|
Trong số báo
ML đã dẫn, 10 giọng nói lớn của văn chương ngoài nước Tẩy, riêng
Coetzee có tới
4 bài viết. Và đều rất bổ ích cho xứ Mít. Nên nhớ, tác phẩm đầu tay của
ông, đề
tài Mít. Và có 1 cái gì đó rất ư là… Mít, khi đọc ông, gợi ra, và làm
nhớ tới
Kafka, thí dụ, sự tủi hổ, như 1 con chó, con bọ VC, Cái Ác Bắc Kít….
Và tất nhiên, Ô Nhục.
Ô Nhục,
Disgrace
David Lurie, 52 tuổi, hai
lần ly dị, giáo sư văn
chương ở đại học
Cap, sống thoải mái giữa những cours dậy học và những lần ghé thăm hàng
tuần một
“escort girl”. Nhưng mối liên hệ phù du với 1 em sinh viên đã phá vỡ sự
êm ả thoải mái này. Bị buộc tội quấy nhiễu tình dục, ông mất sở làm, và
phải lưu
vong, về sống với cô con gái Lucy, tại một trang trại, và nơi này cũng
chẳng an
toàn gì so với thành phố.
Chuyện tồi tệ đã xẩy ra. Một bữa ba thanh
niên da đen
xuất hiện, tấn công David, làm thịt mấy con chó, và bề hội đồng cô con
gái.
Làm thế nào
sống dưới một xứ Nam Phi mới, dưới chế độ apartheid?
[Xém 1 tí là GCC viết lộn
thành… VC! Mít chúng ta cứ thử hình dung, Lucy, là cái em gì gì đó,
trong Cánh Đồng Bất Tận, hay quá hơn nữa, cả xứ Nam Kít, bị đám Bắc Kít
bề hội đồng!]
Cô con gái
Lucy có câu trả lời: “Như 1 con chó”. Và chối từ tất cả.
Người bố rút ra 1 bài
học cay đắng khiến ông nhìn lại tất cả những suy nghĩ, và hơn thế nữa,
tìm cách
thay đổi đời mình.
Một cuốn tiểu thuyết hiện thực lớn, thấm đẫm Kafka, và
Dostoievski, đưa ông tới Nobel.
Jean-Paul Engélibert.
Khi trong nước
dịch Ô Nhục, thích quá, GCC bèn gửi
liền bài điểm của Rushdie, cho e Văn, khi đó còn do băng đảng của Trần
Tiễn Cao
Đăng trông coi
Salman
Rushdie đọc Ô Nhục, Disgrace. (1)
Tháng
Năm, 2000: J.M. Coetzee
[Nhân trong nước dịch Disgrace]
Đôi khi, tác
phẩm văn chương làm người đọc có được một sự hiểu biết rõ ràng, sâu sắc
hơn về
những sự kiện được trình bầy trên mặt báo, trên màn hình TV, qua đó,
thứ ánh
sáng nửa vời của báo chí chẳng thể nào làm sáng lên được những sự thực
vốn đã mờ
mờ ảo ảo. Tác phẩm Đường Tới Ấn Độ
[Passage to India] của nhà văn E.M.
Forster
đã dậy cho chúng ta, rằng, những cuộc cãi cọ lớn lao về lịch sử khiến
những con
người cá nhân không có được một sự bình an riêng tư. Lịch sử ngăn cấm
tình bạn
giữa ông người Anh Fielding, và ông bác sĩ người Ấn Aziz. “Chưa được
đâu, chưa
được đâu”, ông bác sĩ ngần ngại, xen lẫn hoài nghi. Chưa được đâu, một
khi mà sự
bất công lớn lao của chủ nghĩa đế quốc còn cản lối giữa hai chúng ta.
Chưa được
đâu, đợi khi nào Ấn độ được tự do, nhé!
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, rất nhiều
nhà thơ, tiểu
thuyết gia Đức cảm thấy, do chủ nghĩa Nazi, ngôn ngữ của họ chỉ còn là
một mớ gạch
ngói vụn nát, chẳng khác chi những thành phố hoang tàn vì
bom đạn [của
Đồng minh] của họ. “Văn học gạch vụn” mà họ sáng tạo ra đó, là để tìm
cách xây
dựng lại, từng viên gạch một, từng mảnh vụn một, cái gọi là một cách
viết Đức.
Bây giờ, vào thời “hậu sự” của
Đế quốc đang diễn
ra tại một trang trại do người da trắng làm chủ ở Zimbabwe, trong khi
Kenya và
Nam Phi lo lắng theo dõi, cuốn tiểu thuyết Ô Nhục, được nhiều người ca
ngợi, của
J.M. Coetzee, là tác-phẩm-xác-định-thời-đại
khác nữa, nó giống như một thứ thấu kính, qua đó, chúng ta có thể nhìn
rõ hơn
nhiều, những gì trước đó còn tối tăm, u ám.
Ô Nhục là câu
chuyện của David
Lurie, một giáo
sư da trắng bị mất việc sau khi một nữ sinh viên tố cáo ông quấy nhiễu
tình dục
cô ta. [Của đáng tội], với cô này, ông chỉ có được một chuỗi những lần
ăn nằm
mà chẳng hứng thú gì. Lurie sau đó đến ở cùng với cô con gái Lucy, tại
một
trang trại nhỏ, tại đây, hai cha con đã bị một nhóm người da đen tấn
công. Hậu
quả của vụ tấn công này gây chấn động khủng khiếp ở nơi ông giáo sư,
làm cho
cái nhìn của ông về thế giới trở nên đen ngòm.
Có một cái gì đó, ở trong Ô
Nhục, khiến người đọc
nhớ lại cái nhìn của nhà văn Forster, về cuộc chiến
đấu dành độc lập của xứ Ấn độ, và nhớ lại thứ
văn chương gạch vụn của những nhà văn Đức. Đó là bề ngoài ra vẻ sẵn
sàng của cô
gái con ông giáo sư, rằng tụi đen kia, chúng mày hãy hiếp tao đi, như
một cách
sử dụng cái tấm thân đàn bà da trắng của mình, là một nơi cần thiết,
cho lịch sử
“trả thù” [chắc là theo kiểu “trả thù dân tộc” của đám da vàng mít, là
chúng
ta!]. Chúng ta nghe thấy tiếng nói, trước đây ngần ngại xen lẫn lo âu,
của ông
bác sĩ Ấn độ Aziz, chưa được đâu, chưa tới lúc, nhưng lần này, cay cú
hơn, chát
chúa hơn. Và Lurire kết luận [và như người đọc kết luận, rằng đây cũng
là kết
luận của nhà văn Coetzee], rằng, tiếng Anh không còn khả năng diễn đạt
thực tại
của miền đất Nam Phi.
Thứ ngôn ngữ
cứng cựa mà Coetzee tìm thấy cho cuốn sách của ông thật đáng khâm phục,
và cũng
thật dũng cảm, là tầm nhìn của ông. Chẳng nghi ngờ chi, cuốn sách đáp
ứng đòi hỏi
số một của một cuốn tiểu thuyết: một cách thật quyết liệt, và cũng thật
dũng
mãnh, nó lấy đi sự không tưởng, và luôn cả ảo tưởng vốn đầy ứ ở trong
thế giới
tưởng tượng của chúng ta, và một khi làm như thế, nó tăng thêm điều khả
thể,
giúp chúng ta suy nghĩ. Đọc về Lurie, và Lucy, trong mảnh đất hung
hiểm, và thật
trơ trọi của họ, chúng ta có thể sẵn sàng hơn trong việc nhận thức hoàn
cảnh những
chủ trại da trắng ở Zimbabwe, một khi mà lịch sử lên tiếng, hãy trả thù
cho ta!
Như Lucifer của Byron – mà cả hai, Lurie và Lucy, đều thấy tên của mình ở trong đó - nhân vật của Coetzee “hành
động theo xung động, và nguồn gốc của xung động này thì tối đen đối với
anh
ta". Có lẽ, anh ta có một “trái tim khùng” và tin tưởng ở điều mà anh
ta gọi
là “dục quyền”, hay “quyền sướng”. Điều này làm cho anh ta có vẻ đam
mê, trong
khi sự thực, anh ta lạnh lùng, và gần như ở trong tình trạng của một kẻ
mộng
du.
Và chính cái tình cảm lạnh
lùng, ‘người dưng’
của anh ta, tẩm thấm vào ngõ ngách của từng câu văn, tạo nên dòng văn
xuôi của
cuốn tiểu thuyết, chính nó, là vấn đề. “Văn chương gạch vụn” đã không
chỉ nạo đến
xương đến tuỷ ngôn ngữ, nhưng còn đem đến cho mớ xương tuỷ đó một lớp
da thịt mới.
Làm sao nó làm được điều thần kỳ như vậy? Có lẽ là bởi vì những người
thực tập
thứ văn học gạch vụn đó cố nắm víu lấy một niềm tin, và hơn thế nữa,
một tình
yêu dành cho ngôn ngữ. Và cho cái thứ văn hóa đơm hoa kết trái từ những
nấm mồ.
Thiếu niềm tin yêu đó, cuộc chuyện trò [the discourse] ở trong Ô Nhục
có vẻ như
trơ ra, và tất cả thông minh, thông thái của nó không thể nào lấp nổi
lỗ hổng
này.
Hành động theo xung động mà
nguồn gốc của xung
này không ai dám tự cho mình là hiểu nổi, biện minh cho việc nhẩy xổ
vào người
đàn bà chỉ vì quyền sướng, làm như vậy là ném đạo hạnh vào thùng rác,
là khiến
cho đạo đức và tâm lý của một con người trở thành một lổ hổng toác
hoác. Bởi
vì, nếu với một nhân vật, anh ta có quyền vỗ ngực nói rằng, tôi không
hiểu được
những động cơ nào đã xui khiến tôi làm những điều sằng bậy như thế, là
một chuyện,
nhưng đối với tiểu thuyết gia, là người đẻ ra nhân vật đó, khi ông ta
cố tình
nhập nhằng [collude: âm mưu, thông đồng], trong cái việc biện minh, là
một chuyện
khác.
Chẳng ai hiểu ai, trong Ô Nhục.
Lurie không hiểu
Melanie, người sinh viên mà ông ta quyến rũ. Cô sinh viên cũng không
hiểu ông
thầy ở trong vòng tay học trò của mình. Vị giáo sư không hiểu Lucy, cô
con gái
của chính ông ta, còn cô con gái thì cho rằng những hành động và
‘trường hợp” của
ông bố vượt quá cô. Ông giáo sư không hiểu mình, lúc thoạt đầu, ông
cũng không
có được một tí khôn ngoan [wisdom] nào, ở vào cuối cuốn tiểu thuyết.
Những liên hệ
liên chủng tộc đuợc dàn dựng cùng ở một mức độ vô tri như vậy. Những
người da
trắng không hiểu những người da đen, và những người da đen chẳng quan
tâm tới
chuyện hiểu những người da trắng làm gì cho mệt. Những nhân vật da đen
ở trong
cuốn tiểu thuyết - anh chàng Petrus, ‘người làm vườn và dog-man’ làm
việc cho
Lucy, và lẽ dĩ nhiên, đám da đen tấn công họ - chẳng anh chị nào có nổi
được
cái gọi là tí người, theo nghĩa, chẳng nhân vật nào được phát triển,
nẩy nở ra
[ở trong cuốn tiểu thuyết, theo đà với câu chuyện] để trở thành những
nhân vật
có đời sống, có hơi thở. Petrus là tay tới cận nhất với dáng vóc một
nhân vật-
như là một người da đen ở trong cuốn truyện, nhưng những động cơ của
anh thì thật
là bí hiểm [enigmatic], và sự có mặt của anh ta ngày càng trở nên đe
dọa
[menacing] cùng với tiến trình của câu chuyện. Với những người da trắng
của cuốn
tiểu thuyết, những người da đen thiết yếu, [bắt buộc phải], là một đe
dọa
[threat]: một đe dọa được biện minh bởi lịch sử. Bởi vì theo như tính
cách của lịch
sử, da đen luôn luôn bị da trắng hành hạ, áp bức, và từ đó, suy ra một
điều, một
giả dụ, rằng, đã đến lúc gió đổi chiều, những người da đen sẽ áp bức,
hành hạ
những người da trắng. Mạng đổi mạng, và nếu như thế, thế giới trở thành
mù!
Và rồi nếu
như vậy thì, đây chính là cái viễn ảnh mang tính mặc khải được ca ngợi
của cuốn
tiểu thuyết: một viễn ảnh về một xã hội của những không thể hiểu, không
thể cảm
thông, xung đột lẫn nhau, và được dẫn dắt [driven] bởi những tuyệt đối
[the
absolutes] của lịch sử. Hiển nhiên là điều này khá hài hòa – hài hoà
trong tính
đặc quyền của sự không hài hòa của nó - khiến cho sự mù lòa trên trở
thành một
tia sáng ẩn dụ.
Khi mà những
nhân vật sáng tạo của nhà văn, chúng không có được sự hiểu biết , khi
đó, nhà
văn phải có trách nhiệm cung cấp cho người đọc cái tia sáng [insight]
mà những
nhân vật của ông ta không có đó. Nếu nhà văn không làm như vậy, thì tác
phẩm của
ông ta sẽ không thể nào chiếu rọi lên, và trở thành một phần của bóng
đen mà nó
miêu tả. Điều này, than ôi, chính là cái yếu kém của Ô Nhục. Sau cùng,
nó không
ban cho người đọc đầy đủ thứ ánh sáng mới mẻ làm sáng ra tin tức như ở
phần đầu
bài viết đã nói tới. Nhưng tin tức lại thêm được tí hiểu biết cho chúng
ta, về
cuốn sách.
Jennifer
Tran chuyển ngữ
[Nguyên
tác “May 2000: J. M. Coetzee",
được in
trong phần “Columns”, của cuốn tiểu luận “Step Across This Line: Bước
Qua Đường
Ranh Này”, collected non-fiction 1992-2002, Modern Library Paperback
[một
imprint, dấu ấn, của nhà xb Random House].
GCC biết đến Coetzee lần
đầu tiên,
qua bài viết của ông về Brodsky đăng trên tờ NYRB, sau được in trong
tập tiểu
luận The Stranger Shores, với
cái tít The
Essays of Joseph Brodsky [không còn nhớ cái tít trên báo], và bèn
chôm 1 ý
trong đó - khi Coetzee trích dẫn 1 nét thật đẹp ở nơi cá nhân con người
của nhà
thơ Nga: từ chối phô vết thương của mình [a refusal to exhibit his
wounds was
always one of his more admirable traits (“At all costs try to avoid
granting
yourself the status of the victim”, he advises an audience of students;
On
Grief, p.144)] – đưa vô 1 bài viết về đám nhà văn hơi tí là khóc
mếu của
Miền Nam
trước 1975, nào là thân phận nhược tiểu da vàng, nào là nỗi bơ vơ của
bầy ngựa
non [hay hoang, không còn nhớ], nào hãy vực dậy người lính VNCH ra khỏi
những vòng gai lịch sử…
Nhưng phải đến khi đọc ông
viết về
Walter Benjamin, (1) thì mới sướng điên lên được, và
1
phần nào, GCC đã muờng tượng
ra viễn ảnh của trang Tin Văn: Làm sao viết lại lịch sử, từ đáy, thay
vì từ
đỉnh.
Về già,
hết cả răng,
thì lại nhận ra, cái tác phấm, chỉ gồm toàn trích dẫn, mà suốt đời
Benjamin mơ tưởng, thì trang TV cũng đã
thực hiện được 1 phần nào!
Thú thực, GCC thích đọc
essay của
Coetzee hơn là giả tưởng, và đây là do quá mê cách viết của Faulkner,
[câu dài,
câu nọ lấn lướt câu kia, câu trước chưa chấm dứt thì câu tới đã len vô…
]
Note: Mấy bài
về Coetzee thật tuyệt. Khởi đầu của dã man của con người, là, khi nó
nghĩ nó bảnh
hơn loài vật. Ở cuối Vụ Án, Kafka cho
K. chết, "như 1 con chó". Tên “Mít” K nhìn hai ông cớm VC [l'accusé
regardait "les deux messieurs"] đâm lưỡi dao vô tim, như thể nỗi tủi
hổ sẽ sống dai hơn anh ta.
Ngay từ
"Những cảnh đời của 1 chú thanh niên", Scènes de la vie
d'un jeune garcon, tập đầu của bộ ba có tính tự
thuật, Coeztee đã nhận ra, tủi hổ là vấn đề trung tâm, la question
centrale, của
Nam Phi, và chỉ có chữ viết mới có thể làm cho nó sống động.
Chỉ 1 khi lũ
Bắc Kít, lũ VC nằm vùng, cảm thấy xấu hổ, tủi nhục, khi ăn cướp Miền
Nam, và đẩy
xứ Mít vô tình trạng “đồng chí X”, thì may ra mới hé ra hy vọng.
Hà, hà!
Bài trả lời
phỏng vấn của 1/10 tiếng nói lớn của văn chương ngoại [so với Tẩy],
Mario
Vargas Llosa, một bậc thầy kể chuyện, về cuốn mới nhất của ông, với
nhân vật có
thực ở ngoài đời, là Casement, cũng tuyệt. TV
sẽ đi mấy đường này, cũng là 1 cách tưởng
niệm ông chủ chi địa một thời của GCC, là nhà văn NMG, và “nhân vật”
của ông, là
Nguyễn Huệ.
Trong cách
viết, trong cái nhìn, của “một vài tên” Bắc Kít di cư 1954, sau chạy
thoát ra hải
ngoại, về trong nước, có cái sự "tủi hổ" khốn kiếp này.
Ngồi ở Quận
Cam, nhấp ngụm Starbuck, và viết, ở Sài Gòn có người chết đói, ngay bên
hông chợ
Bến Thành!
Hay viết về
Cái Đại Ác VC, huỷ bia tưởng niệm thuyền nhân ở những trại tị nạn Đông
Nam Á, bằng
1 cái tít, chôm của Ông Số 1, mà Ông Số 2 chịu ơn:
Nguyễn Mộng Giác đã giúp
tôi trở về với
chuyện thơ và tiếng Việt. Sau khi tập
sách in rồi, tôi còn đăng mấy bài khác cũng Nói Chuyện Thơ trên tạp chí
Văn Học;
đó là những bài tôi thích nhất, nhờ chúng mà tôi có dịp gặp lại, trò
chuyện với
Thanh Tâm Tuyền để chia nhau những cảm xúc thi ca. Tôi sẽ còn nợ Nguyễn
Mộng
Giác và Thanh Tâm Tuyền, sẽ phải san nhuận lại để in tập Tìm Thơ Trong
Tiếng
Nói để tưởng nhớ hai anh lần nữa. (1)
Chính là do
không chịu nổi đám này mà TTT bỏ Cali. Ông có nói với GCC qua điện
thoại, và tỏ
ra rất ân hận, vì cầm hai ngàn đồng tiền nhuận bút tập Thơ Ở Đâu Xa, của tay Trầm
Phục Khắc, và, nhờ số tiền đó, mà có chuyến đi.
Tao đâu có
biết thơ ở hải ngoại đếch có ai đọc!
V/v sự khôn
ngoan của Ông Số 2.
Có lần, GCC được hầu chuyện 1 ông Cựu Chủ Bút, hay Cựu Tổng Biên Tập
cái con mẹ
gì của tờ Người Vịt. Anh ta cho biết, Bác Tê, sau bao lần
chỉnh lý, đảo
chánh... ở băng Cờ Lăng, và ở tờ Người Vịt, "bèn" không đứt 1 sợi lông
chân, và nay
trở thành Thái Thượng Hoàng!
Kể cũng hơi
bị lạ, khi hai vì “ơn nhơn” còn sống nhăn răng, không thấy Ông Số 2
“kám ơn”,
bi giờ, chắc là tính đi 1 đường tái bản kiệt tác Tìm Thơ
Trong Tiếng Nói, bèn đi 1 đường Pê E [PR], bằng cách "kám ơn"
những kẻ không may chết trước Người chăng?
Tởm thật!
GCC chưa từng đọc kiệt tác
Tìm Thơ Trong Tiếng Nói
của Ông Số 2, nhưng cái tít
thì nghe thật quen, vì có nhiều người sử dụng rồi, thí dụ Paroles của Prévert,
hay Tiếng Nói Một Người, bài
tựa của TTT cho tập thơ của Trần Lê Nguyễn.
Vả chăng,
có thứ thơ tự nhiên như lời nói, cái thứ thơ mà Henri Lefebvre, một
triết gia Tẩy
đã từng nói tới, theo nghĩa, thơ là bề mặt của cuộc sống, bề mặt [lại]
theo nghĩa, những
thắc mắc, băn khoăn siêu hình, phải nhoi lên đó để mà thở. Ngay từ
trước 1975,
GCC đã từng viện hình ảnh trên, để viết về 1 đấng nhà thơ nào đó, nay
cũng chẳng còn
nhớ.
Có ghê gớm
chi đâu.
Nếu có, thì là lòng biết
ơn trời biển của Ông Số 2 đối với đại ân nhân
đã chết rồi của ông ta:
Nguyễn Mộng
Giác đã giúp tôi trở về với chuyện thơ và tiếng Việt
Chúng ta cứ
giả như đếch có NMG, thì Ông Số 2 thành
cái giống gì, mũi lõ hay mũi tẹt, nói cái thứ tiếng gì?
Trong bài The
Telling of the Tale, trong tập This Craft of Verse,
Jorge Luis Borges cho rằng,
người xưa, khi nói tới thi sĩ, thì không phải là 1 người nhả ngọc phun
châu,
the utterer of those high lyric notes, nhưng còn như là 1 người kể 1
câu chuyện,
the teller of a tale. Một câu chuyện mà ở trong đó tất cả những tiếng
nói của
nhân loại có thể tìm được – không chỉ có tiếng nói trữ tình, the lyric,
ước muốn,
khao khát, the wistful, buồn rầu, the melancholy, nhưng còn những tiếng
nói của
can đảm, của hy vọng. Và ông tiếp, ông đang nói về cái thể cổ nhất the
oldest
form, của thi ca: sử thi, the epic.
Vẫn Borges:
Và có lẽ người đầu tiên chúng ta nghĩ tới, thì là Andrew Lang, người đã
dịch
tuyệt vời Câu chuyện thành Troy, The Tale
of Troy. Và ngay ở dòng rất đầu, in the very first line, chúng ta
có 1 điều
gì như là: “Tell me, muse, of the anger of Achilles”, hay ngắn gọn hơn,
một người giận dữ, đó là đề tài của tôi,
“An angry man –
that is my subject”, theo cách dịch của Professor Rouse.
Mít chúng
ta, cũng có “câu chuyện thành Sài Gòn”, nhưng thiếu 1 sử thi cho cả 1
miền đất.
Chúng ta không có sự giận dữ, mà chỉ có những lời chửi rủa, hận thù.
Và tất nhiên,
chúng ta có thi sĩ, nhiều lắm, trong có Ông Số 2, thí dụ, quảng cáo cho
tập thơ
sắp tái bản, bằng cái sự biết ơn hai người ơn đã chết của ông.
Hà, hà!
Contrairement aux
autres écrivains sud-africains, Coetzee a évité le registre de la
dénonciation
frontale. Il opte toujours pour un regard oblique, rétif à tout
dogmatisme, et
un laconisme désarmant, dans la lignée de Kafka.
John Maxwell Coetzee:
Ni blanc, ni noir
Đếch trắng, đếch đen (1)
Les grands
auteurs sud-africains des années 1980 ne se définissaient guère que par
rapport à l'apartheid et à sa dénonciation : subtile chez Nadine
Gordimer, lyrique
chez Andre Brink, plus métaphorique chez Doris Lessing, elle était la
matrice
de tous leurs écrits. John Maxwell Coetzee est entré un peu plus tard
en littérature
et a été le premier à se dégager de cette gangue. Les livres de ses débuts (Au
coeur de ce pays, En
attendant les barbares, Michael K, sa vie, son temps) sont
des allégories qui dépassent largement le
contexte sud-africain pour mettre en scène l'éternelle et complexe
relation
entre le maitre et l'esclave. La honte, l'humiliation et la violence,
la cruauté
des rapports humains font le lit de romans très noirs, souvent
étouffants et
qui visent plus la quête d'une morale que l'engagement militant. Son
seul livre
à aborder ouvertement l'apartheid, Disgrace,
préfère s'attacher à l'Afrique du Sud d'après et offre une
vision extrêmement
iconoclaste des traces qu'il a laissées, scindant en deux un pays où les
Noirs
brulent de revanche et où les Blancs sont rongés de culpabilité.
(1) GCC tính dịch, "Đếch
Bắc Kít, đếch Nam Kít", như Gấu Cái nhận
xét, khi đọc văn của thằng chả!
Hà, hà!
Nhưng bài
này, quả có vấn nạn này, mà nguồn của nó, là... Kafka, dans
la lignée de Kafka!
Ba bài viết
về Coetzee trong số báo này, đều cần dịch hết!
*
Ngược hẳn những
nhà văn Nam Phi khác, Coetzee tránh trực diện tố cáo chế độ. Ông luôn
chọn cái
nhìn nghiêng, cưỡng lại giáo điều, độc đoán, một cách diễn đạt ngắn
gọn, buông
xuôi, theo dòng của Kafka.
Những tác giả
lớn Nam Phi của thập niên 1980, họ định nghĩa họ so với chủ nghĩa
apartheid, và,
bằng cách tố cáo nó: Thật tế nhị, tinh tế với Nadine Gordimer, trữ tình
với
André Brink, nhiều ẩn dụ với Doris Lessing, nó, chủ nghĩa apartheid, là
cái ma
trận của tất cả những gì họ viết.
Coetzee đến muộn so với họ, và là
người đầu
tiên tách ra khỏi cái vỏ bọc đó. Những cuốn đầu tay của ông, (Ở trái tim
của xứ
sở, Trong khi chờ bọn rợ, Michael K, đời và thời của xừ lủy) đều
là
những ẩn dụ,
vượt quá cái nội dung Nam Phi, để vươn tới một khung cảnh muôn đời,
vĩnh viễn,
và đa dạng, về liên hệ chủ nô. Sự tủi hổ, nhục nhã, bạo lực, sự
độc ác của
những tương quan giữa con người làm thành cái nền của những cuốn tiểu
thuyết cực
đen tối, luôn luôn tức nghẹn, và nhắm tới, quá một sự tìm kiếm đạo đức,
quá luôn
cả 1 sự dấn thân có tính chiến đấu.
Cuốn sách độc nhất của
ông đề cập
trực tiếp tới apartheid, Ô Nhục,
thì lại là về 1 thời kỳ sau 30 Tháng
Tư [hà, hà!],
đúng hơn, một Nam Phi sau đó, và đưa ra 1 viễn ảnh đếch giống ai, về
những dấu vết mà nó để lại, cứa Nam Phi ra làm hai, một
bên là lũ Ngụy [da đen], sôi sục trả thù, và một bên, lũ Bắc Kít [da
trắng],
day dứt vì mặc cảm phạm tội.
Bắc Kít mà
"day dứt phạm tội" ư?
Làm đếch gì có thứ Bắc Kít hảo hạng này!
Chỉ nội khúc
trên thôi, đủ cho thấy, cái thứ văn chương “lề trái”, hung hăng con bọ
xít còn
hơn cả “lề phải”, tất nhiên, của những đấng như Nguyễn Vịt, thí dụ, cần
phải vứt lẹ vô thùng
rác!
Chưa kể mấy
đấng "ngây thơ cụ", cứ tưởng bở, cặm cụi, hì hục, ngày này qua tháng
khác, đổ rác lên Hậu Vệ, lên Da Mùi, thế là
thành nhà văn, nhà thơ!
Thơ là để
trao cho thi sĩ. Borges phán
Hồn Đông Phương
thất lạc buồn Tây Phương
TKA
Chỉ 1 câu thơ đó thôi, đủ
nói lên hết nỗi buồn "viễn xứ, lưu vong, trăng đất khách..." của
người đẹp Mít ở nơi quê người! (1)
Có khi bạn
chỉ cần làm một nửa câu thơ thôi:
Năm di cư
thứ
hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh
của đất Bắc
ở cả hai miền lúc ấy, tôi đã mở bài bằng câu trích đề của Anh, tuyên
xưng nó là
câu văn bất hủ. [Người ta có thể nghĩ tôi quá lời, sử dụng "ngoa
ngôn". Nabokov còn "ngoa" hơn nhiều khi ông bảo: "Cả sự
nghiệp của triều đại Sa Hoàng Đại Đế sánh không bằng nửa vần thơ của
Pushkin.
Chủ nghĩa bi
quan cho chỉ một nghĩa cả, Le
scepticisme pour une seule cause. Bài viết về
Coetzee, trên tờ ML được trích dẫn, cũng thật là thần sầu. Và đây cũng
là 1
"thí dụ", một mẫu mực đúng hơn, đám nhà văn Mít tự coi mình thuộc "lề
trái" nên đọc, và làm theo,
bởi vì, 1 cách nào đó, nó liên quan đến, không chỉ đạo hạnh, mà còn một
vấn nạn
nhức nhối, làm thế nào chống chế độ, nếu bản thân bạn chẳng có cái chó
gì để mà
viết ra, chẳng cho 1 chút gì gọi là tu tập; chẳng tu thân, thì làm sao
tề gia, nói chi bình VC!
Jean-Paul Engélibert viết về
Coetzee: Nếu tác giả chẳng hề thoả hiệp với apartheid, ông
cũng chẳng hề lên tiếng tố cáo nó, một cách công khai, hay ghi tên mình
vào
danh sách “bô xịt”: Cái gọi là tự chủ văn chương, theo ông, là 1 đề
kháng nội tại.
|
|