TẠP GHI
|
Gió
Hà Nội trong hồn người xa xứ
Note: LMH có thể nói, là do
GCC khám phá ra, trong khi chính những kẻ ra đi từ Miền Bắc, thì lại dè
bỉu, “cái
Hà mà viết cái gì”, như 1 tay viết mail riêng cho GCC nhận xét, hay như
em Y Bọt
gì đó, 1 nhà văn trong nước được dịp ra hải ngoại, “viết thua cả học
trò của
tui”, hình như bà này đã từng phát biểu (1)
Tuy nhiên, khi GCC nhận xét
LMH, hồi mới đọc bà, là từ 1 viễn ảnh của tương lai, của 1 miền đất,
cùng với nó
là thứ văn chương, như con phượng hoàng tái sinh từ tro than, như của
lũ Ngụy,
sau 1975, không phải thứ văn chương hoài niệm - như cách đọc LMH ở đây
- cũng
như cách mà đám VC đọc văn chương trước 1975 của Miền Nam, khi cho in
lại một số
tác phẩm của họ, bằng cách cắt xén, sao cho vừa cái nhìn kiểm duyệt của
chúng.
Đây là 1 cách đọc thất bại,
với cả hai, những tác phẩm như của LMH, và của Miền Nam trước 1975,
theo GCC.
Nhưng, tác giả thất bại, hay
tác phẩm, như Phố Vẫn Gió, thất bại?
NQT
(1)
Cũng
cùng một trường
hợp như vậy, nếu
chúng ta để ý tới
những lời phẩm bình Lê Minh Hà, của Y Ban, một nữ tác giả ở trong nước,
trong
một dịp ngao du hải ngoại. Nếu bỏ qua cụm từ "nhà văn gì gì đó",
những nhận xét còn lại của Y Ban, theo tôi, có điều gì hết sức chân
thực, và là
do cách đọc, cách hiểu văn chương của bà; nói rộng ra, của đa số nhà
văn ở
trong nước.
Y Ban coi những
truyện của Lê Minh Hà
giống như của những
học sinh tập viết văn. Và những truyện như thế "chẳng tải gì cả".
Bếp lửa
trong văn chương
"Nơi chốn
không chết như con người, nhưng chúng tang thương dâu bể đến nỗi chẳng
còn chi
được giữ lại, về một thời nó đã là..." , W. Trévor viết về miền thơ ấu
(Ái
Nhĩ Lan) của ông.
Tôi chỉ muốn
thêm vô: "... chẳng còn chi được giữ lại, cho một con người ngày xưa đã
từng
ở đó."
Tôi cũng có
đọc một lời khuyên, nên viếng thăm nghĩa địa, mỗi lần ghé một thành
phố.
Buendia, trong Trăm Năm Cô Đơn, (Garcia Marquez), muốn bỏ Macondo, tìm
một đất
lành khác. Anh giải thích: "con người thuộc về nơi chốn, khi dưới đất
có một
người chết". Ursula, bà vợ dịu dàng, nhưng quyết liệt, "nếu cần một
cái mả, tôi sẽ ra đó nằm." Còn nhớ một cụ già, khi nghe tin máy bay Mỹ
oanh tạc miền Bắc, bà cụ giật mình, vậy là động mồ động mả, ông bà mình
làm sao
ngủ yên ?...
Sự không đọc
"một số" tác giả, ở một vài người, theo tôi, có thể là do ngần ngại
không dám gặp lại một số nhân vật, một vài nơi chốn quá thân thiết với
họ. Hà-nội,
thí dụ vậy. Như một nơi chốn. Như một nhân vật quá đỗi thân thương;
Eurydice,
chẳng hạn. Đó cũng là lý do, theo T. Tolstaya, khiến thi sĩ Joseph
Brodsky
không thể trở về: ông sợ những ngôi mộ bị đào bới, sợ quá khứ, kỷ niệm,
những
gì nhà thơ đã làm được, cho St. Petersburg của ông.
Còn nhớ, cuốn
truyện đầu tay, khi ra ngoài này, tôi "ngỡ ngàng" thấy được tái bản,
"đau xót" khi đưa cho một người bạn coi, và khi anh ta trả lại, với lời
trách nhẹ nhàng, đại khái, treo đầu dê, bán thịt chó. Ra ý, tên truyện,
Những
ngày ở Sài-gòn, chỉ thấy, Hà-nội.
Đó là cuốn
sách sau cùng, thành phố được nhắc tới, "một thành phố của hương thơm
và mặt
trời ve vuốt". Một anh bạn làm nghề xuất bản, liền sau đó đã bị Phòng
Kiểm
Duyệt từ chối một tập truyện. Cũng không thể khác được, chiến tranh lúc
đó đã
trở nên ác liệt.
Khi Nguyễn
Tuân than, "chúng ta" có ít trang sách về Hà-nội, tôi nghĩ, ông không
muốn chấp nhận, "một số" trang sách viết về nó. Về một Liên, ở đâu đó
trong Hà-nội, của Thanh Tâm Tuyền (Ung Thư; Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm
Thấy). Lại
càng không thể chấp nhận một anh chàng Đại, trước khi bỏ Hà-nội ra
"bưng", đã để lại một cái bầu cho một cô gái. "Nó là một thằng
hèn! Tôi sẽ đập vào mặt nó!", nhân vật chính trong Bếp Lửa đã giận giữ,
về
người bạn của anh...
Có thể, Nguyễn
Tuân không biết tới những trang sách đó, những tác giả đó. Cũng vậy, Lê
Đạt chắc
cũng chưa từng đọc, bản dịch bài thơ Hoàng Hạc Lâu, của Vũ Hoàng Chương.
Theo thi sĩ,
và cũng còn là ông thầy Việt văn của người viết - năm học Đệ Nhị,
trường Hồng Lạc,
của thầy Đoàn Viết Lưu, khi còn là một căn hộ, ở đường Sương Nguyệt
Anh,
Sài-gòn - bản dịch của Tản Đà dùng vần bằng, thể thơ lục bát, cho nên
không diễn
đạt hết ý nghĩa "bất phục phản" - toàn "vần trắc" - trong
nguyên bản. Bất phục phản! Nhân một cơn say, ông nổi hứng, dịch một lần
nữa, tạo
thế chân vạc cho bài thơ.
Họ Vũ vốn là
dân toán, ông vẫn bị ám ảnh bởi những hệ thống trục tọa độ, khi làm
thơ. Nhưng
cái tam giác của ông, vô tình làm tôi nhớ tới tam giác bếp núc của C.
Lévi-Strauss.
Văn minh
nhân loại, theo C. Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn quanh xó bếp. Trước tiên
là sống.
Cái thuở loài người ăn uống như thú vật. Rồi chín, khi Prométhée ăn cắp
giùm lửa.
Chín là trạng thái trừ khử nước, trong sống. Cộng thêm nước, thành rữa,
thúi.
Đó là ba đỉnh cái kiềng ba chân của C. Lévi- Strauss. Phiền một nỗi,
trong khi
nướng, thui... con người bỗng mê "khói", bởi vậy văn minh nhân loại
cũng chỉ là một đường thẳng, đi từ mật ong, tới tàn thuốc. Thoạt kỳ
thuỷ, ăn mật
ong, "hỗn như gấu", tới khi hít khói thuốc, là tàn một chu kỳ văn
minh.
Bắt chước Vũ
Hoàng Chương, C. Lévi-Strauss, tôi cũng tưởng tượng ra một thế chân vạc
của
Hà-nội. Ở đây, không có nguyên bản, cứ coi như vậy. Chỉ có dịch bản.
Một Hà-nội,
của những người di cư, 1954. Một, của những người ra đi từ miền Bắc. Và
một của
những người tù cải tạo, chưa bao giờ biết tới Hà-nội, như của Nguyễn
Chí Kham,
trong lần ghé ngang, trên chuyến tầu trở về với gia đình.
"Treo đầu
dê, bán thịt chó". Quả thế thật. Khi viết Những ngày ở Sài-gòn, là lúc
tôi
quá nhớ Hà-nội. Mới lớn, vừa mới kịp yêu mến cái cột đèn, cái Hồ Gươm,
cái Tháp
Rùa, đùng một cái, phải bỏ hết. Vào Nam, cố biến nó thành hiện thực,
qua hình ảnh
một cô bé Hà-nội. Mối tình tan vỡ, chỉ vì người nghe kể, là một cô bé
miền Nam:
"Mai, để anh kể cho em nghe, về một thành phố thỉnh thoảng buổi sáng có
sương mù...".
Hà-nội của
Nguyễn Chí Kham khác hẳn. Cũng khác hẳn, Hà-nội của những người ra đi
từ miền Bắc.
Ga Hàng Cỏ của Nguyễn Chí Kham không có cảnh đưa tiễn những người đi
vào Nam
chiến đấu, và một cô gái, trong một truyện ngắn của Lê Minh Hà, (Trăng
Goá,
Văn), chỉ ngửi thấy chỗ nào cũng sặc mùi nước đái, và đó là một trong
những lý
do khiến cô chấp nhận lời cầu hôn, của "thủ trưởng" đám bộ đội trẻ.
Xin đừng nghĩ đến sự thô tục ở đây. Chỉ có mùi nước tiểu "quyến rũ"
đó mới tương xứng với lưỡi bom, liếm đến đúng căn nhà của cô học trò
thì dừng lại,
như có hẹn với cô gái, tuy đã đi sơ tán, nhưng hôm đó phải trở về
Hà-nội để lấy
phần gạo. Như thể lưỡi hái B.52 đến lúc đó mới thở hắt ra hết hơi nóng
của nó.
Sartre
(Situations, I) nhắc tới "ý hướng tính", coi đây là tư tưởng cơ bản của
hiện tượng luận: "Husserl đã tái tạo dựng (réinstaller) sự ghê rợn và
sự
quyến rũ vào trong những sự vật. Ông tái tạo thế giới của những nghệ sĩ
và của
những nhà tiên tri: Ghê sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng trùng, với
những bến cảng,
nơi trú ẩn của ân sủng và tình yêu." Tôi đã lầm, khi nghĩ, chẳng bao
giờ
người ta lại được đọc những trang sách tuyệt vời, về Hà-nội. Có thể là
do một
câu thơ và viễn ảnh khủng khiếp nó gây ra ở nơi tôi. "Chỉ thấy mưa sa
trên
mầu cờ đỏ" (Trần Dần), câu thơ như một "Apocalypse Now" (Tận Thế
Là Đây), không phải chỉ riêng cho Hà-nội. Làm sao mà thi sĩ lại nhìn
thấy suốt
cuộc chiến sau đó, không phải chiến thắng, mà huỷ diệt, một thành phố,
rồi cùng
với nó, là biểu tượng của cả một dân tộc ?
Bạn hãy thử
tưởng tượng Hà-nội, như một cuốn sách, một bài thơ, một văn miếu, và
cơn thử
thách của nó: lửa. Trong Farenheit 451, Ray Bradbury tưởng tượng, một
Nhà Nước
ra lệnh huỷ diệt mọi cuốn sách. Và một bà già đã chịu chết trong thư
viện của
bà, giữa những cuốn sách đang cháy. Người ta túa ra khắp nơi, để học
thuộc lòng
những cuốn sách bị huỷ diệt. Họ trở thành những cuốn sách sống. "Chỉ
cần một
kẻ ném lửa, tương tư, rồi bắt đầu đọc một cuốn sách, là sự ghê tởm,
tính quái vật
của Nhà Nước lộ rõ." (Thử thách lửa, L'épreuve du feu, M. Delon,
Magazine
littéraire, Văn Học Pháp, số tháng Chạp, 96). Ở đây, có một điều gì
thật trớ
trêu, của định mệnh: một cách nào đó, sự hung bạo của ngọn lửa, cũng
"hung
bạo" như giấc mơ của loài người, về một cuốn sách toàn thể, về một con
người
toàn thể. Nhân vật trong Lột Xác của Nguyễn Tuân còn mơ tưởng một cuộc
phần
thư, chính thân xác của mình.
Nhưng thư viện
và cơn thử thách của nó, lửa, với Hà-nội, chỉ mang tính "ẩn dụ". Với
Sài-gòn, nó bắt nguồn từ cuộc hỏa thiêu thư viện đầu tiên của nhân
loại, thư viện
(thành phố) Alexandrie. Người ta buộc tội ông tướng Ả Rập, Amrou Ben
Al-As, người
đã chiến thắng Ai Cập vào năm 642, là thủ phạm. Ông tướng này đốt thư
viện
thành phố, sau khi "thăm dò" ý kiến Omar, người kế tục Mahomet. Ông
này trả lời: "Nếu tất cả những cuốn sách đều hợp với (tinh thần) Coran,
chúng vô dụng, phải đốt hết. Nếu không hợp, chúng nguy hiểm, phải đốt
hết."
Sartre viết,
Husserl không hề là một nhà hiện thực. Nhà thơ như Trần Dần, nhà văn
như Lê
Minh Hà, lại càng không. Đừng coi những dòng kể của bà về Hà-nội, là
hiện thực
chủ nghĩa, theo một nghĩa thô bạo nhất của nó. Vẫn Sartre, trong bài
viết đã dẫn,
"Hiểu, là vỡ òa về...", (Connaitre, c'est "s'éclater
vers"), và đó là ý nghĩa câu nói nổi tiếng của Husserl: Ý thức chỉ là ý
thức
về một điều gì (Toute conscience est conscience de quelque chose): y
hệt như vết
bom ngưng lại, vì biết rằng, có một người, sau này sẽ viết ra, điều này.
Trong một
truyện ngắn khác, của cùng tác giả, "bãi dâu xanh mênh mông, hoa muồng
muồng
vàng rực, đình tám mái sân đầy cứt chim..." như phô hết sự quyến rũ của
chúng dưới bầu trời: máy bay Mỹ đánh phá khắp nơi.
Hà-nội của
Nguyễn Chí Kham đi từ văn chương ra ngoài đời. Một Hà-nội của tưởng
tượng, của
mơ tưởng, hoang tưởng, không tưởng... Chỉ là những chi tiết, mọc lên từ
hư
không, dứt ra từ tưởng tượng. Anh tù cải tạo, tới Hà-nội, tần ngần, ngơ
ngẩn,
giấu biệt "căn cước" của mình, nhất là những ngày tù ghê rợn. Bố anh
là quân nhân. Mẹ anh làm nghề nấu hàng cơm. Anh giúp mẹ đưa cơm tháng
cho cô
giáo. Rồi nhờ cô kèm thêm. Anh học trò ngày xưa, thành sĩ quan như bố,
đi cải tạo,
mang theo cùng với anh vầng trăng thơ ấu, chiếu vào hai mái đầu. Cô
giáo trong
Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi (tập tuyện, nhà xb Tân Thư, Cali, 1997), mơ mộng về
một cái
chết của người chồng phi công. Anh mất tích, như một lần thất bại không
thể
mang trả bầu trời, những cơn mưa, những cánh rừng... cho người vợ ở nhà.
Với Hà-nội của
Nguyễn Chí Kham, chúng ta lại phải đương đầu với một hoàn cảnh trái
ngược, tựa
thể bầu trời mùa thu, chiếc áo trắng phất phơ bay trong gió, những
chiếc lá
bàng... toàn những tưởng tượng, trong tiểu thuyết (như trong Đôi Bạn,
của Nhất
Linh...), bỗng biến thành hiện thực. Cái cô học trò mà anh tù cải tạo
gặp ở nhà
ga, trên cùng chuyến tầu, như mang bóng dáng cô giáo, của cậu học trò
ngày nào.
Làm sao mà không chia sẻ với vầng trăng thơ ấu một kỷ niệm đẹp đẽ như
vậy!
Vẫn cái tam
giác bếp núc: liệu chúng ta có thể nhìn ra, hiện tượng mất cân bằng
"sinh
thái", - sự phân phối nước - ở hai nhánh văn chương, tạo thành dòng văn
học
hải ngoại? Phạm Thị Hoài, trong bài viết về vị thủ lĩnh trong bóng tối,
(Văn Học,
Cali), có nhắc một câu của Trần Dần, tôi đợi bọn trẻ chôn tôi. Bà cũng
coi, văn
chương phản kháng ở trong nước, hiểu theo một nghĩa nào đó, là Nhân Văn
II. Người
đọc vẫn chờ đợi Nhân Văn II đi hết lưỡi lửa của nó, chờ đợi bao nhiêu
chua
chát, cay đắng, bao nhiêu cái xấu, cái ác của nhân vật, hoàn cảnh,
trong tác phẩm
của Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... qua đi. Những
trái núi,
bờ đê, "đập ngăn chặn Thái Bình Dương" (M. Duras) phải được dẹp bỏ,
hoặc trở nên dư thừa, khi những "cây non" như Lê Minh Hà vượt cao
hơn, sẵn sàng đương đầu với sức nóng mặt trời. Thâm tâm những tác giả
"đàn
anh, đàn chị" kể trên vẫn hằng mong như vậy. Và đó là ý nghĩa "hoài
bão" của Trần Dần.
Trong hoàn cảnh
đó, người tù Nguyễn Chí Kham thấy thật cần thiết, phải giấu biệt những
khổ đau,
(như một nạn nhân, của Hà-nội?), khi ghé thăm thành phố.
Con người là
tổng số những kinh nghiệm về thời tiết (Faulkner). Tổng số những kinh
nghiệm về
khổ đau, anh có rồi. Về thời tiết, chỉ thiếu Hà-nội. Người tù đi qua
cầu Long
Biên, thò tay sờ lên thành cầu, như rụt rè hỏi thăm bao mùa nóng lạnh,
bao dấu
vết bom đạn. Anh đang trên đường vào Hà-nội, mang theo với anh tro than
của những
cuốn sách...
Nguyễn Quốc
Trụ
Thư bạn
I.
Anh...
thân
mến,
Nhân dịp sắp
hết năm cũ và bước sang năm mới, kính chúc anh và gia đình được an lạc,
công việc
sáng tác được phát triển như ý và càng ngày càng có thêm nhiều bạn tốt.
Hai ngày vừa
qua, tôi có dịp đọc hết cuốn sách anh tặng (tôi rất ít đọc sách xuất
bản ở đây,
ngoài những sách đã nổi cộm (như Đêm Giữa Ban Ngày). Tôi cũng đã đọc
truyện Mộ
Tuyết trong tập sách đã in trước đây. Qua đó tôi hiểu thêm về anh hơn.
Anh có nỗi
buồn xa quê hương yêu dấu (Hà-nội), gia đình phân ly, tan tác. Tôi cũng
có đứa
em duy nhất, nó đã tử trận sau hiệp định Paris. Cho nên tôi chia sẻ
được phần
nào nỗi đau, mất mát của anh.
Tôi cũng rất
kính phục anh có kiến thức rất rộng về văn học, triết học của Tây
phương hiện đại.
Thuở mới đến..., từ một chàng trai nhà nghèo bước vào xứ giầu có và
nhiều thông
tin, tôi cũng đam mê nền văn minh phương Tây. Vì vậy thay vì chú tâm
học (ngành
chuyên môn (2) tôi dùng thì giờ đọc tất cả những loại sách triết, văn
chương,
nghệ thuật, hội họa, âm nhạc... Khi đi theo phong trào... (tôi) mới
chuyển sang
đọc cái khác. Vì vậy, khi không còn hoạt động gì nữa, tôi tìm lại được
cái thú
đã mất gần 20 năm, là nghe nhạc cổ điển, đọc sách văn chương thế giới.
Và từ
vài năm nay, là quay về cội nguồn, tìm hiểu phương Đông, và nhất là về
đạo Phật.
Dài dòng như thế là để muốn nói, tôi hiểu anh và mình có nhiều điểm khá
giống
nhau.
Ngoài ra, đã
là bạn với nhau, anh cho phép tôi nói luôn hai ý nghĩ khác.
Thứ nhất là
qua văn chương của anh, tôi thấy anh còn quá "cay cú" (hay nói theo
nhà Phật, còn "quá chấp"), về cái xấu của chủ nghĩa Cộng sản. Vì vậy
mà anh rất nhậy cảm với cái dở, cái xấu của nó, và cũng vì thế, nhiều
khi anh
thấy không trọn, không hết mà có lúc, không đúng. Anh (và cũng có nhiều
người
khác giống như anh) quá "độ lượng", về chế độ Sài-gòn, về người Mỹ.
Tôi hy vọng là anh tiếp tục mở rộng quan hệ (.....) thì những cái chấp
"vô
lý" đó sẽ lần lần tự xóa đi, và anh sẽ thanh thản hơn, nhìn Hà-nội,
nhìn
các con người như Văn Cao, Nguyễn Tuân... với con mắt thông cảm hơn. Dù
không
phải là người Hà-nội, tôi rất yêu thành phố này, và rất quí nhiều bè
bạn (....)
mà anh có nói qua.
Thứ hai, hiểu
biết của anh về văn học phương Tây khá sắc, nói ít, gọn mà sắc sảo.
Nhưng anh
mê nó quá, lúc nào cũng lởn vởn ở trong óc anh, nên anh kể hết về người
này lại
nhắc đến câu chuyện khác. Giá mà, với vốn kiến thức ấy, anh tập trung,
giới thiệu
mổ xẻ, đào sâu, so sánh, thì chắc độc giả bình thường sẽ hấp thụ được
nhiều
hơn. Những tác phẩm, những con người mà anh lướt qua (lướt qua chứ
không hẳn là
giới thiệu) rất đáng được giới thiệu đánh giá (phần được, phần chưa
được, phần
thất bại) kỹ hơn. Trong một mức độ nào đó, Việt nam rất hiếm, nếu không
nói là
không có một nhà phê bình văn học có tầm cỡ (kiến thức rộng, cả Tây lẫn
Đông).
(Một người như thế) mới (vừa) đánh giá vừa giúp cho độc giả thấy được
giá trị
và giới hạn, qua đó cũng đốc thúc những người sáng tác thực sự kiểm
điểm lại
mình và từ đó có tiến bộ. Công việc phê bình của anh, qua cái nhìn chủ
quan của
tôi, có lẽ mới làm được phần "mua vui".
Lâu nay, tôi
chưa hề góp ý điều gì, nay mạo muội nói mấy điều với anh, chỉ muốn thể
hiện cái
tình bạn sơ giao với nhau. Nếu có sai thì anh bỏ qua cho (đừng chấp!)
.....
Thân mến,
II. Tiếng
nói, từ miền lạnh
Tôi rời Hà-nội
vừa lúc mới lớn, chớm yêu thành phố. Chớm nhận ra những vẻ đẹp của nó.
Khi viết
Những Ngày Ở Sài Gòn (1965), trí tưởng tôi vẫn còn tràn ngập những kỷ
niệm về
Hà-nội.
Rồi tới những
tác phẩm của Miền Bắc, đọc sau 1975. Tôi cố tìm một Hà-nội của tôi ở
trong đó.
Cố tìm một Hà-nội đẹp như mơ bỏ lại. Những bè bạn bỏ lại.
Không thấy.
Cho tới khi
đọc Lê Minh Hà.
Phải nói,
tôi đã chờ hoài một tác phẩm như vậy.
Trong bài viết
Nhà văn và chủ nghĩa Cộng sản (3), khi điểm cuốn Văn chương và Cách
mạng (Literatur
und Revolution) của Jurgen Ruhle - một trong những nhà văn, trí thức đã
chủ
trì, và kinh nghiệm mùi vị chủ nghĩa Cộng-sản và sau đó từ bỏ thực tại
Stalinist, rồi chọn Đức quốc làm nơi trú ẩn - George Steiner coi Văn
chương và
Cách mạng có tầm vóc một cuốn lịch sử về nhà văn và chủ nghĩa Cộng-sản
trên
toàn thế giới. Về định mệnh văn chương Nga duới thời Lenin, và về bộ ba
cách mạng
Blok, Yessenin, Mayakovsky: Bên dưới những câu chuyện kể về người và
việc, vọng
lên thanh âm rền rĩ, về căn do của (những hành động) lưu đầy, hành
quyết và tự
sát (4).
Tới
Pasternak, Steiner cho rằng, Ruhle đã nhận ra ở tác giả này, tiếng nói
đích thực
của Nga, và cùng với nó, viễn ảnh vượt lên mọi oan khiên tàn bạo của
nhất thời;
và đồng ý với Edmund Wilson (5) khi tìm thấy ở trong nhân vật Lara và
Zhivago một
thách đố không thể trả lời, đối với chủ nghĩa duy lịch sử, và định mệnh
thuyết
chối từ cuộc đời của ý thức hệ Cộng-sản. Thật hiển nhiên, nếu Pasternak
có thể
giữ riêng cho mình một tình yêu nổi loạn, riêng tư ngay trong lúc ăn
nằm với
Liên-bang Xô-viết, điều này chứng tỏ tinh thần Nga vẫn còn sống ở bên
dưới lớp
băng là kỷ luật Đảng.
Như một đứa
con của Hà-nội, từ lâu, tôi vẫn cố tìm cho được cái tình yêu riêng tư,
nổi loạn,
ngay trong lúc ăn nằm với chế độ toàn trị, của cái gọi là "tinh thần
Hà-nội."
Sau này tôi
thấy ở hai người, Vũ Thư Hiên, và Lê Minh Hà.
G. Steiner
nhận xét về tác phẩm đã một thời làm say mê cả một Miền Nam Việt Nam -
như một
tác phẩm chống Cộng: Do ở xa nước Nga, Ruhle đã "không nhận ra, thế
giới,
hình ảnh, cảm nghĩ của đôi tình nhân Lara-Zhivago đối với thế hệ trẻ
hơn họ.
Chính đám cầm quyền, đám già đã sợ hãi cuốn sách, và tìm đủ mọi cách để
cho nó
im luôn." Và ông "tự hỏi, không biết những người trẻ tuổi có tìm ra
được một điều gì trong Bác sĩ Zhivago (6), nhưng chắc họ chỉ coi đây là
một câu
chuyện thần tiên làm mủi lòng độc giả hay một mẩu giả tưởng về lịch sử,
xa xưa
như Anna Karerina."
Nhưng quan
trọng hơn hết, Steiner cho rằng, "người ta không thể nào nhìn ra tác
phẩm
(Bác sĩ Zhivago) thường xuyên tự mâu thuẫn, mang tính suy tư và tản mạn
này, nếu
không nhận ra một điều: tác giả của nó đã đắm đuối chết chìm trong
những đau
thương và hoài vọng về cách mạng Nga. Trong nhiều chiều hướng, cuốn
tiểu thuyết
là một biện minh, một cái cớ cho cách mạng: một cuộc cách mạng hướng
nội, toàn
diện hơn cả cuộc cách mạng đưa đến xã hội Xô-viết."
Đọc những
nhà văn thuộc dòng "phản kháng" ("ly khai" đúng hơn, theo
tôi) ở trong nước như Dương Thu Hương chẳng hạn (7), họ cố vẽ ra một
cuộc cách
mạng tưởng tượng như thế, khi chống Đảng, nhưng vẫn tin vào chủ nghĩa
Cộng-sản.
Ở Vũ Thư
Hiên, trong Đêm Giữa Ban Ngày, có vẻ như ông vẫn đắm đuối trong những
đau
thương và hoài vọng như vậy.
Ở Lê Minh Hà, không.
Bà như muốn một điều khác.
Trong tập truyện đầu tay, Trăng Góa (nhà xuất bản Thanh Văn, 1998),
người ta đã
nhận ra một giọng nói, tuy mệt mỏi, chán chường - thí dụ giọng nói của
vầng
trăng goá, tự nhủ lòng mình, lần này lấy chồng, sự thực là kiếm cha cho
đứa nhỏ
- nhưng không thể bị bẻ gẫy.
Vả chăng có
sự khác biệt giữa hai người viết, về tuổi tác, về "gia thế" - người
Cộng-sản
gọi là lý lịch giai cấp. Với Lê Minh Hà, độc giả chỉ có thể mường tượng
ra, qua
những nhân vật nữ trong truyện. Còn với Vũ Thư Hiên, chúng ta đều biết
thân phụ
ông là người thân cận với Hồ Chí Minh, và vụ án chống lại Đảng gia đình
ông là
nạn nhân, vốn chỉ là thanh trừng lẫn nhau giữa những người Cộng-sản.
Nạn nhân của
Cộng-sản ở đây là những người Cộng-sản, và vì là nạn nhân, họ tin rằng
họ trung
thành với chủ nghĩa hơn là những kẻ thắng thế đang nắm quyền.
Hơn nữa, còn
khoảng cách giữa hai thế hệ - mà Phạm Thị Hoài tin tưởng vào nó, khi
viết về vị
thủ lãnh trong bóng tối, Trần Dần. Chính khoảng cách này đã phân chia
những người
như Vũ Thư Hiên, và Lê Minh Hà. Nó cũng đã khiến Phạm Thị Hoài cay đắng
chua
chát, "dù có rũ bụi tôi cũng không dám làm quen" (8). Ở đây, là vấn đề
tầm nhìn. Là vấn đề anh hay tôi có thiết tha với nó hay là không: chủ
nghĩa Cộng
sản. Hãy bỏ qua những cơ hội chủ nghĩa, với những người Cộng-sản Miền
Bắc, tin
vào chủ nghĩa là tin vào chiến thắng miền Nam, vào thế tất thắng của
chủ nghĩa
bách chiến bách thắng.
Với thế hệ
đi liền theo sau đó, họ nhìn xa hơn: chiến thắng Miền Nam không biện
minh gì hết.
Nếu có, thì
là: thắng trận nhục nhã lắm!
III. Cô Rơm
và những người Hà-nội khác
Cô Rơm (9)
là người Hà-nội. Theo như tôi biết, hay tưởng tượng rằng mình biết, cô
có tên mộc
mạc này, là do bà mẹ sinh ra cô trên một ổ rơm, khi gia đình chạy khỏi
thành phố
Hà-nội, những ngày đầu "Mùa Thu".
Kim Dung cho
rằng thiên nhiên khi "bịa đặt" ra một tai ương, thường cũng bịa đặt
ra một phương thuốc chữa trị nó, quanh quẩn đâu gần bên thảm họa. Ông
kể về một
thứ cỏ chỉ có ở một địa phương lạnh khủng khiếp, và người dân nghèo đã
dùng làm
giầy dép. Những người dân quê miền Bắc chắc không thể quên những ngày
đông khắc
nghiệt, và để chống lại nó, có ổ rơm. Tôi nghĩ Trần Mộng Tú tin rằng
"rơm" là phương thuốc hữu hiệu, không chỉ để chống lại cái lạnh của
thiên nhiên, mà còn của con người.
Ít nhất,
chúng ta biết được một điều: tác giả đã mang nó tới miền Nam, rồi ra
hải ngoại,
tạo thành thứ tiếng nói hiền hậu chuyên chở những câu chuyện thần tiên.
"Ba
mươi năm ở Mỹ làm được dăm bài thơ, viết được vài truyện ngắn. Lập gia
đình vốn
liếng được ba đứa con (2 trai, 1 gái: các cháu 22, 20, 19), một căn nhà
để ở....
lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là người giầu có lắm.... trong túi luôn có
một bài
thơ đang làm dở. Thấy Trời rộng lượng với mình quá. Mấy chục năm trước
Trời có
lấy đi nhà cửa người thân. Bây giờ Trời lại đền bù. Còn quê hương thì
lúc nào
cũng thấy ở trong tim, chắc khó mà mất được..."
Giọng nói đó
khác hẳn giọng nói tuy mệt mỏi nhưng không chịu bị bẻ gẫy của một Lê
Minh Hà.
"Sức khỏe"
ngôn ngữ đó - thật thiết yếu, cho một xã hội đang còn sống. Văn chương
là nơi
ngôn ngữ luôn bị thách đố, và cần được gìn giữ nhất. The health of
language is
essential to the preservation of a living society. It is in literature
that
language is most truly challenged and guarded. G. Steiner, Chủ nghĩa
Mác và Phê
bình văn học - phải chăng được Cô Rơm gìn giữ, giùm cho tất cả chúng ta?
Nguyễn Quốc
Trụ
Bếp lửa
trong văn chương
"Nơi chốn
không chết như
con người, nhưng chúng tang thương dâu bể đến nỗi chẳng còn chi được
giữ lại,
về một thời nó đã là..." , W. Trévor viết về miền thơ ấu (Ái Nhĩ Lan)
của
ông.
Tôi chỉ
muốn thêm vô: "...
chẳng còn chi được giữ lại, cho một con người ngày xưa đã từng ở đó."
Tôi cũng
có đọc một lời khuyên,
nên viếng thăm nghĩa địa, mỗi lần ghé một thành phố. Buendia, trong
Trăm Năm Cô
Đơn, (Garcia Marquez), muốn bỏ Macondo, tìm một đất lành khác. Anh giải
thích:
"con người thuộc về nơi chốn, khi dưới đất có một người chết".
Ursula, bà vợ dịu dàng, nhưng quyết liệt, "nếu cần một cái mả, tôi sẽ
ra
đó nằm." Còn nhớ một cụ già, khi nghe tin máy bay Mỹ oanh tạc miền Bắc,
bà
cụ giật mình, vậy là động mồ động mả, ông bà mình làm sao ngủ yên ?...
Sự không
đọc "một số"
tác giả, ở một vài người, theo tôi, có thể là do ngần ngại không dám
gặp lại
một số nhân vật, một vài nơi chốn quá thân thiết với họ. Hà-nội, thí dụ
vậy.
Như một nơi chốn. Như một nhân vật quá đỗi thân thương; Eurydice, chẳng
hạn. Đó
cũng là lý do, theo T. Tolstaya, khiến thi sĩ Joseph Brodsky không thể
trở về:
ông sợ những ngôi mộ bị đào bới, sợ quá khứ, kỷ niệm, những gì nhà thơ
đã làm
được, cho St. Petersburg của ông.
Còn nhớ,
cuốn truyện đầu tay,
khi ra ngoài này, tôi "ngỡ ngàng" thấy được tái bản, "đau
xót" khi đưa cho một người bạn coi, và khi anh ta trả lại, với lời
trách
nhẹ nhàng, đại khái, treo đầu dê, bán thịt chó. Ra ý, tên truyện, Những
ngày ở
Sài-gòn, chỉ thấy, Hà-nội.
Đó là cuốn
sách sau cùng, thành
phố được nhắc tới, "một thành phố của hương thơm và mặt trời ve
vuốt". Một anh bạn làm nghề xuất bản, liền sau đó đã bị Phòng Kiểm
Duyệt
từ chối một tập truyện. Cũng không thể khác được, chiến tranh lúc đó đã
trở nên
ác liệt.
Khi Nguyễn
Tuân than,
"chúng ta" có ít trang sách về Hà-nội, tôi nghĩ, ông không muốn chấp
nhận, "một số" trang sách viết về nó. Về một Liên, ở đâu đó trong
Hà-nội, của Thanh Tâm Tuyền (Ung Thư; Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy).
Lại càng
không thể chấp nhận một anh chàng Đại, trước khi bỏ Hà-nội ra "bưng",
đã để lại một cái bầu cho một cô gái. "Nó là một thằng hèn! Tôi sẽ đập
vào
mặt nó!", nhân vật chính trong Bếp Lửa đã giận giữ, về người bạn của
anh...
Có thể,
Nguyễn Tuân không biết
tới những trang sách đó, những tác giả đó. Cũng vậy, Lê Đạt chắc cũng
chưa từng
đọc, bản dịch bài thơ Hoàng Hạc Lâu, của Vũ Hoàng Chương.
Theo thi
sĩ, và cũng còn là ông
thầy Việt văn của người viết - năm học Đệ Nhị, trường Hồng Lạc, của
thầy Đoàn
Viết Lưu, khi còn là một căn hộ, ở đường Sương Nguyệt Anh, Sài-gòn -
bản dịch
của Tản Đà dùng vần bằng, thể thơ lục bát, cho nên không diễn đạt hết ý
nghĩa
"bất phục phản" - toàn "vần trắc" - trong nguyên bản. Bất
phục phản! Nhân một cơn say, ông nổi hứng, dịch một lần nữa, tạo thế
chân vạc
cho bài thơ.
Họ Vũ vốn
là dân toán, ông vẫn
bị ám ảnh bởi những hệ thống trục tọa độ, khi làm thơ. Nhưng cái tam
giác của
ông, vô tình làm tôi nhớ tới tam giác bếp núc của C. Lévi-Strauss.
Văn minh
nhân loại, theo C.
Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn quanh xó bếp. Trước tiên là sống. Cái thuở
loài
người ăn uống như thú vật. Rồi chín, khi Prométhée ăn cắp giùm lửa.
Chín là
trạng thái trừ khử nước, trong sống. Cộng thêm nước, thành rữa, thúi.
Đó là ba
đỉnh cái kiềng ba chân của C. Lévi- Strauss. Phiền một nỗi, trong khi
nướng,
thui... con người bỗng mê "khói", bởi vậy văn minh nhân loại cũng chỉ
là một đường thẳng, đi từ mật ong, tới tàn thuốc. Thoạt kỳ thuỷ, ăn mật
ong,
"hỗn như gấu", tới khi hít khói thuốc, là tàn một chu kỳ văn minh.
Bắt chước
Vũ Hoàng Chương, C.
Lévi-Strauss, tôi cũng tưởng tượng ra một thế chân vạc của Hà-nội. Ở
đây, không
có nguyên bản, cứ coi như vậy. Chỉ có dịch bản. Một Hà-nội, của những
người di
cư, 1954. Một, của những người ra đi từ miền Bắc. Và một của những
người tù cải
tạo, chưa bao giờ biết tới Hà-nội, như của Nguyễn Chí Kham, trong lần
ghé
ngang, trên chuyến tầu trở về với gia đình.
"Treo đầu
dê, bán thịt
chó". Quả thế thật. Khi viết Những ngày ở Sài-gòn, là lúc tôi quá nhớ
Hà-nội. Mới lớn, vừa mới kịp yêu mến cái cột đèn, cái Hồ Gươm, cái Tháp
Rùa,
đùng một cái, phải bỏ hết. Vào Nam, cố biến nó thành hiện thực, qua
hình ảnh
một cô bé Hà-nội. Mối tình tan vỡ, chỉ vì người nghe kể, là một cô bé
miền Nam:
"Mai, để anh kể cho em nghe, về một thành phố thỉnh thoảng buổi sáng có
sương mù...".
Hà-nội của
Nguyễn Chí Kham khác
hẳn. Cũng khác hẳn, Hà-nội của những người ra đi từ miền Bắc. Ga Hàng
Cỏ của
Nguyễn Chí Kham không có cảnh đưa tiễn những người đi vào Nam chiến
đấu, và một
cô gái, trong một truyện ngắn của Lê Minh Hà, (Trăng Goá, Văn), chỉ
ngửi thấy
chỗ nào cũng sặc mùi nước đái, và đó là một trong những lý do khiến cô
chấp
nhận lời cầu hôn, của "thủ trưởng" đám bộ đội trẻ. Xin đừng nghĩ đến
sự thô tục ở đây. Chỉ có mùi nước tiểu "quyến rũ" đó mới tương xứng
với lưỡi bom, liếm đến đúng căn nhà của cô học trò thì dừng lại, như có
hẹn với
cô gái, tuy đã đi sơ tán, nhưng hôm đó phải trở về Hà-nội để lấy phần
gạo. Như
thể lưỡi hái B.52 đến lúc đó mới thở hắt ra hết hơi nóng của nó.
Sartre
(Situations, I) nhắc tới
"ý hướng tính", coi đây là tư tưởng cơ bản của hiện tượng luận:
"Husserl đã tái tạo dựng (réinstaller) sự ghê rợn và sự quyến rũ vào
trong
những sự vật. Ông tái tạo thế giới của những nghệ sĩ và của những nhà
tiên tri:
Ghê sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng trùng, với những bến cảng, nơi trú
ẩn của
ân sủng và tình yêu." Tôi đã lầm, khi nghĩ, chẳng bao giờ người ta lại
được đọc những trang sách tuyệt vời, về Hà-nội. Có thể là do một câu
thơ và
viễn ảnh khủng khiếp nó gây ra ở nơi tôi. "Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ
đỏ" (Trần Dần), câu thơ như một "Apocalypse Now" (Tận Thế Là
Đây), không phải chỉ riêng cho Hà-nội. Làm sao mà thi sĩ lại nhìn thấy
suốt
cuộc chiến sau đó, không phải chiến thắng, mà huỷ diệt, một thành phố,
rồi cùng
với nó, là biểu tượng của cả một dân tộc ?
Bạn hãy
thử tưởng tượng Hà-nội,
như một cuốn sách, một bài thơ, một văn miếu, và cơn thử thách của nó:
lửa.
Trong Farenheit 451, Ray Bradbury tưởng tượng, một Nhà Nước ra lệnh huỷ
diệt
mọi cuốn sách. Và một bà già đã chịu chết trong thư viện của bà, giữa
những
cuốn sách đang cháy. Người ta túa ra khắp nơi, để học thuộc lòng những
cuốn
sách bị huỷ diệt. Họ trở thành những cuốn sách sống. "Chỉ cần một kẻ
ném
lửa, tương tư, rồi bắt đầu đọc một cuốn sách, là sự ghê tởm, tính quái
vật của
Nhà Nước lộ rõ." (Thử thách lửa, L'épreuve du feu, M. Delon, Magazine
littéraire, Văn Học Pháp, số tháng Chạp, 96). Ở đây, có một điều gì
thật trớ
trêu, của định mệnh: một cách nào đó, sự hung bạo của ngọn lửa, cũng
"hung
bạo" như giấc mơ của loài người, về một cuốn sách toàn thể, về một con
người toàn thể. Nhân vật trong Lột Xác của Nguyễn Tuân còn mơ tưởng một
cuộc
phần thư, chính thân xác của mình.
Nhưng thư
viện và cơn thử thách
của nó, lửa, với Hà-nội, chỉ mang tính "ẩn dụ". Với Sài-gòn, nó bắt
nguồn từ cuộc hỏa thiêu thư viện đầu tiên của nhân loại, thư viện
(thành phố)
Alexandrie. Người ta buộc tội ông tướng Ả Rập, Amrou Ben Al-As, người
đã chiến
thắng Ai Cập vào năm 642, là thủ phạm. Ông tướng này đốt thư viện thành
phố,
sau khi "thăm dò" ý kiến Omar, người kế tục Mahomet. Ông này trả lời:
"Nếu tất cả những cuốn sách đều hợp với (tinh thần) Coran, chúng vô
dụng,
phải đốt hết. Nếu không hợp, chúng nguy hiểm, phải đốt hết."
Sartre
viết, Husserl không hề
là một nhà hiện thực. Nhà thơ như Trần Dần, nhà văn như Lê Minh Hà, lại
càng
không. Đừng coi những dòng kể của bà về Hà-nội, là hiện thực chủ nghĩa,
theo
một nghĩa thô bạo nhất của nó. Vẫn Sartre, trong bài viết đã dẫn,
"Hiểu,
là vỡ òa về...", (Connaitre, c'est "s'éclater vers"), và đó là ý
nghĩa câu nói nổi tiếng của Husserl: Ý thức chỉ là ý thức về một điều
gì (Toute
conscience est conscience de quelque chose): y hệt như vết bom ngưng
lại, vì
biết rằng, có một người, sau này sẽ viết ra, điều này.
Trong một
truyện ngắn khác, của
cùng tác giả, "bãi dâu xanh mênh mông, hoa muồng muồng vàng rực, đình
tám
mái sân đầy cứt chim..." như phô hết sự quyến rũ của chúng dưới bầu
trời:
máy bay Mỹ đánh phá khắp nơi.
Hà-nội của
Nguyễn Chí Kham đi
từ văn chương ra ngoài đời. Một Hà-nội của tưởng tượng, của mơ tưởng,
hoang
tưởng, không tưởng... Chỉ là những chi tiết, mọc lên từ hư không, dứt
ra từ
tưởng tượng. Anh tù cải tạo, tới Hà-nội, tần ngần, ngơ ngẩn, giấu biệt
"căn cước" của mình, nhất là những ngày tù ghê rợn. Bố anh là quân
nhân. Mẹ anh làm nghề nấu hàng cơm. Anh giúp mẹ đưa cơm tháng cho cô
giáo. Rồi
nhờ cô kèm thêm. Anh học trò ngày xưa, thành sĩ quan như bố, đi cải
tạo, mang
theo cùng với anh vầng trăng thơ ấu, chiếu vào hai mái đầu. Cô giáo
trong Trăng
Ơi Thơ Ấu Mãi (tập tuyện, nhà xb Tân Thư, Cali, 1997), mơ mộng về một
cái chết
của người chồng phi công. Anh mất tích, như một lần thất bại không thể
mang trả
bầu trời, những cơn mưa, những cánh rừng... cho người vợ ở nhà.
Với Hà-nội
của Nguyễn Chí Kham,
chúng ta lại phải đương đầu với một hoàn cảnh trái ngược, tựa thể bầu
trời mùa
thu, chiếc áo trắng phất phơ bay trong gió, những chiếc lá bàng... toàn
những
tưởng tượng, trong tiểu thuyết (như trong Đôi Bạn, của Nhất Linh...),
bỗng biến
thành hiện thực. Cái cô học trò mà anh tù cải tạo gặp ở nhà ga, trên
cùng
chuyến tầu, như mang bóng dáng cô giáo, của cậu học trò ngày nào. Làm
sao mà
không chia sẻ với vầng trăng thơ ấu một kỷ niệm đẹp đẽ như vậy!
Vẫn cái
tam giác bếp núc: liệu
chúng ta có thể nhìn ra, hiện tượng mất cân bằng "sinh thái", - sự
phân phối nước - ở hai nhánh văn chương, tạo thành dòng văn học hải
ngoại? Phạm
Thị Hoài, trong bài viết về vị thủ lĩnh trong bóng tối, (Văn Học,
Cali), có
nhắc một câu của Trần Dần, tôi đợi bọn trẻ chôn tôi. Bà cũng coi, văn
chương
phản kháng ở trong nước, hiểu theo một nghĩa nào đó, là Nhân Văn II.
Người đọc
vẫn chờ đợi Nhân Văn II đi hết lưỡi lửa của nó, chờ đợi bao nhiêu chua
chát,
cay đắng, bao nhiêu cái xấu, cái ác của nhân vật, hoàn cảnh, trong tác
phẩm của
Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... qua đi. Những trái
núi, bờ
đê, "đập ngăn chặn Thái Bình Dương" (M. Duras) phải được dẹp bỏ, hoặc
trở nên dư thừa, khi những "cây non" như Lê Minh Hà vượt cao hơn, sẵn
sàng đương đầu với sức nóng mặt trời. Thâm tâm những tác giả "đàn anh,
đàn
chị" kể trên vẫn hằng mong như vậy. Và đó là ý nghĩa "hoài bão"
của Trần Dần.
Trong hoàn
cảnh đó, người tù
Nguyễn Chí Kham thấy thật cần thiết, phải giấu biệt những khổ đau, (như
một nạn
nhân, của Hà-nội?), khi ghé thăm thành phố.
Con người
là tổng số những kinh
nghiệm về thời tiết (Faulkner). Tổng số những kinh nghiệm về khổ đau,
anh có
rồi. Về thời tiết, chỉ thiếu Hà-nội. Người tù đi qua cầu Long Biên, thò
tay sờ
lên thành cầu, như rụt rè hỏi thăm bao mùa nóng lạnh, bao dấu vết bom
đạn. Anh
đang trên đường vào Hà-nội, mang theo với anh tro than của những cuốn
sách...
Nguyễn Quốc Trụ
|