|
Portrait
Beckett
Beckett
Beckett
Samuel Beckett, một thoảng nhớ...
Mr. Beckett đã chết. Vậy thì Paris, cũng thế. Tôi nghe người ta nói ông chết
tối thứ Sáu tuần rồi. Vậy thì là, tất cả những người hùng của tôi đã chết,
kể từ tối thứ Sáu tuần rồi.
Tếu thật, cuộc đời bám dính lấy ông, tới 83 và 3/4 năm lận. Khi ông nói với
tôi, ông rụng răng, tôi lớ ngớ buông sảng một câu: "Vậy là mệt lắm đấy".
Ông quạt lại liền: "Có cái gì tệ mà không biến thành hại? Đâu có giới hạn
những điều xấu xa trở thành tồi tệ hơn". Thế là cả hai đứa chúng tôi cười
đến vãi đái ra.
Mr. Beckett biết chọc quê. Lần đầu tiên gặp Gill, bà xã tôi, ông kêu một
ly đúp. "Phải ly đúp mới được. Lóng rày, không làm sao kiếm một ly cho ra
hồn".
Vào khoảng đầu thập niên 1970, tôi ở Paris với một người bạn là Jean-Paul
Delamorte, một tiểu thuyết gia hụt, a romancier manqué. Lindon (bên tạp chí
Nửa Đêm, Minuit) vừa mới cho ra lò những bài viết mới nhất của Beckett, bằng
tiếng Pháp, nhan đề là Foirade, Foirade, Foirade I, Foirade II. Vì có hẹn
khuya này uống một "tăng" với ông, tôi hỏi Jean-Paul foirade thực sự nghĩa
là gì.
Jean-Paul hèm lên hèm xuống, chẳng giống một con giáp nào hết. "Foirade thực ra là... ơ hơ... đúng rồi, disgusting" .
Khi tôi lập lại với Beckett, ông đỏ mặt tía tai: "Disgusting?! Đúng là lố bịch!"
Nơi chốn: Chúng tôi đang ngồi tại La Closerie des Lilas, một tiệm ăn vốn
là nơi tụ tập đàn đúm của đám viết lách vào thập niên 1930. Mấy ngày trước
khi giải phẫu cườm mắt, Beckett đeo cặp kính dầy như đít chai Coke. Tướng
tá nhà văn lớn Samuel Beckett chẳng cách nào giấu nổi. Vừa ló đầu vô, bị
thiên hạ chiếu tướng liền. Cứ mỗi lần mở miệng, bằng ấy cái tay ngừng đớp
hít, bằng ấy cái tai nhỏng lên. Beckett, như mù dở với hai cái đít chai Cô
ca Cô la, chẳng hề hấn gì với ba trò hóng chuyện đó.
Ông giải thích, về phản ứng của ông, với từ "disgusting" của Jean-Paul, bằng
cách chứng tỏ, ông đã "chọn từ foirade một cách hết sức là nghiêm túc", và
ông đang "động não" cố tìm ra một từ tiếng Anh hoàn toàn xứng hợp với nó.
"Foirade: disgusting? Thật là hoàn toàn vô nghĩa!. Une Foirade là một sự
thất bại thảm thương... Một điều gì người ta toan tính, nhưng toan tính này
thật ra chỉ là một sự thất bại, tuy nhiên vẫn phải toan tính, bởi vì thật
xứng đáng, không thể chối cãi được... vậy đó, một "thất bại mếu" (a lamentable
failure).
Tới đây, hình như mọi thực khách trong tiệm ăn đều dướn người về phía chúng
tôi, như muốn nuốt lấy từng lời vọt ra khỏi miệng Beckett. Và nhà văn của
chúng ta thêm vô, kèm nụ cười rất ư là "bỏ đi": "Lẽ dĩ nhiên, foirade còn
có nghĩa là phát rắm ướt !
(Mấy tháng sau đó, trong một tiệm sách ở New York, tôi nhìn thấy ấn bản tiếng Anh của Foirades. Tên tiếng Anh: Fizzles).
Giữa đông, giữa năm 1973, lạnh cứng người, cô đơn, túi thủng, tôi đành phải
làm cái trò đọc thơ, vào lúc tám giờ tối, tại Trung Tâm Văn Hóa Mỹ ở con
phố Dragon.... với cái giá năm chục đô. Tôi có cái uống với Beckett vào lúc
bẩy giờ. Tôi đâu dám xì ra cái chuyện đọc thơ, bởi vì:
1. Tôi nghĩ ông chẳng ưa cái chuyện đọc thơ trước công chúng, cho dù phải cạp đất.
2. Ông gần như chẳng bao giờ làm chuyện đó.
Trong lúc cà kê, ông có vẻ đâu đâu. Dưng không, ông nói: "Bạn đọc thơ, phải
không?" Tôi chới với, làm sao ông biết? Rồi ông thêm: "Chắc mong bạn bè tới
đông, hẻ?". Hiển nhiên, tôi làm ông đau, khi không mời. Vậy là tôi đã làm
ông đau, bực thiệt! Ông nói, như cho tôi đỡ đau: "Không, cám ơn bạn, tôi
không bao giờ tới với những chuyện đó".
Rồi thì ông yêu cầu tôi đọc một bài thơ, của tôi, cho ông nghe. Nhột quá,
tôi bảo ông, cái giá năm mươi đô là ổn, đối với tôi. Ông bật cười, tuy nhiên
vẫn bắt tôi đọc thơ cho bằng được. Thơ đọc thầm lén mà! Thế là tôi ư ử, bài
"Trên Đại Lộ Raspail":
How easily our only smile smiles.
We will never agree or disagree.
The pretty girl is perfected in her passing.
Our love lives within the space of a quietly closing door .
Ông chăm chú nghe, mắt nhắm tít. "Được! Được!", ông nói.
"Ồ, c...! " Tôi bật lên. Ông mở choàng mắt, và tôi tự giải thích:
"Tớ ăn cắp của bạn!"
"Không, không. Tôi chưa hề nghe nó trong đời..."
"Không, không, của bạn! Bài 'Dieppe'..., bạn chấm dứt với 'the space of a door that opens and shuts'
"Ô! Đúng thế thực." Nhưng rồi, bỗng nhiên, ông thêm vô: "Ô, c...!"
"Chuyện gì nữa, hả?", tôi hỏi.
"Tôi chôm của Dante, chính tôi! (me-self)."
(Theo bài viết của Israel Horovitz, trong Tạp chí Paris, The Paris Revue, Mùa Xuân 1997).
Nụ cười độc nhất của chúng ta, sao dễ dàng quá vậy
Thôi đừng tè he (1) ra mà làm gì
Người đẹp đẹp thật khi thoáng qua.
Tình mình đọng lại giữa lần cửa khép.
Bạn đọc có thể liên tưởng, từ foirade, tới wet fart, tới bài thơ vịnh "bạch mã", trong chuyện tiếu lâm Việt Nam.
(1) tè he: “tè” agree, “he” disagree
FB Do Khiem
Thơ trẻ
hôm nay chưa tới, những chắc chắn ngày mai sẽ tới.
Câu này tôi mượn từ một vở kịch nổi
tiếng của nhà văn Nobel văn chương người Ái Nhĩ Lan, Samuel Beckett:
"Ngài Godot bảo tôi nói với mấy ông là chiều nay ông ta không tới,
nhưng chắc chắn ngày mai sẽ tới."
Hy vọng có bạn ở trong bữa tiệc chiều nay, khi thơ chưa tới.
Khi thơ của tôi không dành cho bạn. (2)
Lướt net, tình
cờ đụng 1 trang cực bảnh: Văn Vịt.
Sau Da Mùi, Hạ Vệ, đọc cái tít,
là biết
ngay, lại mấy ảnh rồi.
Thua em HT:
Godot chưa tới đâu!
Note: Câu của em HT, GCC
coi lại, "khiêm tốn" y chang câu của chính Beckett:
Typical Sentence
"Let us not
then speak ill of our generation, it is not any unhappier than its
predecessors." ("Waiting for Godot") (1)
[Đừng nói bịnh về thế hệ chúng ta. Nó cũng không hạnh phúc hơn thế hệ
đường ra trận mùa này đẹp lắm!]
Th
Golden Rule
Never to compromise.
Estragon’s trousers have to fall all the way down at the end of
"Godot". The action and dialogue of "Play" has to be repeated, by
actors who are up to their necks in urns. Whole novels can go by
without a paragraph break. Both his novels and plays require
concentration, and a stomach for repetition. But they reward the
persistent
Luật Vàng
Không bao giờ, chớ khi nào
thỏa hiệp, cấm cái trò ông mất “củ” kia, thì bà chìa “của” nọ. Quần
Estragon tụt dài dài, tụt suốt, cho tới khi chấm dứt “Godot”. Hành động
và đối thoại của “Play” phải lập lại, bởi những nghệ sĩ, diễn viên mà
tro than [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo] ngập tới tận cổ. Trọn những cuốn tiểu
thuyết cứ thế mà đi, đếch cần 1 đoạn ngưng, nghỉ, gẫy. Cả kịch lẫn tiểu
thuyết của Beckett đòi sự chú tâm, xoáy vô, chốt vô… và 1 cái dạ dày,
cho sự lập lại.
Nhưng thật xứng đáng, chúng ban thưởng cho chúng ta, sự khăng khăng, cố
chấp, “thua, thua nữa, thua cho bảnh!”
Đừng thành công, Alain
phán, là vậy!
Cái băng rôn
của Văn Vịt mới ghê, vì 1 nền văn học Vịt đít thực. Đọc 1 phát, là biết
liền, TV
bị chúng coi như hủi rùi!
Và chăng, TV, chính nó, cũng không hề “ vì” một cái cà chớn như thế.
Thằng Tẩy thí
dụ, chúng có bao giờ làm cái trò hề đó.
Chỉ mấy đấng
ăn phải kít VC, hoặc VC đích thị, thì mới tao đích thực, tao số 1, tụi
mi là miệt
vườn, là đô thị, là bất hạnh.....
Bi giờ, giả
như có 1 nền văn Vịt đít thực, TV đếch vô, được không? Rồi Ngụy, hải
ngoại…. đăng ký, có cho không?
Theo GCC, không
thể có cái gọi là 1 nền văn học Mít đích thực. Đây là do đầu óc bịnh
hoạn của đám
Bắc Kít mà ra, y chang, máu Mít đích thực [máu Bắc Kít], thành phố Mít
đích thực [Hà Lội], y chang Nazi, khi chúng đòi 1 thứ máu Aryan đích
thực cho dân Đức.
Nhân nói tới
Nazi & Máu cực quí, cực ròng Bắc Kít & Phấn đấu cho 1 nền văn
học Mít "đít"
thực, post lại giai thoại thần sầu về nhà văn Maria Remarque, tác
giả Mặt
Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh
Một giai thoại
về nhà văn Erich Maria Remarque (1)
Ông khi đó
'tạm trú' ở Tessin, và bị đám cán bộ nhà nước Nazi liên tục quấy rầy.
Chúng khẩn
khoản mời ông, một trong những nhà văn di dân dòng dõi Đức thứ thiệt
trở về với
Đất Mẹ.
Trước thái độ
rửng rưng của ông, đám cán bộ nhà nước cuối cùng hỏi: Chẳng lẽ ông
không có nỗi
sầu của người viễn xứ [le mal du pays]?
-Sầu nhớ
nhà? Cái gì vậy? Tụi mày tưởng tao là một tên Do Thái, hử?
Trích Jean
Améry: Vượt Quá Tội Ác Và Hình Phạt
- Khảo luận để vượt lên cái không
thể vượt
được - Par-delà le crime et le
châtiment. Essai pour
surmonter
l'insurmontable, Actes Sud,
1995
(1) Tên thật
của ông Erich Paul Remark. Đổi Remark thành Remarque, theo bên nội, đổi
Paul
thành Maria, để tưởng nhớ bà mẹ. Vì cái tên Maria này mà một nhà thơ
Việt Nam
đã gọi ông là nữ văn sĩ. Nhưng tệ hơn thế, sách của ông bị Nazi cấm,
bản thân
ông bị tố cáo, không phải người Đức, mà
Tây gốc Do Thái, tên thực Kramer, viết ngược lại thành Remark. Vẫn còn
nhiều
người tin điều này, không cần chứng cớ.
[Theo
Wikipedia]
Mặt Trận Miền
Tây Vưỡn Yên Tĩnh, cuốn tiểu thuyết best-seller nhất của thế kỷ!
Thua "Lỗi Buồn Chiến
Tranh" của Bảo Ninh:
Không giống như Mặt Trận
Miền Tây Vẫn
Yên Tĩnh, đây là một cuốn tiểu thuyết không chỉ về chiến tranh. Một
cuốn sách về chuyện viết, về tuổi trẻ mất mát, nó còn là một câu chuyện
tình đẹp, nghẹn ngào [Lời giới thiệu của Geoff Dyer trên tờ Independence, in
lại trong bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn].
Trên tờ L'Express, số 30
Juillet & 5 Aout, có 1 bài về Maria Remarque, "Từ
Giao Thông Hào tới Hoa Lệ Ước", về cuốn tiểu thuyết thần sầu của ông,
“Mặt
Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh”, được đọc nhiều nhất của thế 20, tiếng nói
của thế
hệ trẻ trong cuộc xung đột, kẻ thù của Nazi....
Tin Văn sẽ đi 1 đường lèm
bèm về nó, cùng lúc, so sánh nó với “Nỗi Buồn Chiến Tranh” của Bảo Ninh.
GCC, vừa xuất
hiện trên văn đàn Xề Gòn, thời gian còn tờ Nghệ Thuật, là đã chơi 1 bài giới
thiệu Beckett, 1965, 4 năm sau ông mới được Nobel, 1969, sau khi vớ
được 1 bài của Robert
Pinget!
Cái gì gì, "tôi trở về nhà, và viết. Nửa đêm. Trời mưa. Không phải nửa
đêm.
Không phải mưa". Ui chao, phải đến ra được hải ngoại, đi hết đời mình,
thì mới có
cơ may - hạnh phúc, đúng hơn - khám phá ra Beckett, một trong những món
quà muộn màng tuyệt vời của Ông
Giời ban cho Gấu Cà Chớn
"THE
USES OF POETRY"
by Anne Atik
FOR S.B. (13
APRIL 1906-22 DECEMBER 1989)
I
A
Bible-reading man, he came and left
between two
holy days he didn't much observe:
the Good
Friday of his birth, near the Christmas of his death.
His life
between, a pilgrim's progress with a smile
for what he
saw along the way and wrote of,
oversleeping,
age and hope and sloth.
Then saw,
and wrote of, wrenched along the way,
age and hope
and helpless weeping. But
he would
have, reading those two states, rejected both
as most
remotely holding but one part
or more than
minute dose
of the
inexpressible, whole truth
of how it
is, it was.
II
He showed
the shortest way to get across
a line like
this:
crossed out
such words as these to get to
speechlessness.
He crossed
out rivers to get to their stones.
To get to
the bottom, when the crisis is reached
and
truth-telling begins.
Whatever he
knew he knew to music.
He found the
pace for misery,
matched
distress to syncope, and joke
to a
Beethoven stop at the punch line.
But thought
that he'd failed to find failure's pulse.
What that
says about failure,
music and
us.
Cuốn tiểu sử
Beckett, 800 trang, toàn chữ, trừ cái hình độc nhất, trên, Gấu mua lâu
lắm rồi,
tính đọc, nhưng sợ quá, bây giờ mới lôi ra, cùng 1 số cuốn khác nữa,
của ông,
hoặc viết về ông.
Cũng là 1
cách viết về bạn Bạn, và chuyến đi vừa rồi, nhờ đó gặp Sad Seagull.
Giả như
gặp
Sad Seagull, mà không gặp lại bạn Bạn, thì có thể đã đi luôn, bữa buổi
chiều hôm
đó ở bên ngoài Phước Lộc Thọ.
Trong đời
Gấu,
gặp nhiều lần “quái đản” như thế.
HOW
BECKETT DID IT
Không bao giờ, chớ khi nào
thỏa hiệp, cấm cái trò ông mất
“củ” kia, thì bà chìa “của” nọ. Quần Estragon tụt dài dài, tụt suốt,
cho tới
khi chấm dứt “Godot”. Hành động và đối thoại của “Play” phải lập lại,
bởi những
nghệ sĩ, diễn viên mà tro than [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo] ngập tới tận cổ.
Trọn những
cuốn tiểu thuyết cứ thế mà đi, đếch cần 1 đoạn ngưng, nghỉ, gẫy. Cả
kịch lẫn
tiểu thuyết của Beckett đòi sự chú tâm, xoáy vô, chốt vô… và 1 cái dạ
dày, cho
sự lập lại.
Nhưng thật xứng đáng, chúng ban thưởng cho chúng ta, sự khăng khăng, cố
chấp,
“thua, thua nữa, thua cho bảnh!”
Một ông như
thế, mà quàng với… Thần Tháp Rùa, mơ chuyện mặc áo gấm nhảy xuống sông
thi bơi,
như Thầy Nguyễn Tuân của Mít, mà coi... được
ư?
Cứ mỗi lần
Thầy Phúc viết về 1 đấng Mít, là ông kiếm ra 1 đấng mũi lõ, cho đứng kế.
Mấy dòng thơ
con kóc, cái tên thi sĩ đã nhảm rồi, mặt dày, không có tí cả thẹn,
khiêm tốn, coi
là.... “tứ trụ”, vậy mà còn được Thầy
Phúc hò theo, đúng rồi, tứ trụ, nhưng dư 1 trụ!
Thầy giải
thích, thì cũng lại quàng với 1 cái gì rất thần sầu của người: Ba trụ
Zen!
Cũng đi 1 đường
tiểu chú, chẳng thua gì bạn của Thầy là Thầy Kuốc: "The Three Pillars
of
Zen” – Philip Kapleau
Có điều, Thầy
"quơn", không giải thích, trụ dư là trụ nào.
Chắc là trụ.... giữa!
Dư
trụ này, thì... bỏ mẹ!
Hơn cả Thầy Kuốc, Thầy còn
kèm thêm 1 đường cải lương, sặc mùi nước...
mắt:
“Đúng. Phải
bốc một đám mây trắng kia lau lại lòng mình cho sáng lại trời xanh thì
mới mong
thở hít được hương thơm của trời đất.”
Ui chao, lại
nhớ 1 vị độc giả trong nước, nhỏ nhẹ khuyên Gấu, ông đừng có mục hạ vô
nhân như
thế, khi coi thường thơ của thiên tài NTHL:
Biết đâu đấy, nhờ vậy, cõi thơ Mít
bớt thúi đi.
Bởi vì rõ ràng là NTHL không còn như xưa nữa!
Hà, hà!
Mặc dù chẳng
ai thèm in, bao nhiêu nhà xb chê, khi đến Minuit, tay chủ đọc, mừng
quá, được
in cái này, thì mới đúng là nhà xb thực thụ. Điều này cho thấy, không
phải ai cũng
đọc được, hiểu được Beckett. Ở Việt Nam, đệ tử của Beckett còn là đệ tử
của
Proust, của Butor, nhưng ông này, thực sự cũng đồ dởm, cái dởm này, là
do cái đầu
quá tệ. Ông là bạn quí của Gấu, về phần Gấu mà nói, như đã tường trình
nhiều lần
rồi. Cả băng đảng này, trong có ông cũng chẳng có tay nào ra hồn. Mới
đây thôi,
nhân kỷ niệm Proust, ông ta có múa may vài đường về sư phụ của mình,
đọc
như kít, đúng
là thế.
Do cái đầu, và, còn do không biết viết, cái dạng viết, có tên là phê
bình.
Cõi văn Mít
đang lâm đại họa, là do không có ai viết được điểm sách, phê bình, theo
đúng
nghĩa của nó.
Bất cứ 1 bài điểm sách,
hay phê bình, theo Gấu, phải có
cái mở và
cái đóng.
Mở, là nối nó được với cổ điển, truyền thống, và thường là
bằng 1 hình
ảnh trích dẫn, như là cái mồi, để dụ người đọc, đọc mình, và sau đó,
đọc cuốn sách/tác
giả mà mình điểm/nhắc tới.
Đóng mới ghê: mở ra tương
lai của cây viết mới, và có thể
tương lai của cõi văn Mít, bắt đầu bằng “bây giờ, bây giờ, bây giờ”.
Đây là ý của Tomas Transtromer, trong bài thơ mà Gấu "mượn hoa tiến
Phật", để chào mừng năm
mới, 2014:
DECEMBER EVENING
1972
Here I come, the invisible
man, perhaps employed
by a Great Memory to live right now. And I am driving past
the locked-up white
church-a wooden saint is standing in
there
smiling, helpless, as if they had taken away his glasses.
He is alone. Everything
else is now, now, now. The
law of gravity pressing us
against our work by day and against our beds by night. The war.
Tomas
Transtromer: Selected Poems, ed by Robert Hass
Đâu phải chuyện đùa, "đồ
chơi", "cho xin cái xịp đi".... mà áo thụng vái nhau!
Ba trụ, rồi
bốn trụ!
Đầu năm khai
bút hung hăng quá, chắc là năm nay.... đi!
Note: Cái em
họa mi xứ Huế, cùng tuổi Gấu, hà, hà!
Theo truyền thuyết giang
hồ, MT đã từng mê
tít em này, và đã từng áo thụng tới nhà, xin ba mẹ của em, cho phép xin
bàn
tay của em.
Nghe nói, hai đấng sinh thành của em chê, đũa mốc như mi mà cũng đòi
mâm son ư?
Thứ mi chỉ lấy được ca ve thôi!
Chàng đau quá,
về, để lại cho đời, “Ôm đàn đến giữa đời”!
Cũng quá tuyệt,
phải không?
Lần gặp đầu
Jérôme
Lindon
Một bữa,
năm
1950, một người bạn, Robert Carlier, biểu tôi, ông phải đọc bản thảo
của tay này,
một gã Ái nhĩ lan, viết văn bằng tiếng Tây. Hắn tên là Samuel Beckett.
Sáu nhà
xb đã từ chối. Tôi lúc đó trông coi Nhà
xb Nửa Đêm được hai niên. Vài tuần sau,
nhà xb nhận được ba bản thảo: Molloy,
Malone meurt, L’Innommable, với cái tên tác
giả lạ hoắc nhưng bề ngoài quen thuộc.
Chính là từ
ngày đó mà tôi biết tôi sẽ là nhà xb, thứ
thiệt. C’est de ce jour que j’ai su
que serai peut-être un éditeur, je veux dire un vrai
éditeur. Ngay dòng đầu – “Tôi ở trong căn phòng của mẹ tôi. Tôi
bây giờ sống ở trong căn phòng này. Tôi cũng không biết như thế nào tôi
lại sống
ở trong căn phòng này” – ngay dòng đầu, cái đẹp rã rời, nát tan, la
beauté écrasante,
của bản văn đã hớp hồn tôi. Tôi đọc Molloy
trong mấy tiếng đồng hồ, như chưa từng
đọc 1 cuốn sách…. Một bản thảo chưa từng được in ra, không phải
chỉ chưa được
in ra mà là bị nhiều nhà xb từ chối. Tôi không làm sao tin nổi.
Đũa mốc
& mâm son ở đây, thì cũng giống như đài gương & dấu bèo, là
những tiếng
của dân Bắc, để chỉ hai cái đó đó. Lần Gấu trở về Đất Bắc, nghe mấy
người bà
con kể lại, chúng là những tiếng bà nội của Gấu dùng, để chửi một anh
nhà nghèo,
mê cô con gái của bà, tức bà cô của Gấu.
“Tiền ít mà cũng muốn hít đồ thơm”….
Cái
anh nhà nghèo, sau cũng lấy được bà cô của Gấu, hành hạ tới chỉ, và trả
lời, “mất
tiền mua mâm, thì đâm cho thủng”!
Old dogs
have more dignity
Comfort them
since you pity them
Beckett:
Waiting for Godot (1)
Giả như sau
30 Tháng Tư 1975, chúng ta có cái nhà Mít đàng hoàng, thì không thể nào
có những
tác phẩm như Ba Người Khác
của Tô Hoài, Đi tìm cái tôi đã mất của
Nguyễn Khải, Hồi ký Nguyễn
Đăng
Mạnh, Hồi ký Tô Hải…
Chính nỗi thất
vọng sau 1975, về đất nước, khiến những tác giả đó phải nhìn lại đời
của họ, và
đều nhận ra một điều, họ đều đã phải chịu nhục, chịu khổ, chịu hèn..
với một điều
kiện: giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước cùng xúm nhau lại xây
cái nhà
Mít.
Old dogs
have more dignity, chó già giữ giá, có nhiều phẩm giá..
là theo nghĩa đó.
Chính cái sự
thú nhận tôi là thằng hèn, là "dignity" của họ!
Thành thử
chúng ta không thể có một thái độ nào khác, mà là:
Comfort
them, since you pity them.
[Trong them,
có us. NQT]
(1) Mấy câu
trên, là từ nhật ký của Gấu, những ngày ở trại tị nạn Thái Lan,
1989-1994.
Mấy câu
trong nhật ký những ngày đầu đến Xứ Lạnh, liên quan tới dignity:
The ideal
death takes place amid loved ones
The greatest
dignity to be found in death is the dignity of the life that preceded it
Hope resides
in the meaning of what our lives have been.
Ba câu trên
đều nói về cái nhà Mít sau chiến tranh:
Cái chết lý
tưởng là chết giữa những người thân thương.
Phẩm giá lớn
lao nhất kiếm thấy được ở trong cái chết là phẩm giá cuộc đời trước khi
cái chết
xẩy ra.
Hy vọng thì
nằm ở trong ý nghĩa cuộc sống của chúng ta.
*
Quái thật,
không lẽ lúc nào Gấu cũng bị cuộc chiến nó hành, chỉ trừ những lúc nghĩ
đến một
BHD, hay một cô bạn, hay một cô học trò?
To have seen
nothing or almost nothing except the face of a girl from Buenos Aires,
a face
that doesn't want you to remember.
Borges: Labyrinths Epilogue
Chẳng thèm
nhìn ai, ngoại trừ khuôn mặt BHD, và cô nói, ta cấm mi không được nhớ
tới ta.
*
V/v trong
"them" có "us".
Cái phẩm giá
mà Miền Nam có được, là khi đi tù VC, đi tù cải tạo!
Cái phẩm giá
mà VC có được, là ở trong những hồi ký, những tự vấn, như của Tô Hải.
Có người đặt
vấn đề, tại sao cuối đời, họ mới dám nói ra? Tại sao Víp Va Ka hấp hối
mới dám
xì ra "một triệu người vui nhưng cũng có một triệu người buồn"? Tại
sao "Thượng đế thì cười" với Nguyễn Khải, khi ông sắp sửa đi, tại sao
bánh vẽ Chế Lan Viên....?
Ấy là vì cái
chiến thắng đỉnh cao tuyệt vời quá. Không dễ gì mà thoát ra khỏi cái
bóng của
nó đổ xuống cả nửa hậu thế kỷ!
Và còn kéo
dài qua tân thế kỷ!
Đúng như Trần
Văn Toàn phán, về Hegel: Cái bóng của Hegel phủ kín Marx, và còn kéo
dài ra
mãi!
Chúng ta sở
dĩ để mất Miền Nam vì nghĩ lầm, tưởng bở, anh Yankee mũi tẹt tốt hơn
anh mũi lõ,
một nưóc Mít thống nhất hơn hai nửa nước Mít, thành thử để cái bóng của
Marx phủ
quá xuống cả Đàng Trong!
Nguyễn
Huy Thiệp vs Kurtz
Những Con Quỉ
Nổi Tiếng
Liệu có thể
coi NHT, một hình tượng nổi tiếng, một Kurtz, của Conrad, trong "Trái
Tim của
Bóng Đen"?
Bài viết
này, trên số báo đặc biệt về sự độc ác, Le Magazine Littéraire, Tháng Bẩy
&
Tám 2009, làm nhớ tới một lời tự thú của một nhà văn ra đi từ Miền Bắc:
Tôi lụy
NHT!
Câu nói đó,
phải đọc Trái Tim của Bóng Đen
thì mới ngộ ra được: Tôi luỵ Cái Ác Bắc Kít, mà
nhân vật của NHT làm bật ra.
Liệu có thể
gọi những truyện ngắn của NHT, như là bài tập về cái ác, l'exercice du
mal?
Kurtz trong Trái Tim của Bóng Đen là một hình
tượng về cái ác trong văn
chương. Anh thì quá nổi tiếng, nhưng cũng gây phiền. Nguyên do của nỗi
phiền muộn
này rõ ràng là sự lấp lửng của hai cách nhìn, qua đó, anh lần lượt xuất
hiện,
khi thì là hiện thân của cái ác tuyệt đối, một vết chàm biểu tượng, từ
đó bật
ra cái tít cuốn truyện, khi thì là một cá nhân con người vượt lên trên
cả tốt lẫn
xấu, thiện lẫn ác.
Nhân viên của
một công ty thương mại thuộc địa ở mãi nơi thượng nguồn con sông Congo,
anh thu
thập ngà voi cho công ty giữa đám thổ dân và tỏ ra hết sức cần mẫn, rất
ư là hiệu
quả.
Người kể
chuyện của cuốn truyện phải lái một con thuyền đi tìm gặp Kurtz này, vì
đã lâu,
biệt tin từ anh ta, và nghe nói, anh ta đang bịnh nặng.
Hai tính chất
ở ngay trung tâm nghiên cứu chữa trị lâm sàng, dành cho những vấn đề
đạo đức
trong tất cả những tác phẩm của Conrad, ùa ra cùng với sự xuất hiện của
Kurtz,
cùng với chúng là những phẩm chất bẩm sinh, do là dân Bắc Kít thì là
có, qua những
biểu hiện thật là quái đản của anh ta.
Thứ nhất:
thiếu vắng kiềm chế. Kurtz có những giấc mộng về vinh quang, về Hà Nội
ta ngẩng
đầu hiên ngang ba ngàn năm lịch sử, và về sở hữu toàn thể, cái gì của
ai là của
ta. Những giấc mộng như thế thật dễ dàng biến thành thực tại một khi
một mình
giữa rừng thẳm.
Thứ nhì: một
sự trống rỗng ở phía bên trong: Kurtz thì rỗng, rỗng một cách thê thảm
[hollow
at the core, ui chao, cụm từ này sử dụng để chỉ cái sự ngu si dốt nát
nhưng coi
trời bằng vung của những đấng Yankee mũi tẹt thì thật tuyệt!].
Rỗng đến nỗi,
cái thiên nhiên man rợ vây bủa chung quanh anh ta bèn chiếm lấy anh ta
một cách
dễ dàng, đúng vào lúc anh ta tưởng là làm chủ được nó, tất cả thuộc về
anh ta.
Nói tóm gọn
anh ta không thể tự ngăn cấm mình, giới hạn mình, và cũng không thể tự
chống đỡ,
bảo vệ mình.
Note: Bài viết này, tình
cờ lướt TV, mò ra. Quên chưa dịch!
Trái Tim của
Bóng Đen, sau cùng
là... Hà Nội, qua NHT!
Gấu đã ngộ
ra điều này, khi đọc Conrad, nhưng bài viết chỉ ra một điều tuyệt vời:
Phải là
Conrad, một anh thuỷ thủ, người của biển cả, mới nhìn ra một cõi thối
rữa,
là đất liền, là những đại lục, nhất là Cựu Đại Lục!
« Les affaires terrestres sont un pot-pourri d'événements, de désirs
contradictoires, de motifs inavouables, d'idées fausses, et de
croyances
illusoires. La mer représente un domaine réglé par des devoirs simples,
une
hiérarchie de valeurs clairement définies, la camaraderie et le goût du
travail
bien fait.” »
*
«L'horreur! l'horreur! »
Ghê rợn! Ghê rợn!
Ta là hiện thân của Cái Ác Bắc Kít!
Ta là... Kít!
Cái
ý trên, trong bài viết, còn chỉ ra sự khác biệt giữa Sài Gòn - một bến
cảng -
và Hà Nội, và cái sự kiện, Bắc Kít đổ xô vô Miền Nam, không chỉ để ăn
cướp, mà
còn để... sống sót Cái Ác Bắc Kít nữa!
Đi tìm phê
bình gia Mít
Có 1 cái gì cực kỳ quái
đản ở băng đảng NM này. Lần cả băng kéo xuống ra mắt
sách, Gấu
đang làm thiện nguyện cho Hội Người Việt, lại vừa đậu cái bằng
[licence] bán bảo
hiểm nhân thọ, và có ý “bye bye” mớ chữ, lo kiếm tiền phụ Gấu Cái lo
cho mấy đứa
nhỏ còn kẹt ở Lào. Thành ra khi cái tay dược sĩ trong băng NM, gặp, nhờ
làm MC
ra mắt sách, Gấu nhận lời liền.
Suốt cuộc ra
mắt, kể từ khi cả nhóm kéo xuống, không 1 tên nào gặp Gấu cả. Thì cũng
được đi.
Ra mắt sách
tại một nhà hàng. Trong căn phòng lớn vốn được sử dụng cho những lễ lạc
đại
khái như thế, của nhiều hội đoàn. Phòng ăn tách hẳn ra. Cả đám bèn mướn
phòng
ăn, cho cả đám, ngồi ăn nhậu, nghe bên ngoài Gấu múa may trước thính
giả, cho đến
lúc bế mạc, không một tay nào ló mặt, trước cũng như sau, để cám ơn
Gấu, cũng
như khán thính giả, cũng như những người đứng ra tổ chức.
Sau đó, để
trả ơn, chúng mời Gấu đi dự 1 tiệc nhậu. Gấu đi, chỉ vì 1 thi sĩ trong
băng,
nghe nói là bạn của CTC.
Gặp, chỉ để
hỏi về CTC.
Sau này, anh giới thiệu Gấu viết cho tờ SV, là vậy.
Lần NDN mất,
cả băng Gấu kéo lên Montreal, tá túc nhà thi sĩ.
Chỉ tới lúc ở
tiệm ăn, TC, người có sách được giới thiệu mới lên tiếng, không phải để
cám ơn,
mà hỏi xin bài của Gấu, để làm kỷ niệm.
Cũng thế, là
vụ “mấy lời”. Khi kết thúc 1 cái còm, nhắm Gấu, trên 1 diễn đàn có
nhiều người
đọc, thì tên thi sĩ này ngu đến nỗi, hắn “mấy lời”, đâu chỉ để phủ dụ
Gấu, mà
còn “phủ dụ” tất cả những độc giả của diễn đàn.
Không phải
là “vô học” ư?
NQT
Cái vụ Cũng
Cần Có Nhau, Phóng Bút Phóng Biếc này cũng thật nhảm. Bao nhiêu năm
rồi, đám khốn
này vẫn không hiểu ra là cả 1 lũ bị VC xỏ mũi, lợi dụng diễn đàn, quảng
cáo cho
Mặt Trận Giải Phóng, thứ "đồ chơi" do đám Bắc Bộ Phủ phịa ra dụ khị
đám nằm vùng.
Viết, cần phải viết, nhưng bằng 1 cái nhìn chín chắn, cộng nỗi
đau của bao nhiêu con người Miền Nam.
Đâu phải chuyện "phóng bút"?
Vả chăng, cỡ
thi sĩ dởm, thì cũng chỉ đẻ ra 1 thứ phóng bút. Cũng cần có nhau cái
con mẹ gì,
chứng cớ là vụ bức hình GCC & NVT.
NQT
Có 1 kỷ niệm
thực là thú vị liên quan tới vụ ra mắt sách, và bài viết của Gấu, thổi
“Về Biển
Đông”, ký, viết về vụ ông y sĩ có thời là y sĩ tiền tuyến, tác giả cuốn
"Y Sĩ Tiền
Tuyến", đã từng được giải thưởng Nobel của Diệm, về vụ ông đóng cửa
phòng khám bịnh,
để tham dự công cuộc cứu người vượt biển. Trong số khán thính giả, có
giáo sư ĐKH.
Ông là bạn của ông anh của Gấu, là Hiếu Chân. Không hiểu sao, ông cũng
ghé, và sau đó, tới bắt tay Gấu, khen um lên, bài viết, và
nói.... thực, tôi đã tính
không đi!
Sau thì
quen, có thăm viếng đôi lần. Ông kể, khi mới qua, làm nghề dậy lái xe.
Thì cũng như
Gấu, tính làm nghề bán bảo hiểm.
Cũng đã lâu, có 1 nhà xb trong nước mail cho Gấu,
hỏi thăm về ông, và xin địa chỉ.
Sách của ông, như Gấu biết, đa số, sách dịch, được tái bản khá nhiều ở
trong
nước.
Sự thực, cái
vụ "mấy lời", với 1 diễn đàn văn học nhà nghề, tòa soạn lập tức đục bỏ
cụm từ khiếm nhã này, vì chính họ cũng cảm thấy nhột, khoan nói tới độc
giả. Trừ
trường hợp một em già đời, cực độc như Sến Cô
Nương, khi cho đi 1 cái tít như "Có mấy NQT?"
Gấu quá già đời - hơn cả Sến, tất nhiên, vì sắp ngỏm rồi
- nơi
chốn giang hồ gió tanh mưa máu, làm sao mà có thể bực mình vì 1 tên thi
sĩ dởm.
Đó là sự thực.
Khi còn
trẻ
hung hăng con bọ xít, Gấu viết phê bình, điểm sách, thi sĩ NS lúc đó mà không ghê sao, giáo sư, du học từ bên
Tây về, bằng cấp đầy mình, Gấu đi 1 đuờng, nhà văn dễ dãi, sung sướng,
biết khỉ gì
về nỗi đau của Mít, đến chết ông vẫn còn đau, vì đúng quá. Cú viết, cú
điểm nào
cũng gây họa vào mình, gây họa luôn cả cho gia đình, khi ra được hải
ngoại, Gấu
đã tự hứa, sẽ chẳng bao giờ vướng vô cái nghiệp khốn kiếp đó nữa, chỗ
nào, nơi
nào cũng viết, biết đâu làm được điều ngược lại, nối cả 1 cõi văn Mít
hải ngoại thành
1 mối, vá được cái bản đồ xứ Mít rách bươm… vậy mà đâu có làm được,
cuối cùng lại
phải cầm lại cái nick tên sa đích văn nghệ.
An Encounter
Barney
Rosset, the founder of the Grove Press in the early fifties as well as
the
distinguished literary and political magazine, the Evergreen Review
(both
institutions published Samuel Beckett's earliest work) lives and works
in a
Greenwich Village walk-up where he now publishes the Blue Moon Press.
The
offices are a long way up -four flights. On the third floor is a
loft-like
room. At the far end is a Ping-Pong table with one end up on its hinges
so that
half the table faces the player like a backboard. Rosset goes down
there on
occasion and practices.
INTERVIEWER
Is it true
that you once played Ping-Pong with Samuel Beckett back in the fifties?
BARNEY
ROSSET
He knew that
I played Ping-Pong, or more properly table tennis, and that I was good
at it.
Perhaps I told him. Anyway one day we walked up the Boulevard St.
Germain
looking for a place to play. We couldn't find one. Finally we ended up
in a
billiard parlor on the corner of St. Germain and the Boulevard St.
Michel. Up
on the second floor. I'd played pool, but I didn't know how to play
billiards.
Billiards was a big thing of Beckett's. We played. He put a good face
on it,
being sweet, nice, and trying to show me what to do, but it was a
disaster.
INTERVIEWER
What sort of
an athlete was Beckett?
ROSSET
He was a
fine athlete. I have photographs of him as a stalwart member of his
prep school
cricket team. In the fifties he was troubled with cataracts. He would
stagger
around on the street because he wasn't seeing well. People used to
think he was
drunk. They took it for granted: "Well, he's had too much." Eventually
he had a successful operation.
INTERVIEWER
Was he
interested in sports? Did he keep up with them?
ROSSET
He was a
great enthusiast. I remember we went to Roland Garros to watch what
turned out
to be one of the greatest tennis matches I ever saw - a semifinal in a
professional tournament between Lew Hoad and Pancho Gonzales. The
umpire was a Basque
whom Beckett knew; they waved at each other as we came in. At one point
in the
match Gonzales got very upset at the umpire, threw his racquet up into
the
stands and said he wouldn't continue unless they threw the umpire out.
So they did
this, and as he left the stadium the umpire waved up at Beckett. You
would have
thought someone in a situation like that would have something else on
his mind
than to wave at a friend. Oh yes, a lot of sports people knew Beckett.
One of
his favorite places was a bar / restaurant called the He de Matisse, a
seafood
place with photographs of sports figures on the wall. Beckett's was up
there
next to Sugar Ray Robinson's.
INTERVIEWER
Did you
compete against him in anything else?
ROSSET
He tried to
teach me how to play chess, at which he was also very good. He played
chess
with friends by mail-in Yugoslavia, in Germany. He failed as miserably
teaching
me chess as he had billiards.
INTERVIEWER
Eventually
though you played Ping-Pong.
ROSSET
He found a
place with a table - an inn near his house outside Paris. We drove out
there in
his Citroen deux chevaux-that crazy sardine-can automobile with its
front
wheels turned inward so that it swayed like being in a ship, and he was
driving, and of course he couldn't see. It was like being in a Beckett
novel.
INTERVIEWER
What was the
result out there in the inn?
ROSSET
I was better
than he was. First of all, I could see, and I'm pretty good at table
tennis.
I've played a lot.
INTERVIEWER
Why do you
think he was so anxious to play Ping-Pong, if he knew you were so good?
ROSSET
I think he
wanted to find a game he knew I could really play because he had beaten
me so
badly at billiards and then chess. He had just humiliated me. He wanted
to make
me feel better.
INTERVIEWER
How did he
take being defeated?
ROSSET
Just as well
as he took winning at billiards. Beckett was a gentleman; I think
they may have
invented the word for him a gentle, sweet human being who some
people thought
was unfriendly because he didn't say anything. Beckett was an intense
listener.
He listened to you as if you were the only human being in the world.
With each
person he was like a deep lover. Sometimes it was disconcerting,
especially to
those who didn't know him. Richard Avedon, I remember, got almost
hysterical
because he thought Beckett was being hostile. In his nervousness he
began telling
crazy stories about photographing snakes in Texas. He went rambling on
and on,
Beckett sitting there listening very intently, along with me and my two
children. Avedon was very upset. Well, anyway, that's the way it was.
- George
Plimpton
New York
City
October 28,
1995
The Paris
Review,Winter 1995
Số báo, Gấu
mua lâu rồi. Có “Chân Dung Nga”, bài phỏng vấn Steiner, đều đã chôm.
Riêng bài
viết này, thì chôm 1 câu, tặng bạn NDB: Beckett là 1 người quân tử. Tôi
nghĩ
người ta phịa ra từ này, vì có ông ở trên cõi đời này....
Ui chao, vậy
mà lại nhớ Quận Cam, nhớ bạn hiền. Mới nhận mail NDT, cho biết bà xã về
VN, mấy
tuần, sao Gấu không qua, buồn quá!
Chúc Mừng
Năm Mới.
Take Care
Please
NQT
Trên số
báo
ML tháng Chạp, có bài về "Cái bóng của Beckett", giới thiệu 1 tác giả
đệ tử của ông.
Tuyệt lắm. Post sau đây, sẽ dịch sau.
L’Ombre de
Beckett
Gaby et son
maitre, Arthur Bernard, ed Champ Vallon, 128 p. 13 Euro
Si Dante
avait pour mentor Virgile, le « Maitre » de Gabriel Lavoipierre n'est
autre que
Samuel Beckett, et c'est bien par ce terme que le jeune homme désigne
son
auteur fétiche. Vouant un culte à l'écrivain, il a lu toutes ses
oeuvres, en
connait par cceur des morceaux entiers. Gabriel n'est autre que le
double littéraire
de l'auteur, Arthur Bernard, pseudonyme de Jean-Pierre Arthur Bernard,
et le héros
de quatre de ses romans. Le précédent volume, Gaby grandit
(2010), décrivait ses tribulations parisiennes en 1968
: il venait de quitter sa ville natale pour les amphithéatres de la
Sorbonne. Gaby et son maitre se déroule un peu
plus tard. Beckett est déjà âgé, mais encore bien vivant. Tous les deux
habitent dans le même quartier du sud de Paris, entre Denfert-Rochereau
et les
Gobelins, il n'est donc pas étonnant qu'ils finissent par se
rencontrer.
Pendant un an, le hasard voudra que Gabyet Samuel se croisent a la
station
Glaciere, sur la ligne 6. Pour Gaby,c'est un choc de voir, en vrai, ce
“Maitre”,
ce “Touareg”, cet «Instituteur », qu'il aime d'un amour littéraire et
dont tous
ses surnoms sont ornés d'une majuscule. Pourtant, jamais il n'arrivera
à lui
parler. Comme dans
une pièce de Beckett, Fin de partie
ou En attendant Godot, la communication
semble impossible, prise entre les rets d'une réalité imparfaite et
gênante
: «Je ne pouvais pas faire ca. [ ... J'étais perdu, éperdu de respect
et
d'admiration pour cet homme. » L’ombre
muette de l'Irlandais plane sur le roman, et cela s'en ressent jusque
dans l'écriture
: si tous les discours du livre sont rapportés de manière indirecte et
sans
ponctuation, c'est à cause de lui, comme l'explique Gaby - «il m'apprit
et pour
toujours l'oubli des guillemets », Pour autant, Gaby et son maitre n'est pas un
roman beckettien. Écrit dans un style libre, au vocabulaire riche, très
personnel, le sujet est avant tout l'amour littéraire et la relation
maitre-disciple. A travers Gaby, Arthur Bernard transparait.
D'ailleurs, l'auteur
déclarait en 2009 au Matricule des anges
: «Beckett, je l'ai souvent croise dans Paris. Jamais je n'ai eu
l'audace de l'aborder.
»Au-delà de cette non-rencontre, le roman est égalernent un livre sur
le Paris
des années 1970, la ville d'une jeunesse étudiante, insouciante.
Valentinois
d'origine, Arthur Bernard a vécu dans la capitale pendant quatorze ans.
«J'ai du
mal à concevoir un roman sans y mettre Paris, sous forme de trace, de
nostalgie, de je ne sais quoi », assure l'auteur, qui a dejà publié
plusieurs
ouvrages sur la ville, comme Paris en
2040 (ed. Parigramme). Gaby et son
maitre navigue entre les arrondissements du Sud parisien, 13e,
14e, ou dans une cour du boulevard de Port-Royal, où vivent le
narrateur et son
amante -laquelle ne se prive pas de se moquer de sa passion envers
Beckett. Évidemment,
cette géographie ne parlera qu'aux plus fins connaisseurs de la
capitale. Mais,
si Gaby et son maitre peut sembler s'adresser
seulement aux happy fews, amateurs de
Beckett et spécialistes de Paris, il n'en reste pas moins un livre
profond et
touchant sur l'amour d'un jeune disciple pour son maitre.
Note: Một
Beckett, như thế, để kế bên một VKK, như thế, rồi phán, cũng kịch cọt
như nhau,
và kịch chỉ là cái cớ, mà không là… bịp
ư?
Viết lách
như thế, mà vỗ ngực xưng tên là nhà lý luận, nhà phê bình!
GCC đâu có thù hằn gì những đấng “như thế”. Nhưng không lẽ cứ để tình
trạng mãi,
như thế?
Beckett
Khi “merde”
đến tận cổ, thì chỉ còn có cách hát nhạc sến!
HOW BECKETT DID IT
Strong Points
(1) First lines.
From
his earliest novel, "Murphy" (1938), Beckett set his own tone:
"The sun shone, having no alternative, on the nothing new." (2)
Pauses. Without Beckett, Pinter could never have created his sinister
tension.
He marks the silences as "[Pause]" or "[Silence]", each
becoming something palpable. (3) Compassion. Within these grey
landscapes, his
characters flicker with warmth – even if it is just Estragon and
Vladimir
looking on in helpless horror at Lucky’s enslavement by Pozzo.
Những điểm mạnh
1. Những dòng đầu.
Từ cuốn tiểu thuyết đầu tay, “Murphy”, ông đã vạch ra, đặt để, đóng
dấu… giọng
văn riêng của mình:
“Mặt trời chiếu, đâu có cách nào khác, về cái chuyện chẳng có gì
mới”.
2. Những đoạn ngưng. Không có Beckett, [nhà soạn kịch, Nobel văn
chương, người
Anh] Pinter không thể nào, chẳng bao giờ có được cái sức căng thẳng
nham hiểm,
quỉ quái của mình. Beckett điểm những cú lặng như “[Ngưng]”, “[Im
lặng]”, mỗi
cú trở thành một cái gì có thể vỗ vỗ, sờ sờ được.
3. Lòng cảm thông. Với quang cảnh kịch xám xịt như thế, những nhân vật
của ông
long lanh, óng ánh sự ấm áp – ngay cả nếu chỉ có, nếu chỉ còn có thế:
Estragon
và Vladimir nhìn một cách ghê rợn, tên chủ Pozzo hành hạ gã tà lọt
Lucky.
Golden Rule
Never to compromise.
Estragon’s trousers have to fall all the
way down at the end of "Godot". The action and dialogue of
"Play" has to be repeated, by actors who are up to their necks in
urns. Whole novels can go by without a paragraph break. Both his novels
and
plays require concentration, and a stomach for repetition. But they
reward the
persistent
Luật Vàng
Không bao giờ, chớ khi nào
thỏa hiệp, cấm cái trò ông mất
“củ” kia, thì bà chìa “của” nọ. Quần Estragon tụt dài dài, tụt suốt,
cho tới
khi chấm dứt “Godot”. Hành động và đối thoại của “Play” phải lập lại,
bởi những
nghệ sĩ, diễn viên mà tro than [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo] ngập tới tận cổ.
Trọn những
cuốn tiểu thuyết cứ thế mà đi, đếch cần 1 đoạn ngưng, nghỉ, gẫy. Cả
kịch lẫn
tiểu thuyết của Beckett đòi sự chú tâm, xoáy vô, chốt vô… và 1 cái dạ
dày, cho
sự lập lại.
Nhưng thật xứng đáng, chúng ban thưởng cho chúng ta, sự khăng khăng, cố
chấp,
“thua, thua nữa, thua cho bảnh!”
Đừng thành công, Alain
phán, là vậy!
Lần gặp đầu
Jérôme
Lindon
Một bữa, năm
1950, một người bạn, Robert Carlier, biểu tôi, ông phải đọc bản thảo
của tay này,
một gã Ái nhĩ lan, viết văn bằng tiếng Tây. Hắn tên là Samuel Beckett.
Sáu nhà
xb đã từ chối. Tôi lúc đó trông coi Nhà
xb Nửa Đêm được hai niên. Vài tuần sau,
nhà xb nhận được ba bản thảo: Molloy,
Malone meurt, L’Innommable, với cái tên tác
giả lạ hoắc nhưng bề ngoài quen thuộc.
Chính là từ
ngày đó mà tôi biết tôi sẽ là nhà xb, thứ
thiệt. C’est de ce jour que j’ai su
que serai peut-être un éditeur, je veux dire un vrai
éditeur. Ngay dòng đầu – “Tôi ở trong căn phòng của mẹ tôi. Tôi
bây giờ sống ở trong căn phòng này. Tôi cũng không biết như thế nào tôi
lại sống
ở trong căn phòng này” – ngay dòng đầu, cái đẹp rã rời, nát tan, la
beauté écrasante,
của bản văn đã hớp hồn tôi. Tôi đọc Molloy
trong mấy tiếng đồng hồ, như chưa từng
đọc 1 cuốn sách…. Một bản thảo chưa từng được in ra, không phải
chỉ chưa được
in ra mà là bị nhiều nhà xb từ chối. Tôi không làm sao tin nổi.
Bữa hôm sau,
tôi nói với bà vợ, Suzanne, phải in liền tù tì ba cuốn, mà tôi lại đếch
có tiền.
Bà lo chuyện mang hợp đồng đến cho Samuel Beckett ký kết, và mang về
cho tôi. Đó
là ngày 15 Tháng Chạp 1950. Vài tuần sau, ông ghé văn phòng của tôi. Bà
vợ tôi
kể lại, ông ra về mặt buồn thiu. Và Suzanne rất ư là ngạc nhiên. Hay là
tụi chúng
tôi có làm gì ông buồn. Cái hợp đồng in sách đầu tiên của ông có
gì làm ông không vừa lòng. Và ông trả lời ngược hẳn, là ông quá mừng,
nhưng thật ái ngại, vì cái việc in sách của ông, sẽ làm cho chúng tôi
thất bại, nếu không
muốn nói, phá sản, que la publication de Molloy allait nous conduire à la
faillite.
Cuốn sách ra
lò 15 Tháng Ba. Chủ nhà in, 1 tay Alsacien, dân Ky Tô, sợ liên can đến
thuần phong mỹ tục, đếch dám để tên nhà in ở cuối cuốn sách.
Vài ngày sau
tôi viết thư cho Sam để biểu ông gửi tôi một tấm hình, và 1 truyện
ngắn ông
hứa gửi cho tờ báo.
Và ông trả lời, thư sau đây:
10.4.51
Cher
Monsieur Lindon,
Nhận được thư
ông hôm qua. Sướng điên lên về cái món tiền a văng của ông.
Chiều nay đi
chụp hình. Ngày mai gửi liền
Tôi nghe nói
là Roger Blin đang tính dựng kịch của tôi. Chắc là phải đòi tí tiền
còm. Nhưng
căng đấy, tôi muốn nói cái việc cho phép dựng kịch của tôi. Hãy đợi Godot. Nhưng
ngày mai, chưa đâu. Attendons Godot,
mais pas pour demain.
Cái truyện
ngắn, phần đầu dưới cái tít La Fuite
[Trốn chạy], đã đăng trên Thời Mới, Les
Temps
Modernes, tùy ông sử dụng….
1. Món tiền tạm
ứng, tôi nhớ không lầm, thì là 25 ngàn Phật lăng cũ.
2. Cái kịch ở đây
là Trong khi chờ Godot, ở
Paris. Những nhà hát từ chối từ lâu, vì kịch đếch
có “đàn bà, cộng sản, thầy tu”.
Sau cùng ra mắt tháng Giêng 1953.
*
The best
part of a writer's bigraphy is the biography of style.
Nabokov
Cái phần đẹp
nhất của tiểu sử một nhà văn là tiểu sử của văn phong.
Tuyệt!
Áp dụng vào
trường hợp Gấu Nhà Văn lại càng tuyệt.
Cái
truyện
ngắn đầu tay của Gấu, Những Con Dã Tràng,
viết sau lần đi nghỉ hè biển Nha Trang, sau khi rớt Tú Tài Hai, khóa I,
gửi thẳng
xuống tòa soạn Sáng Tạo, được TTT khen um lên, qua lời kể lại của bà cụ
của ông,
và ST tính đi, nhưng báo ngỏm, và sau Gấu thấy cái tên Sơ Dạ Hương
trong mục hộp
thư của tờ Văn Nghệ của băng
Dương Nghiễm Mậu, Lý Hoàng Phong, nhưng sau không
thấy đăng.
Gấu cũng
bỏ, vì thực tình lúc đó, còn lo học.
Chỉ mãi
sau này, thì Gấu
mới hiểu ra, có 1 cái gì đó trục trặc với cái truyện ngắn đầu tay, dù
được
khen, và cái chuyện tờ Văn Nghệ vứt
thùng rác, có thể lại là cái hay cho Gấu.
*
Thầy của
Beckett là Joyce. Nhưng theo GCC, tiền thân, precursor của ông, phải là
Kafka.
Và ý nghĩa của “En attendant Godot”, vưỡn theo Gấu, là từ “Trước Pháp
Luật”,
hay “Tháp Babel”:
Có thể xây
được tháp Babel, với điều kiện đừng leo lên nó.
Chiều nay
Godot không tới, nhưng thể nào ông cũng tới.
Cái kiểu cắt
nghĩa Godot, của cái tay trên
The New
Yorker, nào lưu vong, nào đổi dời, nào vô xứ… là đếch hiểu Godot là
vậy.
Lưu vong chính
là bản chất của cuộc đời, “nói lớn”, và của văn chương, “nói nhỏ”. [Từ
này thuổng
của Sến]
Brodsky cũng
ngộ ra điều này, khi phán đi là… đi, đếch
ngoái lại.
Joseph
Brodsky: Người hùng Virgil: Đi để mà đừng bao giờ trở về.
[A Virgilian Hero, Doomed Never to Return Home].
Niềm tin của Brodsky vào
quyền
năng của từ phải được hiểu theo quan điểm chống thời gian và không gian
của
ông. Văn chương hơn [superior) xã hội – và hơn nhà văn, chính hắn. Ý tưởng, không phải ngôn ngữ, nhưng chính nhà
văn, là dụng cụ, ý tưởng này là cốt lõi thơ Brodsky. Ngôn ngữ già hơn
xã hội,
và lẽ dĩ nhiên, già hơn nhà thơ, và chính ngôn ngữ sẽ nối kết những
quốc gia, một
khi mà trung tâm không còn giữ nổi, “the centre cannot hold” (chữ của
Yeats).
Con người chết,
nhà văn, không. Cùng phát biểu như vậy, là nhà thơ Anh, W.H.
Auden, trong bài
thơ tưởng niệm nhà thơ W.B. Yeats, “In Memory of W.B. Yeats (1939).
Chính đoạn
thứ ba và cũng là đoạn chót của bài tưởng niệm đã gây ấn tượng mạnh ở
nơi
Brodsky, như ông kể lại trong Less
Than One, khi ông đọc bài thơ lần đầu, trong
khi lưu đầy nơi mạn bắc nước Nga:
Time that is intolerant
Of the brave and
innocent,
And indifferent
in a week
To a beautiful
physique,
Worships language
and forgives
Everyone by whom
it lives …
[Thời gian
không khoan dung
những kẻ can
đảm và ngây thơ
Và dửng dưng
trong một tuần lễ
Trước cõi trần
xinh đẹp
Thờ phượng
ngôn ngữ và tha thứ
Tất cả ai
kia, nhờ họ mà nó sống
Nói một cách khác, ngôn
ngữ hơn, không chỉ xã
hội và nhà thơ, mà còn hơn cả thời gian, chính nó. Thời gian “thờ phụng
ngôn ngữ”,
và như thế “không bằng, kém, thua” ngôn ngữ. Có một nét bi thương, lãng
mạn,
như là định mệnh của ngôn ngữ, qua một khẳng định như thế, nhưng ở Nga
xô, nơi
con người, như Puskhin diễn tả, thường “câm” [mute],
và nhà văn có một vị thế độc nhất. Sự nhấn mạnh
vào tính trấn ngự của ngôn ngữ do đó, không phải là một biểu hiện của
chủ nghĩa
mỹ học; trong một xã hội, nơi ngôn ngữ được quốc gia hóa, nơi ngôn ngữ
mang mùi
chính trị ngay cả khi không nói chính trị, trong một xã hội như thế, từ
ngữ có
một sức mạnh bộc phá lớn lao, khủng khiếp.
*
Người nhìn
ra trước mọi người về thiên tài Beckett, là Suzanne,
bà vợ của ông. Khi nghe tin chồng được
Nobel, bà than, thật là 1 thảm họa!
Bà biết quá
rõ, văn chương của chồng, không phải để gặt hái vinh quang!
Khi bà mất,
ông chồng viết về vợ:
I owe
everything to Suzanne. She hawked everything around trying to get
someone to
take all three books at the same time. That was a very pretentious
thing for an
unknown to want! She was the one who went to see the publishers while I
used to
sit in a cafe "twiddling my fingers" or whatever it is one twiddles.
Sometimes she only got as far as leaving the manuscripts with the
concierge;
she didn't see the publishers. It was the same with Roger Blin. She was
the one
who saw Blin and got him interested in Godot
and Eleutheria. I keep out of the
way.
[Tôi mà không
gặp ông này, là thành gái già, bà vợ của bạn Bạn nói về chồng!]
Niềm tin của
riêng bà vợ, Suzanne’s own faith, về giá trị của tác phẩm của Beckett
được củng
cố thêm lên, từ một số khuôn mặt nổi tiếng. Tristan Tzara là người đọc
Molloy,
và mê quá là mê…. Nhưng tin tưởng, cổ võ, thổi… là 1 chuyện, làm sao
cho có người
bỏ tiền in, lại là 1 chuyện khác. Bản thảo bị hết nhà xb này cho tới
nhà xb bản
khác từ chối, cho đến khi bà vợ quyết định - điều mà ông chồng gọi là
“last ditch
effort” [cố gắng chót, hơi thở chót trước khi ngỏm] - đưa cho Jérôme
Lindon, nhà
xb Nửa Đêm.
Why did
Beckett accept the Nobel Prize at all? Certainly not for the money,
since he
gave the sum of 375,000 kronor (worth at the time £30,000, or about
$45,000)
away very quickly. He arranged, for instance, for various payments to
be made
even before the money was transferred to France. One of the chief
beneficiaries
was the library of Trinity College, Dublin; this gift was a riposte,
surely, to
those who accused him of insulting his native country. Many individual
writers,
directors, and painters also benefited financially from the prize, the
money
arriving anonymously, although recipients could not fail to be aware of
the
source. One very real reason for Beckett accepting the Nobel Prize was
that he
did not wish to be publicly discourteous (Sartre had earlier caused
something
of a public scandal by turning it clown). Another was that he wanted
the publishers
who had shown faith in his work, especially in the early days, to be
rewarded
with an increase in the sale of his books. To turn the prize down would
also
have seemed unfair, and again, discourteous, to those who, since
Maurice Nadeau
and others had put his name forward twelve years before and regularly
proposed
him for the prize. But there had always been an unusual mixture of
perfectly
genuine humility and concealed pride in Beckett. He after all, invested
almost
everything in his work, knew what it had cost terms of effort and
sacrifice,
and could not lightly reject an his achievement at such a high level.
Nói cho
cùng, tại sao Beckett nhận Nobel văn chương, một khi vợ thì than, thảm
họa,
còn ông chồng, mệt quá, distressed. Chắc chắn đếch phải vì tiền,
bởi là vì
chưa nhận tiền thì ông đã xài hết số tiền đó, thật là mau lẹ, bằng cách
kín đáo
chuyển tới cho 1 số cơ quan, đoàn thể, hoặc cá nhân. Thư viện trường cũ
là
chính, để cảm ơn, tất nhiên, và cũng để trả lời những kẻ chửi ông
phản
bội Đất
Mẹ [bỏ qua Tây, viết văn bằng tiếng Tẩy, thí dụ]. Một trong
những lý do
chính
khiến ông đành nhận Nobel, là không muốn trở thành 1 xì căng đan giống
như trường
hợp của Sartre. Ngoài ra, cũng là 1 cách cám ơn những người đã tin
tưởng ở nơi ông,
những ngày đầu, dám bỏ tiền ra in sách của ông, nhờ giải Nobel sẽ bán
thêm được
sách, rồi những người năm nào cũng nhắc tới ông với Uỷ ban Nobel.
Nhưng luôn có
1 sự trộn lẫn không giống ai, ở trong cái sự gật đầu, cũng đành đó, 1
sự trộn lẫn
của 1 tâm hồn hết sức khiêm nhường, và 1 sự kiêu ngạo ngầm ở nơi ông.
Beckett
chứ đâu phải 1 tên cà chớn nào khác, đúng không, hà, hà!
Beckett, kẻ đầu tư
hầu như tất cả vào tác phẩm, đã chịu bao nhiêu đau thương, cay đắng… làm sao có thể vứt bỏ 1 sự thừa nhận, ở một đỉnh
cao chói lọi như là giải Nobel văn chương!
Beckett,
portrait
Displaced
persons: Patrick Stewart and Ian McKellen in "Waiting for Godot. "
ILLUSTRATION
BY VICTOR MELAMED
THE NEW
YORKER, DECEMBER 9, 2013
The most
significant incarnation of Samuel Beckett's 1953 play 'Waiting for
Godot"
I've ever seen was staged outdoors, in New Orleans's Lower Ninth Ward.
The year
was 2007-two years after Hurricane Katrina-and the show was produced by
the
artist Paul Chan and directed by Christopher McElroen, with Wendell
Pierce and
J. Kyle Manzay as Vladimir and Estragon. Like Susan Sontag, who staged
the play
in war-weary Sarajevo, in 1993, the collaborators presumably found some
truth
in the bleak, science-fiction-like devastation that surrounded them, a
real-life metaphor for Vladimir's
observation, near the end of the play, that "in an instant all will
vanish
and we'll be alone once more, in the midst of nothingness." In the
midst
of our "nothingness," I could smell the stench of the nearby
Mississippi. I saw how the white overhead lights lit the stage and the
actors'
black skin and the black night sky. I heard dry
grass rustling, and sometimes a dog
howling. And, in the pauses between Beckett's lines about the continuum
of hope
or the comedy of death (I couldn't settle on which), I heard something
else: a
silence as heavy as a solid. The show was
staged in a residential neighborhood that no longer had its residents.
There
were no sounds of daily life: no one to turn a television on or off, no
one to
clink ice in a glass or curse the weather. All that was left in that
damaged,
desolate space was evidence that the world could disappear in a moment,
leaving
you God knows where.
Beckett knew
something about displacement-the fear, the hope, the cold stink of
madness and
loss. Born into a middle-class family in Foxrock, Ireland, in 1906, he
was the
second son of a genial surveyor and his critical, controlling wife.
Samuel was
his mother's favorite child, but he could never quite live up to her
demands,
which tethered him to her as Lucky is tethered to Pozzo in "Godot."
At twenty-two, he fulfilled
his dream of escape, landing in Paris, where he was taken up by James
Joyce.
(Their friendship faltered when Beckett didn't respond to the advances
of Joyce's
schizophrenic daughter, Lucia.) In 1938, Beckett was stabbed by a
Parisian pimp
and barely survived. Four years later, he was nearly captured by the
Gestapo
while working for the Resistance.
War,
humiliation, physical and spiritual pain, our desire to connect through
the
skein of isolation: all of this Beckett poured into 'Waiting for
Godot,"
though "poured" may not be the right word for the play's abrupt,
staccato lines. In any case, that curtness-the meaning in the
ellipses-is not
the focus of Sean Mathias's current revival (at the Cort). Mathias has
chosen,
instead, to make the play into a
"Hogan's Heroes"-ish, hail-fellow-well-met spectacle that feels like
an awkward exercise in male bonding-a painful slap on the back,
followed by booming
laughter. His misguided approach is clear, first, in the show's design:
Stephen
Brimson Lewis's
enormous gray set looks more expensive than deracinated. The
symbolically
"barren" tree upstage seems relatively healthy, as Estragon (Ian
McKellen) sits beside it, fiddling with his boot. Vladimir (Patrick
Stewart)
enters. The men are friends, not long parted. Where did Estragon spend
the
night? In a ditch. Where was Vladimir? Without him. This kind of
metaphysical
slapstick was an essential part of the play for Beckett, but not the only part.
In a letter to a German director who wanted
to mount "Godot," he wrote:
The farce
side seems indispensable to me
as much from
the technical point of view
(comic
relief) as for reasons to do with the
spirit of the play.
Therefore neither to
be hurried
through nor to be
overdone.... Laugh
at
them then and get them
laughed at.....
but
not all the time ... and always a little reluctantly.
It's a
drag
that Mathias wants us to laugh all
the time, and a drag that, instead of seeing
Vladimir and Estragon onstage, we see
Stewart and McKellen. Mathias seems to
bank on the actors' celebrity to carry the show, rather than making
them do the
heavy lifting needed to build characters from an opaque, intellectually
rigorous work-a poem with more clues than exposition. Beckett is not
such a
difficult artist to absorb if one listens; his meaning is there in the
chopped-up wordplay, in the speech that is both philosophical and
mundane. But
here all one can hear is McKellen's and Stewart's grand English voices.
Stewart
trots out his famous bass like a show dog: it races around, stands on
its hind
legs, and sits still only when McKellen sends his lines commandingly
back.
Perhaps this star-to-star one-upmanship is intended to echo the
clown-upstaging-clown exchanges of Beckett's text. It doesn't work.
McKellen
and Stewart want to be seen, but without sacrificing their hauteur;
there is no
desperation in their bones, nothing funky in their "Of Mice and
Men"-like portrayal, minus the girl, minus the murder.
We can sense
the grievous reality behind the jokes only in the flop sweat that
drenches
Lucky (Billy Crudup, who is electrifying in the role), and permeates
our
consciousness. Even then, it takes several minutes to separate oneself
from the
noise of the production and appreciate just how extraordinary a
creation Lucky
is. There is something so shameful and primal, so stomach-churning, in
the
portrait of this slave bound to his master, Pozzo (the excellent, if a
trifle
too blowhardy, Shuler Hensley), that I couldn't help thinking that it
was
informed by Beckett's feeling about Jewish suffering in the Second
World War.
(In McElroen's staging, Lucky seemed more like a link to American
slavery.)
Dressed in loose-fitting rags, with unkempt hair, Crudup's Lucky
skitters along
with Pozzo's rope tied around his neck. He doesn't know to be ashamed,
because
he doesn't know what it is to be free; he knows only what's demanded of
him,
the immediate desires of a master who talks and talks because, as
Gertrude Stein
said, repetition is insistence. But what is Pozzo insisting on? As
played by Hensley,
he is insisting on his masculinity-his ownership of the empty world we
occupy.
Lucky doesn't recognize that world. Keeping his head down, all he sees
is his
feet, shuffling in a repetitive dance of misery that he doesn't know is
miserable.
When Lucky finally tries to leave his master, Pozzo is bereft: his
power over someone
else is his life's blood. Still, he is aware that he himself might have
been Lucky
if chance hadn't willed otherwise.
Beckett's
genius lay in finding these distinctly theatrical metaphors to show us
how
foolish and beautiful and ghoulish we are. We are all "sick" with
life, contagious with it: we are all terminal, dying, in order to make
room for
other people, other stories. Look at Winnie in the 1962 play, "Happy
Days," buried up to her neck as she chatters on about toothpaste and
memories.
Or Krapp, in "Krapp's Last Tape" (1958), as he breathes the last of
his love into a tape recorder. These extreme images of man's immersion
in and
escape from life may have been Beckett's reaction against his
attraction to
Irish blarney, his Joycean love of song and excess. They were also a
jumping-off point from which he could examine the actor's primary
instrument:
the voice.
Voice is at
the center of Beckett's "All That Fall" (1957). Originally written as
a radio play, the seventy-five-minute piece has been directed with
aplomb and
understatement by Trevor Nunn (at 59E59). The show is
staged in a radio studio: the actors arrive and chat soundlessly before
taking
their seats; microphones hang from the ceiling like upside-down
thistles; a red
light comes on and we're on the air. The protagonist of this story,
Mrs. Rooney
(Eileen Atkins, glorious in the part), is an Irishwoman on her way to
the railway
station to pick up her husband (Michael Gambon), who is blind. En
route, she
reflects on the changing face of the world. One gets the sense, even
before meeting
Mr. Rooney, that he is not enough for Mrs. Rooney. Indeed, the world is
not
enough; it continuously fails to meet her standards. Atkins maintains a
downward
turn to her mouth, a dead-eyed glare, and a vain but trashy posture-
her Mrs.
Rooney can talk a blue streak while saying blue things.
After Mr. Rooney is retrieved, we
learn that a child was killed on
the train tracks. Mr. Rooney clings to the child's ball as he and his
wife make
their way home through the elements. In their struggle, the couple
embody two
inseparable aspects of Beckett: his inimitable sense of the ridiculous
and his
sometimes sentimental faith in our ability to carry on. For the
playwright, we
are all like figures in the Book of Common Prayer, fighting against
calamity,
believing in a world "without end," because we must. Amen. How we get
through it is up to us-and God. Or Godot. Whoever he is. As Beckett
once wrote,
"I myself know him less well than anyone .... If his name suggests the
heavens, it is only to the extent that a product for promoting hair
growth can
seem heavenly. Each person is free to put a face on him." •
Chủ
nghĩa anh hùng của cái hư vô
Note: GCC
scan bài này, cùng lúc đọc nó, coi anh Mẽo đọc nổi Beckett không.
Đếch đọc được!
Hà, hà!
Bài viết hay nhất về
Beckett, ngắn thôi, “Notes on a voice”, của tờ The Intel,
đã post trên TV, kiếm mãi không thấy, bèn post lại ở đây.
Thủng thẳng
lèm bèm
tiếp về Chủ Nghĩa Anh Hùng Của Cái Hư Vô!
Mít, sau 30
Tháng Tư, dễ kiếm đường nhập vô cõi của Beckett, theo GCC.
Beckett
Beckett 2
Note: Kiếm
thấy rồi. Trong bài viết về SG [Xề Gòn & Sea-Gull]:
Ghi chú về 1
giọng văn
Emma Hogan
viết về người tái phát minh kịch, và rất hiếm coi kịch “Chẳng có gì để
làm”
[Nothing to be done, Rien à faire], câu bắt đầu kịch, và kịch bắt đầu
thay đổi
kịch [trò chơi. Từ “play”, trong tiếng Anh, vừa có nghĩa là kịch, vừa
có nghĩa
là chơi, trò chơi. GCC]. Khi nó được chơi lần đầu ở Paris, trước đây 60
năm,
tác giả của nó, một anh cựu thầy giáo người Ái Nhĩ Lan, phân bua, claim
- ngay
cả khi ông tái phát minh cái hình thức được gọi là kịch đó, “Tôi chẳng
có ý
nghĩ gì về kịch, tôi đếch biết kịch là cái chó gì, và tôi chưa từng đi
coi”.
Ai, còn ai nữa,
nếu không là Beckett: ông Trùm Hiện Đại, người rành nhiều thứ tiếng,
một gã hiện
sinh kỳ quặc, tiếu lâm, cà chớn. Sinh gần Dublin,1906, ông là 1 tay Thệ
Phản
khá giả, học tiếng Tây và tiếng Ý ở Trinity College, 1937 rời Ái Nhĩ
Lan và bà
mẹ đi Paris, sống ở đó đến khi chết vào năm 1989. Viết 32 kịch, một
phim (tên
phim là “Phim”), 8 tiểu thuyết, 17 tác phẩm văn xuôi khác, và một tập
[set]
thơ. Nhưng “Trong khi chờ Godot”, với 4 nhân vật, và 1 dàn dựng đơn
giản “Một
con đường quê. Một cái cây. Buổi chiều”, làm cho ông thành 1 người
khổng lồ.
Khi “merde”
đến tận cổ, thì chỉ còn có cách hát nhạc sến!
Samuel Beckett
vu par
Jerry Bauer
Leçon de
choses
J'ai
rencontré Samuel Beckett, pour la seconde fois, dans les années
soixante-dix,
au Royal Court Théâtre, à Londres, où il dirigeait la nouvelle
production de Oh
happy days. Dix ans auparavant, je l'avais photographié dans son
appartement
parisien.
Je suis
resté, près d'une heure, assis dans un fauteuil du théâtre, le
regardant
diriger Billie Whitelaw. Lorsqu'il eut fini, il vint me rejoindre et me
salua
froidement.
« Non, pas
dans le hall du théâtre, me dit-il, allons plutôt dans la ruelle juste
derrière.
»
Au début, il
s'est assis par terre sur une bouche d'incendie où je l'ai photographié
et
puis, de façon impulsive, il s'est relevé pour aller vers un tas de
poubelles.
« Voici
votre vraie photo, m'a-t-il alors dit, le vrai sens de la "merde"
dans mes pièces. Nous sommes tous dans la merde, d'une manière ou d'une
autre.
»
Disons que
Beckett savait, en la voyant, qu'une photo serait bonne, même si elle
était
plus répugnante que de la merde.
Bài học sự vật
Tôi gặp
Samuel Beckett, lần thứ nhì, vào những năm 70, ở nhà hát Royal Court
Théâtre,
London, ông đang hướng dẫn dàn dựng kịch [vở mới] “Ôi những ngày hạnh
phúc”. Mười
năm trước đó, tôi đã từng chụp hình ông, tại căn phòng ở Paris của ông.
Tôi ngồi cũng
gần 1 tiếng, trong 1 cái ghế ở nhà hát, coi ông hướng dẫn Billie
Whitelaw. Khi
xong xuôi, ông tới gặp tôi, lạnh lẽo phán, đếch được, ở trong rạp, tốt
nhất là
ra ngõ hẻm đằng sau.
Lúc đầu, ông
ngồi dưới đất, trên cái ụ chữa lửa, và rồi, ông bật dậy, đi tới đống
rác.
“Đây mới đúng
chỗ chụp hình. Đây mới đúng bức hình thực của ông, theo đúng nghĩa
“merde”
trong những kịch của tôi. Tất cả chúng ta thì đều ở trong “merde”, cách
này hoặc
cách nọ."
Thì cứ phán đại,
ông ngửi ra liền, một bức hình sẽ đạt tới đỉnh cao chói lọi, khi nó,
chính nó,
làm bật ra cái tởm hơn cả cái gọi là “merde”!
Samuel Beckett
1906-1989
Obsédée par
la béance du sens qui altère le langage, l'œuvre de Samuel Beckett,
poétique,
romanesque, théâtrale, trouve son origine dans le déracinement précoce
de cet
Irlandais qui fut secrétaire de James Joyce. Exilé en Angleterre, puis
en
France où il fréquente les peintres, et jusque dans le Vaucluse pendant
la
guerre, il ne parvient pas à faire paraître ses premières oeuvres
rédigées en
anglais et publiera en français, dans une langue qui restera celle de
l'errance, à partir de 1946. C'est au théâtre que s'exprime avec le
plus de
force sa contestation de la parole : il met en scène son échec pour en
récuser
la légitimité dans En attendant
Godot, créé en 1958. Le succès suivra,
confirmé par Fin de partie (1957)
puis Oh les beaux jours (1961),
immortalisée
par l'interprétation de Madeleine Renaud. La forme brève, le travail
sur
l'image traquant le vertige du sujet, caractérisent la suite de son
œuvre, très
importante quoique moins connue. Les blessures de l'homme s'expriment
en effet
dans une vie solitaire, douloureuse et pauvre, malgré la gloire
internationale
qui l'auréole au moment où lui est attribué en 1969 le prix Nobel, au
Trinity
Collège de Dublin. S'il meurt en 1989, la résonance de son œuvre dans
tous ses
échos semble devoir constamment s'amplifier : peu de créateurs ont
saisi comme
lui les failles profondes de l'homme contemporain.
Cali Nov
2012 With HA
Beckett,
portrait
HOW BECKETT
DID IT
Strong
Points
(1) First lines.
From his earliest novel,
"Murphy" (1938), Beckett set his own tone: "The sun shone,
having no alternative, on the nothing new." (2) Pauses. Without
Beckett,
Pinter could never have created his sinister tension. He marks the
silences as
"[Pause]" or "[Silence]", each becoming something palpable.
(3) Compassion. Within these grey landscapes, his characters flicker
with
warmth – even if it is just Estragon and Vladimir looking on in
helpless horror
at Lucky’s enslavement by Pozzo.
Những điểm mạnh
1. Những dòng đầu.
Từ cuốn tiểu
thuyết đầu tay, “Murphy”, ông đã vạch ra, đặt để, đóng dấu… giọng văn
riêng của
mình:
“Mặt trời chiếu, đâu có cách nào khác, về cái chuyện chẳng có gì
mới”.
2. Những đoạn
ngưng. Không có Beckett, [nhà soạn kịch, Nobel văn chương, người Anh]
Pinter không
thể nào, chẳng bao giờ có được cái sức căng thẳng nham hiểm, quỉ quái
của mình.
Beckett điểm những cú lặng như
“[Ngưng]”, “[Im lặng]”, mỗi cú trở thành một cái gì có thể vỗ vỗ, sờ sờ
được.
3. Lòng cảm
thông. Với quang cảnh kịch xám xịt như thế, những nhân vật của ông long
lanh, óng
ánh sự ấm áp – ngay cả nếu chỉ có, nếu chỉ còn có thế: Estragon và
Vladimir nhìn một cách ghê rợn, tên chủ Pozzo hành hạ gã tà lọt Lucky.
Golden Rule
Never to
compromise. Estragon’s trousers have to fall all the way down at the
end of
"Godot". The action and dialogue of "Play" has to be
repeated, by actors who are up to their necks in urns. Whole novels can
go by
without a paragraph break. Both his novels and plays require
concentration, and
a stomach for repetition. But they reward the persistent
Luật Vàng
Không bao giờ,
chớ khi nào thỏa hiệp, cấm cái trò ông mất “củ” kia, thì bà chìa “của”
nọ. Quần Estragon tụt
dài dài, tụt suốt, cho tới khi chấm dứt “Godot”.
Hành động và đối thoại của “Play” phải lập lại, bởi những nghệ
sĩ, diễn
viên mà tro than [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo] ngập tới tận cổ. Trọn những
cuốn tiểu
thuyết cứ thế mà đi, đếch cần 1 đoạn ngưng, nghỉ, gẫy. Cả kịch lẫn tiểu
thuyết
của Beckett đòi sự chú tâm, xoáy vô, chốt vô… và 1 cái dạ
dày, cho sự
lập lại.
Nhưng thật xứng đáng, chúng ban thưởng cho chúng ta, sự khăng khăng, cố
chấp, “thua, thua nữa, thua cho bảnh!”
Đừng thành công,
Alain phán, là vậy!
Trên Người
Kinh Tế có bài viết về kịch Pinter,
thật tuyệt. Và 1 bài nữa, cũng về “hồi nhớ”, cũng thật tuyệt; cả hai 1
cách nào,
liên quan tới “hồi nhớ và lịch sử”, tức đề tài của “Bên Thắng Nhục”
Harold
Pinter’s “Old Times”
Ah yes, I
remember it well
A mysterious
play about the tricks of memory returns to London
Memory
Remember, remember
New
understanding is emerging of memory and forgetfulness
IRENEO
FUNES,
a character in a story by Jorge Luis Borges, has a strange affliction. He forgets nothing, a condition that makes
him incapable of analytical thought. Fiction, of course. But it
emphasizes a
point. The memory is an evolved
structure with a job to do. That job is to preserve its owner and help
him or
her reproduce. Perfection is not required, only adequacy. Indeed,
selective
forgetting of the useless is as important as selective remembering of
the
useful. And much of this winnowing takes place during sleep, as two
papers in
this week's Nature Neuroscience observe. One of these papers is a
review of
previous work, by Robert Stickgold of Harvard University and Matthew
Walker of
the University of California, Berkeley. They propose that the process
of sleep
acts as a form of triage-first choosing what to retain, and then
selecting how
it will be retained. The other paper, by Dr Walker and his colleague
Bryce
Mander, ompares the process in the young and the old. One of the
studies Dr
Stickgold and Dr Walker examine in their review (a study which was, as
it
happens, led by Dr Walker) found that sleep does indeed help people
discard
information they have been told to forget. The more frequently someone
experiences waves of brain activity known as sleep spindles, the more
his brain
scraps items that it is supposed to. Rather than forget passively,
then, the brain
seems to shed memories actively. Sleep also helps guide memories
intended to be
retained down particular paths-remembering patterns, for example, as
opposed to
facts. In two other studies the reviewers examined, some 15-month-old
babies
had been exposed to patterns of fake grammar in which the first
syllable of a
nonsensical word predicted the last. Only those who napped within four
hours
were able to recognise the pattern later that day or the next. The paper
by
Dr Walker and Dr Mander looked further into the matter of forgetting,
by
comparing the process in the young and the old. Eighteen people in
their teens
and 20s, and 15 in their 60s and 70S, were taught nonsensical word
pairs,
tested on them almost immediately, and then tested again after a
night's sleep.
The oldsters scored worse than the youngsters in the immediate test,
which was
no surprise. What was notable was that, after sleep, oldsters' brains
seemed to
retain even less material than youngsters'. Those who retained the
least had
slept less deeply. This poor sleep, in turn, was linked to the
shrinking of
part of their brain, brought on by ageing. Old people do not, of
course, need
to remember as much new material as the young do, because they are
already
familiar with so much of what they experience. So it may be that their
inability to form new memories is not a bug, but a feature.
In Borges's
story that matter is never put to the test. Ireneo Funes dies at the
age of 21
.+
The
Economist 2, Feb, 2013
Note: Bài viết
nào của The Economist - dù là 1 bài khoa học như bài này, cũng
bắt đầu bằng
1 hình ảnh, trích dẫn, giai thoại…. văn học!
Nhân vật của Borges đếch
quên cái gì hết nhưng với điều kiện khiến anh ta không
thể phân tích sự kiện The memory is an
evolved
structure with a job to do: Hồi nhớ là 1 cấu trúc tiến hóa với 1
“job” để
mà làm!
Cả hai câu trên đều áp dụng ngay bong vào trường hợp tà lọt Osin!
“Đại tự sự”,
“khẩu sử” cái con khỉ!
Hà, hà!
Dốt quá,
không phân tích
được sự kiện. Thiếu tầm nhìn, vision, tư cách, đạo
hạnh số không - thì vụ HA đó - vậy mà đòi vô địa ngục VC!
Beckett,
portrait
HOW BECKETT
DID IT
Strong
Points
(1) First lines.
From his earliest novel,
"Murphy" (1938), Beckett set his own tone: "The sun shone,
having no alternative, on the nothing new." (2) Pauses. Without
Beckett,
Pinter could never have created his sinister tension. He marks the
silences as
"[Pause]" or "[Silence]", each becoming something palpable.
(3) Compassion. Within these grey landscapes, his characters flicker
with
warmth – even if it is just Estragon and Vladimir looking on in
helpless horror
at Lucky’s enslavement by Pozzo.
Những điểm mạnh
1. Những dòng đầu.
Từ cuốn tiểu
thuyết đầu tay, “Murphy”, ông đã vạch ra, đặt để, đóng dấu… giọng văn
riêng của
mình:
“Mặt trời chiếu, đâu có cách nào khác, về cái chuyện chẳng có gì
mới”.
2. Những đoạn
ngưng. Không có Beckett, [nhà soạn kịch, Nobel văn chương, người Anh]
Pinter không
thể nào, chẳng bao giờ có được cái sức căng thẳng nham hiểm, quỉ quái
của mình.
Beckett điểm những cú lặng như
“[Ngưng]”, “[Im lặng]”, mỗi cú trở thành một cái gì có thể vỗ vỗ, sờ sờ
được.
3. Lòng cảm
thông. Với quang cảnh kịch xám xịt như thế, những nhân vật của ông long
lanh, óng
ánh sự ấm áp – ngay cả nếu chỉ có, nếu chỉ còn có thế: Estragon và
Vladimir nhìn một cách ghê rợn, tên chủ Pozzo hành hạ gã tà lọt Lucky.
Golden Rule
Never to
compromise. Estragon’s trousers have to fall all the way down at the
end of
"Godot". The action and dialogue of "Play" has to be
repeated, by actors who are up to their necks in urns. Whole novels can
go by
without a paragraph break. Both his novels and plays require
concentration, and
a stomach for repetition. But they reward the persistent
Luật Vàng
Không bao giờ,
chớ khi nào thỏa hiệp, cấm cái trò ông mất “củ” kia, thì bà chìa “của”
nọ. Quần Estragon tụt
dài dài, tụt suốt, cho tới khi chấm dứt “Godot”.
Hành động và đối thoại của “Play” phải lập lại, bởi những nghệ
sĩ, diễn
viên mà tro than [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo] ngập tới tận cổ. Trọn những
cuốn tiểu
thuyết cứ thế mà đi, đếch cần 1 đoạn ngưng, nghỉ, gẫy. Cả kịch lẫn tiểu
thuyết
của Beckett đòi sự chú tâm, xoáy vô, chốt vô… và 1 cái dạ
dày, cho sự
lập lại.
Nhưng thật xứng đáng, chúng ban thưởng cho chúng ta, sự khăng khăng, cố
chấp, “thua, thua nữa, thua cho bảnh!”
Đừng thành công,
Alain phán, là vậy!
Trên Người
Kinh Tế có bài viết về kịch Pinter,
thật tuyệt. Và 1 bài nữa, cũng về “hồi nhớ”, cũng thật tuyệt; cả hai 1
cách nào,
liên quan tới “hồi nhớ và lịch sử”, tức đề tài của “Bên Thắng Nhục”
Harold
Pinter’s “Old Times”
Ah yes, I
remember it well
A mysterious
play about the tricks of memory returns to London
Memory
Remember, remember
New
understanding is emerging of memory and forgetfulness
IRENEO
FUNES,
a character in a story by Jorge Luis Borges, has a strange affliction. He forgets nothing, a condition that makes
him incapable of analytical thought. Fiction, of course. But it
emphasizes a
point. The memory is an evolved
structure with a job to do. That job is to preserve its owner and help
him or
her reproduce. Perfection is not required, only adequacy. Indeed,
selective
forgetting of the useless is as important as selective remembering of
the
useful. And much of this winnowing takes place during sleep, as two
papers in
this week's Nature Neuroscience observe. One of these papers is a
review of
previous work, by Robert Stickgold of Harvard University and Matthew
Walker of
the University of California, Berkeley. They propose that the process
of sleep
acts as a form of triage-first choosing what to retain, and then
selecting how
it will be retained. The other paper, by Dr Walker and his colleague
Bryce
Mander, ompares the process in the young and the old. One of the
studies Dr
Stickgold and Dr Walker examine in their review (a study which was, as
it
happens, led by Dr Walker) found that sleep does indeed help people
discard
information they have been told to forget. The more frequently someone
experiences waves of brain activity known as sleep spindles, the more
his brain
scraps items that it is supposed to. Rather than forget passively,
then, the brain
seems to shed memories actively. Sleep also helps guide memories
intended to be
retained down particular paths-remembering patterns, for example, as
opposed to
facts. In two other studies the reviewers examined, some 15-month-old
babies
had been exposed to patterns of fake grammar in which the first
syllable of a
nonsensical word predicted the last. Only those who napped within four
hours
were able to recognise the pattern later that day or the next. The paper
by
Dr Walker and Dr Mander looked further into the matter of forgetting,
by
comparing the process in the young and the old. Eighteen people in
their teens
and 20s, and 15 in their 60s and 70S, were taught nonsensical word
pairs,
tested on them almost immediately, and then tested again after a
night's sleep.
The oldsters scored worse than the youngsters in the immediate test,
which was
no surprise. What was notable was that, after sleep, oldsters' brains
seemed to
retain even less material than youngsters'. Those who retained the
least had
slept less deeply. This poor sleep, in turn, was linked to the
shrinking of
part of their brain, brought on by ageing. Old people do not, of
course, need
to remember as much new material as the young do, because they are
already
familiar with so much of what they experience. So it may be that their
inability to form new memories is not a bug, but a feature.
In Borges's
story that matter is never put to the test. Ireneo Funes dies at the
age of 21
.+
The
Economist 2, Feb, 2013
Note: Bài viết
nào của The Economist - dù là 1 bài khoa học như bài này, cũng
bắt đầu bằng
1 hình ảnh, trích dẫn, giai thoại…. văn học!
Nhân vật của Borges đếch
quên cái gì hết nhưng với điều kiện khiến anh ta không
thể phân tích sự kiện The memory is an
evolved
structure with a job to do: Hồi nhớ là 1 cấu trúc tiến hóa với 1
“job” để
mà làm!
Cả hai câu trên đều áp dụng ngay bong vào trường hợp tà lọt Osin!
“Đại tự sự”,
“khẩu sử” cái con khỉ!
Hà, hà!
Dốt quá,
không phân tích
được sự kiện. Thiếu tầm nhìn, vision, tư cách, đạo
hạnh số không - thì vụ HA đó - vậy mà đòi vô địa ngục VC!
Inge Israel
To think,
when one is no
longer
young, when one is not yet
old, that
one is no longer young,
that one is
not yet old, that is
perhaps
something.
- SAMUEL
BECKETT
Thoughts are
the shadows
of our
feelings - always
darker,
emptier, and simpler.
- FRIEDRICH
NIETZSCHE
HOW BECKETT
DID IT
Key Decision
To
write in French. This enabled him to find his starkness – to
shed his "Anglo-Irish exuberance" and the lyrical influence of Joyce
("I vow I will get over J.J. ere I die. Yessir", he had scrawled in a
letter). From 1939, he wrote mostly in painstaking French, then
translated into
"queer English" to create the bleached voices that make his work
unmistakable.
Quyết định thần sầu.
Viết văn bằng tiếng Tẩy.
Nhờ vậy ông
tìm ra quái chiêu của riêng ông, his starkness [tính đẩy đến tận cùng 1
cái gì đó,
thí dụ, “fail, fail again, fail better”, thua, thua nữa, thua cho bảnh!
Hay
ngay cái câu được Israel trích dẫn, trên:
[Nghĩ, khi
người ta không còn trẻ nữa,
khi người ta chưa già,
khi người ta không còn trẻ nữa
khi người ta chưa già,
có lẽ là 1 điều gì đó]
[Tư tưởng là
những cái bóng của những cảm nghĩ của chúng ta -
luôn sẫm hơn, rỗng hơn, và đơn giản hơn. Nietzsche]
Và nhờ vậy còn rũ bỏ
được sự rườm rà thừa thãi của thứ tiếng Anh Ái Nhĩ Lan, và ảnh hưởng
của Joyce
[Tớ thề làm thịt Joyce trước khi chết, Vâng thưa Ngài, ông đã từng
nguệch ngoạc
như thế trong 1 bức thư].
Từ 1939 ông viết chủ yếu là bằng tiếng Tẩy rồi
dịch qua tiếng Anh, 1 thứ tiếng Anh "quai quái", để sáng tạo ra những
giọng nói được
tẩy trắng xóa, khiến tác phẩm của ông trở thành “không thể có lỗi”.
Samuel
Beckett, một thoảng nhớ...
Khi tôi rời
Sam lần chót, tôi biết là chẳng còn hy vọng gặp 1 ông Beckett còn sống
nữa. Tôi loay hoay
sắp xếp đời mình, để có thể trở lại Paris, kế cận ông chừng sáu tuần,
bắt đầu vào
tháng Giêng. Tôi “coi thường” cát lầy, tính sai chừng 1 tháng.
Nói 1 cái gì
đó về ông, rồi cát lầy mặc mẹ cát lầy.
Điều mà Beckett nói về Joyce sau cùng đúng
là điều tôi nói về Beckett:
“Ông chẳng bao giờ viết về điều gì. Ông luôn viết điều
gì”.
Tôi lo là, mọi
người sẽ thổi ông, gọi ông là “Thánh Sam”, và nếu như thế, họ sẽ bỏ qua
một sự
thực quan trọng nhất, hiển nhiên nhất: Với cuộc đời của mình, Mr.
Beckett [thì cũng giống như Mr. Tin Văn] chứng tỏ, ngay cả ở trong cái
thế kỷ khốn
kiếp, tồi bại, là thế kỷ của riêng lũ chúng ta, với một nhà văn, thì
sau cùng vẫn
khả hữu điều này: Sống, và làm việc với 1 sự cẩn trọng lớn, một sự trau
chút lớn,
và một sự toàn vẹn lớn.
Đó là điều mà Samuel Beckett có thể: Không phải một vì
thánh - ở vào những lúc chẳng ra cái chó gì – not even totally tasteful
– nhưng
vẫn luôn luôn, hoài hoài, là 1 nghệ sĩ: giọng trong sáng, đảm trách,
thẳng 1 dòng
với cái đẹp nhất.
Và với nghĩa cả,
good cause.
Chung quanh ông, phẩm chất của Cuộc Đời thì thối tha, ghê tởm, và
phẩm chất của Cái Chết, thì là một giải pháp thay thế nó, đếch làm sao
mà hài lòng,
thỏa mãn.
ISRAEL
HOROVITZ
The Paris
Review Spring 1997: Theater
Beckett,
portrait
Samuel
Beckett, một thoảng nhớ...
Mr. Beckett
đã chết. Vậy thì Paris, cũng thế. Tôi nghe người ta nói ông chết tối thứ Sáu tuần rồi. Vậy thì là, tất cả những người
hùng của tôi đã chết, kể từ tối thứ Sáu tuần rồi.
Tếu thật, cuộc
đời bám dính lấy ông, tới 83 và 3/4 năm lận. Khi ông nói với tôi, ông
rụng
răng, tôi lớ ngớ buông sảng một câu: "Vậy là mệt lắm đấy".
Ông quạt lại
liền: "Có cái gì tệ mà không biến thành hại? Đâu có giới hạn những điều
xấu
xa trở thành tồi tệ hơn". Thế là cả
hai đứa chúng tôi cười đến vãi đái ra.
Mr. Beckett
biết chọc quê. Lần đầu tiên gặp Gill, bà xã tôi, ông kêu một ly đúp.
"Phải
ly đúp mới được. Lóng rày, không làm sao kiếm một ly cho ra hồn".
Vào khoảng đầu
thập niên 1970, tôi ở Paris với một người bạn là Jean-Paul Delamorte,
một tiểu
thuyết gia hụt, a romacier manqué.
Lindon (bên tạp chí Nửa Đêm, Minuit)
vừa mới
cho ra lò những bài viết mới nhất của Beckett, bằng tiếng Pháp, nhan đề
là Foirade, Foirade, Foirade I, Foirade II. Vì
có hẹn khuya này uống một
"tăng" với ông, tôi hỏi Jean-Paul foirade thực sự nghĩa là gì.
Jean-Paul
hèm lên hèm xuống, chẳng giống một con giáp nào hết. "Foirade thực ra
là... ơ hơ... đúng rồi, disgusting"
.
Khi tôi lập
lại với Beckett, ông đỏ mặt tía tai: "Disgusting?!
Đúng là lố bịch!".
Nơi chốn:
Chúng tôi đang ngồi tại La Closerie des Lilas, một tiệm ăn vốn là nơi
tụ tập
đàn đúm của đám viết lách vào thập niên 1930. Mấy ngày trước khi giải
phẫu cườm
mắt, Beckett đeo cặp kính dầy như đít
chai Coke. Tướng tá nhà văn lớn Samuel Beckett chẳng cách nào giấu nổi.
Vừa ló
đầu vô, bị thiên hạ chiếu tướng liền. Cứ mỗi lần mở miệng, bằng ấy cái
tay ngừng
đớp hít, bằng ấy cái tai nhỏng lên. Beckett, như mù dở với hai cái đít
chai Cô
ca Cô la, chẳng hề hấn gì với ba trò hóng chuyện đó.
Ông giải
thích, về phản ứng của ông, với từ "disgusting"
của Jean-Paul, bằng
cách chứng tỏ, ông đã "chọn từ foirade
một cách hết sức là nghiêm túc", và ông đang "động não" cố tìm
ra một từ tiếng Anh hoàn toàn xứng hợp với nó.
"Foirade:
disgusting? Thật là hoàn toàn vô nghĩa! Une
Foirade là một sự thất bại thảm thương... Một điều gì người ta toan
tính,
nhưng toan tính này thật ra chỉ là một sự thất bại, tuy nhiên vẫn phải
toan
tính, bởi vì thật xứng đáng, không thể chối cãi được... vậy đó, một "thất bại mếu" (a lamentable
failure).
Tới đây,
hình như mọi thực khách trong tiệm ăn đều dướn người về phía chúng tôi,
như muốn
nuốt lấy từng lời vọt ra khỏi miệng Beckett. Và nhà văn của chúng ta
thêm vô,
kèm nụ cười rất ư là "bỏ đi": "Lẽ dĩ nhiên, foirade còn có nghĩa
là phát rắm ướt !
(Mấy tháng
sau đó, trong một tiệm sách ở New York, tôi nhìn thấy ấn bản tiếng Anh
của Foirades. Tên
tiếng Anh: Fizzles).
Giữa đông,
giữa năm 1973, lạnh cứng người, cô đơn, túi thủng, tôi đành phải làm
cái trò đọc
thơ, vào lúc tám giờ tối, tại Trung Tâm Văn Hóa Mỹ ở con phố Dragon....
với cái
giá năm chục đô. Tôi có cái uống với Beckett vào lúc bẩy giờ. Tôi đâu
dám xì ra
cái chuyện đọc thơ, bởi vì:
1.
Tôi nghĩ ông chẳng ưa cái chuyện đọc thơ
trước công chúng, cho dù phải cạp đất.
2. Ông gần như chẳng bao giờ
làm chuyện đó.
Trong lúc cà
kê, ông có vẻ đâu đâu. Dưng không, ông nói: "Bạn đọc thơ, phải
không?" Tôi chới với, làm sao ông biết? Rồi ông thêm: "Chắc mong bạn
bè tới đông, hẻ?". Hiển nhiên, tôi làm ông đau, khi không mời. Vậy là
tôi
đã làm ông đau, bực thiệt! Ông nói, như cho tôi đỡ đau: "Không, cám ơn
bạn,
tôi không bao giờ tới với những chuyện đó".
Rồi thì ông
yêu cầu tôi đọc một bài thơ, của tôi, cho ông nghe. Nhột quá, tôi bảo
ông, cái
giá năm mươi đô là ổn, đối với tôi. Ông bật cười, tuy nhiên vẫn bắt tôi
đọc thơ
cho bằng được. Thơ đọc thầm lén mà! Thế là tôi ư ử, bài "Trên Đại Lộ
Raspail":
How easily
our only smile smiles.
We will
never agree or disagree.
The pretty
girl is perfected in her passing.
Our love
lives within the space of a quietly closing door. (1)
Ông chăm
chú
nghe, mắt nhắm tít. "Được! Được!", ông nói.
"Ồ,
c...! " Tôi bật lên. Ông mở choàng mắt, và tôi tự giải thích:
"Tớ ăn
cắp của bạn!"
"Không,
không. Tôi chưa hề nghe nó trong đời..."
"Không,
không, của bạn! Bài 'Dieppe'..., bạn chấm
dứt với 'the space of a door that
opens and shuts'
"Ô!
Đúng thế thực." Nhưng rồi, bỗng
nhiên, ông thêm vô: "Ô, c...!"
"Chuyện
gì nữa, hả?", tôi hỏi.
"Tôi
chôm của Dante, chính tôi! (me-self)."
Về cái chuyện
sống, Sam đặt cho mình 1 kỷ luật nghiêm ngặt. Một tối, hai đứa chúng
tôi có hẹn
nhậu, liền sau khi Gill và tôi lấy nhau, em lần đầu, còn tôi, một, hai,
ba, lần
thứ ba.
Một vợ là đủ
rồi. Ông gật gù, lèm bèm. Đó là tất cả những gì mà 1 người đàn ông cần
có.
Yeats một, và chỉ một mà thôi, như thằng cha GCC. Joyce thì cũng thế. –
Tôi
cũng sẽ chỉ có thế.
Sam có những
người hùng của ông… và tôi nghĩ tôi chẳng bao giờ được kể như 1 trong
số đó.
Những hồi ức
quan trọng nhất của tôi về Beckett thì không phải về 1 nhà văn thần
sầu, số
dách, tuyệt cú mèo nhưng mà là một người
bạn thần sầu. Tôi biết đến
ông, là
qua những gì ông viết, nhưng
liền đó, với
tôi, ông trở thành một trong số ít ỏi, mà chúng ta cẩn thận chọn, ngược
hẳn ý
bà mẹ, để phục vụ, như là ông via của mình.
Lần gặp
chót, cách đây chừng vài tháng, thì ông mỏng và trong suốt như... 1 anh VC nằm dưới hố được tụi Ngụy lôi lên!
Ông sống
trong 1 phòng của 1 cái nhà dành cho đám người già ở đường
Remy-Dumonce, chỉ
cách nhà của vị bác sĩ "môi hở răng lạnh" của ông chừng vài nhà. Tôi
sững sờ khi nhận ra, ông sống y chang 1 nhân vật do ông phịa ra. Để tới
được
căn phòng của ông, người ta phải đi qua 1 cái gì được gọi như là "phòng
giải
trí" của người già. Chừng một, hoặc hai tá ông già bà lão Tẩy ngồi một
dọc,
giống như đám chim sẻ trên sợi dây điện, coi 1 màn ca hát nhảy múa thật
là cà
chớn, của một người đàn ông trên màn hình của 1 cái TV đen trắng, ở xứ
Bắc Kít,
khi chưa giải phóng được Miền Nam để… nhận
hàng, dù là bơ thừa phó mát cặn Yankee mũi lõ bỏ lại. Tôi nhảy bổ vào
giấc mơ
chiến thắng Miền Nam của đám già đang chia sẻ cho nhau này, và hỏi
phòng của bạn
quí của tớ ở chỗ nào. Có vẻ như chẳng có ai biết ông. Tôi kiếm văn
phòng của
“viện dưỡng lão”, và sau đó, được dẫn qua một cái sân nhỏ ở đằng sau
khu nhà,
và tôi nhìn thấy một căn phòng nhỏ xíu, ở tầng chệt, màn cửa sổ ấp ló.
Beckett ở
trong phòng, mặc 1 cái áo cũ te tua, làm việc với cây viết và mực, tại
1 cái
bàn [loại bàn thường dùng để chơi bài bridge].
Tôi đột
nhiên đứng sững, lơ láo nhìn, nhớ lại cú sốc của Beckett, lần ông khám
phá ra,
tôi đếch biết “Dong buồm tới [Sailing to] Byzantium” của Yeats.
Đêm đó, trước
khi rời cái bàn, bài thơ của Yeats chạy từ hồi ức của Mr Beckett qua
hồi ức của
tôi, cùng với 1 cái ghi chú nho nhỏ, có tính khoa bảng, của sự cẩn
trọng, của
Sam: "Tôi thực sự không hoàn toàn gật đầu hài lòng, ở cái phần “linh
hồn vỗ
tay” của bài thơ!"
Căn phòng
sau cùng của Samuel Beckett thì xác xơ, nhỏ xíu, và buồn bã: một cái
giường một
cái bàn bridge, và một cái ghế bàn ăn, một cái TV “cho những sự kiện
thể thao”,
Giống 1 phòng nhà tù, thấy sao thấm thía, và cái phản ứng liền tù tì
của tôi, là
ôm ông lên, rồi bỏ chạy ra khỏi căn phòng, ra khỏi lúc này, trở về 1
khúc nào đó
của thời đã qua. Phải cỡ chừng một năm trời thì tôi mới quen nổi với
cảm giác
thôi đành chịu như thế, đành để ông ở đó, đành chấp nhận đó là sự chọn
lựa của ông.
Hai chúng tôi
nói chuyện vài tiếng đồng hồ. Ông hỏi tôi về mấy đứa nhỏ, về công việc
của tôi,
về những cuốc chạy marathon của Gill, bà xã tôi, tôi có cần tiền không,
hay là
tôi OK?
Đến lượt tôi.
Tôi hỏi về tình trạng sức khỏe của ông. Ông rành căn bịnh đặc biệt của
mình, giải
thích những cơ chế của nó như 1 khoa học gia. Não của ông, máu luân lưu
không đủ,
không đúng điệu. Nhưng khi ông chi ly về cái cảm giác, sensation,
[“xăng xa xườn”,
Gấu Cà Chớn phiên âm theo kiểu “phiện thú lắm”, “yên sĩ phi lý thuần”,
inspiration] - về vấn đề căn bịnh nó hành ông như thế trong cơ thể đặc
biệt
của mình, thì lúc đó, ông là quả là cả 1 nhà văn, all writer: cô đọng,
sáng sủa một cách
rất là nghệ thuật, succinct and artfully clear:
“Tớ ở trong Cát Lầy của
TTT”,
"I
am standing in quicksand."
Khi tôi rời
Sam lần chót, tôi biết là chẳng còn hy vọng gặp 1 ông Beckett còn sống
nữa. Tôi loay hoay
sắp xếp đời mình, để có thể trở lại Paris, kế cận ông chừng sáu tuần,
bắt đầu vào
tháng Giêng. Tôi “coi thường” cát lầy, tính sai chừng 1 tháng.
Nói 1 cái gì
đó về ông, rồi cát lầy mặc mẹ cát lầy.
Điều mà Beckett nói về Joyce sau cùng đúng
là điều tôi nói về Beckett:
“Ông chẳng bao giờ viết về điều gì. Ông luôn viết điều
gì”.
Tôi lo là, mọi
người sẽ thổi ông, gọi ông là “Thánh Sam”, và nếu như thế, họ sẽ bỏ qua
một sự
thực quan trọng nhất, hiển nhiên nhất: Với cuộc đời của mình, Mr.
Beckett [thì cũng giống như Mr. Tin Văn] chứng tỏ, ngay cả ở trong cái
thế kỷ khốn
kiếp, tồi bại, là thế kỷ của riêng lũ chúng ta, với một nhà văn, thì
sau cùng vẫn
khả hữu điều này: Sống, và làm việc với 1 sự cẩn trọng lớn, một sự trau
chút lớn,
và một sự toàn vẹn lớn.
Đó là điều mà Samuel Beckett có thể: Không phải một vì
thánh - ở vào những lúc chẳng ra cái chó gì – not even totally tasteful
– nhưng
vẫn luôn luôn, hoài hoài, là 1 nghệ sĩ: giọng trong sáng, đảm trách,
thẳng 1 dòng
với cái đẹp nhất.
Và với nghĩa cả,
good cause.
Chung quanh ông, phẩm chất của Cuộc Đời thì thối tha, ghê tởm, và
phẩm chất của Cái Chết, thì là một giải pháp thay thế nó, đếch làm sao
mà hài lòng,
thỏa mãn.
ISRAEL
HOROVITZ
The Paris
Review Spring 1997: Theater
Một cuộc gặp
gỡ
Barney
Rosset, người sáng lập nhà xb Grove Press
vào đầu thập niên 1950, và tờ báo văn học chính trị The
Evergreen Review (cả hai đã xb những tác phẩm đầu tay của
Beckett)
Phỏng vấn viên
[The Paris Review, số Mùa Đông
1995]:
Đúng là ông đã
từng chơi bóng bàn với Samuel Beckett?
Barney Rosset:
Ông ta biết
tôi chơi bóng bàn, Ping-Pong, hay nói đúng hơn, table tennis, và rất
cừ. Có lẽ
tôi nói với ông. Gì thì gì, một bữa chúng tôi mò tới Đại lộ St.
Germains kiếm chỗ
chơi. Không kiếm ra. Sau cùng chúng
tôi ngã vô 1 tiệm bi da ở góc phố St. Germain và Đại lộ St, Michel.
Trên tầng
nhì. Tôi chơi pool, nhưng
không biết chơi bi da. Bi da là nghiệp lớn
(big
things) của Beckett. Ông vui vẻ chỉ tôi cách chơi nhưng đúng là 1 thảm
họa.
Thế tháo gia
kiểu nào, Mr. Beckett, theo ông?
Ông là 1 nhà
điền kinh bảnh. Tôi có những bức hình khi ông là thành viên của nhóm
chơi
cricket khi học prep school. Vào thập niên 1950, mắt bị cườm, ông đi
đứng loạng
quạng, thiên hạ bèn phán, ông xỉn. Họ nói chắc như bắp, coi kìa, ông ta
tới chỉ
rồi. Sau cùng ông trải qua 1 cuộc giải phẫu OK.
Ông ta có mê
thể thao và tỏ ra hào hứng với chúng?
Ông ta đúng
ta 1 tay chịu chơi, a great enthusiast. Tôi nhớ lần đi coi Pháp Quốc Mở
Rộng,
Roland Garros, gặp đúng 1 trận kinh thiên động địa, thật đã con mắt –
bán kết
giữa Lew Hoad và Pancho Gonzales. Umpire [trọng tài chính] là một tay
Basque,
Beckett quen, khi chúng tôi đi vô, hai tướng vui vẻ chiếu tướng lẫn
nhau. Tới 1
điểm [point] Gonzales tỏ ra rất bực umpire, bèn quăng vợt, và phán,
đếch chơi nữa,
nếu không tống cổ thằng cha umpire ra ngoài sân.
Họ làm như vậy, và tay
umpire
bèn đi ra, và trước khi ra, giơ tay vẫy Beckett.
Bạn cứ thử nghĩ coi, vào trường
hợp quê đến như thế, nếu là bạn, bạn có vẫy tay [với Gấu Cà Chớn]
không, hà hà?
Ờ mà dân thể
thao nhiều người biết Beckett. Một nơi ông rất khoái ngồi là
bar/restaurant gọi
là Ile de Matisse, bán đồ biển, với
những bức hình thể thao gia trên tường. Hình Beckett ngay kế Sugar Ray
Robinson.
Ông có bao
giờ đâu với ông ta, trong món gì khác không?
Ông có dạy tôi
chơi cờ, món này ông cũng bảnh lắm. Ông chơi cờ với bạn bè qua thư từ -
ở Nam Tư, Đức. Ông thất bại thảm thương
khi dạy tôi
chơi cờ cũng như bida.
Tuy vậy, sau
cùng, ông đã chơi Ping-Pong.
Beckett kiếm
ra 1 nơi có bàn Ping-Pong. Một cái quán gần nhà ông ở bên ngoài Paris.
Chúng tôi
ra đó trên chiếc Citroen hai ngựa của ông,
ông lái, và tất nhiên, ông không thể nhìn. Đâu khác gì ở trong 1 cuốn
tiểu thuyết
của Beckett.
Kết quả sao?
Tôi chơi
Ping-Pong bảnh hơn ông ta. Trước tiên, tôi có thể nhìn, và thú thực,
món banh bàn
tôi thuộc loại khá. Tôi thường chơi nó.
Tại sao ông
lại nghĩ là Beckett rất anxious với việc chơi Ping-Pong, nếu ông ta
biết ông chơi bảnh như thế?
Tôi nghĩ, ông
ta muốn kiếm ra 1 trò mà tôi có thể thực sự chơi, bởi vì với cờ và
bida, ông ta
thắng tôi không còn một manh giáp. Như thế nhục nhã quá, và ông muốn
tôi cảm thấy
thoải mái 1 tí, sau thảm họa.
Khi ông ta
thua, thì phản ứng của ông ta ra sao.
Thì cũng giống
như khi ông ta thắng, ở môn bida. Beckett là 1 vì quân tử. Tôi nghĩ, có
thể người
ta phịa ra từ này là để cho ông - một con người dịu dàng, dễ thương,
gentle,
sweet, nhưng với một vài người, thì họ nghĩ, là ông khó chơi, bởi vì
ông chẳng
bao giờ nói bất cứ cái gì. Beckett là một người rất chịu nghe, an
intense listener.
Ông ta lắng nghe bạn như thể bạn là người độc nhất ở trên đời này. Với
mỗi con
người, ông là kẻ yêu người sâu thẳm, a deep lover. Đôi khi, chuyện trở
nên hỏng
cẳng, nhất là với những người không biết ông. Richard Avedon, tôi nhớ,
đã phát điên
lên được, khi nghĩ là Beckett tỏ ra thù nghịch với ông ta. Trong cơn
khùng điên
ba trợn, ông ta bèn lảm nhảm kể những câu chuyện ba trợn khùng điên về
chuyện
chụp hình rắn ở Texas. Ông ta lảm nhảm, lèm bèm, Beckett ngồi chăm chú
nghe, cùng
với tôi, và hai đứa nhỏ con của tôi. Avedon bị upset, rất upset.
Ấy đấy, đời là
như thế vậy, chán thế đấy.
George
Plimpton
New York
City
October 28,
1995
The Paris Review,
Winter 1995
Cái đoạn,
cái
tay Israel Horovitz, trong The Paris
Review,
Mùa Xuân 1997, kể về những ngày cuối cùng của Beckett mới thê lương.
TV đã dịch
phần đầu, với cái tên "Beckett, một thoáng nhớ".
Tính bỏ phần sau, nhưng nghĩ lại,
tại làm sao mà bỏ?
Chết cũng đâu gì là khổ, sống chắc đã lấy gì mà vui, hà hà!
Samuel Beckett, một thoảng
nhớ...
Mr.
Beckett đã chết. Vậy thì Paris, cũng thế. Tôi nghe người ta nói ông
chết tối thứ Sáu tuần rồi. Vậy thì là, tất cả những người hùng
của tôi đã chết, kể từ tối thứ Sáu tuần rồi.
Tếu thật, cuộc
đời bám dính lấy ông, tới 83 và 3/4 năm lận. Khi ông nói với tôi, ông
rụng răng, tôi lớ ngớ buông sảng một câu: "Vậy là mệt lắm đấy".
Ông quạt lại
liền: "Có cái gì tệ mà không biến thành hại? Đâu có giới hạn những điều
xấu xa trở thành tồi tệ hơn". Thế là cả hai đứa chúng tôi cười
đến vãi đái ra.
Mr. Beckett
biết chọc quê. Lần đầu tiên gặp Gill, bà xã tôi, ông kêu một ly đúp.
"Phải ly đúp mới được. Lóng rày, không làm sao kiếm một ly cho ra hồn".
Vào khoảng đầu
thập niên 1970, tôi ở Paris với một người bạn là Jean-Paul Delamorte,
một tiểu thuyết gia hụt, a romacier manqué. Lindon (bên tạp chí Nửa
Đêm, Minuit) vừa mới cho ra lò những bài viết mới nhất của Beckett,
bằng tiếng Pháp, nhan đề là Foirade, Foirade, Foirade I, Foirade II. Vì
có hẹn khuya này uống một "tăng" với ông, tôi hỏi Jean-Paul foirade
thực sự nghĩa là gì.
Jean-Paul hèm
lên hèm xuống, chẳng giống một con giáp nào hết. "Foirade thực ra
là... ơ hơ... đúng rồi, disgusting" .
Khi tôi lập
lại với Beckett, ông đỏ mặt tía tai: "Disgusting?! Đúng là lố bịch!".
Nơi chốn:
Chúng tôi đang ngồi tại La Closerie des Lilas, một tiệm ăn vốn là nơi
tụ tập đàn đúm của đám viết lách vào thập niên 1930. Mấy ngày trước khi
giải phẫu cườm mắt, Beckett đeo cặp kính dầy như đít chai Coke.
Tướng tá nhà văn lớn Samuel Beckett chẳng cách nào giấu nổi. Vừa ló đầu
vô, bị thiên hạ chiếu tướng liền. Cứ mỗi lần mở miệng, bằng ấy cái tay
ngừng đớp hít, bằng ấy cái tai nhỏng lên. Beckett, như mù dở với hai
cái đít chai Cô ca Cô la, chẳng hề hấn gì với ba trò hóng chuyện đó.
Ông giải
thích, về phản ứng của ông, với từ "disgusting" của Jean-Paul, bằng
cách chứng tỏ, ông đã "chọn từ foirade một cách hết sức là nghiêm túc",
và ông đang "động não" cố tìm ra một từ tiếng Anh hoàn toàn xứng hợp
với nó.
"Foirade:
disgusting? Thật là hoàn toàn vô nghĩa!. Une Foirade là một sự thất bại
thảm thương... Một điều gì người ta toan tính, nhưng toan tính này thật
ra chỉ là một sự thất bại, tuy nhiên vẫn phải toan tính, bởi vì thật
xứng đáng, không thể chối cãi được... vậy đó, một "thất bại mếu"
(a lamentable failure).
Tới đây, hình
như mọi thực khách trong tiệm ăn đều dướn người về phía chúng tôi, như
muốn nuốt lấy từng lời vọt ra khỏi miệng Beckett. Và nhà văn của chúng
ta thêm vô, kèm nụ cười rất ư là "bỏ đi": "Lẽ dĩ nhiên, foirade còn có
nghĩa là phát rắm ướt !
(Mấy tháng sau
đó, trong một tiệm sách ở New York, tôi nhìn thấy ấn bản tiếng Anh của
Foirades. Tên tiếng Anh: Fizzles).
Giữa đông,
giữa năm 1973, lạnh cứng người, cô đơn, túi thủng, tôi đành phải làm
cái trò đọc thơ, vào lúc tám giờ tối, tại Trung Tâm Văn Hóa Mỹ ở con
phố Dragon.... với cái giá năm chục đô. Tôi có cái uống với Beckett vào
lúc bẩy giờ. Tôi đâu dám xì ra cái chuyện đọc thơ, bởi vì:
1.
Tôi nghĩ ông chẳng ưa cái chuyện đọc thơ trước công chúng, cho dù phải
cạp đất.
2.
Ông gần như chẳng bao giờ làm chuyện đó.
Trong lúc cà
kê, ông có vẻ đâu đâu. Dưng không, ông nói: "Bạn đọc thơ, phải không?"
Tôi chới với, làm sao ông biết? Rồi ông thêm: "Chắc mong bạn bè tới
đông, hẻ?". Hiển nhiên, tôi làm ông đau, khi không mời. Vậy là tôi đã
làm ông đau, bực thiệt! Ông nói, như cho tôi đỡ đau: "Không, cám ơn
bạn, tôi không bao giờ tới với những chuyện đó".
Rồi thì ông
yêu cầu tôi đọc một bài thơ, của tôi, cho ông nghe. Nhột quá, tôi bảo
ông, cái giá năm mươi đô là ổn, đối với tôi. Ông bật cười, tuy nhiên
vẫn bắt tôi đọc thơ cho bằng được. Thơ đọc thầm lén mà! Thế là tôi ư ử,
bài "Trên Đại Lộ Raspail":
How
easily our only smile smiles.
We will never
agree or disagree.
The pretty
girl is perfected in her passing.
Our love lives
within the space of a quietly closing door .
Ông chăm chú
nghe, mắt nhắm tít. "Được! Được!", ông nói.
"Ồ, c...! "
Tôi bật lên. Ông mở choàng mắt, và tôi tự giải thích:
"Tớ ăn cắp của
bạn!"
"Không, không.
Tôi chưa hề nghe nó trong đời..."
"Không, không,
của bạn! Bài 'Dieppe'..., bạn chấm dứt với 'the space of a door
that opens and shuts'
"Ô! Đúng
thế thực." Nhưng rồi, bỗng nhiên, ông thêm vô: "Ô, c...!"
"Chuyện gì
nữa, hả?", tôi hỏi.
"Tôi chôm của
Dante, chính tôi! (me-self)."
(Theo bài viết
của Israel Horovitz, trong Tạp chí Paris, The Paris Revue, Mùa Xuân
1997).
Cali Nov
2012 With HA
I owe
everything to Suzanne. She hawked everything around trying to get
someone to
take all three books at the same time. That was a very pretentious
thing for an
unknown to want! She was the one who went to see the publishers while I
used to
sit in a cafe "twiddling my fingers" or whatever it is one twiddles.
Sometimes she only got as far as leaving the manuscripts with the
concierge;
she didn't see the publishers. It was the same with Roger Blin. She was
the one
who saw Blin and got him interested in Godot and Eleutheria. I keep out
of the
way.
Tôi nợ
Suzanne mọi điều mọi chuyện. Bà tìm đủ cách, quậy đủ đường, để kiếm cho
ra 1 kẻ
nào đó in cả ba cuốn 1 lúc. Một đã khó, làm sao cả ba, cùng 1 lần. Bà
là người đi
gặp những nhà xb trong lúc tôi ngồi quán cà phê “vặn vẹo mấy ngón tay”
hay vặn vẹo
bất cứ cái gì tay vớ được. Đôi khi bà gặp người gác cổng và nhờ
chuyển bản
thảo cho chủ nhà xb. Bà là người gặp Blin, và đề nghị ông ta quan tâm
đến Godot, và Eleutheria.
Người nhìn
ra trước mọi người về thiên tài Beckett, là Suzanne,
bà vợ của ông. Khi nghe tin chồng được
Nobel, bà than, thật là 1 thảm họa!
Bà biết quá
rõ, văn chương của chồng, không phải để gặt hái vinh quang!
Khi bà mất,
ông chồng viết về vợ:
I owe
everything to Suzanne. She hawked everything around trying to get
someone to
take all three books at the same time. That was a very pretentious
thing for an
unknown to want! She was the one who went to see the publishers while I
used to
sit in a cafe "twiddling my fingers" or whatever it is one twiddles.
Sometimes she only got as far as leaving the manuscripts with the
concierge;
she didn't see the publishers. It was the same with Roger Blin. She was
the one
who saw Blin and got him interested in Godot
and Eleutheria. I keep out of the
way.
[Tôi mà không
gặp ông này, là thành gái già, bà vợ của bạn Bạn nói về chồng!]
Niềm tin của
riêng bà vợ, Suzanne’s own faith, về giá trị của tác phẩm của Beckett
được củng
cố thêm lên, từ một số khuôn mặt nổi tiếng. Tristan Tzara là người đọc
Molloy,
và mê quá là mê…. Nhưng tin tưởng, cổ võ, thổi… là 1 chuyện, làm sao
cho có người
bỏ tiền in, lại là 1 chuyện khác. Bản thảo bị hết nhà xb này cho tới
nhà xb bản
khác từ chối, cho đến khi bà vợ quyết định - điều mà ông chồng gọi là
“last ditch
effort” [cố gắng chót, hơi thở chót trước khi ngỏm] - đưa cho Jérôme
Lindon, nhà
xb Nửa Đêm.
Why did
Beckett accept the Nobel Prize at all? Certainly not for the money,
since he
gave the sum of 375,000 kronor (worth at the time £30,000, or about
$45,000)
away very quickly. He arranged, for instance, for various payments to
be made
even before the money was transferred to France. One of the chief
beneficiaries
was the library of Trinity College, Dublin; this gift was a riposte,
surely, to
those who accused him of insulting his native country. Many individual
writers,
directors, and painters also benefited financially from the prize, the
money
arriving anonymously, although recipients could not fail to be aware of
the
source. One very real reason for Beckett accepting the Nobel Prize was
that he
did not wish to be publicly discourteous (Sartre had earlier caused
something
of a public scandal by turning it clown). Another was that he wanted
the publishers
who had shown faith in his work, especially in the early days, to be
rewarded
with an increase in the sale of his books. To turn the prize down would
also
have seemed unfair, and again, discourteous, to those who, since
Maurice Nadeau
and others had put his name forward twelve years before and regularly
proposed
him for the prize. But there had always been an unusual mixture of
perfectly
genuine humility and concealed pride in Beckett. He after all, invested
almost
everything in his work, knew what it had cost terms of effort and
sacrifice,
and could not lightly reject an his achievement at such a high level.
Nói cho
cùng, tại sao Beckett nhận Nobel văn chương, một khi vợ thì than, thảm
họa,
còn ông chồng, mệt quá, distressed. Chắc chắn đếch phải vì tiền,
bởi là vì
chưa nhận tiền thì ông đã xài hết số tiền đó, thật là mau lẹ, bằng cách
kín đáo
chuyển tới cho 1 số cơ quan, đoàn thể, hoặc cá nhân. Thư viện trường cũ
là
chính, để cảm ơn, tất nhiên, và cũng để trả lời những kẻ chửi ông phản
bội Đất
Mẹ [bỏ qua Tây, viết văn bằng tiếng Tẩy, thí dụ]. Một trong những lý do
chính
khiến ông đành nhận Nobel, là không muốn trở thành 1 xì căng đan giống
như trường
hợp của Sartre. Ngoài ra, cũng là 1 cách cám ơn những người đã tin
tưởng ở nơi ông,
những ngày đầu, dám bỏ tiền ra in sách của ông, nhờ giải Nobel sẽ bán
thêm được
sách, rồi những người năm nào cũng nhắc tới ông với Uỷ ban Nobel.
Nhưng luôn có
1 sự trộn lẫn không giống ai, ở trong cái sự gật đầu, cũng đành đó, 1
sự trộn lẫn
của 1 tâm hồn hết sức khiêm nhường, và 1 sự kiêu ngạo ngầm ở nơi ông.
Beckett
chứ đâu phải 1 tên cà chớn nào khác, đúng không, hà, hà!
Beckett, kẻ đầu tư
hầu như tất cả vào tác phẩm, đã chịu bao nhiêu đau thương, cay đắng… làm sao có thể vứt bỏ 1 sự thừa nhận, ở một đỉnh
cao chói lọi như là giải Nobel văn chương!
Ghi chú về 1
giọng văn
Emma Hogan viết
về người tái phát minh kịch, và rất hiếm coi kịch
“Chẳng có gì để làm” [Nothing to be done, Rien à faire],
câu bắt đầu kịch, và kịch bắt đầu thay đổi kịch [trò
chơi. Từ
“play”, trong tiếng Anh, vừa có nghĩa là kịch, vừa có nghĩa là chơi,
trò chơi.
GCC]. Khi nó được chơi lần đầu ở Paris, trước đây 60 năm, tác giả của
nó, một
anh cựu thầy giáo người Ái Nhĩ Lan, phân bua, claim - ngay cả khi ông
tái phát
minh cái hình thức được gọi là kịch đó, “Tôi chẳng có ý nghĩ gì về
kịch, tôi đếch
biết kịch là cái chó gì, và tôi chưa từng đi coi”.
Ai, còn ai nữa,
nếu không là Beckett: ông Trùm Hiện Đại, người rành nhiều thứ tiếng,
một gã hiện
sinh kỳ quặc, tiếu lâm, cà chớn. Sinh gần Dublin,1906, ông là 1 tay Thệ
Phản
khá giả, học tiếng Tây và tiếng Ý ở Trinity College, 1937 rời Ái Nhĩ
Lan và bà
mẹ đi Paris, sống ở đó đến khi chết vào năm 1989. Viết 32 kịch, một
phim (tên
phim là “Phim”), 8 tiểu thuyết, 17 tác phẩm văn xuôi khác, và một tập
[set] thơ.
Nhưng “Trong khi chờ Godot”, với 4 nhân vật, và 1 dàn dựng đơn giản
“Một con đường
quê. Một cái cây. Buổi chiều”, làm cho ông thành 1 người khổng lồ.
*
Trong ABC’s, Milosz kể, lần ông ngồi coi
trình diễn lần thứ nhất vở kịch Trong
Khi
Chờ Godot của Beckett, tại một rạp ở Paris. Thấy cả rạp cuời hô
hố trước cảnh
Pozzo hành hạ Lucky, tên hầu của anh ta, triết gia Lucien Goldmann,
ngồi cạnh
ông, đã tỏ ra phẫn nộ:
"Họ cười
cái gì? Những trại tập trung cải tạo, hử?" (1)
Nhưng 1 tay
phóng viên tờ The Paris Review
[số Mùa Thu, 1999] cũng đã hỏi nhà soạn kịch Mẽo, Arthur Miller, cũng
đề
tài trên:
Khán giả coi
"Cái chết của 1 tên bán hàng" [Dead
of a Salesman] của ông, khi ra khỏi rạp thì đều
khóc. Nếu có người hỏi họ, khi ở trong rạp, thấy họ cười hô hố, họ sẽ
chối. Vấn
đề là, tiếu lâm, cà chớn có phần ở trong đó [ở… Lò Thiêu thí dụ, NQT],
đúng
không?
Miller: Trọn
câu chuyện [the whole thing], thì rất buồn. Nhưng vấn đề là, tôi làm
nhiều cú
cười, I did a lot of laughing, khi tôi viết kịch. Bởi là vì một số ý
nghĩ của
Willy Loman thì rất phi lý, chửi bố lẫn nhau, self-contradictory, đến
nỗi bạn
phải bật cười. Khán giả thực sự đã làm như thế, nhưng nhờ ơn Trời, họ
không nhớ. Nếu nhớ thì họ đã không xúc động đến nỗi khóc ròng!
Cơ bản mà nói, đó là tiếng
cười của sự thừa nhận, the laughter of recognition. Tôi
tin như thế.
Đọc Bị Trời
Đọa Đầy Phải Vinh Quang Nổi Tiếng, Damned to Fame,
tiểu sử 800 trang của
Beckett, khúc “A Frenzy of Writing”, 1946-53, viết về thời kỳ ra đời
của
ba cuốn tiểu thuyết nhà xb Nửa Đêm in, Molly, Malone
Dies, và The Unnamble,
và Trong khi chờ Godot, mới bật cười
hô hố.
Tuyệt cú mèo.
Thần sầu. Ấy là nói về tại sao mà lại cười khi đọc/sống/viết về Lò
Thiêu, Lò Cải
Tạo!
Đọc Thảo Trường viết về Tù Cải Tạo mà không cười sao?
Lindon, chủ
nhà in Minuit kể:
Tôi về nhà để
ăn trưa, thấy bản thảo trên bàn của tay thư ký. Tôi hỏi, gì thế, anh ta
phán,
được, được lắm [thuổng cách nói của Mai Thảo], tuy anh ta chưa đọc. Tôi
kẹp Molly vào nách,
và trong khi đi métro đọc, và
tôi cười hô hố, sướng
điên lên được!
Mọi người nhìn tôi như 1 tên khùng...
I was going
home to lunch. I saw a manuscript on Georges Lambrichs' [who worked
with
Lindon] desk. Doubtless Suzanne had just brought
it in to
him. [In fact the book had been delivered by Robert Carlier.]?" I said
to
him "What is that?" And he said "I believe it's very good," though he
hadn't yet read it. I took it away, I took Molloy under my arm to go
for lunch
and in the Metro I started to read it. And as I changed trains at La
Motte-Piquet Grenelle, in the lift I burst into hoots of
laughter. And I thought "people are going to think I'm crazy"; then I
thought "I risk dropping the manuscript" (which wasn't stapled or
bound; it was in separate typed sheets). So I stopped reading,
naturally, and
stood with the manuscript behind my back ... and people looked at me as
I
carried on laughing like a fool. They couldn't understand why I was
laughing
since I was clearly doing nothing. Then I came
back to the office, finished reading the manuscript within the day and,
that same evening, wrote to Suzanne to tell her "Yes, I'll take the
book, there's no problem." And a few months later, I published Molloy.
Thú thực Gấu
mới đọc được Beckett, gần đây thôi.
Lạ nhất,
là khi ở Trại Tị Nạn Thái Lan, tình cờ vớ được Trong khi
chờ Godot, của 1 ông chẳng biết
1 tí tiếng ngoại.
Thì cũng đọc vậy, nhưng có thể đến bây giờ mới ngấm!
Nhưng nếu
không gặp được Faulkner thì không thể nào trở thành Gấu Nhà Văn được.
Không có Thầy
là đừng hòng viết.
Mít viết
lách, cứ hết thời thanh xuân là ngỏm, "chết non", chữ của TTT, chính
là do ông nào cũng nghĩ mình là bố chó xồm, tao mà cần thầy ư? Tao viết
cho
thiên hạ đọc rồi làm… đệ tử của tao, chứ không lẽ có người dậy được tao?
Gấu có lần đọc
1 bài, hình như của Pierre Assouline, trên tờ ML, viết về 1 lần ra
đường, gặp mấy
ông văn sĩ Tẩy, cũng toàn thứ dữ, nhìn thì thấy, ông thì đang đọc
Faulkner, ông
thì túi ló ra 1 cuốn của Faulkner!
Có lèm bèm
trên Tin Văn rồi mà kiếm hoài không thấy!
Cả cái hình
hách xì xằng của Faulkner, với 1 bầy chó săn dưới chân cũng mất tiêu!
Nhưng kiếm
ra đoạn này:
Lại nhớ tới...
Faulkner, và bài viết "Những cuộc đời của Faulkner", của Pierre
Assouline, trong đó, ông nhắc tới một câu của Nabokov: Tiểu sử nhà văn
là lịch
sử văn phong của người đó.
Ở đây, phải
đẩy câu phán của Nabokov đến tận cực điểm, và chúng ta thấy, thay vì
một văn
phong, thì là một "dòng sông, trong tất cả những trạng thái của nó",
"mượn" cái tít một bài viết, trong cùng số báo Le Magazine
Littéraire, số đặc biệt về Sex, Tháng Chạp 2007, có bài của
Pierre
Assouline về
Faulkner, đã dẫn.
La pluie
dans tous ses états
Martin Page,
khách mời trong tháng của tờ báo, điểm cuốn Từ
điển mưa, của Patrick Boman. (1)
Gấu là người
giới thiệu Beckett trên tờ Nghệ Thuật,
khi vừa bước chân vô làng văn Sài Gòn,
1965, trước khi ông được Nobel, 1969. Bài giới thiệu, tóm tắt 1 bài
viết trên 1
tờ báo Tẩy, và còn nhớ, đám phê bình gia cà chớn Tẩy gọi văn chương của
ông là
thứ “tiền chế”, như nhà tiền chế.
Mà đọc kiểu cà chớn, thì thế thật. "Tôi
về nhà, nửa đêm, trời mưa. Đếch phải nửa đêm, đếch phải mưa", kiểu đó.
Nhưng,
đúng như cái tay trên tờ Intel
viết, những điểm mạnh
của ông là:
-Những dòng đầu, thí dụ,
trong Murphy, đọc 1 phát là
biết ngay của Beckett, his own tone:
"Mặt trời chiếu sáng, đâu có cách nào khác, về chẳng có gì mới "
-Những quãng
ngưng, nghỉ. Không có Beckett là Pinter không thể tạo được sự căng
thẳng
gớm ghiếc của ông. Khúc nghỉ, quãng ngưng, pause, silence, mỗi cú trở
thành 1
cái gì sờ mó, vuốt ve được.
-Sự cảm
thông. Ở trong những phong cảnh xám xịt đó, những nhân vật của ông lung
linh sáng
cùng với sự ấm áp – như thể chỉ Estragon và Vladimir nhìn với hãi hùng
bất lực
khi Pozzo hành hạ Lucky.
Người nhìn
ra trước mọi người về thiên tài Beckett, là Suzanne,
bà xã của ông. Khi nghe tin chồng được
Nobel, bà than, thật là 1 thảm họa!
Bà biết quá
rõ, văn chương của chồng, không phải để gặt hái vinh quang!
Khi bà mất,
ông chồng viết về vợ:
I owe
everything to Suzanne. She hawked everything around trying to get
someone to
take all three books at the same time. That was a very pretentious
thing for an
unknown to want! She was the one who went to see the publishers while I
used to
sit in a cafe "twiddling my fingers" or whatever it is one twiddles.
Sometimes she only got as far as leaving the manuscripts with the
concierge;
she didn't see the publishers. It was the same with Roger Blin. She was
the one
who saw Blin and got him interested in Godot
and Eleutheria. I keep out of the
way.
[Tôi mà không
gặp ông này, là thành gái già, bà vợ của bạn Bạn nói về chồng!]
Niềm tin của
riêng bà vợ, Suzanne’s own faith, về giá trị của tác phẩm của Beckett
được củng
cố thêm lên, từ một số khuôn mặt nổi tiếng. Tristan Tzara là người đọc
Molloy,
và mê quá là mê…. Nhưng tin tưởng, cổ võ, thổi… là 1 chuyện, làm sao
cho có người
bỏ tiền in, lại là 1 chuyện khác. Bản thảo bị hết nhà xb này cho tới
nhà xb bản
khác từ chối, cho đến khi bà vợ quyết định - điều mà ông chồng gọi là
“last ditch
effort” [cố gắng chót, hơi thở chót trước khi ngỏm] - đưa cho Jérôme
Lindon, nhà
xb Nửa Đêm.
HOW BECKETT
DID IT
Notes on a
Voice: Emma Hogan on a man who reinvented theatre, while rarely
going to it
From
INTELLIGENT LIFE January/February 2013
"Nothing
to be done." So begins the play that changed the game. When it opened
in
Paris, 60 years ago, its author was 46, an Irish former teacher who
claimed,
even as he reinvented the form, that "I have no ideas about theatre. I
know nothing about it. I do not go to it."
Who else but
Beckett: arch-modernizer, polyglot, droll existentialist. Born near
Dublin in
1906, he was a well-to-do Protestant who read French and Italian at
Trinity
College, finishing first in his year. By 1937 he had left Ireland, and
his
mother’s "savage loving", for Paris, where he lived until his death
in 1989. He wrote 32 plays, one film (entitled "Film"), eight novels,
17 other prose works, and one set of poems. But it was "Waiting for
Godot", with its four figures and simple setting of "A country road.
A tree. Evening", that marked him out as a colossus.
Key Decision
To write in
French. This enabled him to find his starkness – to shed his
"Anglo-Irish
exuberance" and the lyrical influence of Joyce ("I vow I will get
over J.J. ere I die. Yessir", he had scrawled in a letter). From 1939,
he
wrote mostly in painstaking French, then translated into "queer
English" to create the bleached voices that make his work unmistakable.
Strong
Points
(1) First
lines. From his earliest novel, "Murphy" (1938), Beckett set his own
tone: "The sun shone, having no alternative, on the nothing new." (2)
Pauses. Without Beckett, Pinter could never have created his sinister
tension.
He marks the silences as "[Pause]" or "[Silence]", each
becoming something palpable. (3) Compassion. Within these grey
landscapes, his
characters flicker with warmth – even if it is just Estragon and
Vladimir
looking on in helpless horror at Lucky’s enslavement by Pozzo.
Golden Rule
Never to
compromise. Estragon’s trousers have to fall all the way down at the
end of
"Godot". The action and dialogue of "Play" has to be
repeated, by actors who are up to their necks in urns. Whole novels can
go by
without a paragraph break. Both his novels and plays require
concentration, and
a stomach for repetition. But they reward the persistent.
Favourite
Trick
Characters
correcting or interrupting themselves. Phrases or names are
misremembered, and
remembered anew. Even hiccups ("pardon") are kept in, puncturing
Beckett’s short sentences. He forces the dramatic monologue to capture
every
bodily emission and the ragged form of human speech.
Role Models
Though he
claimed to have "always been a poor reader", at 30 Beckett had
published an essay on Proust, written an unfinished play about Dr
Johnson and a
short story inspired by Dante, and had worked for Joyce. But it was
plays that
most inspired him. The landscapes of "King Lear" and Edgar’s refrain,
"the worst is not/So long as we can say, "This is the
worst"" shaped his defiance of melancholy. And in Racine’s
"Berenice", Beckett found a form to mirror his own: "There too
nothing happens, they just talk, but what talk, and how spoken."
Typical
Sentence
"Let us
not then speak ill of our generation, it is not any unhappier than its
predecessors." ("Waiting for Godot")
Watt by
Beckett, Barbican, London, Feb 26th
Emma Hogan
is a freelance journalist and regular contributor to The Economist's
Books and
Arts pages, and was a judge of this year’s Forward poetry prize
Illustration
Kathryn Rathke
"THE
USES OF POETRY"
by Anne Atik
FOR S.B. (13
APRIL 1906-22 DECEMBER 1989)
I
A
Bible-reading man, he came and left
between two
holy days he didn't much observe:
the Good
Friday of his birth, near the Christmas of his death.
His life
between, a pilgrim's progress with a smile
for what he
saw along the way and wrote of,
oversleeping,
age and hope and sloth.
Then saw,
and wrote of, wrenched along the way,
age and hope
and helpless weeping. But
he would
have, reading those two states, rejected both
as most
remotely holding but one part
or more than
minute dose
of the
inexpressible, whole truth
of how it
is, it was.
II
He showed
the shortest way to get across
a line like
this:
crossed out
such words as these to get to
speechlessness.
He crossed
out rivers to get to their stones.
To get to
the bottom, when the crisis is reached
and
truth-telling begins.
Whatever he
knew he knew to music.
He found the
pace for misery,
matched
distress to syncope, and joke
to a
Beethoven stop at the punch line.
But thought
that he'd failed to find failure's pulse.
What that
says about failure,
music and
us.
Cuốn tiểu sử
Beckett, 800 trang, toàn chữ, trừ cái hình độc nhất, trên, Gấu mua lâu
lắm rồi,
tính đọc, nhưng sợ quá, bây giờ mới lôi ra, cùng 1 số cuốn khác nữa,
của ông,
hoặc viết về ông.
Cũng là 1
cách viết về bạn Bạn, và chuyến đi vừa rồi, nhờ đó gặp Sad Seagull.
Giả như gặp
Sad Seagull, mà không gặp lại bạn Bạn, thì có thể đã đi luôn, bữa buổi
chiều hôm
đó ở bên ngoài Phước Lộc Thọ.
Trong đời Gấu,
gặp nhiều lần “quái đản” như thế.
Muốn đếch muốn
gì hết!
Le Magazine Littéraire Hors-série, n # 14
Bức họa
trên, trên tờ TLS, số Nov 23, 2012. John Montague điểm tập thơ Collected Poems
của Beckett. Ông nói về thơ của mình, dởm, "my poems are
worthless", thơ tôi chẳng có giá trị gì cả. Bài điểm cũng nhắc tới
bài thơ mà TTT nhắc tới, trong Thơ ở
đâu xa, đoạn viết về cô con gái của ông.
Lạ
nữa, là bài thơ này Beckett làm cho người bạn trai của ông, một vị bác
sĩ,
Arthur Darley, cả hai cùng làm việc tại một bịnh viện Irish.
Je voudrais
que mon amour meure
qu' il
pleuve sur le cimetière
et les
ruelles où je vais
pleuvant
celle qui crut m'aimer
Samuel
Beckett
Bản tiếng
Anh của chính tác giả:
I would like
my love to die
and the rain
to be raining on the graveyard
and on me
walking the streets
mourning her
who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn
tình Gấu chết,
Và mưa rơi
trên nghĩa địa,
trên đường
phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa
khóc
người
tưởng
rằng người
yêu Gấu
John
Montague, ngưòi điểm tập thơ, cũng là bạn của Beckett, có 1 lý thuyết
[an
almost-theory], về Beckett làm thơ: Thay vì cố gắng làm thơ mới,
Beckett trải
qua hầu hết thì giờ để dịch thơ của ông, một việc làm mà chính ông
than, nặng
quá, đếch chịu nổi, a burden he often found intolerable.
Note: Tập Collected, mua lâu
rồi, second-hand, nhưng cũng “bày đặt đọc”, mới
đây thôi.
Khi mua,
thì chỉ vì trong có bài thơ TTT thuổng, để viết về cô con
gái, được in trong Thơ Ở Đâu Xa.
Tập Selected, vừa mới tậu cùng với
số báo Time đặc biệt Tưởng
Niệm Marilyn Monroe
Tuyệt nhất
là mấy câu thơ Beckett, GCC cực mê, thấy ở bìa sau cuốn mới mua, cũng
“bắt chước”
GCC, đi 1 đường thổi um lên:
je suis ce cours de sable qui
glisse
entre le galet et la dune
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
et finira le jour de son commencement
cher instant je te vois
dans ce rideau de brume qui recule
où je n'aurai plus à fouler ces longs seuils mouvants
et vivrai le temps d'une porte
qui s'ouvre et se referme
my way is in the sand flowing
between the shingle and the dune
the summer rain rains on my life
on me my life harrying fleeing
to its beginning to its end
my peace is there in the
receding mist
when I may cease from treading these long shifting
thresholds
and live the space of a door
that opens and shuts
Samuel Beckett in Collected Poems in English & French. Grove Press.
Note: To K & O:
Dịch giùm.
Bản tiếng Tây theo tôi tuyệt
hơn bản tiếng Anh, cũng của Beckett:
la
pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
Mưa hạ mưa trên đời tôi
Trên tôi đời tôi chạy trốn tôi rượt đuổi tôi
Ui chao, sao
mà tuyệt thế!
Lại nhớ mưa Sài Gòn!
Bài thơ trên, bạn phải đọc cùng với một bài viết cũ trên Tin Văn, mới
thú,
tuyệt thú.
Và luôn thể, với bài thơ, cũng của Beckett, sau đây.
(1)
Cali
Nov/HA/NDB/Friends
Trên
nhắc tới
Beckett, bèn nhớ đến ông bạn Bạn, người mà, "như Beckett", bởi vì có
họ,
mà chúng
ta có từ "quân tử". Và bèn viết thêm về Beckett.
Đậu
bằng qua
giá vũ như ti
Tình cờ đọc
lại số báo cũ, The Paris Review,
Winter, 1995, thấy bài viết về
Samuel Beckett: Cũng một cao thủ về
cờ [chess].
Bài ngắn,
nhưng tuyệt, tuyệt. Để Gấu scan rồi dịch, hầu quí vị. Một bài viết của
một người
bạn của ông, theo kiểu hồi tưởng. Có những câu, như câu sau đây, chẳng
bảnh
sao:
Rosset:
....Beckett
là một vì quân tử, a gentle man. Tôi nghĩ, từ này được người đời phịa
ra, ấy là
bởi vì có ông [I think they may have invented the word for him].... Ông
là một
người lắng nghe, a listener. Ông ta lắng nghe đến độ bạn cứ nghĩ mình
là con
người độc nhất trên cõi đời...
[Note: Gửi bạn
mới quen, qua dòng thơ của VND: Đậu bằng qua giá vũ như ti. NQT]
Cali
3.08
GGC quen ông
bạn Bạn, là nhân chuyến đi Cali 2008, nhân Nguyễn Tôn Nhan từ Việt Nam
qua
chơi. Chuyến đi của NTN, là do Khánh Râu tài trợ & bảo lãnh.
Tình cờ gặp ở Factory Bistro.
Một tay nào đó, đứng xớ rớ đó, giới thiệu.
Ông nói, tôi đọc ông
nhiều rồi, nay mới gặp.
Rồi tới bữa tiệc do 1 cô bà con của NDT, ở trong ban tổ
chức, dành cho cả bọn 1 bàn danh dự. Ông kêu bà vợ, sau khi tan sở, ra
chơi,
thay vì phải đi đón. Gấu nhờ thế quen cả hai.
Nhưng phải đến
nhà ông tá túc, trong chuyến này, thì mới thú vị. Ông có nỗi khổ, lấy 1
bà Bắc
Kít, y chang Gấu Cái, lấy phải thằng chồng Bắc Kỳ!
Ông nói, mỗi
lần bà vợ tôi mà vô phòng của tôi, vốn bề bộn, dọn dẹp, là đúng 1 thảm
họa.
Tôi không làm sao tìm được bất cứ cái gì cần tìm. Mấy cái tờ giấy bỏ
lộn xộn trên
bàn, thí dụ, bà tiện tay bỏ vô sọt rác, là chết mẹ tôi, vì toàn là
những việc tôi
đang cần làm.
Ui chao, giống
y chang Gấu Cái, mỗi lần Gấu nổi hứng dọn dẹp nhà cửa!
Lần quen bạn
Bạn, thì hân hạnh được ngồi kế bên Ngọc
Hạ.
Lần này, gặp Sad Seagull!
May mà có
chai
Đời càng dễ thương!
NDB &
NQT @ NDT's
Lần nhậu từ
biệt Cali, uống với NDB/NTN/NLV tại nhà Khánh [hay Khanh?] Râu, khủng
khiếp thực.
Ra về, trên phi cơ, GCC ói lên ói xuống, chỉ mong về đến nhà ngưng ói,
nếu
không thì khốn khổ khốn nạn với Gấu Cái!
GCC sẽ dịch “Trong
khi chờ... Sad Seagull”, tặng Sad Seagull & Bạn Nhậu.
Không biết
đã có ai dịch chưa, nhưng kệ cha họ, mình dịch là mình dịch cho mình.
OK?
Còn cuốn “Henry
Miller độc bản” cũng thú lắm, để đọc lai rai!
A
Remembrance of Samuel Beckett
Samuel
Beckett, một thoảng nhớ...
Mr. Beckett
đã chết. Vậy thì Paris, cũng thế. Tôi nghe người ta nói ông chết tối thứ Sáu tuần rồi. Vậy thì là, tất cả những người
hùng của tôi đã chết, kể từ tối thứ Sáu tuần rồi.
Tếu thật, cuộc
đời bám dính lấy ông, tới 83 và 3/4 năm lận. Khi ông nói với tôi, ông
rụng
răng, tôi lớ ngớ buông sảng một câu: "Vậy là mệt lắm đấy".
Ông quạt lại
liền: "Có cái gì tệ mà không biến thành hại? Đâu có giới hạn những điều
xấu
xa trở thành tồi tệ hơn". Thế là cả
hai đứa chúng tôi cười đến vãi đái ra.
Mr. Beckett
biết chọc quê. Lần đầu tiên gặp Gill, bà xã tôi, ông kêu một ly đúp.
"Phải
ly đúp mới được. Lóng rày, không làm sao kiếm một ly cho ra hồn".
Vào khoảng đầu
thập niên 1970, tôi ở Paris với một người bạn là Jean-Paul Delamorte,
một tiểu
thuyết gia hụt, a romacier manqué.
Lindon (bên tạp chí Nửa Đêm, Minuit)
vừa mới
cho ra lò những bài viết mới nhất của Beckett, bằng tiếng Pháp, nhan đề
là Foirade, Foirade, Foirade I, Foirade II. Vì
có hẹn khuya này uống một
"tăng" với ông, tôi hỏi Jean-Paul foirade thực sự nghĩa là gì.
Jean-Paul
hèm lên hèm xuống, chẳng giống một con giáp nào hết. "Foirade thực ra
là... ơ hơ... đúng rồi, disgusting"
.
Khi tôi lập
lại với Beckett, ông đỏ mặt tía tai: "Disgusting?!
Đúng là lố bịch!".
Nơi chốn:
Chúng tôi đang ngồi tại La Closerie des Lilas, một tiệm ăn vốn là nơi
tụ tập
đàn đúm của đám viết lách vào thập niên 1930. Mấy ngày trước khi giải
phẫu cườm
mắt, Beckett đeo cặp kính dầy như đít
chai Coke. Tướng tá nhà văn lớn Samuel Beckett chẳng cách nào giấu nổi.
Vừa ló
đầu vô, bị thiên hạ chiếu tướng liền. Cứ mỗi lần mở miệng, bằng ấy cái
tay ngừng
đớp hít, bằng ấy cái tai nhỏng lên. Beckett, như mù dở với hai cái đít
chai Cô
ca Cô la, chẳng hề hấn gì với ba trò hóng chuyện đó.
Ông giải
thích, về phản ứng của ông, với từ "disgusting"
của Jean-Paul, bằng
cách chứng tỏ, ông đã "chọn từ foirade
một cách hết sức là nghiêm túc", và ông đang "động não" cố tìm
ra một từ tiếng Anh hoàn toàn xứng hợp với nó.
"Foirade:
disgusting? Thật là hoàn toàn vô nghĩa! Une
Foirade là một sự thất bại thảm thương... Một điều gì người ta toan
tính,
nhưng toan tính này thật ra chỉ là một sự thất bại, tuy nhiên vẫn phải
toan
tính, bởi vì thật xứng đáng, không thể chối cãi được... vậy đó, một "thất bại mếu" (a lamentable
failure).
Tới đây,
hình như mọi thực khách trong tiệm ăn đều dướn người về phía chúng tôi,
như muốn
nuốt lấy từng lời vọt ra khỏi miệng Beckett. Và nhà văn của chúng ta
thêm vô,
kèm nụ cười rất ư là "bỏ đi": "Lẽ dĩ nhiên, foirade còn có nghĩa
là phát rắm ướt !
(Mấy tháng
sau đó, trong một tiệm sách ở New York, tôi nhìn thấy ấn bản tiếng Anh
của Foirades. Tên
tiếng Anh: Fizzles).
Giữa đông,
giữa năm 1973, lạnh cứng người, cô đơn, túi thủng, tôi đành phải làm
cái trò đọc
thơ, vào lúc tám giờ tối, tại Trung Tâm Văn Hóa Mỹ ở con phố Dragon....
với cái
giá năm chục đô. Tôi có cái uống với Beckett vào lúc bẩy giờ. Tôi đâu
dám xì ra
cái chuyện đọc thơ, bởi vì:
1.
Tôi nghĩ ông chẳng ưa cái chuyện đọc thơ
trước công chúng, cho dù phải cạp đất.
2. Ông gần như chẳng bao giờ
làm chuyện đó.
Trong lúc cà
kê, ông có vẻ đâu đâu. Dưng không, ông nói: "Bạn đọc thơ, phải
không?" Tôi chới với, làm sao ông biết? Rồi ông thêm: "Chắc mong bạn
bè tới đông, hẻ?". Hiển nhiên, tôi làm ông đau, khi không mời. Vậy là
tôi
đã làm ông đau, bực thiệt! Ông nói, như cho tôi đỡ đau: "Không, cám ơn
bạn,
tôi không bao giờ tới với những chuyện đó".
Rồi thì ông
yêu cầu tôi đọc một bài thơ, của tôi, cho ông nghe. Nhột quá, tôi bảo
ông, cái
giá năm mươi đô là ổn, đối với tôi. Ông bật cười, tuy nhiên vẫn bắt tôi
đọc thơ
cho bằng được. Thơ đọc thầm lén mà! Thế là tôi ư ử, bài "Trên Đại Lộ
Raspail":
How easily
our only smile smiles.
We will
never agree or disagree.
The pretty
girl is perfected in her passing.
Our love
lives within the space of a quietly closing door. (1)
Ông chăm chú
nghe, mắt nhắm tít. "Được! Được!", ông nói.
"Ồ,
c...! " Tôi bật lên. Ông mở choàng mắt, và tôi tự giải thích:
"Tớ ăn
cắp của bạn!"
"Không,
không. Tôi chưa hề nghe nó trong đời..."
"Không,
không, của bạn! Bài 'Dieppe'..., bạn chấm
dứt với 'the space of a door that
opens and shuts'
"Ô!
Đúng thế thực." Nhưng rồi, bỗng
nhiên, ông thêm vô: "Ô, c...!"
"Chuyện
gì nữa, hả?", tôi hỏi.
"Tôi
chôm của Dante, chính tôi! (me-self)."
(Theo bài viết
của Israel Horovitz, trong The Paris
Review, Mùa Xuân 1997).
Note: Bài viết
này, còn một nửa, mới tìm thấy. Bèn dịch tiếp, trong khi chờ… Seagull.
Số The Paris
Review đang được nhắc tới này, đặc biệt về Kịch.
(1)
Nụ cười độc nhất của
chúng
ta, sao dễ dàng quá vậy
(Thôi đừng tè he ra
mà làm gì).
Người đẹp đẹp thật khi
thoáng
qua.
Tình mình đọng lại giữa
lần
cửa khép. (1)
Bạn đọc có thể liên
tưởng, từ foirade, tới wet fart, tới bài thơ vịnh "bạch
mã", trong chuyện tiếu
lâm Việt Nam.
Note: Bài này, đã
đăng
trên tạp chí
Văn, và trên VHNT của PCL. Một độc giả VHNT mail, chỉnh, ‘agree’, đồng
ý, và ‘disagree’, không đồng ý,
làm sao lại dịch là ‘tè he’?
Sự
thực, Gấu dịch ‘tếu’, vì
nghĩ đến cái cảnh ‘tình mình đọng lại giữa hai lần cửa khép’.
Có
thể, bài thơ còn nói ‘chuyện đó’
chăng? NQT
*
Old dogs
have more dignity
Comfort them
since you pity them
Beckett:
Waiting for Godot (1)
Giả như sau
30 Tháng Tư 1975, chúng ta có cái nhà Mít đàng hoàng, thì không thể nào
có những
tác phẩm như Ba Người Khác
của Tô Hoài, Đi tìm cái tôi đã mất của
Nguyễn Khải,
Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, Hồi ký Tô Hải…
Chính nỗi thất
vọng sau 1975, về đất nước, khiến những tác giả đó phải nhìn lại đời
của họ, và
đều nhận ra một điều, họ đều đã phải chịu nhục, chịu khổ, chịu hèn..
với một điều
kiện: giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước cùng xúm nhau lại xây
cái nhà
Mít.
Old dogs
have more dignity, chó già giữ giá, có nhiều phẩm giá..
là theo nghĩa đó.
Chính cái sự
thú nhận tôi là thằng hèn, là "dignity" của họ!
Thành thử
chúng ta không thể có một thái độ nào khác, mà là:
Comfort
them, since you pity them.
[Trong them,
có us. NQT]
(1) Mấy câu
trên, là từ nhật ký của Gấu, những ngày ở trại tị nạn Thái Lan,
1989-1994.
Mấy câu
trong nhật ký những ngày đầu đến Xứ Lạnh, liên quan tới dignity:
The ideal
death takes place amid loved ones
The greatest
dignity to be found in death is the dignity of the life that preceded it
Hope resides
in the meaning of what our lives have been.
Ba câu trên
đều nói về cái nhà Mít sau chiến tranh:
Cái chết lý
tưởng là chết giữa những người thân thương.
Phẩm giá lớn
lao nhất kiếm thấy được ở trong cái chết là phẩm giá cuộc đời trước khi
cái chết
xẩy ra.
Hy vọng thì
nằm ở trong ý nghĩa cuộc sống của chúng ta.
*
Quái thật,
không lẽ lúc nào Gấu cũng bị cuộc chiến nó hành, chỉ trừ những lúc nghĩ
đến một
BHD, hay một cô bạn, hay một cô học trò?
To have seen
nothing or almost nothing except the face of a girl from Buenos Aires,
a face
that doesn't want you to remember.
Borges: Labyrinths Epilogue
Chẳng thèm
nhìn ai, ngoại trừ khuôn mặt BHD, và cô nói, ta cấm mi không được nhớ
tới ta.
*
V/v trong
"them" có "us".
Cái phẩm giá
mà Miền Nam có được, là khi đi tù VC, đi tù cải tạo!
Cái phẩm giá
mà VC có được, là ở trong những hồi ký, những tự vấn, như của Tô Hải.
Có người đặt
vấn đề, tại sao cuối đời, họ mới dám nói ra? Tại sao Víp Va Ka hấp hối
mới dám
xì ra "một triệu người vui nhưng cũng có một triệu người buồn"? Tại
sao "Thượng đế thì cười" với Nguyễn Khải, khi ông sắp sửa đi, tại sao
bánh vẽ Chế Lan Viên....?
Ấy là vì cái
chiến thắng đỉnh cao tuyệt vời quá. Không dễ gì mà thoát ra khỏi cái
bóng của
nó đổ xuống cả nửa hậu thế kỷ!
Và còn kéo
dài qua tân thế kỷ!
Đúng như Trần
Văn Toàn phán, về Hegel: Cái bóng của Hegel phủ kín Marx, và còn kéo
dài ra
mãi!
Chúng ta sở
dĩ để mất Miền Nam vì nghĩ lầm, tưởng bở, anh Yankee mũi tẹt tốt hơn
anh mũi lõ,
một nưóc Mít thống nhất hơn hai nửa nước Mít, thành thử để cái bóng của
Marx phủ
quá xuống cả Đàng Trong!
A
Remembrance of Samuel Beckett
Samuel Beckett had strict
rules for living. We'd met for a
drink one night, just after Gill and I were married (her first
marriage, my
third). "One wife!" he scolded. "That's all a man is meant to
have! Yeats only had one, Joyce only had one-I'll only have one."
Samuel Beckett had his heroes . . . and I knew that
I would
never be listed among them.
My most important memories of Beckett aren't
memories of a
superb writer, but of a superb friend. I was first attracted to
Beckett
because of his writing, but he quickly became for me one of those few
men we
painstakingly choose, against mother's will, to serve as father.
When I saw Sam last, some months ago, he'd grown as
frail as
old paper.
He was living in a room in an old people's home in
the rue
Remy-Dumonce, a few doors from his (holistic) doctor's house. I was
stunned to
realize that Beckett was now living like a character of his creation.
To reach
Beckett's room one had to pass through something called "the recreation
room." Two dozen elderly French sat in a row like sparrows on a
telephone
wire, watching an obnoxious song-and-dance man via an outdated
black-and-white
television set. I broke into their shared reverie and asked where
Beckett could
be found. Nobody seemed to know him. I found the home's office. I was
directed
through a small courtyard to the rear of the block, where I saw a tiny
ground-floor room with window blinds partly drawn. Beckett was inside,
dressed
in a tattered old robe, working with pen and ink at a bridge table. I
stopped
and stared a while, for some reason remembering Beckett's shock,
twenty-two
years before, at discovering that I didn't know Yeat’s "Sailing to
Byzantium." Before I left the table that night, Yeast’s poem had passed
from Mr. Beckett's memory to my memory, along with Sam's small
scholarly note
of caution: "I don't totally approve of that 'Soul clap its hands'
part!"
Samuel Beckett's final room was seedy, small,
sad: a
bed, a bedside table, bridge table and a matching chair, a television
set
"for sporting events." It was prisonlike, pathetic. My initial
impulse was to pick him up and run, carrying him out, away, to some
time past.
It's taken me nearly a year to let it go, to accept that this was his
choice.
We talked for a few hours. He asked the usual questions about my
children,
about my work, about Gill's recent marathons, did I need any money, or
was I
okay?
My turn. I asked about the state of his health. He
understood his particular illness, explaining the mechanics of it as
might a
scientist. His brain wasn't getting proper circulation of blood.
But when
he detailed the sensation - how the problem was manifest in his
particular body
- he was all writer: succinct and artfully clear. "I am standing in
quicksand."
When I left Sam the last time, I knew that I might
never see
him alive again. I organized my life so that I could return to Paris
and be
close by him for six weeks, starting in January. I underestimated the
quicksand
by nearly a month.
Say something of the man and let it go. What Beckett
said of
Joyce is finally what I say of Beckett: "He never wrote about
something. He always wrote something."
I worry that the world will over-saint Sam and
overlook the
most important, most obvious truth: with his life Mr. Beckett proved
that it
was actually possible, even in our own inferior century, for a writer
to work
and to live with a great seriousness, a great caring and a great integrity.
What Samuel Beckett was possible. Not a saint - at times not even
totally
tasteful - but ever an artist: clear-voiced, responsible, in
line with
the best. Beckett was, professionally, from youth onward, an old crab.
And with
good cause. Around him, the quality of Life was odious, and the quality
of
Death an unsatisfying alternative.
ISRAEL
HOROVITZ
The Paris Review Spring 1997: Theater
Bài
ai điếu Beckett này, GCC đã đi một đuờng phỏng dịch, khúc đầu. Vớ lại
được số
báo, thì lại tiếc khúc sau, bèn chơi luôn toàn bài.
Cũng
là 1 cách viết về ông bạn Quảng Nôm.
A superb friend!
Một ông bạn thần sầu!
Lần
này, do ở nhà ông bạn thần sầu, thành thử Gấu vờ 1 số bạn văn, bởi là
vì ông
bạn thần sầu này có vẻ chẳng ưa đám viết lách, theo như GCC lờ mờ
nhận ra!
Samuel
Beckett, một thoảng nhớ...
Về cái chuyện
sống, Sam đặt cho mình 1 kỷ luật nghiêm ngặt. Một tối, hai đứa chúng
tôi có hẹn
nhậu, liền sau khi Gill và tôi lấy nhau, em lần đầu, còn tôi, một, hai,
ba, lần
thứ ba.
Một vợ là đủ
rồi. Ông gật gù, lèm bèm. Đó là tất cả những gì mà 1 người đàn ông cần
có.
Yeats một, và chỉ một mà thôi, như thằng cha GCC. Joyce thì cũng thế. –
Tôi
cũng sẽ chỉ có thế.
Sam có những
người hùng của ông… và tôi nghĩ tôi chẳng bao giờ được kể như 1 trong
số đó.
Những hồi ức
quan trọng nhất của tôi về Beckett thì không phải về 1 nhà văn thần
sầu, số
dách, tuyệt cú mèo. Những mà là một người bạn thần sầu. Tôi biết đến
ông, là
qua những gì ông viết - Tình cờ gặp ở Factory Bistro. Một tay nào đó,
đứng xớ rớ
đó, giới thiệu. Ông nói, tôi đọc ông nhiều rồi, nay mới gặp - nhưng
liền đó, với
tôi, ông trở thành một trong số ít ỏi, mà chúng ta cẩn thận chọn, ngược
hẳn ý
bà mẹ, để phục vụ, như là ông via của mình.
Lần gặp
chót, cách đây chừng vài tháng, thì ông mỏng và trong suốt như... 1 anh VC nằm dưới hố được tụi Ngụy lôi lên!
Ông sống
trong 1 phòng của 1 cái nhà dành cho đám người già ở đường
Remy-Dumonce, chỉ
cách nhà của vị bác sĩ "môi hở răng lạnh" của ông chừng vài nhà. Tôi
sững sờ khi nhận ra, ông sống y chang 1 nhân vật do ông phịa ra. Để tới
được
căn phòng của ông, người ta phải đi qua 1 cái gì được gọi như là "phòng
giải
trí" của người già. Chừng một, hoặc hai tá ông già bà lão Tẩy ngồi một
dọc,
giống như đám chim sẻ trên sợi dây điện, coi 1 màn ca hát nhảy múa thật
là cà
chớn, của một người đàn ông trên màn hình của 1 cái TV đen trắng, ở xứ
Bắc Kít,
khi chưa giải phóng được Miền Nam để… nhận
hàng, dù là bơ thừa phó mát cặn Yankee mũi lõ bỏ lại. Tôi nhảy bổ vào
giấc mơ
chiến thắng Miền Nam của đám già đang chia sẻ cho nhau này, và hỏi
phòng của bạn
quí của tớ ở chỗ nào. Có vẻ như chẳng có ai biết ông. Tôi kiếm văn
phòng của
“viện dưỡng lão”, và sau đó, được dẫn qua một cái sân nhỏ ở đằng sau
khu nhà,
và tôi nhìn thấy một căn phòng nhỏ xíu, ở tầng chệt, màn cửa sổ ấp ló.
Beckett ở
trong phòng, mặc 1 cái áo cũ te tua, làm việc với cây viết và mực, tại
1 cái
bàn [loại bàn thường dùng để chơi bài bridge].
Tôi đột
nhiên đứng sững, lơ láo nhìn, nhớ lại cú sốc của Beckett, lần ông khám
phá ra,
tôi đếch biết “Dong buồm tới [Sailing to] Byzantium” của Yeats.
Đêm đó, trước
khi rời cái bàn, bài thơ của Yeats chạy từ hồi ức của Mr Beckett qua
hồi ức của
tôi, cùng với 1 cái ghi chú nho nhỏ, có tính khoa bảng, của sự cẩn
trọng, của
Sam: "Tôi thực sự không hoàn toàn gật đầu hài lòng, ở cái phần “linh
hồn vỗ
tay” của bài thơ!"
ISRAEL
HOROVITZ
|