*

 





*
 

Sổ Tay TLS, số 1 Tháng Ba 2013, dành trọn cho tiểu thuyết trinh thám: “B for body” [“B cho Bướm”!] Q, Queens of Crimes: Christie . A, Agatha Christie. Định nghĩa của Raymond Chandler, mà chẳng thú sao: Đọc tiểu thuyết trinh thám là chứng kiến [witnessing] "một bi kịch với 1 kết cục hạnh phúc”
TV “sure” là sẽ đi hết bài, với cả phần tiếng Mít.



Animals

Không phải Trại Loài Vật, Animal Farm, của Orwell.
Lại càng không phải Trại Súc Vật của xứ Mít

Gấu xa xứ Bắc lâu quá, thành ra không hiểu khi Bắc Kít dùng từ “súc vật”, có giống như Nam Kít hay không, chứ Nam Kít mà đi 1 đường “súc vật”, là nặng lắm. Tán tỉnh em làm sao mà để em mắng, mi là "đồ súc vật", là chỉ có đường, trở thành "súc vật"!
Chửi, đồ “súc vật”, sợ còn khốn nạn hơn là chửi, đồ… VC!
Hà, hà!

Số báo này có hai cái thú với riêng Gấu. Số trước Ghiền đã thú. Số này thì mở ra bằng 1 bài của Steiner, và còn đi 1 cái truyện ngắn của Kafka, "Kên Kên", Tin Văn cũng đã từng post, luôn cả bài của Borges, liên quan tới Kafka và con kên kên của ông.
Nhờ số báo, Gấu mới biết đến con kên kên trên... TV!

Đúng là như Rừng Cà Mâu!
Và còn biết thêm, chưa dịch “Kên Kên” ra tiếng Mít hầu độc giả TV! 

Để đi kèm số báo dành cho loài vật này, không gì xứng hợp hơn, là giới thiệu bài viết về Coetzee: Giữa Người và Thú, tội tổ tông, hay là sự phân biệt khởi thuỷ, Entre hommes et bêtes, la ségrégation originelle.


Ghi chú trong ngày      

Ngoài ra “Nhà văn X“ còn gợi cho tôi nhớ tới một thủ pháp mà tôi không biết gọi là gì, nên tạm gọi là thủ pháp “tự sướng,”…. (1)

Nguyễn Đạt đã từng có lần tuyên bố, anh chỉ viết cho Hậu Vệ, ngoài ra là chấm hết.
Lời tuyên bố đầy tình cảm của 1 người viết trước 1975, với 1 lũ nhóc, viết sau 1975 ở hải ngoại, được đáp lại bằng những bài viết rất ư là khốn nạn, như bài viết dẫn trên.
Lời tuyên bố của Nguyễn Đạt khiến VL phải bực mình, và đếch thèm đăng bài của anh nữa.
VL là đàn anh của ND, vì chơi với ông anh của ND, không nói chuyện giới giang hồ gió tanh mưa máu
Luôn cả cái câu hỏi sau đây của thi sĩ PMH, theo tôi, cũng nhảm.
Chỉ như 1 độc giả, ND đã có quyền phán “làng nhàng’ rồi.
Vì nó "làng nhàng" thực!

Tôi muốn hỏi Nguyễn Đạt: Lấy tư cách gì ông lên mặt “phán” kiểu “đàn anh” vô cùng tởm lợm, rằng cái hẻm càfê bình dân kia là “nơi tụ tập thường xuyên của những văn nghệ sĩ làng nhàng ở thành phố này”? (2)

“Tởm lợm, là sao?
Cũng thế, “tự sướng”, là sao?
Vào cái tuổi sắp ngỏm như ND, mà "tự sướng" cái con khỉ gì nữa?
Nhận xét phải cho đúng, thì mới đăng, nếu bỏ qua cái tình của ND đối với băng đảng HV.
ND xưa rồi, vẫn viết như thế, đăng đầy trên HV, tại sao tới giờ tới tấp đánh 1 người cộng sự lâu đời như thế?
PMH không “làng nhàng” sao?
Làm thơ suốt 1 đời, thử dẫn 1 bài “không” làng nhàng coi ?

Đừng có nghĩ là Gấu Cà Chớn “tị hiềm” với băng Hậu Vệ và những đấng cộng tác. Muời năm qua, cả 1 diễn đàn như thế, đâu có lòi ra được 1 tác phẩm đọc được? Cũng không giới thiệu được 1 tác giả hay tác phẩm nào của tụi mũi lõ. Rõ ràng là thêm mười năm nữa thì cũng Vũ Như Cẩn. Thầy Cuốc, dịch không trôi 1 câu tiếng Anh, [không phải 1 câu hắc búa nhe] hy vọng chi mà dịch, giới thiệu. Còn thầy đồng chủ biên, tiếng Anh, tiếng Tẩy, tiếng Tây Bán Nhà, nghe nói giỏi cả, nhưng ích chi đâu, vì phần tiếng Mít quá tệ. “Fail”, thất bại mà dịch là “vấp ngã”, thì từ thua tới thua thôi. Chính cả 1 băng cộng tác, thì cũng có lúc phải tự hỏi, làm thơ/viết văn…  hoài sao? Có thấy khá lên 1 chút nào đâu, bài thơ hôm nay, so với bài hôm qua?
Vậy mà có người gọi đích danh, văn chương "làng nhàng", thì lại… tởm lợm!
Soi gương Chợ Cá thì nhìn thấy tương lai sán lạn của Da Mùi và Hậu Vệ.

Borges có câu, thơ là để trao cho thi sĩ, thật tuyệt. Bạn chỉ cần làm “nửa câu thơ” - mượn ý của Nabokov, qua TTT trích dẫn, trong bài tưởng niệm MT - là độc giả biết ngay, đúng là thi sĩ, đúng là thơ. Mấy ông thi sĩ Mít, mỗi ngày ị ra tệ lắm là 1 cục thơ, như Vương thi sĩ gì đó, đã từng được “cũng” 1 thi sĩ Mít nhắc tới, khi viết về “thế lực đột phá” cái con mẹ gì đó, có ai coi là thi sĩ đâu, ngoài đám cùng áo thụng cùng vái nhau?

Tại sao lại như thế?
Ấy là vì theo Gấu, đếch có Thầy mà ra. Mà muốn có Thầy, thì phải đi tìm Thầy, tức là phải đọc nhiều cõi thơ, rồi kiếm ra cõi của mình.
Thí dụ, Zbigniew Herbert, nhà thơ Ba Lan, đằng sau ông là cả cõi thơ cổ điển, nhưng thơ của ông thì, như Adam Zagajewski trong lời giới thiệu, phán: This poetry is about the pain of the twentieth century, about accepting the cruelty of an inhuman age, about an extraordinary sense of reality.
And the fact that at the same time the poet loses none of his lyricism or his sense of humor-this is the unfathomable secret of a great artist.
Thơ này là về nỗi đau của thế kỷ 20, về chấp nhận cái sự độc ác, tàn bạo, dã man của thời phi nhân, về cảm quan cực kỳ khác thường về thực tại. Nhưng, sự kiện, cùng lúc, nhà thơ không mất đi 1 tí gì của chất trữ tình, của cái cảm quan cà chớn, tếu táo, tưng tửng của mình –  thì đó là cái bí mật khủng ơi là khủng của 1 đại nghệ sĩ.

Auden mà chẳng khủng sao:
Nghiệp thơ của ông được tạo thành, bằng cả một kiếp thơ của nhân loại, dịch loạn câu này: The shape of his whole career shows traces of an ambitious recompilation of a thousand years of literary history.

Những đấng thơ Mít mỗi ngày ị ra 1 cục thơ, khi nhìn lại, nếu không phải 1 cái gì  “làng nhàng” [thuổng PCT, 1 cái gì “vàng vàng” trong tên em…] thì đúng là vài cục thơ!

Còn về văn? Có ngay câu của Barthes, khi 1 nhà văn xuất hiện, là mở ra 1 vụ án văn chương.
Tuyệt!

Đằng sau TTT, là vụ án văn chương, có tên là "Malraux", như chính TTT nhận định: "ở đây, trong xứ sở khốn nạn này, cuộc chiến phải chấp nhận không phải là lối phiêu lưu trốn chạy ngông cuồng". [Tựa, Bếp Lửa] (1)

Câu của Barthes còn có thể áp dụng cho những nhà dịch thuật, thí dụ, một Mộ Dung....  Linh!
Sau "nhà" này, là Kundera, và đằng sau Kundera, là một Trung Âu, cũng 1 thứ "Đông Dương" với vụ án của nó:

Như Kundera, Milosz, and Kis, Manea tượng trưng cho tinh thần Trung Âu, không chỉ vì ông sinh ra tại đây như họ, mà còn vì tầm nhìn của ông về mặt tâm linh và văn hóa, hay nói như Danilo Kis, mà ông Manea đã từng viện dẫn:
"Ý thức rằng mình thuộc về Trung Âu, là ý thức rằng sau chót, tự thân của nó, ý thức này là một ý thức về sự ly khai."

Đằng sau hai đấng Trùm HV, chẳng có cái chó gì cả.

Thầy Cuốc, trước đây còn hay nhắc tới Bạc Biệc [Barthes] Bum Biệc [Bloom] nhưng bi giờ thui rùi.
Còn Thầy Số 2, đồng chủ sàn diễn, thì lâu lâu dịch 1 tay lạ hoắc đối với Gấu Cà Chớn, và thành ra thua.
Nói chung, thật khó mà nhìn ra “vụ án” của cả hai ông Trùm!

(1)

Ông anh của GCC, phán thì hách như thế, mê thì mê Malraux, cũng như thế, nhưng khi làm thơ tự trào, thì lại khoe, chưa từng bắn 1 phát súng nào!
Malraux được coi là người của hành động, Man of Action, như mục Sổ Tay của tờ TLS đi 1 đường vinh danh ông (1)
  
*

Man of action

Perambulatory Christmas Books, 6th series.
In recent years, it has been our custom in autumn and early winter to find each week a neglected book or curiosity by an established author, purchased from a second-hand book-shop, to ward off Christmas gift-book blues.
The price guide is £5, but we might burgle the piggy bank for an extra quid or two if the need arises. All books are bought to be read. First, some remarks. Second-hand bookshops have been assumed to be in danger for several years now, with reason. New York friends lament the disappearance of neighborhood favorites. Abebooks can supply most things at the click of a mouse. Many people find convenience in e-books and e-readers, and if they are happy, we're happy too. It makes us even happier to report that all the shops we mentioned last year (sixteen) are still in business. A book is a book is a book. You cannot own an ebook. It has no aesthetic properties: no ornamentation, no weight, no smell; in short, no character. It offers no choice between nice-to-handle and that experience's opposite. It does not furnish a room.
We began our perambulations, as usual, in the Charing Cross Road area, London's book-town. Cecil Court continues its bijou existence, hosting several specialist shops, dedicated to cars, theatre, gambling, etc. It is also home to one of our regular haunts: Peter Ellis, at No 18 - rather, our haunt is the pavement outside, where stands a barrow with assorted books at modest prices. Last week, as the nights began to draw in, we lighted on Days of Contempt by Andre Malraux, just the kind of thing we like: something unfamiliar by someone familiar. The dedication is unexpected: "To the German comrades, who were anxious for me to make known what they had suffered and what they had upheld".
Malraux (1901-76) was, par excellence, the writer as man of action (a species in graver danger than the book). He was a revolutionary, fought in Spain, served as de Gaulle's Minister of State, wrote books on art. As the author of Man's Fate (La Condition humaine), Malraux would once have been mentioned in the same breath as Gide, Mauriac, Sartre, Duras; but his other novels are scarce now. Days of Contempt (Le Temps du mépris) was written in 1935, two years after Man's Fate. The German dedicatees are early communist victims of the Nazis. Hitler is mentioned in the second sentence. A comrade, Kassner, is about to be interrogated. "Across the table sat the Hitler official. He was true to type: heavy jaws, square head, close-cropped hair .... "
Things get bad for Kassner before they get better. Both he and his creator, however, believe they can only get worse for the forces of reaction: "This [Nazi] government has to reckon with foreign public opinion ... ". It turned out not to be that simple.
In 1936, the TLS described Days of Contempt (translated by Haakon M. Chevalier) as "very short, very simple, very moving", an "epic that deserves high praise". For our Gollancz Left Book Club Edition, tightly stitched in the usual orange cloth, Peter Ellis charged us £3. We put what was left of our budget towards a copy of the original, ordered by post from Cornfield Books of Brighton (£5), mainly for the pleasure of displaying the cover. In the year of original publication, it had reached its "trentième edition".

Sổ Tay Văn Học TLS, Oct 5, 2012, đọc lại “Thời Miệt Thị”, của Malraux, nhân mùa Giáng Sinh năm nay.
Cùng trong Sổ Tay, là 1 entry về những từ “cà chớn”, trong có từ “asshole”, mà người viết cho rằng, xuất phát tại Paris, giữa đám GI, khi Mẽo giải phóng thành phố, do động từ "ngồi" của Tẩy, s’asseoir”: “asseyez-vous”, mời Ngài ngồi!

Bài này, theo server, cũng đang "hót":

  "Phận Người"

Đà sáng tạo, creative impetus, của Malraux không chỉ thu gọn vô những cuốn tiểu thuyết. Nó còn xùi, suffuse, vô những tiểu luận [GCC thú nhất bài ông viết về Sanctuary của Faulkner: Khi Faulkner mang đứa con hư của mình trình làng văn Tây, André Malraux phán, đây đúng là, "đưa tiểu thuyết trinh thám vô trong bi kịch Hy Lạp", và khi Borges nói dỡn chơi, rằng những tiểu thuyết gia Bắc Mỹ đã biến "sự tàn bạo thành đức hạnh", chắc chắn, ông ta có trong đầu lúc đó, cuốn Giáo Đường của Faulkner. (1)], và những tác phẩm có tính tự thuật, một số trong đó – như Phản -Hồi ký, và Những cây sồi mà người ta đốn, Les Chênes qu’on abat [Felled Oaks: Chuyện trò với De Gaulle – có sức mạnh cực dẫn dụ, overwhelming persuasive force, nhờ dòng văn xuôi thần sầu, những câu chuyện được kể hớp hồn, và quấn quít trong đó, là những nhân vật được miêu tả, và họ không có mặt theo kiểu liệt kê chi tiết, thông báo sự kiện, người thực việc thực, mà là những kỳ tích của nghệ thuật dẫn dụ, art of persuasion.

Thử đọc cuộc lèm bèm giữa Malraux và De Gaulle, trong cuốn chót của bộ sách, ở Colombey-les-deux-églises, ngày 11 Tháng Chạp 1969. Đúng thứ tiểu sử của những vĩ nhân chính trị, mà tôi rất tởm, và nếu 1 ông Tẩy viết ra thì lại càng tởm, vì mấy đấng này, lòng ái quốc chỉ thua có mấy anh Mít, cựu thuộc địa của mấy ảnh, viết về Bác Hồ!

Tuy nhiên, mặc dù thiên kiến, lòng dạ đầy thù hằn như thế, vậy mà khi đọc, tôi phải gật đầu bái phục: đúng là cuộc nói chuyện giữa "đỉnh với đỉnh", between two monuments, hai vĩ nhân lèm bèm như là những vĩ nhân trong những cuốn sách vĩ đại, who speak as only people in great books speak, với 1 sự đồng điệu, hài hòa liên chi, with unremitting coherence, và sáng chói, chúng phá vỡ mọi thiên kiến, mọi phòng ngự, thủ thế của tôi, không những thế mà còn làm tôi choáng, vì cái tôi huyênh hoang bốc phét, tự cao tự đại khùng điên của nó, và làm cho tôi tin ở cái sự cà chớn mang tính tiên tri mà hai vĩ nhân an ủi lẫn nhau, the prophetic nonsense with these two brilliant interlocutors consoled themselves: rằng, nếu đếch có De Gaulle, Âu Châu tan ra từng mảnh, và nước Pháp, ở trong tay một lũ chính trị gia tồi sau De Gaulle sẽ đưa nó xuống đáy địa ngục. Nó dụ khị, chứ không phải làm cho tôi tin tưởng, it seduced me, not convinced me, phải nói như thế.

Và bây giờ, ở đây, tôi giải thích, rằng, cuốn Felled Oaks quả đúng là 1 cuốn “huy hoàng đáng ghét”, a magnificent detestable book.

Bỗng nhớ... NMG.
Có lần ông chủ của GCC than, cứ mỗi lần ông cho nhân vật, gáy, lên lớp, thổ ra vài thứ triết lý, cách ngôn, minh triết...  về phận người, thí dụ, là cảm thấy ngượng miệng!

Ui chao Malraux là bậc thầy của những câu như vậy, Nhưng để nói ra, ông đòi nhân vật phải “sống bằng cái chết” của nó.
Cả 1 cuốn "Con đường vương giả", là chỉ để cho Perkin, nhân vật chính, phán, chỉ có mỗi 1 câu: "Làm đếch gì có cái chết, mà chỉ có ta đang chết"

Nghệ thuật làm dáng


Ngoài ra “Nhà văn X“ còn gợi cho tôi nhớ tới một thủ pháp mà tôi không biết gọi là gì, nên tạm gọi là thủ pháp “tự sướng,”…. (1)

Nguyễn Đạt đã từng có lần tuyên bố, anh chỉ viết cho Hậu Vệ, ngoài ra là chấm hết.
Lời tuyên bố đầy tình cảm của 1 người viết trước 19075, với 1 lũ nhóc, viết sau 1975 ở hải ngoại, được đáp lại bằng những bài viết rất ư là khốn nạn, như bài viết dẫn trên.
Lời tuyên bố của Nguyễn Đạt khiến VL phải bực mình, và đếch thèm đăng bài của anh nữa.
VL là đàn anh của ND, vì chơi với ông anh của ND, không nói chuyện giới giang hồ gió tanh mưa máu
Luôn cả cái câu hỏi sau đây của thi sĩ PMH, theo tôi, cũng nhảm.
Chỉ như 1 độc giả, ND đã có quyền phán “làng nhàng’ rồi.
Vì nó "làng nhàng" thực!

Tôi muốn hỏi Nguyễn Đạt: Lấy tư cách gì ông lên mặt “phán” kiểu “đàn anh” vô cùng tởm lợm, rằng cái hẻm càfê bình dân kia là “nơi tụ tập thường xuyên của những văn nghệ sĩ làng nhàng ở thành phố này”? (2)

“Tởm lợm, là sao?
Cũng thế, “tự sướng”, là sao?
Vào cái tuổi sắp ngỏm như ND, mà "tự sướng" cái con khỉ gì nữa?
Nhận xét phải cho đúng, thì mới đăng, nếu bỏ qua cái tình của ND đối với băng đảng HV.
ND xưa rồi, vẫn viết như thế, đăng đầy trên HV, tại sao tới giờ tới tấp đánh 1 người cộng sự lâu đời như thế?
PMH không “làng nhàng” sao?
Làm thơ suốt 1 đời, thử dẫn 1 bài “không” làng nhàng coi ?

Đừng có nghĩ là Gấu Cà Chớn “tị hiềm” với băng Hậu Vệ và những đấng cộng tác. Muời năm qua, cả 1 diễn đàn như thế, đâu có lòi ra được 1 tác phẩm đọc được? Cũng không giới thiệu được 1 tác giả hay tác phẩm nào của tụi mũi lõ. Rõ ràng là thêm mười năm nữa thì cũng Vũ Như Cẩn. Thầy Cuốc, dịch không trôi 1 câu tiếng Anh, hy vọng chi mà dịch, giới thiệu. Còn thầy đồng chủ biên, tiếng Anh, tiếng U, tiếng Tây Bán Nhà, nghe nói giỏi cả, nhưng ích chi đâu, vì phần tiếng Mít quá tệ. “Fail”, thất bại mà dịch là “vấp ngã”, thì từ thua tới thua thôi. Chính cả 1 băng cộng tác, thì cũng có lúc phải tự hỏi, làm thơ/viết văn…  hoài sao? Có thấy khá lên 1 chút nào đâu, bài thơ hôm nay, so với bài hôm qua?
Vậy mà có người gọi đích danh, văn chương "làng nhàng", thì lại… tởm lợm!
Soi gương Chợ Cá thì nhìn thấy tương lai sán lạn của Da Mùi và Hậu Vệ.

Borges có câu, thơ là để trao cho thi sĩ, thật tuyệt. Bạn chỉ cần làm “nửa câu thơ” - mượn ý của Nabokov, qua TTT trích dẫn, trong bài tưởng niệm MT - là độc giả biết ngay, đúng là thi sĩ, đúng là thơ. Mấy ông thi sĩ Mít, mỗi ngày ị ra tệ lắm là 1 cục thơ, như Vương thi sĩ gì đó, đã từng được, “cũng” 1 thi sĩ Mít nhắc tới, khi viết về “thế lực đột phá” cái con mẹ gì đó, có ai coi là thi sĩ đâu ngoài đám cùng áo thụng cùng vái nhau?
Tại sao lại như thế?
Ấy là vì theo Gấu, đếch có Thầy mà ra. Mà muốn có Thầy, thì phải đi tìm Thầy, tức là phải đọc nhiều cõi thơ, rồi kiếm ra cõi của mình.
Thí dụ, Zbigniew Herbert, nhà thơ Ba Lan, đằng sau ông là cả cõi thơ cổ điển, nhưng thơ của ông thì, như Adam Zagajiewski trong lời giới thiệu, phán: This poetry is about the pain of the twentieth century, about accepting the cruelty of an inhuman age, about an extraordinary sense of reality.

And the fact that at the same time the poet loses none of his lyricism or his sense of humor-this is the unfathomable secret of a great artist.
Thơ này là về nỗi đau của thế kỷ 20, về chấp nhận cái sự độc ác, tàn bạo, dã man của thời phi nhân, về cảm quan cực kỳ khác thường về thực tại. Nhưng, sự kiện, cùng lúc, nhà thơ không mất đi 1 tí gì của chất trữ tình, của cái cảm quan cà chớn, tếu táo, tưng tửng của mình –  thì đó là cái bí mật khủng ơi là khủng của 1 đại nghệ sĩ.

Auden mà chẳng khủng sao:
Nghiệp thơ của ông được tạo thành, bằng cả một kiếp thơ của nhân loại, dịch loạn câu này: The shape of his whole career shows traces of an ambitious recompilation of a thousand years of literary history

Những đấng thơ Mít mỗi ngày ị ra vài cục thơ, khi nhìn lại, nếu không phải 1 cái gì  “làng nhàng” [thuổng PCT, 1 cái gì “vàng vàng”…] thì đúng là vài cục thơ!

Còn về văn? Có ngay câu của Barthes, khi 1 nhà văn xuất hiện, là mở ra 1 vụ án văn chương.

Tuyệt cú!

Đằng sau TTT, là vụ án văn chương có tên là Malraux, như chính TTT nhận định, "ở đây, trong xứ sở khốn nạn này, cuộc chiến phải chấp nhận không phải là lối phiêu lưu trốn chạy ngông cuồng". [Tựa, Bếp Lửa]

Câu của Barthes còn có thể áp dụng cho những nhà dịch thuật, thí dụ, một Mộ Dung....  Linh!
Sau "nhà" này, là Kundera, và đằng sau Kundera, là một Trung Âu, cũng 1 thứ "Đông Dương" với vụ án của nó:

Như Kundera, Milosz, and Kis, Manea tượng trưng cho tinh thần Trung Âu, không chỉ vì ông sinh ra tại đây như họ, mà còn vì tầm nhìn của ông về mặt tâm linh và văn hóa, hay nói như Danilo Kis, mà ông Manea đã từng viện dẫn:
"Ý thức rằng mình thuộc về Trung Âu, là ý thức rằng sau chót, tự thân của nó, ý thức này là một ý thức về sự ly khai."

Đằng sau hai đấng Trùm HV, chẳng có cái chó gì cả.

Thầy Cuốc, trước đây còn hay nhắc tới Bạc Biệc [Barthes] Bum Biệc [Bloom] nhưng bi giờ thui rùi.
Còn Thầy Số 2, đồng chủ sàn diễn, thì lâu lâu dịch 1 tay lạ hoắc với Gấu Cà Chớn, thành ra thua.
Nói chung, thật khó mà nhìn ra “vụ án” của cả hai ông Trùm!



*

*

Mario Vargas Llosa: Le Maitre Conteur
Thầy Kể Chuyện

Le Magazine Littéraire [số 8/2012, đặc biệt về 10 tiếng nói văn chương ngoại ảnh hưởng tới Tẩy]:

Casement là 1 công chức của Đế Quốc Anh, nhưng ông ta chống chế độ thuộc địa; sinh ra là protestant, thệ phản, nhưng ông chiến đấu vì độc lập của Ái Nhĩ Lan Ky Tô. Phải chăng vì sự tương phản thực ngược ngạo như vậy, mà ông để ý đến ông ta?


Coetzee: Notes on a Voice

THE SAVAGE THRIFT OF J.M. COETZEE

Tính tằn tiện dã man của J.M. Coetzee

Ghi chú về 1 giọng văn: Simon Willis khui ra 1 giọng văn gầy còm, không có tí mỡ, và đe dọa.

Đọc Coetzee thì như bơi trong 1 biển, mặt biển phẳng lặng, và sóng dội từ bờ, mới hung bạo làm sao. Những câu văn của ông thì còm cõi, những đề tài, đe dọa [Trên tờ TLS Gấu mới đọc, kiếm hoài không thấy trong mớ sách báo, 1 bài viết về ông, theo đó, hai đề tài chủ yếu của ông là race and rape, sắc dân và hiếp dâm]: quyền lực, sắc dân, quyền của thú vật, và thú tội. Trong những tác phẩm sau này, có sợi chỉ tôn giáo và cứu chuộc. Cuốn tiểu thuyết mới có tên “Tuổi thơ của Chúa Ky Tô”.
    Sinh tại Nam Phi, 1940, ông trải qua tuổi đôi mươi đau nỗi đau nôn mửa, khi đối diện trang sách trống rỗng – Mít kêu là trang giấy trắng tinh – Cơn bịnh bớt đi, khi, vào năm 1974, ông cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay, “Dusklands”. Kể từ đó, ông viết những tác phẩm thấm thiá về thời kỳ phân biệt, và hậu phân biệt chủng tộc – bao gồm “Đời và Thời của Michael K” (1983) và Ô Nhục, Disgrace (1999), cả hai đều đợp Booker Prize, cũng như là những tiểu thuyết quá tiểu thuyết đến trở thành những tiểu luận, và những hồi ức, memoirs, quá memoir đến trở thành tiểu thuyết. Ông đợp Nobel năm 2003.
    Trước khi là tiểu thuyết gia, thì là 1 nhà toán học, nhà khoa bảng, và câu văn của ông sáng lên nhờ cái vẻ khắc khổ, và, trong sáng. Vài chuyên gia phê là cứng quá, cằn cỗi quá. Nhưng, như là 1 văn phong, như Michael Wood chỉ ra, nó đưa bạn “qua 1 xứ sở còi cọc, nhưng tới một miền của nỗi chán chường, tuyệt vọng”.

Quyết định Chìa Khóa

Đi Mẽo [Austin, Texas]. Vào năm 1965, Coetzee tới đó, làm cái luận án Tiến sĩ. Ở thư viện đại học, ông vớ được những bản thảo đầu của cuốn tiểu thuyết “Watt” của Samuel Beckett. Ông la lên, “ơ rơ ka”, kiếm thấy rồi! Beckett đem đến cho Coetzee một “sound” [âm, vọng, tiếng, giọng…] Bạn có thể nghe thấy nó, rõ ràng nhất, mạnh mẽ nhất, khỏe nhất, ở trong những độc thoại "xa rồi diễm ơi, nhạt nhòa như mưa", của “Dusklands”, và “Ở Trái Tim của Xứ Xở” (1977). Bài học quan trọng nhất của tất cả, là, sự kiềm chế, cố nén. “Tư tưởng thì như con chó thèm cục kít," [Em như cục kít trôi sông/Anh như con chó chạy rông ven bờ], Coetzee viết, “văn xuôi thì như sợi dây [kìm con chó]

Luật Vàng

Keep it spare [Giữ thật chặt?]. Sợi dây dẫn chó trở thành cái thòng lọng, và ông bèn xiết thật chặt, trong Ô Nhục, đẩy nhân vật của ông, giáo sư David Lurie, vào đống lửa, bằng, chỉ 1 câu văn: “Quẹt cây diêm đánh dzẹt 1 phát, và thế là ông bèn ngập trong một biển lửa, xanh, lạnh”. Nhưng sợi thòng lọng rung lên, như người đọc run lên, theo từng trang sách, cùng với những đề tài khủng khiếp và quyền lực của chúng: “Tôi ngập ngụa trong ô nhục đến không làm sao cất mình ra khỏi”, Lucy sau đó nói.



Ghi chú trong ngày

*

Lire:
Heidegger đã ca ngợi tác phẩm của ông, khỏi phải lèm bèm thêm. Nhưng ra thế nào, nàm sao mà 1 triết gia bảnh tỏng như ông ta mà lầm lạc như thế, và đem thân phò Hitler? Đúng là 1 lời thú nhận sự bất lực về mặt triết học!
Paul Ricoeur:
Văn hoá như tôi biết được, chưa hề ngăn ngừa, phòng chống sự man rợ. Một xứ sở với 1 nền văn minh đỉnh cao chói lọi như Đức, vậy mà ngập chìm trong tủi nhục, và đó là 1 thí dụ nhức nhối, đau thương. Nhưng tôi chưa bao giờ buộc tội Heidegger, như là 1 triết gia. Chỉ điều này, triết học của ông không sản sinh ra cả đạo đức lẫn chính trị, và gây ra ở trong ông ta, vào một thời kỳ, sự hồ nghi trí thức, và điều này được biểu lộ ra bằng sự bất lực của ông khi không thể tiếp tục Hữu thể và Thời gian, một thứ khoảng trống tư biện, mà ông ta nghĩ rằng, có thể làm đầy bằng hình tượng một con người coi mình như là vĩ nhân của lịch sử, cha già của dân tộc. Chính vào lúc đó, ông bị trúng bả Quốc Xã. Nhưng hãy minh bạch 1 điều, Hữu thể và Thời gian không phải là 1 cuốn sách Nazi, nó là, và đây là sự khác biệt rất ư khác biệt, một tác phẩm không phòng vệ chống chủ nghĩa Nazi. Trong khi đó, Karl Jaspers, ông ta không ngã gục như Heidegger, là bởi vì triết học của ông sản sinh ra một nền đạo hạnh và chính trị học.

*

2013 cũng là kỷ niệm 100 năm năm sinh của Paul Ricoeur.  
Tờ Le Monde Dossiers & Documents Tháng Ba 2013, ra số đặc biệt về ông và cùng với ông, là đề tài hồi nhớ, lịch sử, và quên lãng, như tên 1 tác phẩm của ông [La Mémoire, L’Histoire, l’Oubli, Seuil, 2000): Với Paul Ricoeur, sự kiện, một xã hội ‘triền miên nổi giận với chính nó’ làm tê liệt việc chép sử.

Câu văn "thần sầu" của Gấu Cà Chớn, trong Bụi, “nước mắt cũng có hạn, nơi nào đổ ra nhiều thì nơi khác dè sẻn lại”, cũng là câu của Paul Ricoeur phán, về hồi nhớ, trong bài tiếng Tẩy trên. Paul Ricoeur thú nhận, ông rất bực vì tình hình đáng ngại, chỗ này nhớ nhiều, chỗ khác thì lại ít quá [“l’inquiétante spectacle que donne le trop mémoire ici, le trop d’oubli ailleurs”].
Cái tít bài viết mới thú: Khai thông hồi ức Lò Thiêu bằng lãng quên!
Câu phán về “thời của chúng ta” mà chẳng thú sao: Ôm diết lấy bất hạnh cá biệt, đóng băng trong cái trò nạn nhân hóa -  tớ là nạn nhân của CS, thí dụ - đến nỗi đếch thèm nhìn đến khổ đau của những người khác.
Bài viết cảnh cáo, coi chừng Lò Thiêu chiếm trọn không gian cảm thông của chúng ta [La Shoah tendreait à occuper l'espace compassionnel disponible]
Đây cũng là lời cảnh cáo của 1 vị thân hữu của TV, coi chừng THNM, nhìn đâu cũng thấy… VC!
Hà, hà!

*

Paul Ricoeur: Temps & Récits [Thời gian & Những chuyện kể]

Paul Ricoeur tra hỏi thời gian mà đằng sau nó là cái chết. Thời gian tạo vóc dáng nhờ dòng kể, và mọi lịch sử thì ở trong dạng kể, nếu không, nó hết là lịch sử và bị xã hội học đợp [résorberer: tiêu tan]


Orwell

Orwell vs Murakami

Người Kinh Tế đọc tác phẩm mới nhất của Haruki Murakimi:

Liệu ông ta trở thành quá qui ước?
Tuyệt.

Chỉ cần 1 cú đánh thôi.
Phê bình & Điểm sách là như thế đấy! 

GCC “lâu lâu” được bạn văn khen, rất kiệm lời!
Ðánh cú nào ra cú đó.
Với nhà thơ NS, chỉ cần hai từ "dễ dãi và sung sướng".
Với bạn quí, thì “đi tìm 1 cái mũ đã mất”
Hoặc “Thật Lạt”, thay vì “Thất Lạc”!.

Thảo nào NS gọi là tên sa đích văn nghệ!
[Lại tự thổi!
Why not?]

Tờ TLS Nov 18, 2011, đọc tác phẩm mới ra lò của Murakami, cũng chê thấu trời, dưới cái tít, Mộng mị Orwell, Orwellian Reveries, Đếch phải thế giới này, Not of this World, thứ rẻ tiền, [cheap]. Tờ báo nhắc lại lời Kenzaburo Oe, khi đọc Murakami: Chỉ là những lèm bèm về văn hóa ăn nhậu đớp hít của Tokyo [mere reflections of the vast consumer culture of Tokyo], và những thứ văn hóa chìm của thế giới nói rộng ra [subcultures of the world at large] (1)

HARUKI MURAKAMI filches from George Orwell’s “Nineteen Eighty-Four” for the title of his new novel, “1Q84”, making a play on kyu, the Japanese word for nine, by transposing the letter “Q” for the number “9”. Significantly, the action also takes place over the last nine months of 1984. But it would be a mistake to conclude from this that Japan’s magical postmodernist has spent nearly 1,000 pages writing about a dystopian world where couples make love in an ash glade, hardly daring to speak because of the all-listening microphones in the trees. Mr Murakami’s main influence here is not so much Orwell as Philip Pullman; his “1Q84” less a stairway to another world than a heave-ho into a whole new universe. 

Chàng tưởng chàng thuổng Orwell, nhưng thực ra, Philip Pullman; cuốn sách của chàng không hẳn là 1 cái thang đưa tới 1 thế giới khác [thế giới toàn trị mà Orwell tiên đoán, và sau trở thành hiện thực], nhưng một “heave-ho” [dimissal: từ chối] vào trọn 1 vũ trụ mới.



*

Kundera trên sàn diễn TV Tẩy, chương trình văn học Apostrophe, Tháng Giêng 1984

Tôi chưa từng suy tư về phê bình văn học. Nhà phê bình thì biết gì về điều mà chỉ tiểu thuyết mới có thể trả lời?



*

FOUND IN TRANSLATION
"Yes, everything in the yard danced"

ENGLISH TITLE: THE WORD TREE
AUTHOR: TEOLINDA GERSAO
ORIGINAL TITLE A ARVORE DAS PALAVRAS (1996)
ORIGINAL LANGUAGE PORTUGUESE
TRANSLATOR MARGARET JULL COSTA

This is the only one of Teolinda Gersao's 12 novels available in English, and it has just been chosen as the best novel translated from Portuguese in the last three years. You can see why: it's as acute about childhood as it is about adults, and the writing is as sensuous as it is sad.
    Amelia has left Portugal for pre-independence Mozambique, escaping her family and a failed relationship. She answered a newspaper advert from a man who "seeks a decent young woman aged 25 max", He promised her beaches with pale sand. She got a lonely life as a dressmaker instead. The section of the novel dedicated to her is the most moving in the book, a series of pin-sharp revelations of envy and isolation. She wants to join the elite, and buys perfume she can't afford. In the sizzling African heat, she dreams of owning fur coats to give the world she left behind a slap in the face. As a portrait of a desperate colonial it's worthy of V.S. Naipaul.
    But Gersao does youthful exuberance as well as she does middle-aged desolation. Amelia's daughter Gita experiences things, as children do, in a sensory cascade.
"Yes, everything in the yard danced," she says, "the leaves, the earth, the spots of sunlight, the branches, the trees, the shadows." Hers is an open-hearted, child's-eye view, of the kind that sees pain as clearly as pleasure. "Go away and never come back," Gita says of her mother. Amelia's resentment is the worm in the apple. Cersao's skill is to make the apple sweet and the worm sympathetic. - SIMON WILLIS

The Word Tree Dedalus Books, out now

Tờ Intel có 1 bà, Maggies Fergusson, chuyên điểm sách thuộc loại thật cừ. Tờ Người Kinh Tế, cùng băng nhóm, có tay Prospero, mới thần sầu.
Điểm sách, giới thiệu tác giả, phải là tay công lực cực kỳ thâm hậu, trong chốn giang hồ, đâu phải ai cũng điểm được.
Chưa kể đến cái tâm.

Thầy Cuốc rõ ràng là chưa từng điểm 1 cuốn, chưa từng đưa 1 ai, từ chốn chẳng ai biết, thành 1 tác giả.
Có khi “xoa đầu” mà làm hại người mới viết, đừng tưởng bở.
Rõ ràng là trường hợp "đảo xa". Được VP đưa lên mây, thế là suốt đời đếch xuống được nữa.
Trường hợp Sarraute mà chẳng thú sao: Bà kể, nhờ Sartre đọc Chân dung một kẻ lạ, coi đây là một thứ 'phản tiểu thuyết', mà bà nổi tiếng. Bà cám ơn ông ta, làm sao không, nhưng nói thêm, Sartre chẳng hiểu tí chó gì về cuốn sách của tôi!

*

WHAT IS THE BEST SMELL?

Mùi gì tuyệt nhất?
Đề tài của số Intel mới.

Gấu giới thiệu hai bài, đều cùng 1 mùi, mùi mưa.
Một trong số báo Intel, và một, của CM, bạn Gấu.

"Vai em tròn dưới mưa
Ướt bao nhiêu cũng vừa" (1)

THE RAIN

by Robin Robertson

I lost my sense of smell when I left home. It only returns to me now when one of those breaths of boyhood drifts back like some half-forgotten face.
    I grew up on the east coast of Scotland, where the smell of the North Sea permeates everything. When it wasn't the sea it was the sea haar, rolling in off the water and through the cobbled streets and wynds, or the sharp tang of the catch being landed in the harbor. Herring rolled in oatmeal and fried; mackerel fished and gutted on the cliff's verge, eaten straight; the occasional luck of a lobster boiled and laid out in butter.
    Everything we are as adults is formed in our first ten years, and mine were spent haunting the shore, or the streets, of Aberdeen: turning over scallop shells or the bodies of birds , or testing the washed -up crabs and jellyfish for movement: some kind of peril. I would walk to school past the abattoir with its ferrous whiff of spilt blood, the dull thuck of cleaver into flesh, the great headless bodies turning on their hooks; past the barber's oils, astringents and lotions, his whetted razors; past the joinery with that lovely sweet scent of wood-shavings and - best of all- past Mitchell and Muill's, the baker, their steamed-up window stacked full of freshly baked rowies and hot mutton pies.
    Autumn air was leaf-mould and woodsmoke, truffling for spent fireworks and their mysterious, bright, damp canisters reeking of gunpowder; spring was turned earth and hawthorn; summer, the coconut flowers of the gorse, and its seed-pods detonating, the urinous jasmine, a newly tarred road. All year, the doors of the bars swinging open to a dense, secret sweat of beer and cigarettes, wet tweed and whisky. And all year, every year of my childhood, and in the later years of shape-changing into something else entirely: always there - overlaying the intimate comforts of an oiled penknife blade, the inside of my leather watch-strap, or the new fumes of sex and blood - was the rain, and the smell of the rain which is no smell at all but only a washing-away, a cleanness, and yet another chance to start again .•

Cháu đọc entry của bác từ lúc nó chưa đổi tên cơ, khi còn là "SG mùa này thì cứ triền miên buổi chiều và rả rích đêm khuya" ấy. Nhưng mà quả thực là không biết nói gì thêm, hihi :D.

Hôm nào cháu viết tặng bác 1 entry nhé, vì cháu rất thích cái nhận xét của bác "cái hồn của văn chương Miền Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến".

Tks.

Cái hồn của văn chương Việt Nam... D.H Lawrence diễn tả bảnh hơn Gấu nhiều. Ông gọi là "Nỗi Nhớ Bùn" [La nostalgie de la boue]. Gấu thuổng chữ của ông, viết được một đoạn thật là tuyệt vời về Sài Gòn….


*

Một trong những sư phụ của Vargas Llosa. Ông Nobel này cùng thời với Gấu, nên cũng có những chọn lựa như Gấu, thí dụ ông chọn Sartre thay vì Camus, nhưng sau này, biết chọn lầm, may còn kịp đổi.
Gấu chọn đúng Camus, may quá!
V/v nhà văn Mít đếch có sư phụ, bây giờ Gấu ngộ ra rồi: Do đếch đọc được tiếng của lũ mũi lõ!
Không lẽ chọn 1 ông Mít, đâu có được! Ngay đàn anh, thì cũng chỉ đáng cho đàn em "xoa đầu", hoặc "moa toa", đâu có lý, nhận làm… Thầy?

Thầy Cuốc chẳng đã kể về lần yết kiến VP, gọi anh, xưng tôi, Người bực quá!
Nhưng MT thì xuề xòa, anh em được rồi!
Lần Gấu về Hà Nội, mấy đấng ít tuổi hơn, như BN chẳng hạn, thưa anh, xưng em một phép.
Bắc Kít được cái khoản này, hơn hẳn Trung Kít!
Nhớ, NVH cũng xưng... em, nhưng kèm 1 câu, em thua anh chỉ cái phần lý luận, phê bình. Còn sáng tác, No!
Hà, hà, VH!

Không Thầy đố mày làm nên, các cụ đã dạy. Sở dĩ đám Mít viết, cứ "làng nhàng", chính là do đếch có Thầy. Từ “làng nhàng” - ND sử dụng để chỉ đám cộng sự viên đắc lực làm nên “thế lực đột phá” của văn chương Mít, chuyên viết cho Hậu Vệ, ở Sài Gòn -  là của Gấu, khi viết về đám nhà văn Trung Kít, thời chiến tranh, ông nào cũng tự hào, tay súng, tay viết, súng không nên thân, nên thua VC, bút thì lại càng không nên thân, vì có coi ai là Thầy của họ đâu.
Thầy của họ, chính là Võ Phiến, nếu nói về truyện ngắn. Có đấng nào viết được, chỉ 1 truyện ngắn, trên cơ Võ Phiến? 
Truyện dài, và nhân vật của nó, có tên nào tạo ra nổi một...  Ông Ba Đồng Thời?
NMG không hề có được 1 nhân vật “dấu ấn”, bèn bệ ngay người ngoài đời vô tác phẩm, chứng cớ, những HPNT, Ngụy Ngữ?

Chúng không hề biết, không hề hiểu ra được "chân lý", Thầy chính là Mình.
Một cách nào đó, tìm ra Thầy là tìm ra Mình.
Tìm ra dòng văn thích hợp với Mình.

Theo nghĩa đó, Thầy của Vargas Llosa cũng là Thầy của GCC, là Faulkner. Ông viết, Faulkner là người Mẽo, viết tiếng Mẽo, nhưng đúng là "Người của chúng ta" - xứ sở đồng bào Vargas Llosa - ở Xứ Mũi Lõ!

Cái truyện ngắn đầu tay "thần sầu" của Gấu, “Những Con Dã Tràng” - thần sầu, đúng là như thế, vì trong số những truyện ngắn đầy chất hiện sinh của Sài Gòn những năm 1960, nó là số 1, điều này không phải Gấu nhận ra, mà là 1 bạn văn cũng rất thân, anh phán, cái nhân vật trong truyện, là Camus và Meursault cộng lại, bởi là vì Meursault đâu có ho lao như nhân vật trong “Những Con dã Tràng”, và, giọng văn cà dựt, y chang những tiếng ho khan của 1 tên bị lao phổi, tức y chang Camus - được TTT khen um lên, vậy mà viết xong, là Gấu từ bỏ nó liền, vì biết, dòng văn này đi vào ngõ cụt. Chỉ đến khi Gấu gặp Thầy là Faulkner, mới kiếm ra dòng văn của mình, và nhờ đó viết được cái truyện ngắn “Những Ngày Ở Sài Gòn”, và chỉ khi viết được nó, thì Gấu mới tin là mình sẽ có cơ hội trở thành nhà văn.



*

Trên Blog Hải Hà có bài về Hemingway, những thói xấu của Papa [nick của ông], (1) trong có nhắc đến những cú chơi bẩn của ông chồng với bà vợ.
Bà vợ là 1 phóng viên chiến tranh cừ, đã từng được giải thưởng cao quí của ngành này, và cũng còn là tiểu thuyết gia.
Cuốn bảnh nhất, cực bảnh, phải nói như vậy, “Điểm không thể quay về”, “Point of No Return”, 1948, viết về [Trại Tù, Lò Thiêu] Dachau. Trong bài viết trên TLS 18, Jan 2013, tác giả bài viết, Heather McRobie, chọn đúng cái từ của 1 cuốn tiểu thuyết chưa từng viết của Gấu Cà Chớn, “Mắt Bão”, để vinh danh bà vợ Hemingway:

Trong khi cuốn đầu tay của bà chỉ xoáy vào 1 “khía cạnh nhỏ”, “one small aspect” của Đệ Nhị Chiến, Point of No Return, 1948, đặt dòng kể ở ngay mắt của cơn bão đạo đức, [placed the narrative in the eye of the moral storm]: một anh GI Mẽo khám phá ra những điều ghê rợn ở Dachau…. Point of No Return khiến chủ nghĩa lạc quan của Mẽo lạnh lùng, tàn nhẫn tan rã ra, khi đối diện với bóng tối Âu Châu.

Trong lời bạt sau đó, bà viết:
"Tôi nhận ra là Dachau là cái điểm không thể quay lại trong suốt cuộc đời của riêng tôi. Giữa khoảnh khắc tôi bước qua cái cổng có chữ Phục Hồi Nhân Phẩm Qua Lao Động, “Arbeit Macht Frei”, Work Sets You Free, và khi tôi bước ra vào cuối ngày, một ngày thật khó gọi là 1 ngày, no ordinary scale of hours, tôi thay đổi, I was changed, và như thế nào, tôi nhìn phận người, how I looked at the human condition, cái thế giới chúng ta sống, thay đổi… Những năm chiến tranh dạy cho tôi thật nhiều, nhưng chiến tranh chẳng là cái thá gì so với Dachau. So với Dachau, chiến tranh thật sạch."

Mắt Bão quả là cái cuốn tiểu thuyết đầu tay, mà Gấu mơ ước viết, khi, một mình trực ở Đài Liên Lạc VTD quốc tế, tọa lạc trên tầng lầu chót của building số 5 Phan Đình Phùng, 1 thứ đỉnh cồn [cao nhất, nhìn thấy hết] và còn là ở trung tâm của trận bão chiến tranh, gửi hình chiến tranh từ khắp chiến trường Việt Nam, trên bốn vùng chiến thuật, đi khắp nơi trên thế giới.
Ngồi Quán Chùa, với ông anh, có lần Gấu lèm bèm về giấc mơ lớn của mình, ông anh gật gù, mày cứ giở ba cuốn địa lý ra, là tìm thấy khối cái tên cho những cuốn tiểu thuyết.
Sau, đọc thư gửi "đảo xa", ông có nói về cuốn Mắt Bão ông đang viết.

Gấu đoán là, ông anh, thấy thằng em, ngập ngụa trong ken, làm sao thoát, thành thử bèn lấy cái tít, viết 1 cuốn, thế cho thằng em chết vì ghiền.
Còn nhớ, lần đầu có được số điện thoại, phôn hỏi thăm, câu đầu tiên ông hỏi, có mập ra chút nào không.
Sau nghe nói, ông còn hỏi 1 anh bạn cũng quen cả hai, cũng ở Toronto, nó đã thực sự hết ghiền chưa!
Đám bạn quí của Gấu thì chẳng đấng nào tin Gấu thoát được cả!


Beckett, portrait

Orwell

On Animal Farm

For all I know, by the time this book [Animal Farm] is published my view of the Soviet regime may be the generally-accepted one.
But what use would that be in itself? To exchange one orthodoxy for another is not necessarily an advance.
-George Orwell, "The Freedom of the Press"

ANIMAL FARM, as its author later wrote, "was the first book in which I tried, with full consciousness of what I was doing, to fuse political purpose and artistic purpose into one whole." And indeed, its pages contain a synthesis of many of the themes that we have come to think of as "Orwellian." Among these are a hatred of tyranny, a love for animals and the English countryside, and a deep admiration for the satirical fables of Jonathan Swift. To this one might add Orwell's keen desire to see things from the viewpoint of childhood and innocence: He had long wished for fatherhood and, fearing that he was sterile, had adopted a small boy not long before the death of his first wife. The partly ironic subtitle for the novel is A Fairy Story, and Orwell was especially pleased when he heard from friends such as Malcolm Muggeridge and Sir Herbert Read that their own offspring had enjoyed reading the book.
Christopher Hitchens

[Bài viết được dùng làm "Intro" cho ấn bản 2010 của cuốn Trại Loài Vật]

Đọc khúc trên, và cái tiểu tít,“truyện thần tiên” thì Gấu nhớ ra lý do tại sao tên Đông B nhắc tới “Sợ Lửa” của Doãn Quốc Sĩ.
Chắc chỉ có vậy.
Bởi là vì Gấu nhớ là, “Sợ Lửa”, đọc từ hồi còn học trung học, là câu chuyện 1 anh chàng sợ…  lửa, đến chót đời, sắp ngỏm, mới dám làm khán giả của 1 dám cháy, về, bịnh, ngỏm, trong hạnh phúc.
Nếu đúng như thế, thì nó giống cái truyện suốt đời ăn chay, thèm muỗng nước mắm trước khi lìa đời của Thụy Vũ.
Tính đọc chùa, nhưng gõ Google không ra “Sợ Lửa”.

Về Trại Loài Vật

Vào thời gian cuốn sách này [Trại Loài Vật] được xb, cái nhìn của tôi về chế độ Xô Viết thì là chung chung, như được nhiều người chấp nhận. Nhưng, ích chi đâu, một cái nhìn, tự thân, như thế? Đổi 1 cái cùm [orthodoxy: chính thống, dòng chính, lề phải…  ], lấy 1 cái cùm khác, thì đâu nhất thiết là 1 “tiến bộ”?
-George Orwell, "The Freedom of the Press"

Trại Loài Vật, như tác giả của nó sau đó viết, “là cuốn sách thứ nhất trong đó tôi cố, với tất cả ý thức về cái việc mình đang làm, nấu chảy, hòa nhập mục đích chính trị và mục tiêu nghệ sĩ thành trọn 1 cục”. Và quả thế, những trang sách của nó chứa 1 tổng đề của rất nhiều đề tài mà chúng ta có thể coi là “có tính Orwell”, trong số đó, là sự thù ghét độc tài, bạo chúa, tình yêu loài vật và đồng quê Anh, một ngưỡng mộ sâu xa dành cho những truyện ngụ ngôn châm biếm của Jonathan Swift. Tới điểm này thì có thể coi Orwell như 1 người thèm nhìn sự vật bằng con mắt của 1 đứa con nít, và sự ngây thơ: Trong đời riêng, Orwell là 1 đấng đàn ông rất sợ cây súng thịt của mình, vô dụng, suốt đời thèm làm bố, và sau cùng, sợ vô sinh, bèn nhận 1 đứa con nít làm con nuôi, không lâu, trước khi bà vợ đầu của ông mất.
Cái tiểu tít có tí tiếu lâm của cuốn tiểu thuyết, Một Truyện Thần Tiên, và Orwell rất lấy làm hài lòng, khi nghe được, qua mấy đấng bạn quí của ông, rằng lũ hậu huệ của họ, rất mê đọc nó.

*

Tay này, Gấu mới đọc đây thôi, nhân chuyến đi Mẽo thăm bạn, vớ vội 1 cuốn của ông ở quầy, trong khi chờ lên máy bay, không ngờ đọc được quá. Trước, cứ đinh ninh, "dưới trung bình", như những thi sĩ Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, "dưới trung bình", so với đại thi sĩ, đại nhạc sĩ, đại biên khảo…. Nguyễn Tôn Hịt!

Mua, còn 1 phần vì hai bài trong đó, đọc loáng thoáng lúc ở tiệm sách.
Một, viết về Trại Loài Vật, và một, Hội Chứng Mít [thay vì đọc Bên Thắng Nhục!]

Ui chao, về nhà đọc, mới thú. Bài về Greene, "đúng y chang" của Gấu!
Hitchens lôi đúng cái bài viết của Greene mà Gấu đã từng xuýt xoa, trên Tin Văn, liên quan đến “vấn nạn”, có mấy NQT.
Hà, hà!

Còn nhiều bài tuyệt lắm!
*

Regis Debray, có thời mê Che qua làm quân sư quạt mo cho xừ lủy. Đã từng sáng lập triết lý bi đát, la philosophie tragique, thời kỳ Gấu mới lớn. PCT giới thiệu triết lý bi đát cho Mít đọc, Chu Tử bèn mượn luôn, vờ PCT!
Nhớ, bạn quí lắc đầu than, ông CT này nhảm quá!

Hommage à la France littéraire, đi 1 đường thổi Tẩy văn chương!

Trong có bài Malraux khùng, La folie de Malraux, đập thầy của ông anh nhà thơ của GCC. Debary dạo đầu:

Hai chục năm sau khi ngỏm, ngày 23 Tháng 11, 1996, tro cốt Malraux được đưa vô Viện Chư Thần: Cả nước Tẩy trang trọng chào Người, "hommage solennel de la nation". Tờ Nhân Loại, L’Hummanité cho phép tôi tham dự 1 tí [participer brièvement].
Hai năm sau đó, 1 diễn đàn, colloque, được tổ chức tại Paris, đề tài “Le Miroir des Limbes của André Malraux và hiện đại tính văn chương”, trong đó, có tôi và Jorge Semprun, được mời tham dự.
Dịp để suy tư dài, réfléchir longuement, về số phận sau khi chết của 1 tác phẩm, ít người biết tới, của một khuôn mặt nổ


Ghi chú trong ngày

Nhà văn X

Phản ứng của PMH về Nhà Văn X

Ghi chú bên lề của Gấu Cà Chớn
Truyện Nhà văn X của ND, gốc của nó, là 1 truyện của Alphonse Daudet, trong loạt truyện Tartarin de Tarascon, Gấu đọc hồi mới lớn, mê quá.
Daudet có cái truyện "Những Vì Sao" mà chẳng thần sầu ư?
Truyện của Daudet, là về 1 anh chàng nói phét tổ sư, lên xe đò, tự nhận mình là 1 tay thợ săn số 1 chuyên săn sư tử. Thế rồi có 1 tay trên xe mới hỏi, có quen tay tổ sư chuyên săn sư tử tên là… X, không. Anh ND này mới “ui dào”, ông ta là bạn quí, bạn thân tui, và nhân đó, chê bạn quí, bạn thân đủ đường, thua tui xa, về cái tài thiện xạ!
Thế rồi, tới 1 chỗ xe ngưng, ông khách xuống xe, chào tất cả… Ông ta đi rồi, ND mới quay hỏi mọi người trên xe, ông nào đấy.
Thì bạn quí của ông chứ ai nữa. Nhà săn sư tử số 1 đó.

Nội dung đúng bài viết của ND.
Không ngờ là anh lại còn nhắm ý khác nữa.
Chán thiệt!

Cái từ "làng nhàng" mà ND sử dụng, để chỉ mấy đấng thường xuyên đóng góp bài cho Hậu Vệ, theo Gấu, cũng không sai đâu, và đây là do cả hai, diễn đàn có bài thì đăng, còn người viết thì thấy đăng, là viết tiếp. Mười năm rồi lại mười năm nữa, thì vẫn Vũ Như Cẩn.
Trường hợp Da Mùi ngưng nhận bài, có thể là do lý do này, bài toàn là rác, đăng hoài đăng hoài, rác đẻ ra rác, đẻ ra trùng độc, thế là phải đóng cửa dọn dẹp nhà cửa.
Rõ ràng Da Mùi thì làm gì có hacker, có virus của… VC?
Vả chăng nếu thực có trùng độc, thì cũng đóng cửa 1, 2 ngày tạ khách, sao lại kéo dài mãi mãi như thế?

Có thể nhận ra điều này, nên thi sĩ HXS mới viết bài, đề nghị hai ông Trùm Hậu Vệ đi 1 đường thổi “thế lực đột phá” - tức đám làng nhàng- nhưng Người không nhận ra 1 sự thực, là hai ông Trùm này đếch biết viết thứ đó. Một ông chuyên nghề Cớm, một ông chuyên nghề Bịp.

Thầy Cuốc rõ ràng là chưa từng thổi 1 ai, ngoại trừ xoa đầu/nâng bi [xoa đầu với nâng bi y hệt nhau, đây là khám phá của tâm lý học, tự ti, tự tôn là mắm sốt kít] hai ông, Trùm văn nghệ hải ngoại là Ngài Tiên Chỉ VP, và Trùm Sáng Tạo, là MT.
Thầy chưa từng khám phá ra 1 tài năng non trẻ nào.

Còn Thầy HNT, thì rõ ràng chuyên nghề Cớm: Tố HNH ngụy tạo hồ sơ, làm tài liệu giả, tố Gấu dịch không nên thân, không biết Kinh Dịch là thuộc văn hóa Mít, tố PHT đạo văn, khi toan tính đưa tên thi sĩ Ngụy/sĩ quan Ngụy TTT vô Văn Miếu!
GCC tin rằng, chẳng chóng thì trầy, cả hai diễn đàn này thì đều... sập tiệm!
Không lẽ cứ 'làng nhàng" hoài sao?

Nhưng, trường hợp ND, để người khác nói thì vẫn hơn. Bởi vì ND thì cũng 1 thứ sống lâu lên lão làng.
Bản thân anh chưa từng có tác phẩm… lớn. Viết thì cứ tính đường đâm này người nọ, khổ thế!

Lạ, là Joseph Huỳnh Văn rất quí anh.

Gấu chơi với anh của ND, là Nguyễn Nhật Duật. Coi như em, nhưng chỉ đến khi vì Joseph HV nhận làm thư ký tờ Tập San Văn Chương, và Gấu vì anh mà viết, thì mới kể như biết tới ND.
Chính thái độ của JHV đối với Đạt mà Gấu nhìn ra con người thực thật là tuyệt của anh.
Cái bi kịch của ND, là bi kịch gia đình, và do Cái Ác Bắc Kít mà ra.

Mở 1 cái ngoặc:
Gấu rất ghét tò mò đến chuyện riêng tư của bất cứ ai.
JHV bà con với HVT, là VC và còn là adviser của tông tông Thiệu, mãi sau này khi anh mất, Gấu mới biết.

Cũng thế là chuyện anh em Đạt/Duật. Ông cụ bà cụ, khi di cư vô Nam, thấy khó nuôi nổi cả hai ông con cho ăn học thành người, bèn quyết định chọn, chỉ 1 thằng.
Thằng em, là Đạt, gửi vô Viện Tế Bần!
Chuyện này Gấu nghe qua 1 người cũng quen Đạt. Viết ra đây, nếu sai, xin cứ lên tiếng.

Nỗi đau Kafka một phần nào Đạt cũng có. Anh khó mà ưa được ông anh, là do vậy. Ông anh nói về ông em rất nhiều điều nặng nề. Đạt có lần than với Gấu.
Đạt cũng rất là quí Gấu, nhờ JHV, có thể.

Gấu cũng có nỗi đau Bắc Kít của Gấu.
Ông cụ mất sớm, vì họa đảng phái, bà nội cứ ra rả vào tai thằng cháu, mẹ mày thế nào cũng bỏ lũ bay đi lấy chồng.
Sợ quá, thế là thay vì thương, thì thù Mẹ!

Chỉ mãi đến khi ra được hải ngoại, trải qua bao nhiêu là dâu bể, thì mới biết thương Mẹ và.... Vợ.
Vợ thì cũng 1 thứ Mẹ!
[Nhân ngày 8/3 nịnh một nửa thế giới 1 phát]

Hà, hà!