Hồn
thiêng thành phố thức giấc ở trong tôi
Gửi
những cư dân của một thành phố có tên là Sài Gòn.
Gửi
Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Toàn.
Gửi
theo Nguyễn Nhật Duật, Sĩ Phú, Joseph Huỳnh Văn
(NQT)
Trước
1975, tôi làm ở… bên trong Bưu Điện. Sau 1975, tôi làm ở… bên ngoài, ở
vỉa hè
tòa nhà Bưu Điện, kế bên Nhà Thờ Đức Bà. Viết mướn. Điện tín, thư từ
tiếng Anh,
tiếng Pháp, và tiếng Việt. Thân chủ đa số là những người có bà con,
thân nhân
vượt biển, đang ở trại tị nạn, hoặc đã định cư nơi nước ngoài.
Thời
gian này cả Sài Gòn, nói rộng ra, cả nước đang đói. Đám ngụy, lại càng
đói. Một
lần, một thân chủ tốt bụng cho tôi địa chỉ một nữ tu viện Thiên chúa
giáo ở
Thái Lan. Ôi, quí giá biết là chừng nào. Viết thư cầu cứu, mấy bà sơ
gửi cho
một thùng đồ, trị giá gần một cây vàng. Đám viết mướn vỉa hè Bưu Điện
chúng tôi
cứ thế trao đổi, chuyền cho nhau những địa chỉ tương tự. Tới tai nhà
nước.
Chúng tôi được đặc biệt để ý, một phần là vậy: làm nhục nhà nước. Ngoài
ra còn
nhiều tội khác nữa. Thành phần ăn bám xã hội. Trốn tránh đi vùng Kinh
Tế Mới.
Khuyến khích nhân dân bỏ nước ra đi.
Chả
là, trong số những thân chủ, có những người trước đi lính hoặc làm việc
cho
Pháp, nay làm đơn xin tiền cấp dưỡng, tiền truy lãnh những năm chiến
tranh bị
gián đoạn, hoặc xin bảo lãnh qua Pháp.
Sau
tới chương trình ODP.
Lần
chót tụi tôi nhận được thư của mấy bà sơ, là những lời ân hận, vì không
thể
tiếp tục gửi quà cứu trợ. Nhà nước Việt Nam
đã gửi thư cho mấy bà, yêu cầu đừng gửi đồ cho từng cá nhân. Hãy gửi
tới cơ
quan nhà nước. Hãy gửi tới Hội Chữ Thập Đỏ.
Không
thể gửi, nhưng chắc chắn mấy bà sơ vẫn không quên cầu nguyện cho gia
đình chúng
tôi.
Chứng
cớ là…
Nhờ
viết muớn ở Bưu Điện, tôi gặp lại một anh bạn, trước 1975 làm nhiếp ảnh
viên
cho một hãng thông tấn Mỹ. Tôi là người gửi những tấm hình chiến trường
của
anh, và của những nhiếp ảnh viên khác trong hãng, bằng phương pháp vô
tuyến
viễn ảnh.
Anh
tới Bưu Điện, tính gửi hồ sơ ODP qua Bangkok.
Thời gian đó, tụi tôi móc nối được với một vài nhân viên Bưu Điện, chỉ
để
chuyển hồ sơ ODP. Tốn thêm tiền cho thân chủ, lẽ dĩ nhiên, nhưng chắc
chắn tới
nơi. Những ngày tháng lê la bên vỉa hè, những địa chỉ như văn phòng ODP
ở
Bangkok, văn phòng Hội Cựu Chiến Binh Pháp ở Paris… là những cần câu
cơm của
tụi này. Còn những địa danh như Galand, Songkhla (?), Panat Nikhom,
hoặc quá xa
hơn, những Wesminster CA, Santa Ana… là những khung trời mơ ước của mấy
tên
viết mướn tụi tôi!
Khung
trời mơ ước, ôi chao, xa vời quá! Chuyện trước mắt, mì ăn liền: những
thân nhân
sau khi lãnh thùng đồ, ghé vội mấy ông viết mướn, đánh giùm tôi cái
điện tín:
đã nhận đồ. Tôi nhớ một lần, có hai anh chị hớn hở tới "order": viết
giùm cái thư, nói kheo khéo giùm: ở bên này em nhớ anh lắm, mau mau bảo
lãnh em
qua! Tôi cứ nhìn hiện tại, để nói về quá khứ: những ngày anh còn ở bên
em; và
cứ nhìn tương lai, khi anh và em tái ngộ nơi quê người, theo kiểu hiện
tại, của
đôi nhân tình.
Bởi
vì "nhiệm sở" ngay bên Vương Cung Thánh Đường, những buổi sáng sớm
"chợ chưa họp", chúng tôi thường vô hẳn bên trong nhà thờ quỳ cầu
nguyện. Buổi trưa, thay vì quì, chúng tôi nằm "ngơi" ngay lối đi phía
trước, dưới vòm cung, phía sau tượng Đức Mẹ, hay chạy qua phía bên kia
đường, khu
nhà ở của mấy ông cha, có bữa ngủ quên tới tận chiều, mấy ông cha lại
phải cho
người giúp việc ra đánh thức! Đêm Giáng Sinh, làm sao Chúa bỏ quên lũ
chúng
tôi! Người cũng không quên mấy đứa nhỏ: tụi nó đã sửa soạn lễ Giáng
Sinh cùng
với mẹ, ngay từ đầu tháng, bằng cách cặm cụi làm côngfetti, không phải
để ném
lên đầu nhau, mà là để bán cho người dân Sài Gòn, đông nghẹt quảng
trường
Kennedy, đêm Chúa ra đời. Nếu khát nước, bạn có thể vừa mua côngfetti,
vừa uống
ly nước trà của bà mẹ chúng, trên chiếc bàn dã chiến, di động chung
quanh tượng
Đức Mẹ, có khi tới tận Nhà Hát Lớn trên đường Tự Do.
Trong
không khí hân hoan "cả nước đang sửa soạn làm lễ kỷ niệm Mười Năm Đại
Thắng Mùa Xuân 1985", tôi gặp lại anh bạn Ng.
Trong
chiến tranh Việt Nam, thời gian làm cho cơ quan báo chí Nhật (Asahi
Shinbum),
anh đã từng vào chiến khu chứng kiến cảnh Việt Cộng thả ba tù binh Mỹ,
trong có
một Mỹ đen, tại Bến Kéo, Trà Xim (Củ Chi). Đây là lần thả tù binh đầu
tiên.
Chuyện xẩy ra trước ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, vì vậy anh bị
rút thẻ báo
chí Mỹ, MACVI. Anh cũng là người đầu tiên theo người Mỹ đổ quân tại
Quảng Trị,
từ chiến hạm Okinawa
thuộc Đệ
Thất Hạm Đội, vào năm 1967. Phóng viên đầu tiên về Châu Đốc, tham gia
chiến
dịch đổ quân Trà Keo, giải cứu thường dân ở Kampuchia. Đã từng phỏng
vấn tướng
Đỗ Cao Trí tại Sawy Riêng. Tất cả những sự kiện trên, là do anh kể cho
tôi
nghe. Quan trọng nhất, anh nhấn mạnh với tôi, là hai chữ "đầu tiên".
Tôi
quen anh những ngày anh bỏ tờ báo Nhật, qua làm cho thông tấn xã UPI.
Gốc
"chệt", người nhỏ thó, tóc xoắn tít. Có lần trong lúc hơi ngà ngà,
anh tỏ ra tự hào, về mấy ‘quí tướng’ của anh. Anh chỉ ân hận, là đã bỏ
cuộc quá
sớm. Sau Mậu Thân, bà vợ rét quá, bắt ông chồng ở nhà bế con, không cho
vác máy
hình nữa.
Anh
nghĩ rằng, anh vẫn còn nợ chiến tranh một điều gì đó. (Món nợ này, độc
giả cho
phép tôi nợ lại, vào một dịp khác sẽ nói rõ hơn.)
Nhờ
vậy, mà có chuyến vượt biển tại bãi biển Vàm Láng, Gò Công vào đúng đêm
ông Táo
cưỡi cá chép lên chầu Trời.
Trên
một số báo Văn, tôi đã viết về chuyến đi này, và cái cảnh tượng bi hài:
trong
đêm tối, ghe gặp bão ngay bên ngoài cửa biển Vũng Tầu; một anh chàng
thanh niên
đã lầm tôi với người yêu của anh, và cứ thế vò đầu vò tóc "người
yêu", lảm nhảm những lời cuối cho cuộc tình, cho một tương lai tươi
sáng ở
nơi xứ người…
Sau
khi ra tù, anh bạn tôi lại tìm cách đi nữa. Nhờ vậy, có chuyến du lịch Bangkok.
Hai
vợ chồng tôi tới Bangkok
ngày 19 tháng Năm, năm 1990. Đúng ngày sinh của ông Hồ. Sau này, tôi
tăng thêm
một ngày, trong lý lịch Cao Uỷ.
Đó
là một bữa thứ bẩy. Sau khi đi lang thang trong thành phố tới rã người,
trước
viễn ảnh một buổi tối thật đen tối, chợt nhớ tới cái địa chỉ đã từng là
cứu
tinh những ngày đói rã họng ở quê nhà, tụi này bèn kêu tắc xi, nói
"Vạt,
vạt" (Vạt, tiếng Thái, có nghĩa là chùa chiền, tu viện). Anh chàng tắc
xi
người Thái đưa, không phải tới cái địa chỉ mà chẳng ai còn biết đó, mà
là nhà
thờ St. Francis, tại một khu sang trọng thuộc trung tâm thành phố. Tới
sân nhà
thờ, nhìn thấy một chiếc xe hơi với hàng chữ tiếng Anh, Cơ quan Cứu Trợ
Cao Uỷ
Tị Nạn, tôi la thầm trong bụng: Chúa cứu ta rồi!
Vị
cha già trụ trì nhà thờ là người Pháp. Ông không dấu vẻ ngạc nhiên, khi
nghe gã
đàn ông ốm đói, mệt lả, nhưng "thao thao bất tuyệt" xổ ra hàng tràng
tiếng Tây, (sau này, nghĩ lại, tôi cũng không thể hiểu nổi tại sao bữa
đó, mình
lưu loát đến như thế! Nhất là đây là lần đầu tiên, kể từ tháng Tư 1975,
tôi mới
có dịp "thực tập" tiếng Tây!)
Sau
đó, Cha cho trú ngụ tại một căn phòng ở bên trường học, kế ngay bên nhà
thờ, do
nhà thờ quản lý, bỏ qua tất cả những lời khuyên nên báo cảnh sát để cho
nhà thờ
khỏi bị liên lụy.
Chúng
tôi ở đây hết ngày thứ bẩy và chủ nhật. Sáng thứ hai, Cha đưa tụi này
tới cơ
quan ODP, nằm bên trong tòa nhà khổng lồ City Bank. Ông trình giấy tờ,
yêu cầu
được coi hồ sơ ODP của tụi này. Chỉ tới khi đó, Cha mới thực sự tin
tưởng, và
có thể, hài lòng, vì đã làm đúng ý Chúa!
Cha
yêu cầu cho gặp một vị luật sư của ODP. Vị này khuyên, chỉ có mỗi một
cách: đưa
mấy người này vào đồn cảnh sát. Sau khi hết hạn tù, ông sẽ báo bên Cao
Uỷ cho
xe "rước’ về trại tị nạn.
Cha
đưa tụi này tới một đồn cảnh sát Thái.
Trước
khi từ biệt, Cha đã dịch cho tôi nghe những lời cảnh cáo của viên cảnh
sát: Tôi
có thể bắt Cha, vì tội chứa chấp những người nhập cảnh bất hợp pháp.
Sau
đó, Cha còn tới nhà tù thăm tụi này, cho tiền, đưa lại mớ "bản thảo",
là mấy cuốn tập ghi vắn tắt một số sự kiện về những ngày ở Đất Phật, và
chuyến
vượt sông Mekong vào đất Thái của tôi.
Tôi
gặp lại Le Carré ở nhà tù Bangkok.
Trong
cuộc chiến Việt Nam,
vì quá sợ nó, tôi tìm đủ mọi cách để chạy trốn. Một trong những chỗ ẩn
núp
"tương đối" an toàn, là sách vở. (Ngoài sách vở ra, còn một mê cung
khác, an toàn hơn, bởi vì thê thảm hơn, tôi đã tưởng hết lối ra, may
nhờ… nhưng
thôi để dịp khác…)
Trong
sách vở, có truyện trinh thám. Những cuốn tiểu thuyết đen, série noire,
với
những tác giả như James Hadley Chase, Georges Simenon… và John Le
Carré, được
coi là "ông vua" của tiểu thuyết gián điệp, với bối cảnh là Cuộc
Chiến Lạnh.
Tôi
tình cờ khám phá ra ông, nhân bữa ghé tiệm sách Xuân Thu, ở đường Tự Do
Sài
Gòn, thấy cuốn Gián Điệp Từ Miền Lạnh, bản tiếng Pháp (L’Espion qui
venait du
froid). Mấy chữ "venait du froid" đập ngay vào mắt. Như thể sợ, mà
vẫn tò mò muốn biết, muốn thử! Y hệt nỗi sợ cuộc chiến! Biết chắc chạy
trời
không khỏi nắng, nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để kéo dài thời gian "hoãn
dịch". Một cái sợ tiềm ẩn, ma quái, đâu đó từ góc sâu quá khứ… Trong
một
thoáng, giữa không khí ấm áp của Sài Gòn, tôi như sống lại nỗi buốt giá
của một
miền đất, của một tuổi thơ, trong khi cuộc chiến đang rình rập, ngay…
bên ngoài
lề đường!
Chả
là, tôi người Bắc, bố mất sớm, mẹ còn trẻ, một nách bốn con, cứ phải
gửi hết
đứa này đứa nọ ăn nhờ ở đậu nơi bà con bên nội bên ngoại… những chi
tiết chẳng
liên quan gì tới Gián Điệp Từ Miền Lạnh, nhưng chính là cánh cửa mở vào
tiểu
thuyết của Le Carré.
Trong
ba tháng nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, giữa đủ thứ thành phần (trộm
cướp,
buôn lậu ma túy, giấy thông hành hết hạn, kháng chiến quân chống nhà
cầm quyền
Miến Điện, chống nhà nước Cộng Sản Việt Nam…); đủ thứ sắc dân (Anh,
Pháp, Ấn
Độ, Miến, Mã Lai, Campuchia…), tôi gặp lại Call For The Dead của Le
Carré trong
mớ đồ lỉnh kỉnh của một anh bạn Mã Lai nằm kế bên. Cuốn sách mỏng, chỉ
trên
trăm trang, ghi chú tùm lum, nào số điện thoại, nào những con chữ lằng
ngoằng…
Tôi
đã đọc bản tiếng Pháp, L’appel du mort, nhưng không bắt được cái mạch
của nó.
Lần
này, cuốn sách bắt được mạch của tôi.
Đúng
hơn, lần này thành phố đã…
Như
trên đã nói, tôi đọc Le Carré qua bản dịch tiếng Pháp. Lần đọc đầu, tôi
chỉ để
ý đến cốt truyện, đến cuộc đấu trí giữa hai phe "chính tà’ qua hai nhân
vật ở trong đó.
Đây
là câu chuyện một nhân viên ngoại giao tự tử, sau khi bị sở cho người
điều tra,
vì nghi là "thân cộng". Để lại thư tố cáo. Người lãnh đạn, là Smiley,
nhân viên được sở cử đi điều tra. "Anh điều cha điều bố thế nào để cho
con
người ta cảm thấy nhục nhã, mất danh dự đến nỗi phải tự tử để minh oan?"
Trước
mắt, ngay sáng sớm hôm sau, Smiley phải tới gặp bà vợ, để thay mặt sở
chia
buồn. Đang nói chuyện, có điện thoại. Tưởng của Sếp, anh nhắc nghe,
nhưng của
nữ điện thoại viên bưu điện, do người đã chết tối hôm qua đã dặn, "tám
giờ
sáng, nhớ đánh thức tôi nhé!"
Smiley
tự hỏi: làm sao một người sửa soạn từ giã cõi đời, lại nhờ người đánh
thức?
Hoá
ra là bà vợ mới là gián điệp nằm vùng. Bồ của bà, một điệp viên Đông
Đức. Trong
thời gian chiến tranh, anh này là nhân viên của Smiley. Một tay cộng
sản thứ
thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa cộng sản sẽ đưa thiên hạ tới
"thái bường"!
Smiley
vẫn còn nhớ, cách anh này hẹn gặp nhân viên dưới quyền. Anh thử làm
theo, và
thành công.
Anh
cho hai người gặp nhau tại một rạp hát. Khi nhân viên dưới quyền xin
lệnh bắt,
Smiley lắc đầu, không có chứng cớ, bắt cũng phải thả ra thôi. Nhưng anh
ra
lệnh: cứ để yên, sẽ có biến động. Hãy để cô cậu cuống cuồng, thất kinh…
quýnh
quá thể nào cũng làm một điều gì đó. (Let them bolt, panic, anything…
so long
as they do ‘something’). Bởi vì theo anh, Dieter, nhân viên cũ của anh,
khi gặp
cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ nghĩ rằng phản gián Anh đã biết tất cả.
Vấn
đề là: anh ta sẽ hành động như thế nào?
The
Last Act, màn chót của vở hát và cũng là màn chót của cuộc đấu trí,
Dieter xiết
cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và rời rạp hát cùng với khán thính giả.
Dieter
và Smiley đụng độ tại một cây cầu, giữa sương mù dầy đặc, trên sông Thames.
Nhớ lại những năm tháng cùng chống Quốc Xã, Dieter tha chết cho tên bạn
đế
quốc, và chịu chết thay vì đầu hàng.
Những
đoạn đối đáp giữa bà vợ và Smiley, giữa Similey và Mendel, người bạn
làm nghề
cảnh sát… là những trang đẹp nhất trong truyện:
(Mendel
hỏi Smiley):
-Bà
ta có phải là cộng sản không?
-Tôi
không tin bà ta thích những nhãn hiệu. Tôi tin rằng, bà muốn xây dựng
một thế
giới có thể sống mà không có tranh chấp… Hoà bình là một từ dơ dáy,
hiện nay,
có phải không? Tôi nghĩ, bà muốn hoà bình.
(I
don’t think she liked labels. I think she wanted to help build one
society
which could live without conflict. Peace is a dirty word now, isn’t it?
I think
she wanted peace.)
-Còn
Dieter?
-Trời
biết Dieter muốn gì. Thanh danh, tôi nghĩ vậy. Và một thế giới xã hội
chủ
nghĩa. Smiley nhún vai. "Họ mơ tưởng hoà bình và tự do. Và bây giờ, họ
là
những tên sát nhân, những tên gián điệp."
-Trời
đất!
Smiley
im lặng một lát:
-Tôi
không hy vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nhìn thấy tận cùng của anh ta. Tôi đã
nhìn thấy
khởi đầu. Anh ta là một trong những người xây dựng thế giới. Những
người tưởng
là xây dựng, nhưng thật ra là hủy diệt.
Lần
đọc đầu, tôi chỉ để ý đến những màn giật gân, những câu đối đáp nẩy lửa
như
trên.
Lần
thứ nhì, một chi tiết, đúng ra là một "cụm từ", trong một câu văn,
đập thẳng vào mắt tôi.
Bạn
không thể tưởng tượng, khi nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok,
tôi đã nhớ Sài Gòn tới mức nào. Và cái cụm từ ở trên, nó "liên quan"
tới… Sài Gòn!
Câu
văn ở chương hai. Chương này tả cảnh tượng Smiley đang đêm bị sếp dựng
dậy, bắt
phải tới sở trình diện. Ngồi trên xe tắc xi, anh cứ nghĩ, mình vẫn còn
đang ngủ
trên giường nệm ấm áp, đây chỉ là hồn ma của mình đang run rẩy giữa
thành phố London:
"Trong
tắc xi ông cảm thấy an toàn. An toàn và ấm áp. Cái ấm là món hàng chui,
tuồn từ
chiếc giường, được tích trữ nhằm chống lại đêm tháng Giêng ẩm ướt. An
toàn, vì
không thực: đây là hồn ma của mình đang lang thang trên đường phố Luân
Đôn…"
(He
felt safe in the taxi. Safe and warm. The warmth was contraband,
smuggled from
his bed and hoarded against the wet January night. Safe because unreal:
it was
his ghost that ranged the London
streets….)
Những
từ safe, unreal…như từ cuộc chạy trốn quê hương trỗi dậy, gây trạng
thái chập
chờn nửa thức nửa ngủ. An toàn ở trong một nhà tù, cách xa nhà tù quê
hương.
Không thực, vì chung quanh là cả một khối hỗn độn người ngợm lạ hoắc…
cứ thế,
một đoạn văn ở trong tôi lập đi lập lại, theo cùng với những con chữ:
Trong
những đêm chập chờn mất ngủ… hồn ma… his ghost, không, không, đây là
hồn ma của
chính mình đang lang thang ở Sài Gòn… không, không, không phải hồn ma
của mình,
mà là… hồn thiêng, hồn thiêng của thành phố đang trỗi dậy… thế là tôi
ráp lại:
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc
ở
trong tôi, tôi lại tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên
những đường
phố cũ…". Tới đó tịt luôn.
Phải
tới khi ra nhà tù, vào trại tị nạn, mãi mãi sau đó, tôi mới kết thúc
nổi câu
văn:
"Trong
những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong
tôi,
tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang thang trên những
nẻo đường
xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái
phần đời
đó mới đáng kể."
Một
thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó…