài ra còn nhiều tội khác nữa. Thành phần ăn bám xã hội. Trốn tránh đi vùng Kinh Tế Mới. Khuyến khích nhân dân bỏ nước ra đi.
Chả là, trong số những thân chủ, có những người trước đi lính hoặc làm việc cho Pháp, nay làm đơn xin tiền cấp dưỡng, tiền truy lãnh những năm chiến tranh bị gián đoạn, hoặc xin bảo lãnh qua Pháp.
Sau tới chương trình ODP.
Lần chót tụi tôi nhận được thư của mấy bà sơ, là những lời ân hận, vì không thể tiếp tục gửi quà cứu trợ. Nhà nước Việt Nam đã gửi thư cho mấy bà, yêu cầu đừng gửi đồ cho từng cá nhân. Hãy gửi tới cơ quan nhà nước. Hãy gửi tới Hội Chữ Thập Đỏ.
Không thể gửi, nhưng chắc chắn mấy bà sơ vẫn không quên cầu nguyện cho gia đình chúng tôi. 

Chứng cớ là… 

Nhờ viết muớn ở Bưu Điện, tôi gặp lại một anh bạn, trước 1975 làm nhiếp ảnh viên cho một hãng thông tấn Mỹ. Tôi là người gửi những tấm hình chiến trường của anh, và của những nhiếp ảnh viên khác trong hãng, bằng phương pháp vô tuyến viễn ảnh.
Anh tới Bưu Điện, tính gửi hồ sơ ODP qua Bangkok. Thời gian đó, tụi tôi móc nối được với một vài nhân viên Bưu Điện, chỉ để chuyển hồ sơ ODP. Tốn thêm tiền cho thân chủ, lẽ dĩ nhiên, nhưng chắc chắn tới nơi. Những ngày tháng lê la bên vỉa hè, những địa chỉ như văn phòng ODP ở Bangkok, văn phòng Hội Cựu Chiến Binh Pháp ở Paris… là những cần câu cơm của tụi này. Còn những địa danh như Galand, Songkhla (?), Panat Nikhom, hoặc quá xa hơn, những Wesminster CA, Santa Ana… là những khung trời mơ ước của mấy tên viết mướn tụi tôi!
Khung trời mơ ước, ôi chao, xa vời quá! Chuyện trước mắt, mì ăn liền: những thân nhân sau khi lãnh thùng đồ, ghé vội mấy ông viết mướn, đánh giùm tôi cái điện tín: đã nhận đồ. Tôi nhớ một lần, có hai anh chị hớn hở tới "order": viết giùm cái thư, nói kheo khéo giùm: ở bên này em nhớ anh lắm, mau mau bảo lãnh em qua! Tôi cứ nhìn hiện tại, để nói về quá khứ: những ngày anh còn ở bên em; và cứ nhìn tương lai, khi anh và em tái ngộ nơi quê người, theo kiểu hiện tại, của đôi nhân tình.
Bởi vì "nhiệm sở" ngay bên Vương Cung Thánh Đường, những buổi sáng sớm "chợ chưa họp", chúng tôi thường vô hẳn bên trong nhà thờ quỳ cầu nguyện. Buổi trưa, thay vì quì, chúng tôi nằm "ngơi" ngay lối đi phía trước, dưới vòm cung, phía sau tượng Đức Mẹ, hay chạy qua phía bên kia đường, khu nhà ở của mấy ông cha, có bữa ngủ quên tới tận chiều, mấy ông cha lại phải cho người giúp việc ra đánh thức!
Đêm Giáng Sinh, làm sao Chúa bỏ quên lũ chúng tôi! Người cũng không quên mấy đứa nhỏ: tụi nó đã sửa soạn lễ Giáng Sinh cùng với mẹ, ngay từ đầu tháng, bằng cách cặm cụi làm côngfetti, không phải để ném lên đầu nhau, mà là để bán cho người dân Sài Gòn, đông nghẹt quảng trường Kennedy, đêm Chúa ra đời. Nếu khát nước, bạn có thể vừa mua côngfetti, vừa uống ly nước trà của bà mẹ chúng, trên chiếc bàn dã chiến, di động chung quanh tượng Đức Mẹ, có khi tới tận Nhà Hát Lớn trên đường Tự Do.

nam                                                            

Trong không khí hân hoan "cả nước đang sửa soạn làm lễ kỷ niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân 1985", tôi gặp lại Châu Văn Nam

Trong chiến tranh Việt Nam, thời gian làm cho cơ quan báo chí Nhật (Asahi Shinbum), anh đã từng vào chiến khu chứng kiến cảnh Việt Cộng thả ba tù binh Mỹ, trong có một Mỹ đen, tại Bến Kéo, Trà Xim (Củ Chi). Đây là lần thả tù binh đầu tiên. Chuyện xẩy ra trước ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, vì vậy anh bị rút thẻ báo chí Mỹ, MACVI. Anh cũng là người đầu tiên theo người Mỹ đổ quân tại Quảng Trị, từ chiến hạm Okinawa thuộc Đệ Thất Hạm Đội, vào năm 1967. Phóng viên đầu tiên về Châu Đốc, tham gia chiến dịch đổ quân Trà Keo, giải cứu thường dân ở Kampuchia. Đã từng phỏng vấn tướng Đỗ Cao Trí tại Sawy Riêng. Tất cả những sự kiện trên, là do anh kể cho tôi nghe. Quan trọng nhất, anh nhấn mạnh với tôi, là hai chữ "đầu tiên". 

Tôi quen anh những ngày anh bỏ tờ báo Nhật, qua làm cho thông tấn xã UPI. Gốc "chệt", người nhỏ thó, tóc xoắn tít. Có lần trong lúc hơi ngà ngà, anh tỏ ra tự hào, về mấy ‘quí tướng’ của anh. Anh chỉ ân hận, là đã bỏ cuộc quá sớm. Sau Mậu Thân, bà vợ rét quá, bắt ông chồng ở nhà bế con, không cho vác máy hình nữa.
Anh nghĩ rằng, anh vẫn còn nợ chiến tranh một điều gì đó. (Món nợ này, độc giả cho phép tôi nợ lại, vào một dịp khác sẽ nói rõ hơn.)
 Nhờ vậy, mà có chuyến vượt biển tại bãi biển Vàm Láng, Gò Công vào đúng đêm ông Táo cưỡi cá chép lên chầu Trời.
Trên một số báo Văn, tôi đã viết về chuyến đi này, và cái cảnh tượng bi hài: trong đêm tối, ghe gặp bão ngay bên ngoài cửa biển Vũng Tầu; một anh chàng thanh niên đã lầm tôi với người yêu của anh, và cứ thế vò đầu vò tóc "người yêu", lảm nhảm những lời cuối cho cuộc tình, cho một tương lai tươi sáng ở nơi xứ người… 

Sau khi ra tù, anh bạn tôi lại tìm cách đi nữa. Nhờ vậy, có chuyến du lịch Bangkok.
Hai vợ chồng tôi tới Bangkok ngày 19 tháng Năm, năm 1990. Đúng ngày sinh của ông Hồ. Sau này, tôi tăng thêm một ngày, trong lý lịch Cao Uỷ.
Đó là một bữa thứ bẩy. Sau khi đi lang thang trong thành phố tới rã người, trước viễn ảnh một buổi tối thật đen tối, chợt nhớ tới cái địa chỉ đã từng là cứu tinh những ngày đói rã họng ở quê nhà, tụi này bèn kêu tắc xi, nói "Vạt, vạt" (Vạt, tiếng Thái, có nghĩa là chùa chiền, tu viện). Anh chàng tắc xi người Thái đưa, không phải tới cái địa chỉ mà chẳng ai còn biết đó, mà là nhà thờ St. Francis, tại một khu sang trọng thuộc trung tâm thành phố. Tới sân nhà thờ, nhìn thấy một chiếc xe hơi với hàng chữ tiếng Anh, Cơ quan Cứu Trợ Cao Uỷ Tị Nạn, tôi la thầm trong bụng: Chúa cứu ta rồi!
Vị cha già trụ trì nhà thờ là người Pháp. Ông không dấu vẻ ngạc nhiên, khi nghe gã đàn ông ốm đói, mệt lả, nhưng "thao thao bất tuyệt" xổ ra hàng tràng tiếng Tây, (sau này, nghĩ lại, tôi cũng không thể hiểu nổi tại sao bữa đó, mình lưu loát đến như thế! Nhất là đây là lần đầu tiên, kể từ tháng Tư 1975, tôi mới có dịp "thực tập" tiếng Tây!)
Sau đó, Cha cho trú ngụ tại một căn phòng ở bên trường học, kế ngay bên nhà thờ, do nhà thờ quản lý, bỏ qua tất cả những lời khuyên nên báo cảnh sát để cho nhà thờ khỏi bị liên lụy.
Chúng tôi ở đây hết ngày thứ bẩy và chủ nhật. Sáng thứ hai, Cha đưa tụi này tới cơ quan ODP, nằm bên trong tòa nhà khổng lồ City Bank. Ông trình giấy tờ, yêu cầu được coi hồ sơ ODP của tụi này. Chỉ tới khi đó, Cha mới thực sự tin tưởng, và có thể, hài lòng, vì đã làm đúng ý Chúa!
Cha yêu cầu cho gặp một vị luật sư của ODP. Vị này khuyên, chỉ có mỗi một cách: đưa mấy người này vào đồn cảnh sát. Sau khi hết hạn tù, ông sẽ báo bên Cao Uỷ cho xe "rước’ về trại tị nạn.
Cha đưa tụi này tới một đồn cảnh sát Thái.
Trước khi từ biệt, Cha đã dịch cho tôi nghe những lời cảnh cáo của viên cảnh sát: Tôi có thể bắt Cha, vì tội chứa chấp những người nhập cảnh bất hợp pháp.
Sau đó, Cha còn tới nhà tù thăm tụi này, cho tiền, đưa lại mớ "bản thảo", là mấy cuốn tập ghi vắn tắt một số sự kiện về những ngày ở Đất Phật, và chuyến vượt sông Mekong vào đất Thái của tôi.
Tôi gặp lại le Carré ở nhà tù Bangkok. 

Trong cuộc chiến Việt Nam, vì quá sợ nó, tôi tìm đủ mọi cách để chạy trốn. Một trong những chỗ ẩn núp "tương đối" an toàn, là sách vở. (Ngoài sách vở ra, còn một mê cung khác, an toàn hơn, bởi vì thê thảm hơn, tôi đã tưởng hết lối ra, may nhờ… nhưng thôi để dịp khác…)
Trong sách vở, có truyện trinh thám. Những cuốn tiểu thuyết đen, série noire, với những tác giả như James Hadley Chase, Georges Simenon… và John le Carré, được coi là "ông vua" của tiểu thuyết gián điệp, với bối cảnh là Cuộc Chiến Lạnh.

Tôi tình cờ khám phá ra ông, nhân bữa ghé tiệm sách Xuân Thu, ở đường Tự Do Sài Gòn, thấy cuốn Gián Điệp Từ Miền Lạnh, bản tiếng Pháp (L’Espion qui venait du froid). Mấy chữ "venait du froid" đập ngay vào mắt. Như thể sợ, mà vẫn tò mò muốn biết, muốn thử! Y hệt nỗi sợ cuộc chiến! Biết chắc chạy trời không khỏi nắng, nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để kéo dài thời gian "hoãn dịch". Một cái sợ tiềm ẩn, ma quái, đâu đó từ góc sâu quá khứ… Trong một thoáng, giữa không khí ấm áp của Sài Gòn, tôi như sống lại nỗi buốt giá của một miền đất, của một tuổi thơ, trong khi cuộc chiến đang rình rập, ngay… bên ngoài lề đường!
Chả là, tôi người Bắc, bố mất sớm, mẹ còn trẻ, một nách bốn con, cứ phải gửi hết đứa này đứa nọ ăn nhờ ở đậu nơi bà con bên nội bên ngoại… những chi tiết chẳng liên quan gì tới Gián Điệp Từ Miền Lạnh, nhưng chính là cánh cửa mở vào tiểu thuyết của le Carré.

Trong ba tháng nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, giữa đủ thứ thành phần (trộm cướp, buôn lậu ma túy, giấy thông hành hết hạn, kháng chiến quân chống nhà cầm quyền Miến Điện, chống nhà nước Cộng Sản Việt Nam…); đủ thứ sắc dân (Anh, Pháp, Ấn Độ, Miến, Mã Lai, Campuchia…), tôi gặp lại Call For The Dead của le Carré trong mớ đồ lỉnh kỉnh của một anh bạn Mã Lai nằm kế bên. Cuốn sách mỏng, chỉ trên trăm trang, ghi chú tùm lum, nào số điện thoại, nào những con chữ lằng ngoằng…

Tôi đã đọc bản tiếng Pháp, L’appel du mort, nhưng không bắt được cái mạch của nó.
Lần này, cuốn sách bắt được mạch của tôi.
Đúng hơn, lần này thành phố đã… 

Như trên đã nói, tôi đọc le Carré qua bản dịch tiếng Pháp. Lần đọc đầu, tôi chỉ để ý đến cốt truyện, đến cuộc đấu trí giữa hai phe "chính tà’ qua hai nhân vật ở trong đó.

Đây là câu chuyện một nhân viên ngoại giao tự tử, sau khi bị sở cho người điều tra, vì nghi là "thân Cộng". Để lại thư tố cáo. Người lãnh đạn, là Smiley, nhân viên được sở cử đi điều tra. "Anh điều cha điều bố thế nào để cho con người ta cảm thấy nhục nhã, mất danh dự đến nỗi phải tự tử để minh oan?"
Trước mắt, ngay sáng sớm hôm sau, Smiley phải tới gặp bà vợ, để thay mặt sở chia buồn. Đang nói chuyện, có điện thoại. Tưởng của Sếp, anh nhắc nghe, nhưng của nữ điện thoại viên bưu điện, do người đã chết tối hôm qua đã dặn, "tám giờ sáng, nhớ đánh thức tôi nhé!"
Smiley tự hỏi: làm sao một người sửa soạn từ giã cõi đời, lại nhờ người đánh thức?
Hoá ra là bà vợ mới là gián điệp nằm vùng. Bồ của bà, một điệp viên Đông Đức. Trong thời gian chiến tranh, anh này là nhân viên của Smiley. Một tay cộng sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa cộng sản sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"!
Smiley vẫn còn nhớ, cách anh này hẹn gặp nhân viên dưới quyền.
Anh thử làm theo, và thành công.
Anh cho hai người gặp nhau tại một rạp hát. Khi nhân viên dưới quyền xin lệnh bắt, Smiley lắc đầu, không có chứng cớ, bắt cũng phải thả ra thôi. Nhưng anh ra lệnh: cứ để yên, sẽ có biến động. Hãy để cô cậu cuống cuồng, thất kinh… quýnh quá thể nào cũng làm một điều gì đó. (Let them bolt, panic, anything… so long as they do ‘something’). Bởi vì theo anh, Dieter, nhân viên cũ của anh, khi gặp cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ nghĩ rằng phản gián Anh đã biết tất cả.
Vấn đề là: anh ta sẽ hành động như thế nào?
The Last Act, màn chót của vở hát và cũng là màn chót của cuộc đấu trí, Dieter xiết cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và rời rạp hát cùng với khán thính giả.
Dieter và Smiley đụng độ tại một cây cầu, giữa sương mù dầy đặc, trên sông Thames. Nhớ lại những năm tháng cùng chống Quốc Xã, Dieter tha chết cho tên bạn đế quốc, và chịu chết thay vì đầu hàng.

Những đoạn đối đáp giữa bà vợ và Smiley, giữa Similey và Mendel, người bạn làm nghề cảnh sát… là những trang đẹp nhất trong truyện:

(Mendel hỏi Smiley):
-Bà ta có phải là cộng sản không?
-Tôi không tin bà ta thích những nhãn hiệu. Tôi tin rằng, bà muốn xây dựng một thế giới có thể sống mà không có tranh chấp… Hoà bình là một từ dơ dáy, hiện nay, có phải không? Tôi nghĩ, bà muốn hoà bình.
(I don’t think she liked labels. I think she wanted to help build one society which could live without conflict. Peace is a dirty word now, isn’t it? I think she wanted peace.)
-Còn Dieter?
-Trời biết Dieter muốn gì. Thanh danh, tôi nghĩ vậy. Và một thế giới xã hội chủ nghĩa. Smiley nhún vai. "Họ mơ tưởng hoà bình và tự do. Và bây giờ, họ là những tên sát nhân, những tên gián điệp."
-Trời đất!
Smiley im lặng một lát:
-Tôi không hy vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nhìn thấy tận cùng của anh ta. Tôi đã nhìn thấy khởi đầu. Anh ta là một trong những người xây dựng thế giới. Những người tưởng là xây dựng, nhưng thật ra là hủy diệt. 

Lần đọc đầu, tôi chỉ để ý đến những màn giật gân, những câu đối đáp nẩy lửa như trên.
Lần thứ nhì, một chi tiết, đúng ra là một "cụm từ", trong một câu văn, đập thẳng vào mắt tôi.
Bạn không thể tưởng tượng, khi nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, tôi đã nhớ Sài Gòn tới mức nào. Và cái cụm từ ở trên, nó "liên quan" tới… Sài Gòn!

Câu văn ở chương hai. Chương này tả cảnh tượng Smiley đang đêm bị sếp dựng dậy, bắt phải tới sở trình diện. Ngồi trên xe tắc xi, anh cứ nghĩ, mình vẫn còn đang ngủ trên giường nệm ấm áp, đây chỉ là hồn ma của mình đang run rẩy giữa thành phố London:

"Trong tắc xi ông cảm thấy an toàn. An toàn và ấm áp. Cái ấm là món hàng chui, tuồn từ chiếc giường, được tích trữ nhằm chống lại đêm tháng Giêng ẩm ướt. An toàn, vì không thực: đây là hồn ma của mình đang lang thang trên đường phố Luân Đôn…"
(He felt safe in the taxi. Safe and warm. The warmth was contraband, smuggled from his bed and hoarded against the wet January night. Safe because unreal: it was his ghost that ranged the London streets….)

Những từ safe, unreal…như từ cuộc chạy trốn quê hương trỗi dậy, gây trạng thái chập chờn nửa thức nửa ngủ. An toàn ở trong một nhà tù, cách xa nhà tù quê hương. Không thực, vì chung quanh là cả một khối hỗn độn người ngợm lạ hoắc… cứ thế, một đoạn văn ở trong tôi lập đi lập lại, theo cùng với những con chữ: Trong những đêm chập chờn mất ngủ… hồn ma… his ghost, không, không, đây là hồn ma của chính mình đang lang thang ở Sài Gòn… không, không, không phải hồn ma của mình, mà là… hồn thiêng, hồn thiêng của thành phố đang trỗi dậy… thế là tôi ráp lại: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những đường phố cũ…". Tới đó tịt luôn.

Phải tới khi ra nhà tù, vào trại tị nạn, mãi mãi sau đó, tôi mới kết thúc nổi câu văn:
 "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể."
Một thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó…


The Paris Review

It seems to me that your novel is akin to something like this end of history. It’s written from the vantage point of the early 2000s, yet it captures the moment at the fall of Communism in 1990, a moment at which various currents merge and collide, forming a point of crystallization, and possibly liquidation, for twentieth-century history.

Hình như cuốn tiểu thuyết của ông giống như tận cùng lịch sử. Nó được viết vào khoảng đầu thập niên 2000 [chắc cùng thời gian với Chuyện Kể Năm 2000, của Bùi Ngọc Tấn], tuy nhiên, nó tóm được cái khoảnh khắc CS gục, năm 1990, một thời điểm mà những dòng hợp lưu & xung đột & va chạm…. tạo thành điểm kết tinh, có thể nói, điểm “làm thịt” thế kỷ 20.

KERTÉSZ

Actually, you’re completely right. It’s exactly like that. We’ve got the man who was born in Auschwitz, and then Judit, the woman who experiences Auschwitz through him and who attempts to find a conclusion to her own history. But then she escapes that world and marries a man who is untouched by totalitarianism. She decides to have children, and thus commits herself to life. That was the secret, the gesture—bearing children is the gesture that creates the possibility of continued life. Faced with choosing between life and death, she opts for life.

Đúng quá! Chúng ta có 1 thằng dàn ông sinh ra tại Lò Thiêu, rồi có 1 cô gái kinh nghiệm Lò Thiêu qua anh ta, cô toan tính tìm một kết luận cho chính câu chuyện của riêng cô. Thế rồi cô bỏ chạy thế giới đó, kết hôn với 1 người đàn ông vô can với chế độ toàn trị. Cô bèn quyết định sống, có con. Có con là 1 cử chỉ tiếp tục cuộc đời, chọn cuộc đời thay vì chọn cái chết.

For even there, next to the chimneys, in the intervals between the torments, there was something that resembled happiness. Everyone asks only about the hardships and the "atrocities," whereas for me perhaps it is that experience which will remain the most memorable. Yes, the next time I am asked, I ought to speak about that, the happiness of the concentration camps. If indeed I am asked. And provided I myself don't forget.

Ngay cả ở đó, kế bên những ống khói, trong những giờ nghỉ giữa những thống khổ, có một điều gì đó giống như hạnh phúc. Mọi người chỉ hỏi về những cực nhọc, những “tàn bạo”, trong khi với tôi, có lẽ chỉ cái kinh nghiệm đó đáng nhớ nhất. Vâng, đúng như thế, lần tới, nếu được hỏi, tôi sẽ nói về cái đó, về hạnh phúc ở trại tập trung.
Nếu được hỏi, cầu tôi chẳng quên.

Kertesz: Fateless