|
Bài điểm cuốn
mới nhất của Coetzee, “Tuổi thơ của Ky Tô”, trên TLS, 22 Tháng
Ba - đúng
ngày mất của TTT – 2013.
Tuyệt.
J.M. Coetzee
thì thật hiếm trong số những tiểu thuyết gia cự phách mà có
thể nói, đếch
làm sao trích dẫn nổi. Những câu văn của ông – “Tháng Chạp, trời trở
nên buốt
giá”, hay “Ở trên giường, Soraya trơ ra” - chẳng có tí hoành tráng! Có
người phán,
văn không có máu, có người khác, văn kìm kẹp. Thật khó mà đọc một hai
câu mà không
vứt vô thùng rác, đúng như Sến, xin lỗi, không phải Sến, mà là Martin
Amis, cách
đây vài năm, phán, Nobel và Booker kép “không có tài năng”. Tuy nhiên,
văn
phong thì cũng năm bẩy đường… Với Coetzee, chúng ta có 1 thứ chủ nghĩa
tàn nhẫn
văn học, it's a sort of literary brutalism!
Ui chao, lại
nhớ đến tên sa đích văn nghệ, lần điểm cuốn tiểu thuyết của NTH: Văn
chương khủng
khiếp! (1)
(1)
…
lần đụng độ với Nguyễn Thị Hoàng, khi bà xuất bản cuốn Vào Nơi Gió Cát. Tôi
đang giữ mục điểm sách cho phụ trang Văn
Học Nghệ Thuật của nhật báo Tiền Tuyến.
Trang báo do Thanh Tâm Tuyền phụ trách (sau ông giao lại cho Huỳnh Phan
Anh và
tôi; Huỳnh Phan Anh, sau bực bội với thằng bạn "láu cá' Bắc-kỳ, cũng
dãn
ra). Nguyễn Thị Hoàng vừa thành lập nhà xuất bản, làm một tuyển tập
truyện ngắn,
trả tiền nhuận bút rất xôm, có thể nói là cao nhất, so với các nhà xuất
bản
khác. Tôi cũng được mời tham gia. Ngoài tiền nhuận bút còn một bữa ăn
linh
đình, như để giới thiệu tuyển tập truyện ngắn và nhà xuất bản. Rồi tới Vào Nơi
Gió Cát.
Cuốn truyện quá tệ, nhưng chưa tệ hại bằng bài điểm sách. Sau khi tóm
tắt nội
dung phần đầu, tôi kết luận: phần đầu cuốn sách, theo tôi thật là khủng
khiếp!
(Chấm xuống dòng đàng hoàng!).
Và sự khủng
khiếp cứ thế kéo dài cho đến hết cuốn truyện.
Chưa hết,
người phụ trách trang báo lại tỏ ra rất thích từ "khủng khiếp".
Ông cho đăng, dưới cái tít: Văn
Chương Khủng Khiếp.
Nguyễn Thị Hoàng hết sức giận dữ về bài viết. Nhưng
thật khác người, bà trả lời
sau đó bằng tác phẩm Cuộc Tình Trong
Ngục Thất. Đây là một tác phẩm tuyệt vời
nhất, nói "không" về cuộc chiến, theo tôi. Hình ảnh một người đàn bà,
một người vợ tất tả chạy ngược, chạy xuôi, trong địa ngục để cứu chồng.
Một ấn
bản khác về chàng Orphée. Tôi lại là người được cả hai người, là Thanh
Tâm Tuyền
và Mai Thảo, trao cho vinh dự viết bài điểm sách, trên tờ Vấn Đề: Nếu
Dostoevsky muốn kéo Thượng Đế xuống cho ngang bằng con người, ở đây
Nguyễn Thị
Hoàng muốn kéo địa ngục lên ngang tầm trái đất...
Notes
on a Voice
THE SAVAGE
THRIFT OF J.M. COETZEE
TYPICAL
SENTENCE
"There
seems to be no limit to the shame a human being can feel" ("Age of
Iron", 1990).
Câu văn bảnh:
Hình như không có giới hạn cho nỗi tủi hổ nhục nhã mà con người có thể
cảm nhận
(“Thời Sắt”, 1990).
Ở cuối Vụ
Án, Kafka cho K. chết, "như 1 con chó": Tên “Mít” K nhìn hai ông
cớm
VC [l'accusé regardait "les deux messieurs"] đâm lưỡi dao vô tim, như
thể nỗi tủi hổ sẽ sống dai hơn anh ta, “comme si la honte devait lui
survivre”.
Như trong Kafka, “cộng
đồng người và vật”, là "vụ án" độc nhất, cần phải chỉ mặt đặt
tên [Comme chez Kafka, la “communauté des hommes et des bêtes” est le
seul “tribunal”
à reconnaitre.]
Như Graham
[trong bài viết “Coetzee, sắc dân và hiếp
dâm” trên tờ TLS số 8 Tháng Hai, 2013] chỉ ra, sức mạnh khủng khiếp gây
sốc,
the great shocking power, của Coetzee ở trong Ô Nhục, Disgrace,
1990, nằm đúng ở sự kiện, cô con gái của nhân vật chính,
Lucy Lurie, sau khi bị cả một băng da đen hãm hiếp, đã lặng lẽ chọn
quyết định,
sẽ giữ lại đứa con, hậu quả của vụ hãm hiếp, mà cô coi đó là biểu tượng
của cái
giá mà cô phải trả để tiếp tục sống thời hậu phân biệt chủng tộc tại
Nam Phi.
Cú hiếp
này
là nặng nhất, nói về "giới hạn" của ghê rợn, tủi nhục, đỉnh cao chói
lọi, “hiếp đàn bà da trắng” của da đen. Coetzee là
người đầu tiên dám đi tới giới hạn và chính vì thế, mặc dù ông được
Booker, được
Nobel, nhờ nó, nhưng Nam Phi không chịu nổi ông, và ông phải bỏ qua Úc
sống.
FAVOURITE
TRICK
Using
doubles. Animals were the subject of Coetzee’s Tanner Lectures at
Princeton in
1997. Except he didn’t give his opinions. He told stories about a
writer giving
hers. The most provocative of them compared industrial meat production
with the
Holocaust. Some critics thought he was being evasive; others that he
was
thinking about how ideas are embodied and lived.
Mánh viết
Sử dụng những
kẻ thế thân,“tớ đấy, nhưng không phải tớ”. Loài vật là đề tài của
Coetzee
trong những lần diễn thuyết "Tanner
Lectures", ở Princeton, vào năm 1997. Nhưng ông đếch coi đó là quan
điểm, vị thế
của mình, và “bật mí”, của một nhà văn, một nữ văn sỡi.
Căng nhất,
gây tranh cãi nhất, là chúng được so sánh với kỹ nghệ sản xuất thịt
[người] ở Lò
Thiêu.
Một vài nhà phê bình thì nghĩ rằng thì là Coetzee chơi trò ẩn
hiện,
evasive: lẩn tránh, thoái thác; một số khác, ông ta đang suy nghĩ về,
như thế nào,
làm sao, những tư tưởng đó được cưu mang, và sống, với nhau.
ROLE MODELS
Not hard to
spot: Coetzee writes novels about them. "Foe" (1986) is a reworking
of "Robinson Crusoe", "The Master of Petersburg" (1994) is
about the life of Dostoyevsky. The influence of Kafka is felt in
Michael K’s
name, which evokes "The Trial", as do his run-ins with obscure and
violent authority.
Hàng Mẫu
Dễ ợt, nhận
ra liền tù tì: Coetzee “đi” những cuốn tiểu thuyết về họ. “Foe” (1986),
là nhái lại, làm lại "Lỗ Bình Sơn
phiêu lưu ký" [Thảo nào, TTT “viết lại” Một
Chủ Nhật Khác, dành riêng cho Đảo Xa!] “Sư Phụ ở Petersburg”
(1994), là về
cuộc đời của Dos. Ảnh hưởng của Kafka thì ngửi ra liền, qua cái tên
Michael
K, làm bật ra “Vụ Án”, cùng với chúng, là những cuộc uýnh lộn của ông
với quyền
uy tối tăm và hung bạo.
Coetzee: Notes
on a Voice
THE SAVAGE
THRIFT OF J.M. COETZEE
Tính tằn tiện
dã man của J.M. Coetzee
Ghi chú về 1
giọng văn: Simon Willis khui ra 1 giọng văn gầy còm, không có tí mỡ, và
đe dọa.
Đọc Coetzee
thì như bơi trong 1 biển, mặt biển phẳng lặng, và sóng dội từ bờ, mới
hung bạo
làm sao. Những câu văn của ông thì còm cõi, những đề tài, đe dọa [Trên
tờ TLS Gấu
mới đọc, kiếm hoài không thấy trong mớ sách báo, 1 bài viết về ông,
theo đó,
hai đề tài chủ yếu của ông là race and rape, sắc dân và hiếp dâm]:
quyền lực, sắc
dân, quyền của thú vật, và thú tội. Trong những tác phẩm sau này, có
sợi chỉ
tôn giáo và cứu chuộc. Cuốn tiểu thuyết mới có tên “Tuổi thơ của Chúa
Ky Tô”.
Sinh tại Nam
Phi, 1940, ông trải qua tuổi đôi mươi đau nỗi đau nôn mửa, khi đối diện
trang
sách trống rỗng – Mít kêu là trang giấy trắng tinh – Cơn bịnh bớt đi,
khi, vào
năm 1974, ông cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay, “Dusklands”. Kể từ
đó, ông
viết những tác phẩm thấm thiá về thời kỳ phân biệt, và hậu phân biệt
chủng tộc
– bao gồm “Đời và Thời của Michael K” (1983) và Ô Nhục, Disgrace (1999), cả hai
đều đợp Booker Prize, cũng như là những tiểu thuyết quá tiểu thuyết đến
trở
thành những tiểu luận, và những hồi ức, memoirs, quá memoir đến trở
thành tiểu
thuyết. Ông đợp Nobel năm 2003.
Trước khi là
tiểu thuyết gia, thì là 1 nhà toán học, nhà khoa bảng, và câu văn của
ông sáng
lên nhờ cái vẻ khắc khổ, và, trong sáng. Vài chuyên gia phê là cứng
quá, cằn cỗi
quá. Nhưng, như là 1 văn phong, như Michael Wood chỉ ra, nó đưa bạn
“qua 1 xứ sở
còi cọc, nhưng tới một miền của nỗi chán chường, tuyệt vọng”.
Quyết định
Chìa Khóa
Đi Mẽo [Austin,
Texas]. Vào năm 1965, Coetzee tới đó, làm cái luận án Tiến sĩ. Ở thư
viện đại học,
ông vớ được những bản thảo đầu của cuốn tiểu thuyết “Watt” của Samuel
Beckett.
Ông la lên, “ơ rơ ka”, kiếm thấy rồi! Beckett đem đến cho Coetzee một
“sound”
[âm, vọng, tiếng, giọng…] Bạn có thể nghe thấy nó, rõ ràng nhất, mạnh
mẽ nhất,
khỏe nhất, ở trong những độc thoại "xa rồi, xưa rồi, diễm ơi, nhạt nhòa
như
mưa", của “Dusklands”, và “Ở Trái Tim của Xứ Xở” (1977). Bài học quan
trọng
nhất của tất cả, là, sự kiềm chế, cố nén. “Tư tưởng thì như con chó
thèm cục
kít," [Em như cục kít trôi sông/Anh như con chó chạy rông ven bờ],
Coetzee
viết, “văn xuôi thì như sợi dây [kìm con chó]
Luật Vàng
Keep it
spare [Giữ riêng ra, thật chặt]. Sợi dây dẫn chó trở thành cái
thòng lọng, và
ông bèn xiết
thật chặt, trong Ô Nhục, đẩy nhân vật
của ông, giáo sư David Lurie, vào đống lửa, bằng, chỉ 1 câu văn: “Quẹt
cây diêm đánh
dzẹt 1 phát, và thế là ông bèn ngập trong một biển lửa, xanh, lạnh”.
Nhưng sợi thòng
lọng rung lên, như người đọc run lên, theo từng trang sách, cùng với
những đề tài
khủng khiếp và quyền lực của chúng: “Tôi ngập ngụa trong ô nhục đến
không làm
sao cất mình ra khỏi”, Lucy sau đó nói.
Điểm mạnh
1. Đại từ.
“Tôi”, hay “anh ấy” thì là
những từ đơn giản, ngoại trừ dưới tay Coetzee, khi ông sử dụng tới
chúng. Tuổi thơ, "Boyhood" (1997),
Tuổi Trẻ, "Youth"
(2002), Hạ Thì,
"Summertime" (2009), thì đều là những tác phẩm tự thuật. Hai
cuốn đầu,
viết bằng ngôi thứ ba, thời hiện tại. Trong cuốn thứ ba, Coetzee ngỏm.
Trò chơi đặt ra những câu hỏi nghiêm trọng:
Chúng ta biết, nhiều như
thế nào, về chúng ta?
Nghĩa là gì, nói... sự thực?
2. Hình thức. Thể dạng.
Xiêu vẹo tới đây hay tới đó, đó là hồi ký, đó là Coetzee viết những ẩn
dụ, và thư từ. Trong Nhật Ký Năm Xấu,
"Diary of a Bad Year" (2007), ông
chia 1 trang ra thành 3, mỗi trang nhỏ như thế treo 1 dòng kể. Kết quả,
1 tẩu khúc cho ba giọng.
Errata:
Dear Anya, I wrote
Xin đọc:
Dear Sad Seagull, GNV wrote
THE SAVAGE
THRIFT OF J.M. COETZEE
Tính tằn tiện
dã man của J.M. Coetzee
Ghi chú về 1
giọng văn: Simon Willis khui ra 1 giọng văn gầy còm, không có tí mỡ, và
đe dọa.
Đọc Coetzee
thì như bơi trong 1 biển, mặt biển phẳng lặng, và sóng dội từ bờ, mới
hung bạo
làm sao. Những câu văn của ông thì còm cõi, những đề tài, đe dọa [Trên
tờ TLS Gấu
mới đọc, kiếm hoài không thấy trong mớ sách báo, 1 bài viết về ông,
theo đó,
hai đề tài chủ yếu của ông là race and rape, sắc dân và hiếp dâm]:
quyền lực, sắc
dân, quyền của thú vật, và thú tội. Trong những tác phẩm sau này, có
sợi chỉ
tôn giáo và cứu chuộc. Cuốn tiểu thuyết mới có tên “Tuổi thơ của Chúa
Ky Tô”.
Sinh tại Nam
Phi, 1940, ông trải qua tuổi đôi mươi, đau nỗi đau nôn mửa, khi đối
diện trang
sách trống rỗng – Mít kêu là trang giấy trắng tinh – Cơn bịnh bớt đi,
khi, vào
năm 1974, ông cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay, “Dusklands”. Kể từ
đó, ông
viết những tác phẩm thấm thiá về thời kỳ phân biệt, và hậu phân biệt
chủng tộc –
bao gồm “Đời và Thời của Michael K” (1983) và Ô Nhục, Disgrace (1999),
cả hai đều
đợp Booker Prize, cũng như là những tiểu thuyết quá tiểu thuyết đến trở
thành
những tiểu luận, và những hồi ức, memoirs, quá memoir đến trở thành
tiểu
thuyết.
Ông đợp Nobel năm 2003.
Trước khi là
tiểu thuyết gia, thì là 1 nhà toán học, nhà khoa bảng, và câu văn của
ông sáng
lên nhờ cái sự khắc khổ và rõ ràng, trong sáng. Vài “Thầy Cuốc” phê là
cứng quá,
cằn cỗi
quá. Nhưng, như là 1 văn phong, như Michael Wood chỉ ra, nó đưa bạn
“qua 1 xứ sở
còi cọc, nhưng tới một miền của nỗi chán chường, tuyệt vọng”.
Quyết định
Chìa Khoá.
Đi Mẽo
[Austin, Texas]. Vào năm 1965, Coetzee tới đó, làm cái luận án Tiến sĩ.
Ở thư viện đại học, ông vớ được những bản thảo đầu của cuốn tiểu thuyết
“Watt” của Samuel Beckett. Ông la lên, “ơ rơ ka”, kiếm thấy rồi!
Beckett đem đến
cho Coetzee một “sound” [âm, vọng, tiếng, giọng…]. Bạn có thể nghe thấy
nó, rõ
ràng nhất, mạnh mẽ nhất, khỏe nhất, ở trong những độc thoại "xa rồi
diễm
ơi, nhạt nhòa như mưa", của “Dusklands”, và “Ở Trái Tim của Xứ Xở”
(1977).
Bài học quan trọng nhất của tất cả, là, sự kiềm chế, cố nén. “Tư tưởng
thì như
con chó thèm cục kít," [Em như cục kít trôi sông/Anh như con chó chạy
rông
ven bờ], Coetzee viết, “văn xuôi thì như sợi dây [kìm con chó].
Contrairement
aux autres écrivains sud-africains, Coetzee a évité le registre de la
dénonciation frontale. Il opte toujours pour un regard oblique, rétif à
tout
dogmatisme, et un laconisme désarmant, dans la lignée de Kafka.
John Maxwell Coetzee:
Ni blanc, ni noir
Đếch trắng, đếch đen (1)
Les grands
auteurs sud-africains des années 1980 ne se définissaient guère que par
rapport à l'apartheid et à sa dénonciation : subtile chez Nadine
Gordimer, lyrique
chez Andre Brink, plus métaphorique chez Doris Lessing, elle était la
matrice
de tous leurs écrits. John Maxwell Coetzee est entré un peu plus tard
en littérature
et a été le premier à se dégager de cette gangue. Les livres de ses débuts (Au
coeur de ce pays, En
attendant les barbares, Michael K, sa vie, son temps) sont
des allégories qui dépassent largement le
contexte sud-africain pour mettre en scène l'éternelle et complexe
relation
entre le maitre et l'esclave. La honte, l'humiliation et la violence,
la cruauté
des rapports humains font le lit de romans très noirs, souvent
étouffants et
qui visent plus la quête d'une morale que l'engagement militant. Son
seul livre
à aborder ouvertement l'apartheid, Disgrace,
préfère s'attacher à l'Afrique du Sud d'après et offre une
vision extrêmement
iconoclaste des traces qu'il a laissées, scindant en deux un pays où les
Noirs
brulent de revanche et où les Blancs sont rongés de culpabilité.
(1) GCC tính
dịch, "Đếch Bắc Kít, đếch Nam Kít", như Gấu Cái nhận xét, khi đọc văn
của thằng chả!
Hà, hà!
Nhưng bài
này, quả có vấn nạn này, mà nguồn của nó, là... Kafka, dans la lignée de Kafka!
Ba bài viết
về Coetzee trong số báo này, đều cần dịch hết!
Coetzee: Notes
on a Voice
Coetzee @ ML
Note: Mấy
bài về Coetzee trong số báo ML này, thật tuyệt. Khởi đầu của dã man của
con người,
là, khi nó nghĩ nó bảnh hơn loài vật. Ở cuối Vụ Án,
Kafka cho K. chết, "như 1 con chó". Tên “Mít” K
nhìn hai ông cớm VC [l'accusé regardait "les deux messieurs"] đâm lưỡi
dao vô tim, như thể nỗi tủi hổ sẽ sống dai hơn anh ta.
Ngay từ
"Những cảnh đời của 1 chú thanh niên", Scènes de la vie d'un jeune
garcon, tập đầu của bộ ba có tính tự thuật, Coeztee đã nhận ra,
tủi hổ là vấn đề
trung tâm, la question centrale, của Nam Phi, và chỉ có chữ viết mới có
thể làm
cho nó sống động.
Chỉ 1 khi lũ
Bắc Kít, lũ VC nằm vùng, cảm thấy xấu hổ, tủi nhục, khi ăn cướp Miền
Nam, và đẩy
xứ Mít vô tình trạng “đồng chí X”, thì may ra mới hé ra hy vọng.
Đệ tử của
Beckett
Beckett: Đệ
tử của Joyce
Mít
đếch có Thầy.
Nên cũng đếch có nhà văn Mít!
Trước khi là
tiểu thuyết gia, thì là 1 nhà toán học, nhà khoa bảng, và câu văn của
ông sáng lên
nhờ cái sự khắc khổ và rõ ràng. Vài “Thầy Cuốc” phê là cứng quá, cằn
cỗi quá.
Nhưng, như là 1 văn phong, như Michael Wood chỉ ra, nó đưa bạn “qua 1
xứ sở còi
cọc, nhưng tới một miền của nỗi chán chường, tuyệt vọng”
Before
becoming a novelist he was a mathematician and academic, and his
sentences
gleam with rigour and clarity. Some critics have found them too hard,
too
barren. But it’s a style, as Michael Wood has written, which takes you
"through stunted country but arrives at a region of desperate
feeling".
KEY DECISION
Going to
Austin, Texas. In 1965, Coetzee went there to do a doctorate. In the
university
library he found the early manuscripts for Samuel Beckett’s novel
"Watt". Beckett gave Coetzee a sound. You can hear it most strongly
in the faltering monologues of "Dusklands" and "In the Heart of
the Country" (1977). The most important lesson of all was restraint.
"The thought was like a ravening dog", Coetzee wrote, "the prose
was like a taut leash."
Quyết
định Chìa Khoá.
Đi
Mẽo [Austin, Texas]. Vào năm 1965, Coetzee tới đó, làm cái luận án Tiến
sĩ [chắc
cũng giống Thầy Cuốc, rời xứ Tẩy, rời Kinh Đô Ánh Sáng, đi Úc làm cái
Tiến sĩ,
chăng?] Ở thư viện đại học, ông vớ được những bản thảo đầu của cuốn
tiểu thuyết
“Watt” của Samuel Beckett. Ông la lên, “ơ rơ ka”, kiếm thấy rồi!
Beckett đem đến
cho Coetzee một “sound” [âm, vọng, tiếng, giọng…]. Bạn có thể nghe thấy
nó, rõ
ràng nhất, mạnh mẽ nhất, khỏe nhất, ở trong những độc thoại "xa rồi
diễm ơi, nhạt
nhòa như mưa", của “Dusklands”, và “Ở Trái Tim của Xứ Xở” (1977). Bài
học quan
trọng nhất của tất cả, là, sự kiềm chế, cố nén. “Tư
tưởng thì như con chó thèm cục kít," [Em như cục
kít trôi sông/Anh như con chó chạy rông ven bờ], Coetzee viết, “văn
xuôi thì như
sợi dây [kìm con chó].
Ghi chú về 1
giọng văn
Simom Willis
khui ra 1 giọng văn gầy còm, không có tí mỡ, và đe dọa.
Đọc Coetzee
thì như bơi trong biển, mặt biển phẳng lặng, và sóng dội từ bờ, mới
hung bạo làm
sao. Những câu văn của ông thì còm cõi, những đề tài, đe dọa [Trên
tờ TLS Gấu mới
đọc, kiếm hoài không thấy trong mớ sách báo, 1 bài viết về ông, theo
đó, hai đề tài chủ yếu của ông
là race
and rape, sắc dân và hiếp dâm]: quyền lực, sắc dân, quyền của thú vật,
và thú tội.
Trong những tác phẩm sau này, có sợi chỉ tôn giáo và cứu chuộc. Cuốn
tiểu thuyết
mới có tên “Tuổi thơ của Chúa Ky Tô”.
Sinh tại Nam
Phi, 1940, ông trải qua tuổi đôi mươi, đau
nỗi đau nôn
mửa, khi đối diện trang sách trống rỗng – Mít kêu là trang giấy trắng
tinh – Cơn
bịnh bớt đi, khi, vào năm 1974, ông cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu
tay,
“Dusklands”. (1)

(1): Nobel 2003
Ông đã từng
viết về Việt Nam ngay trong tác phẩm đầu tay, Phương Án Việt Nam, [The Vietnam
Project], in chung với The Narrative of [Tự sự của] Jacobus Coetzee, trong Dusklands, Đất Tối,
nhà xb Penguin Books.
Đây là một
cuộc đìều tra về ảnh hưởng của truyên truyền của Mỹ, và cuộc chiến tâm
lý Việt Nam, được in song song với câu
chuyện của
một người da trắng kỳ thị chủng tộc tại Nam Phi, như một
ẩn dụ so sánh chế độ thực dân thuộc địa thời
kỳ 1760 và chủ nghĩa đế quốc 1970.
Ngay trang đầu
của Phương Án Việt Nam, là
câu trích dẫn Herman Kahn, người Mỹ, vốn
được coi là một trong những nhà tương lai
học:
Thật dễ dàng
thông cảm với sự ghê tởm của khán thính giả Âu Châu và Mỹ, khi nhìn
cảnh phi
công Mẽo xả bom na-pan thui nướng VC, nhưng không lẽ chính phủ Mẽo
trưng dụng
cái thứ phi công chết nhát không thể hoàn tất phi vụ, hoặc phát khùng
phát
điên, vì cảm thấy tội lỗi đầy mình?
[Obviously
it is difficult not to sympathize with those European and American
audiences
who, when shown films of fighter-bomber pilots visibiy exhilarated by
successful napalm bombing runs on Viet-Cong targets, react with horror
and
disgust. Yet, it is unreasonable to expect the U.S. Government to
obtain pilots
who are so appalled by the damage they may be doing that they cannot
carry out
their missions or become excessively depressed or guilt-ridden].
Đây là điều
Hàn Lâm Viện Thuỵ Điển lọc ra, trong thông báo dành cho báo chí: Quan
tâm của
ông chủ yếu ở những hoàn cảnh, khi mà sự phân biệt giữa, đâu là đúng
đâu
là sai,
mặc dù hiển nhiên, nhưng hoàn toàn vô dụng.



Note: Mấy
bài về Coetzee trong số báo này, thật tuyệt. Khởi đầu của dã man của
con người,
là, khi nó nghĩ nó bảnh hơn loài vật. Ở cuối Vụ Án,
Kafka cho K. chết, "như 1 con chó". Tên “Mít” K
nhìn hai ông cớm VC [l'accusé regardait "les deux messieurs"] đâm lưỡi
dao vô tim, như thể nỗi tủi hổ sẽ sống dai hơn anh ta.
Ngay từ
"Những cảnh đời của 1 chú thanh niên", Scènes de la vie d'un jeune
garcon, tập đầu của bộ ba có tính tự thuật, Coeztee đã nhận ra,
tủi hổ là vấn đề
trung tâm, la question centrale, của Nam Phi, và chỉ có chữ viết mới có
thể làm
cho nó sống động.
Chỉ 1 khi lũ
Bắc Kít, lũ VC nằm vùng, cảm thấy xấu hổ, tủi nhục, khi ăn cướp Miền
Nam, và đẩy
xứ Mít vô tình trạng “đồng chí X”, thì may ra mới hé ra hy vọng.
|