*

 




Animals


*

C. 1690: Sichuan

JEALOUS LOVER

There was a merchant of Qjngzhou who was much away on business, often for as long as an entire year. He had a white dog at home, and during her husband's absences his wife encouraged the dog to have sexual relations with her. The dog became quite accustomed to this.
    One day, the merchant had just returned home and was in bed with his wife when suddenly the dog burst into the room, climbed up on to the bed, and bit his master to death.
    When the neighbors came to know of this, they were most indignant and reported the matter to the local magistrate, who interrogated the woman under torture and, when she still refused to confess, had her thrown into the county jail. He gave orders for the dog to be brought on a leash, and then summoned the woman into the tribunal. The moment the dog saw her he rushed forward, tore off her clothes with his teeth, and leaped on top of her, adopting a posture that was unmistakably sexual. The woman could no longer deny the charge brought against her. The magistrate sent them both, woman and dog, under guard to the higher court in the provincial capital.
    On their way there, local inhabitants wishing to see them in the act of coupling bribed the escort, who dragged them out and forced them to perform in public. Wherever they stopped, this act attracted a crowd of several hundreds, and the yamen guards made a small fortune out of it.
    Subsequently, both woman and dog were sentenced to Lingering Death.
    How many things are possible, in the immense universe of heaven and earth! This woman is certainly not the only creature with a human visage to have coupled with an animal.

Pu Songling, from "Strange Tales from a Chinese Studio". Having passed the first civil-service examination at the age of eighteen in the late 1650s, Pu failed to obtain a government post and became a private tutor for a local family in 1679, by which time the self-titled "historian of the strange" had collected the majority of the 431 tales that comprise his book. At odds with prevailing literary tastes, the work was not celebrated until it was printed some fifty years after his death.

Lapham’s Spring, 2013: Animals

Bồ Tùng Linh: Liêu Trai Chí Dị

"Ghén Cho"
hay là
“Của Chó và Người”

Ngày xưa có 1 vị thương gia Tẫu, do công việc phải vắng nhà, thường là trọn năm. Ông có nuôi một con chó trắng, và, bà vợ bèn khuyến khích con vật đóng vai ông chồng của mình, và con chó rất quen với công việc này.
Một bữa, vị thương gia trở về nhà, và trong khi nằm với vợ trên giường, con chó phá tung cửa, nhảy lên giường, cắn chết tươi ông chủ của nó.
Láng giềng báo quan, và, do người vợ khăng khăng không nhận tội, quan bèn cho triệu con chó tới, và, khi nhìn thấy bà chủ, con vật bèn làm như mọi lần.
Bà vợ hết chối, quan sở tại bèn ra lệnh đưa người và vật lên tòa trên.
Trên đường đi, mỗi lần cạn tiền, mấy người giải tù bèn cho vật và người diễn tuồng. Đám đông xúm lại coi. Mỗi lần như thế, thu khá bộn tiền.
Tới tòa trên, án ra, cả hai bị xử tử.
Người đàn bà chắc không phải độc nhất trên cõi đời này, hẳn thế!


*

Bồ Tùng Linh: Tình địch

C. 1690: Sichuan

JEALOUS LOVER

There was a merchant of Qingzhou who was much away on business, often for as long as an entire year. He had a white dog at home, and during her husband's absences his wife encouraged the dog to have sexual relations with her. The dog became quite accustomed to this.
    One day, the merchant had just returned home and was in bed with his wife when suddenly the dog burst into the room, climbed up on to the bed, and bit his master to death.
    When the neighbors came to know of this, they were most indignant and reported the matter to the local magistrate, who interrogated the woman under torture and, when she still refused to confess, had her thrown into the county jail. He gave orders for the dog to be brought on a leash, and then summoned the woman into the tribunal. The moment the dog saw her he rushed forward, tore off her clothes with his teeth, and leaped on top of her, adopting a posture that was unmistakably sexual. The woman could no longer deny the charge brought against her. The magistrate sent them both, woman and dog, under guard to the higher court in the provincial capital.
    On their way there, local inhabitants wishing to see them in the act of coupling bribed the escort, who dragged them out and forced them to perform in public. Wherever they stopped, this act attracted a crowd of several hundreds, and the yamen guards made a small fortune out of it.
    Subsequently, both woman and dog were sentenced to Lingering Death.
    How many things are possible, in the immense universe of heaven and earth! This woman is certainly not the only creature with a human visage to have coupled with an animal.

Pu Songling, from Strange Tales from a Chinese Studio. Having passed the first civil-service examination at the age of eighteen in the late 1650s, Pu failed to obtain a government post and became a private tutor for a local family in 1679, by which time the self-titled "historian of the strange" had collected the majority of the 431 tales that comprise his bo

*

Sau khi Nazi chiếm đóng thành phố quê hương của ông, nhà văn và họa sĩ Ba Lan, Bruno Schulz (1892-1942) bị bắt vẽ tranh nhi đồng trang hoàng tường cho tên sĩ quan Gestapo tên là Felix Landau. Một lần, Landau bắn chết 1 người Do Thái làm việc cho 1 tên Gestapo khác, tên này giết Schulz, và giải thích cho Landau, "Mi giết tên Do Thái của ta, ta giết tên của mi"
Khúc tiếp theo, theo David Grossman, là, Landau xua tay, gạt đi, và nói, nhằm nhò chi 1 tên Do Thái.
Để kiếm tên khác.
Trong số báo này, có bài của Schulz, TV sẽ “đi” liền, và có thể đi thêm bài của Orwell, "Bắn Voi", kỷ niệm những ngày ở Miến Điện của ông.

.*

THE AGE OF GENIUS

The legend of Bruno Schulz.
BY DAVID GROSSMAN

"Parfois il écrivait comme Kafka, parfois comme Proust, et il a fini par atteindre des profondeurs auxquelles ni l'un ni l'autre n'avaient accédé.”
“Đôi khi ông ta viết như Kafka, đôi khi như Proust, và sau cùng ông đạt tới những chiều sâu mà cả hai ông kia chẳng ai đạt tới”


1979: Provincetown, MA

LOCKED OUT

The crows see me.
They stretch their glossy necks
In the tallest branches
Of green trees. I am
Possibly dangerous, I am
Entering the kingdom.

The dream of my life
Is to lie down by a slow river
And stare at the light in the trees-
To learn something by being nothing
A little while but the rich
Lens of attention.

But the crows puff their feathers and cry
Between me and the sun,
And I should go now.
They know me for what I am.
No dreamer,
No eater of leaves.

Mary Oliver, ''Entering the Kingdom." Born in Cleveland in 1935, Oliver published her first poetry collection, No Voyage and Other Poems, in 1963. She received a Pulitzer Prize for American Primitive in 1984. Oliver said in an interview in 1992, ''I don't know why I felt such affinity with the natural world except that it was available to me; that's the first thing. It was right there. And for whatever reasons, I felt those first important connections, those first experiences being made with the natural world rather than with the social world. »

Đi chỗ khác chơi

Đám quạ nhìn thấy tôi
Chúng dướn cổ dài, bóng nhoáng
Trên những cành cây xanh, cao.
Tên khốn này chắc là nguy hiểm đấy,
Tôi đang đi vô Vương Quốc

Giấc mơ của đời tôi
Nằm khểnh bên một dòng sông nước chảy lờ đờ
Nhìn ánh sáng bầu trời trên những tàng cây –
Để biết được 1 điều gì, từ chẳng là cái chó gì,
Một chốc một lát,
Bằng sự chú mục 

Nhưng đám quạ hết sức bực mình
Chúng phù phù lông, và la ỏm tỏi
Giữa tôi và mặt trời
Và tôi đành bò dậy
Chúng biết tôi là cái giống chó gì
Một tên đếch biết mơ mộng
Đếch biết ăn lá cây.

Mary Oliver, “Vô Vương Quốc”. Sinh tại Cleveland 1935, Oliver in tập thơ đầu “Không du lịch và những bài thơ khác” vào năm 1963. Bà được giải thưởng Pulitzer dành cho Mẽo Hoang vào năm 1984. Bà trả lời trong 1 cuộc phỏng vấn vào năm 1922, “Tôi không hiểu tại làm sao mà tôi quấn quit với thế giới thiên nhiên. ngoại trừ là nó dảnh dang dành cho tôi; đó là điều thứ nhất. Nó thì ngay đó. Và chẳng cần biết những lý do tại sao, tôi cảm thấy những móc nối đầu tiên quan trọng này, những kinh nghiệm đầu tiên, thì là với thế giới thiên nhiên hơn là với xã hội con người.”

*

*

Bài thơ này tuyệt quá, nhưng có mấy cái tên riêng không làm sao luận ra.
Note: To NQT, Hw R U? Plse Help. Tks. NQT

C. 815: Tầm Dương

Tuyết dầy Cửu Long Giang mùa đông năm thứ 10 này
Nước sông biến thành trứng cá,
Là những cục băng
Cành cây gẫy và rớt xuống
Chim đói, từng đàn hàng trăm con, ngợp đông, ngợp nam
Một con ngỗng trời, lạc bầy, đói, trong số đó, la lớn giọng hơn cả
Lấy mỏ cố moi trong lớp băng, tí ti cỏ
Ngủ trên lớp băng
Đôi cánh lạnh giá đập chậm dần cố bay lên
Chẳng bao lâu con ngỗng lọt vô lưới của 1 chú bé ở bên sông
Kẹp con vật vô nách, chú bé mang ra chợ, bán.
Nhớ xưa kia, ở miền bắc, tôi bị lưu đầy tới nơi này
Người và chim; tuy khác nhau, những cả hai đều là khách cả
Thật nhức nhối vô cùng, như là khách viếng thăm,
nhìn con chim, cũng khách viếng thăm như mình, đau đớn.
Và thế là tôi xùy cho chú bé tí tiền chuộc, và phóng thích con ngỗng.
Ôi chú ngỗng, bay lên trời cao, lên tới tận những đám mây – chú bay đi nơi nào lúc này?
Đừng bay về phía bắc, nhớ chưa, đừng bao giờ bay về phía bắc, đó là nơi cuối cùng để mà nghĩ tới
Ở đó, ở vùng Water Gale, vẫn còn uýnh nhau, không có hòa bường đâu
Cả triệu binh lính quần thảo
Lính hoàng gia, lính phản động đối diện nhau đến trở nên già khằn
Đói, mệt nhoài, kiệt sức, họ chỉ mong tóm được chú
Những tên lính hung bạo. Họ sẽ bắn chú, và làm 1 bữa tiệc
Lông của chú thì họ gắn vào những mũi tên.

Bạch Cư Dị

Bạch Cư Dị “Thả Ngỗng Về Trời”. Bạch Cư Dị trải qua kiểm tra dân chính ở tuổi 28, vào năm 800 và sau đó, trong khi cần cù nghiên cứu xét nghiệm thêm hơn, theo như được biết, bị hỏng mắt vĩnh viễn. Trong một lá thư gửi nhà thơ Nguyên Chẩn, vào tháng Chạp 815, ông cho rằng mục đích của việc  làm thơ, trước là để “cứu thế giới” và sau tới “hoàn thiện tính cách của riêng nhà thơ”. Ông là nhà thơ làm thơ nhiều nhất thời Đường, hơn ba ngàn bài thơ hiện có, trong số có nhiều bài được trích dẫn đầy đủ, nguyên con trong The Tale of Genji, của Murasaki Shibiku, một tiểu thuyết gia Nhật có ảnh hưởngm của thế kỷ 11.

Người là 1 con vật độc nhất có thể cư xử “như là bạn quí” với những nạn nhân, mà anh ta tính làm thịt, cho đến khi làm thịt họ.
Man is the only animal that can remain on friendly terms with the victims he intends to eat until he eats them.
Samuel Butler, c. 1890

Một vị độc giả, còn là thân hữu, gửi mail cám ơn vì đã khui ra câu trên.

Cái số báo về loài vật này có nhiều câu thần sầu, cực thần sầu.
Câu sau đây, chẳng tuyệt cú mèo sao:

Một con chó chết đói ở cổng nhà chủ tiên đoán sự lụi tàn của 1 đất nước
A dog starved at his master’s gate
Predicts the ruin of the state.
William Blake, 1807

Nhưng bảo đảm, chuyện này không xẩy ra cho xứ Mít.
Làm gì có chuyện chó chết đói ở cái xứ Hạ Cờ Tây!

Gấu chỉ tiếc 1 tị, là cái tay chủ tờ báo, “quên” 1 câu thần sầu, của Beckett, với riêng Gấu, khi áp dụng vào xứ Mít.

Old dogs have more dignity
Comfort them since you pity them
Beckett: Waiting for Godot (1)

Post thêm vài câu thú vị:

Khi chim ưng im lặng, là lũ vẹt huyên thuyên
When the eagles are silent, the parrots begin to jabber
Winston Churchill, 1945

Một con chó ngoan, thưa ngài, xứng đáng 1 khúc xương hoành tráng!
A good dog, sir, deserves a good bone.
Ben Jonson, 1633

"I am his highness's dog at Kew; / Pray tell me, sir, whose dog are you?" reads an epigram that Alexander Pope wrote in the 1730s and had engraved on the collar of one of his puppies, whom he gave to Frederick, Prince of Wales.
Tớ là chó của hoàng thân ở Kew
Bạn là chó của vị nào thế?

Đó là câu mà Alexander Pope viết, thập niên 1730, và cho khắc vào 1 miếng thẻ, đeo vào cổ 1 trong những con chó của ông, và sau biếu Frederick, ông Hoàng xứ Wales

Giai thoại trên làm Gấu nhớ những ngày liền sau 30 Tháng Tư 1975.
Vào đúng những ngày đó, đám Nguỵ quân bỏ chạy, cứ chui vô cái sân chung cư của Gấu ở, số 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm Sài Gòn, để trút bỏ đồ lính, thay đồ thường dân – thường là áo thung, quần lót, chân trần…  chứ gì nữa, không lẽ tụt luôn cả chim bỏ lại? – và ở ngay lề đường, là 1 chiếc xe cứu thương, đầy thuốc.
Bà cụ Gấu nghĩ liền tới thằng con ghiền đang cai ken, rất cần thuốc bổ, thế là bèn leo lên xe, khiêng về nhà cả 1 lô.
Liền đó, là những ngày quân quản, và VC, vẫn cái trò mị dân, và còn để canh chừng dân Sài Gòn, cho bộ đội đến ở cùng với dân trong xóm. Một anh bộ đội, chắc là y tá, bèn làm công việc thiện nguyện, hàng ngày ghé nhà Gấu, chích thuốc bổ cho thằng ghiền đang cai ken.
Anh ta dùng 1 thứ thuốc súng, để đốt cồn, luộc kim ống.

Một lần, đang lui cui với cái đèn cồn, ống kim… anh la lớn, Thiệu, Thiệu!
Gấu ngạc nhiên quá, nhưng liền đó, Gấu thấy 1 con chó chạy tới!
Anh ta giải thích, tôi đặt tên nó là Thiệu.
Anh ta thật cưng con chó.
….

There is an intuition that animals may possess a dignity, a loyalty, an endurance under pain and injustice denied to all but a handful of women and men. This might account for the disturbing fact that a particularly acute love and compassion for animals occurs in men of a despotic and hateful ideological temper. They are not a reassuring lot: Caligula and his horse; Wagner and his Newfoundland; Nietzsche's mental collapse at the sight of a horse being flogged; Hitler, if legend is correct, wept when his beloved Alsatian, Blondie, had to be put down in the hell of the bunker. I have every reason to believe that I am a physical coward, a bourgeois mandarin repelled and frightened by violence. Yet I know that if  a danger threatened my dog, if anyone offered him hurt, my rage, my impulse to interpose could turn homicidal. If torturers set about my wife or children, I would cry out to them to hold fast and strive to do so myself. Were they to beat my dog or put out his eyes, I would break immediately, betraying all. These are not comely truths. They defy reason and what should be the hierarchies of human love. They raise questions as to primordial instabilities, as to the survival of the zoological affinities and twilight that subvert our fragile humanity. They are truths nevertheless. Shared, I suspect, by many more of us than is openly admitted. Odysseus bids adieu to Penelope not long after his epic homecoming. Would he have left Ithaca had his dog Argos lived?

2008: Cambridge
George Steiner on a strange logic

From My Unwritten Books.
Born in Paris in 1929 to émigré parents and naturalized as a U.S. citizen in 1944, Steiner received his BA from the University of Chicago in 1948, his MA from Harvard University in 1950, and his PhD from Oxford University in 1955. He published Tolstoy or Dostoevsky in 1959, After Babel: Aspects of Language and Translation in 1975, and the novel The Portage to San Cristobal of A. H. in 1981. Asked if he ever read anything frivolous when young, Steiner replied, "Moby Dick"
*
Lúc anh Tâm đi “cải tạo” tập trung, anh bảo tôi mang con Lu về nuôi: “Tôi đi học tập cải tạo, cậu mang nó về mà nuôi, ở nhà tôi chắc chả ai trông nom nó bằng cậu được. Khi nào nó đẻ, cậu giữ lại cho tôi một con.” Lu có đẻ mấy con, dưới gầm đi-văng, không hiểu sao, mấy ngày sau chẳng thấy con nào nữa, Lu thì kêu rít thảm thiết. Lúc anh Tâm “học tập cải tạo” ở miền Bắc về, con Lu bị bọn trộm đánh cắp.

Nguyễn Đạt: Vĩnh biệt Thanh Tâm Tuyền

Nếu chim biết chúng đáng thương, chúng sẽ không hót hay như thế.
If birds knew how poor they are, they wouldn’t sing so sweetly.
Danish proverb

Nếu mi là Gấu Chó, khi đi tù VC, và khi quản giáo phán, hãy mặc sweater vô, thì hãy sủa lại, coi kìa, ông quên chưa gắn cái đuôi chồn!
If you are a dog, and your owner suggest that you wear a sweater, suggest that he wear a tail.
Fran Lebowitz, 1981

Tiếp tục chạy theo 1 con chó, nó sẽ chẳng thể nào đợp được bạn
Keep running after a dog, and he will never bite you.
Francois Rabelais, 1535

Bất giác nhớ bạn quí.
Một lần, xa xưa lắm rồi, khi đó còn Sài Gòn, còn Quán Chùa, “bạn quí” đọc 1 bài viết của Gấu, phán, bài viết của mi thì thường là thường, chỉ có câu trích dẫn là hay thôi.
Ra hải ngoại, có lần ngồi nhậu với NTV, nhớ lại nhận xét trên, nhắc lại, anh gật gù, khó nhất là nhớ câu trích dẫn, và phạng ra đúng lúc cần!
Đọc những bài viết của tay chuyên điểm sách của tờ Người Kinh Tế, Prospero, thì đúng như vậy: Bao giờ cũng mở ra bài viết, bằng 1 câu thần sầu, chôm ở đâu đó!

*

Lần đọc Người Kinh Tế, thổi Nhà Hội của Amis, vớ được 1 câu sướng điên người, và nhân đó, bèn đi 1 đường ca tụng một nữ thi sĩ!
“Phê bình gia thứ thiệt, Nabokov có lần đưa ra nhận xét, là người đọc, không phải với cái đầu, mà bằng xương sống lưng của anh ta.”
Hắn ta, giống như Gấu, đọc, đến giây phút diệu kỳ, giọt lệ trời biến thành giọt lệ người, bỗng thấy một làn hơi hạnh phúc từ huyệt bách hội ở trên đỉnh đầu, theo xương sống lưng chạy xuống, rồi tỏa ra khắp cơ thể, tới từng lỗ chân lông, và cứ thế tê lịm người đi, và thế là biết liền tù tì, đây là thơ thần.
(1)

There was a young lady of Niger
Who smiled as she rode on a tiger
They came back from the ride
With the lady inside
And the smile on the face of the tiger.

-William Cosmo Monkhouse, c.1891

Có cô thiếu nữ Niger
Tươi cười cưỡi hổ đi dạo
Và khi trở về
Cô thiếu nữ thì ở bên trong
Còn nụ cười của cô thì ở trên mặt con hổ.

Animals are such agreeable friends – they ask no questions, they pass no criticisms
Georges Eliot, 1857
Loài vật là bạn thật dễ chịu. Chúng không xoa đầu, mà cũng chẳng nâng bi!

Animals are good to think with
Claude Levi-Strauss, 1962
Loài vật thì thật tốt để mà cùng suy tư với chúng

Every ass thinks himself worthy to stand with the king’s horses
Gnomologia, 1732

Con lừa nào thì cũng nghĩ, nó xứng đáng đứng kế những con ngựa của vua

Histories are more full of examples of the fidelity of dogs than of friends
Alexander Pope, 1709

Lịch sử thì đầy những chuyện chó trung thành hơn bạn.

"I am his highness's dog at Kew; / Pray tell me, sir, whose dog are you?" reads an epigram that Alexander Pope wrote in the 1730s and had engraved on the collar of one of his puppies, whom he gave to Frederick, Prince of Wales.

*

Look in thy glass, and tell the face thou viewest
Now is the time that face should form another
William Shakespeare

Hãy nhìn vô gương và nói cho ta biết khuôn mặt mi nhìn thấy
Giờ là thời mặt nên đổi dạng khác

Now is the time that face should form another
William Shakespeare

Bây giờ là thời mặt phải đổi dạng khác
Thời của Người Không Mặt –
 Cao Bồi – PXA -
"Bạn của Gấu Cà Chớn"-
Hà, hà!

The human face disappeared and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos, 'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks gloried in facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ xưa, kẻ nô lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy. Người CS hãnh diện trong "không mặt".]

Nói cho cùng, đó là thời không mặt.
Như một hình ảnh khủng khiếp của Anna Akhmatova, về Cách Mạng:

As though, in night's terrible mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear

Như thể, trong tấm gương kinh hoàng của đêm đen
Con người, rồ dại, chối bỏ hình ảnh của mình
Và ráng sức biến mất

D.M. Thomas: Alexander Solzhenitsyn, Một thế kỷ ở trong ta.

Con chim giận dữ

Một con kên kên đợp chân tôi. Nó xé giầy vớ thành từng miểng; bây giờ tới cẳng. Nó đợp, xỉa tới tấp, lâu lâu lại lượn vòng, và đợp tiếp. Một vị lữ hành phong nhã đi qua, nhìn ngắm một lúc, rồi hỏi tôi, tại làm sao mà đau khổ như thế vì con kên kên. “Tôi làm sao bây giờ?” “Khi con vật bay tới tấn công, lẽ dĩ nhiên tôi cố đuổi nó đi, tôi còn tính bóp cổ nó nữa, nhưng loài thú này khoẻ lắm, nó chồm tới, tính đợp vô mặt tôi, và tôi đành hy sinh cặp giò. Bây giờ nó xé nát ra từng mảnh rồi.”
“Lạ thật, để cho 1 con vật hành hạ như thế”, vị phong nhã nói. “Chỉ 1 phát là rồi thôi”. “Thiệt ư?” “Làm ơn, làm đi”. “Rất hân hạnh”, vị phong nhã trả lời, “Tôi chỉ cần về nhà lấy cây ‘sọt-gân’. Bạn có thể đợi chừng nửa tiếng, nhe?” “Tôi không chắc có qua nổi con trăng nửa giờ không,” tôi cố nén đau trả lời vị phong nhã. Và rồi tôi gật đầu cam chịu, ”Thì cũng đành thôi, làm ơn làm đi” “Được lắm”, “Tôi sẽ làm nhanh chừng nào tốt chừng đó”. Trong khi chúng tôi trao đổi thì con kên kên lắng nghe, mắt đảo qua đảo lại giữa hai chúng tôi. Lúc này thì tôi biết rõ, nó hiểu hết mọi chuyện; nó thu cánh, lui lại lấy đà, và rồi, như 1 dũng sĩ ném lao, nó thúc cái mỏ vô miệng tôi thật sâu, thật sâu. Té ngửa ra sau, tôi cảm thấy khuây khoả khi con vật chìm mãi sâu vào trong máu tôi, và máu tôi cứ thế tràn ra, lấp đầy mọi hố thẳm, mọi bến bờ.

Kafka: The Vulture (1)

Những truyện ngắn khác, với nhân vật loài vật, Kafka viết nhưng không xb, là “Những cuộc điều tra của 1 con chó”, “Một đứa/con lai giống”, và “Một ngụ ngôn nhỏ”. Bạn của ông, Max Brod, sau khi ông mất, lo việc xb những tác phẩm của ông, như Vụ Án, Tòa Lâu Đài,Amerika. Brod viết 1 tiểu luận vinh danh bạn vào năm 1907; Kafka cho xb những tác phẩm đầu của mình, 8 phác họa, dưới cái tít “Trầm Tư”, năm sau đó. Brod có lần nhớ lại, Kakka đọc [truyện] lớn, với “cú quét nhịp nhàng, với lửa bi thương và sự xuất thần mà không một diễn viên nào có thể thực hiện”.



Không phải Trại Loài Vật, Animal Farm, của Orwell.
Lại càng không phải Trại Súc Vật của xứ Mít

Gấu xa xứ Bắc lâu quá, thành ra không hiểu khi Bắc Kít dùng từ “súc vật”, có giống như Nam Kít hay không, chứ Nam Kít mà đi 1 đường “súc vật”, là nặng lắm. Tán tỉnh em làm sao mà để em mắng, mi là "đồ súc vật", là chỉ có đường, trở thành "súc vật"!
Chửi, đồ “súc vật”, sợ còn khốn nạn hơn là chửi, đồ… VC!
Hà, hà!

Số báo này có hai cái thú với riêng Gấu. Số trước Ghiền đã thú. Số này thì mở ra bằng 1 bài của Steiner, và còn đi 1 cái truyện ngắn của Kafka, Kên Kên, Tin Văn cũng đã từng post, và luôn cả bài của Borges, liên quan tới Kafka và con kên kên của ông.
Nhờ số báo, Gấu mới biết đến con kên kên trên... TV!

Đúng là như Rừng Cà Mâu!
Và còn biết thêm, chưa dịch “Kên Kên” ra tiếng Mít hầu độc giả TV! 

Để đi kèm số báo dành cho loài vật này, không gì xứng hợp hơn, là giới thiệu bài viết về Coetzee: Giữa Người và Thú, tội tổ tông, hay là sự phân biệt khởi thuỷ, Entre hommes et bêtes, la ségrégation originelle.


*

*

Note: Mấy bài về Coetzee thật tuyệt. Khởi đầu của dã man của con người, là, khi nó nghĩ nó bảnh hơn loài vật. Ở cuối Vụ Án, Kafka cho K. chết, "như 1 con chó". Tên “Mít” K nhìn hai ông cớm VC [l'accusé regardait "les deux messieurs"] đâm lưỡi dao vô tim, như thể nỗi tủi hổ sẽ sống dai hơn anh ta.
Ngay từ "Những cảnh đời của 1 chú thanh niên", Scènes de la vie d'un jeune garcon, tập đầu của bộ ba có tính tự thuật, Coeztee đã nhận ra, tủi hổ là vấn đề trung tâm, la question centrale, của Nam Phi, và chỉ có chữ viết mới có thể làm cho nó sống động.

Chỉ 1 khi lũ Bắc Kít, lũ VC nằm vùng, cảm thấy xấu hổ, tủi nhục, khi ăn cướp Miền Nam, và đẩy xứ Mít vô tình trạng “đồng chí X”, thì may ra mới hé ra hy vọng.

Hà, hà!


*

Số này cũng tuyệt: Loài Vật.
Không phải Trại Loài Vật, Animal Farm, của Orwell.

Lại càng không phải Trại Súc Vật của xứ Mít

Bài viết mở ra số báo, là của Steiner [có vẻ như tay này cũng mê Vị Viện Sĩ Ưu Tú Của Nhân Dân]. 2008: Cambridge. Steiner on a strange logic [S. lèm bèm về 1 luận lý kỳ kỳ]. Vớ được câu sau đây:
Người là 1 con vật độc nhất có thể cư xử “như là bạn quí” với những nạn nhân, mà anh ta tính làm thịt, cho đến khi làm thịt chúng.
Man is the only animal that can remain on friendly terms with the victims he intends to eat until he eats them.
Samuel Butler, c. 1890

*

Bức họa này mới thú:

Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ!

*

1920: Prague

ANGRY BIRD

A vulture was hacking at my feet. It had already torn my boots and stockings to shreds; now it was hacking at the feet themselves. Again and again it struck at them, then circled several times restlessly around me, then returned to continue its work. A gentleman passed by, looked on for a while, then asked me why I suffered the vulture. "I'm helpless," I said. "When it came and began to attack me, I of course tried to drive it away, even to strangle it, but these animals are very strong, it was about to spring at my face, but I preferred to sacrifice my feet. Now they are almost torn to bits." "Fancy letting yourself be tortured like this!" said the gentleman. "One shot and that's the end of the vulture." "Really?" I said. ''And would you do that?" "With pleasure," said the gentleman, "I've only got to go home and get my gun. Could you wait another half-hour?" "I'm not sure about that," said I, and stood for a moment rigid with pain. Then I said, "Do try it in any case, please." "Very well," said the gentleman, "I'll be as quick as I can." During this conversation the vulture had been calmly listening, letting its eye rove between me and the gentleman. Now I realized that it had understood everything; it took wing, leaned far back to gain impetus, and then, like a javelin thrower, thrust its beak through my mouth, deep into me. Falling back, I was relieved to feel him drowning irretrievably in my blood, which was filling every depth, flooding every shore. (1)

Franz Kafka, "The Vulture." Other short stories with animal characters that Kafka wrote but did not publish are 'Investigations of a Dog," "A Crossbreed," and "A Little Fable." His friend Max Brod, who later oversaw the posthumous publication of Kafka’s The Trial, The Castle, and Amerika, praised his writing in an essay in 1907; Kafka published his first work, eight sketches under the title "Meditation," the following year. Brod once recalled how Kafka read aloud with a ''rhythmic sweep, a dramatic fire, a spontaneity such as no actor ever achieves. "