|
30.4.2014
All
revolutions devour their own children
Ernst Rohm,
1993
Lapham's Revolutions
Mọi cách mạng xâu xé, ăn
sống nuốt tươi, những đứa con của chính chúng.
Cứ giả như
cuộc chiến Mít là 1 cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thì quả là nó đã
làm thịt
cái gọi là "đực" của Mít:
Trước 1975,
thời gian phụ trách trang Văn Học Nghệ Thuật của tờ nhật báo quân đội
Tiền Tuyến,
trong một bài giới thiệu tác phẩm đầu tay của một nhà văn đã có vài
tuổi lính,
nhớ tới nhà văn Y Uyên vừa mới tử trận, tôi có đưa ra một nhận xét: Hãy
cố gắng
sống sót, và, nếu may mắn sống sót, nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn sẽ còn
phải đụng
với một cuộc chiến khác, khủng khiếp cũng chẳng kém trận đầu: văn
chương!
Ý nghĩ này,
tôi gặp lại, sau 1975, khi đọc Người Mẹ Cầm Súng của Nguyễn Thi, chết
trận Mậu
Thân, hình như ở khu Chợ Thiếc, Chợ Lớn, Sài Gòn. Liên tưởng tới bạn
bè, phóng
viên nước ngoài đã từng có dịp được quen biết, và đã tử trận, như Huỳnh
Thành Mỹ,
Sawada... tôi bỗng nhận ra một điều, cuộc chiến thật thâm hiểm, tàn
nhẫn: nó nuốt
sạch những ai thực sự dám đương đầu với nó. (b)
Today at
8:45 PM
Kính thăm
anh,
Đọc bài KHÂM
ĐỨC buồn quá. Trận đó ta thua tan tác, một số lính ĐỊA PHƯƠNG QUÂN (có
thêm vài
cố vấn Mỹ) xé rừng mở đường máu, số thoát được, số bị bắt...
Kính chúc
anh vạn niềm vui và thật nhiều sức khỏe.
Hôm Tết Ta, em
có gửi mail mừng... tuổi anh. Có lẽ anh không nhận được.
Trận đó thê
lương thật.
Tết Ta tôi ở Lào
Tks
Take care, please
NQT
30.4.2014
Note: Pạt được
Nobel, là nhờ XỊA. Điều kiện cho Nobel, là phải có bản dịch tiếng Anh.
XỊA bèn
lập tức cho người dịch, nhờ vậy Pạt được.
Cú này
Gấu biết từ hồi Diễm Xưa, nay mới thấy la ỏm tỏi, nhân đọc Vịt Xì Tốp
Đi Thôi, của kỹ sư Vịt Kìu Iu Nước:
·
Chính CIA
đã giúp phổ
biến cuốn "Bác sĩ Zhivago" và vận động cho Pasternak được Nobel:
During
Cold War, CIA used ‘Doctor Zhivago’ as a tool to undermine
Soviet Union
(Washington Post 5-4-14)
Soviet
writer and poet Boris Pasternak near his home in the
countryside outside Moscow on Oct. 23, 1958.
(HAROLD K. MILKS/ASSOCIATED PRESS)
Người mang “Gulag”
qua Tây Phương
Với “Dr.
Zhivago” của Pạt, nhờ "Điệp Viên Của Chúa" - tít bài viết của Steiner
về G. Greene, như bài trên Washington
Post cho biết:
“Doctor
Zhivago” could not be handed out at the U.S. pavilion at the world’s
fair, but
the CIA had an ally nearby: the Vatican.
The Vatican
pavilion was called Civitas Dei, the City of God, and Russian emigre
Catholics
had set up a small library “somewhat hidden” behind a curtain just off
the
pavilion’s Chapel of Silence, a place to reflect on the suppression of
Christian communities around the world.
There, the
CIA-sponsored edition of “Doctor Zhivago” was pressed into the hands of
Soviet
citizens. Soon the book’s blue linen covers were littering the
fairgrounds.
Some who got the novel were ripping off the cover, dividing the pages,
and
stuffing them in their pockets to make the book easier to hide.
The CIA was
quite pleased with itself. “This phase can be considered completed
successfully,” read a Sept. 10, 1958, memo.
V/v sự thực
lưu truyền.
Vấn đề này liên
quan tới đạo hạnh của người viết.
GCC
đọc bài viết của Susan Sontag, về chuyến đi Hà Nội của bà, trong
“Styles of
Radical Will” [tạm dịch "Những văn phong của ao ước gốc, cơ bản"].
Trong bài viết
về Godard [nhà làm phim Tẩy] cũng trong cuốn đó, bà trích câu của
Godard làm đề từ:
Có thể thực,
cái chuyện phải chọn giữa đạo và mỹ, nhưng cũng không kém thực, cái
chuyện, mặc dù
chọn món nào, thì sau cũng thấy món kia lòi ra ở cuối đường. Đây là
phận người.
Nguyên văn: “It
may be true that one has to choose between ethics and aesthetics, but
it is no
less true that whichever one choose, one will always find the other at
the end
of the road. For the very condition of the human condition should be in
the
mise-en-scène itself”
Robert Hass,
không ưa thơ Mandelstam, phán, nhớ đại khái, về 1 ông khác, nhưng nhắm
Mandelstam:
Ông ta đi tù vì là Do Thái, không phải vì là thi sĩ.
Có thể nói, ở cuối đường, những nhà văn VC đều phải đối diện với cái
gọi là đạo
hạnh. Viết về họ là phải nhìn ra điều này. Đâu có phải tự nhiên mà Tô
Hoài viết
“Ba Người Khác”: Ông là 1 trong ba thằng "lăng nhăng” - chữ của Nguyên
Ngọc
– đó.
Đẩy đến tận
cùng ý trên, thì bật ra câu của T.S. Eliot, trong “Four Quartets”,
"Trong đầu có
cuối, trong cuối có đầu" [“In my beginning is my end”, “In my end is my
beginning”].
Đây là “vấn nạn” của mọi
nhân vật của tất cả những cuốn tiểu thuyết của Graham
Greene,
như Monica Ali, trong bài giới thiệu cuốn Kết Thúc Chuyện Tình, The End of
the Affair, chỉ ra.
Cũng trong bài giới thiệu,
nhắc tới câu: Ý thức là không gian trắng lớn nhất trên bản đồ trí thức
con người,
“Consciousness
is the biggest white space on the map of human knowledge”.
Nhân vật
chính trong
cuốn truyện thú nhận, đôi khi tôi không nhận ra tư tưởng của chính tôi,
và, tôi
lạc ở 1 vùng lạ, tôi đếch có bản đồ.
Lang ba lang
bang, lăng ba vi bộ, cái nọ xọ cái kia.
Mười năm sau Kết Thúc, Greene
viết Một
trường hợp lụi tàn, A Burn-Out Case.
Một
đối trọng của Kết Thúc.
Nhân vật trong Lụi Tàn là
anti-hero của Kết Thúc.
GCC
cực mê cuốn này:
Đôi khi Gấu nghĩ, cái sự
tìm kiếm
khổ đau và nhớ lại mình đã từng khổ đau – nào là ở cổng trường Đại Học
Khoa Học Xề
Gòn, nào là ở khu Phước Lộc Thọ, nào là trong những ngày Mậu Thân… -
chúng là
những phương tiện độc nhất nhờ chúng, Gấu mò ra phận Mít, trong có Gấu
Cà Chớn!
Ten years
after he wrote The End of the Affair,
Greene wrote of a famous architect, who has lost his faith in
everything, that
he has not 'felt any pain at all in twenty years'. This is the nature
of his problem.
Querry, the anti-hero of A Burnt-out
Case, develops a friendship with a doctor in a leper colony who
observes,
'Sometimes I think that the search for suffering and the remembrance of
suffering are the only means we have to put ourselves in touch with the
whole
human condition.' We could read this as an essential distillation of
Greene's
work.
Bendrix, by
this measure, certainly keeps himself 'in touch'. It is a measure he
uses for
others too. His first stirring of respect for Henry is when Henry
suffers
visibly. 'I could no longer patronize him; he was one of misery's
graduates ..
.'
Pain is
indispensable to a fully-realized life: 'happiness annihilates us: we
lose our
identity'.
Vào dịp
kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Graham Greene, [1904-1991], tất cả tác
phẩm của ông được tái bản,
nhưng ghê hơn nữa, cuốn nào cũng được 1 tay cực bảnh viết giới thiệu.
Gấu Cà
Chớn mê quá, cứ lui cui lượm về, chỉ để đọc bài giới thiệu!
Bài giới thiệu
của The Heart of the Matter cũng tuyệt cú mèo. Người viết: James Wood!
Ky Tô giáo
và tội lỗi, trong có tội tự tử. Chúng ta, tín hữu Ky Tô, bị trầm luân
đời đời vì
“ý thức”, tức sự hiểu biết của mình.
“We
Catholics are damned by our knowledge”
Tuyệt cú!
Tặng LN, bạn
của GCC!
Hà, hà!
NL/FB
…. Nói một
cách khác, không có vụ di cư, không có tờ Sáng Tạo, không có Dương
Nghiễm Mậu. Rượu
Chưa Đủ "chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự
khẳng định, để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh
của một miền
đất. Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh Tâm
Tuyền quá trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux... Một Thanh Tâm
Tuyền
"khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động... Nguyễn
Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một
bên là
bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau. Dẫn chứng quá nhiều: Chị Em Hải
(Nguyễn
Đình Toàn) là một dị bản của kịch Ba Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm
Lãng Quên, truyện ngắn được Võ Phiến tuyển chọn ở hải ngoại, khi
viết về những
tác giả Miền Nam, thoát thai từ một truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền,
tôi không
còn nhớ tên, viết về ông già gác dan, (gác ga-ra?) (1) cho cặp nhân
tình tạm trú,
cuối cùng bị gã con trai nện cho sặc máu mũi, gục xuống một đống...
Trước khi bỏ
đi, gã thét cô bồ: lột cái xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão! Mùi vị
đàn bà,
cuộc tình hối hả... làm ông lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng,
hay phía
bên kia Địa Ngục (Chiến Tranh)... Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên,
về một
già muốn làm con ong hút nhị từ cô gái.... Chất hung bạo trong thơ
Thanh Tâm
Tuyền tràn lan ra văn. Ở Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết
hơi, của những
bóng dáng đàn bà, không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của chính
họ: Cái
Chết, Cái Sống đều thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của
Chiến Tranh
lảng vảng ở trước, hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ chối
quyết liệt,
bởi những con người đứng bên lề...
DNM
(1): Người Gác Cổng
April 1,
2014 at 4:08am
Trong lời dẫn
nhập cho cuốn truyện “Bếp Lửa”, lần xuất bản thứ hai – 1965 - Thanh Tâm
Tuyền
đã kết: “Mỗi nhà văn là một kẻ sống sót”. Trong
bối cảnh tang thương chết chóc vào lúc đó,
ngưòi ta dễ nghĩ ngay đến
sự sống còn thể xác. Nhưng hẳn TTT không
muốn nói đến điều đó, hay chỉ là rất phụ. Ngay trên câu cuối đó, TTT
viết: “Cái
chết lựa chọn không bao giờ phi lý, nó làm nảy sinh sự thật, sự thật
của những
người chết lưu truyền cho kẻ sống sót”. Thật
rõ ràng, nhiệm vụ - có thể độc nhất - của nhà
văn, theo TTT, là lưu
truyền sự thật vậy.
Cùng thời điểm
‘Bếp Lửa’ chào đời – 1957 - tác phẩm vĩ đại ‘Doctor Zhivago’ cũng ra
đời, trong
một bối cảnh nghiệt ngã. Còn nghiệt ngã hơn là của ‘Bếp Lửa’ rất nhiều.
‘Bếp Lửa’
tuy ra đời như một tác phẩm của kẻ lưu vong, nhưng chỉ là "lưu vong"
trên mảnh đất của mình, với bạn bè tụ tập họp chung quanh, nâng niu nó
như một
hài nhi mọi người mong đợi; đàng kia, Pasternak bị bắt buộc phải chối
từ
‘Doctor Zhivago’ và rốt cục chính tác phẩm đã phải lưu vong (*).
Cả hai,
Boris Pasternak và Thanh Tâm Tuyền, đều là một nhà thơ lớn, mang tính
chất khai
phá và là “thần tượng” thơ của nhiều người làm thơ trẻ cùng thời. Cả
hai đều đã
chọn lựa trở thành nhà văn, TTT đã làm việc chọn lựa này sớm trong cuộc
đời
mình hơn là Pasternak. Cả hai cũng đều
trải qua những “thử thách” lớn, bởi sự chọn lựa trở thành một nhà văn
là để nói
lên sự thật . Thế nhưng, Pasternak xem
còn may mắn hơn, ở chỗ tác phẩm chính của mình được cả thế giới biết
đến, đọc
và công nhận (**); trong khi với TTT, tác phẩm lớn nhất của ông, ‘Ung
Thư’, đến
nay chưa từng được xuất bản thành sách (***).
Một năm trước
khi từ giã cõi đời, 1960, Pasternak đã viết:
Tôi đã phạm
tội gì,
Tôi là kẻ cướp
hay sát nhân?
Tôi đã làm
thế giới thương cảm
Trước nét đẹp
của quê hương tôi
Cho dù có
đang thở những hơi cuối cùng
Tôi vẫn vững
tin rằng hồn của ánh sáng
Sẽ sớm đập
tan cái bóng đen
Mà sức mạnh
là tàn bạo và hận thù
(... Am I a
gangster, a murderer?
Of what
crime do I stand
Condemned? I
made the whole world weep
At the
beauty of my land.
Even so one
step from my grave,
I believe
that cruelty, spite,
The powers
of darkness will in time
Be crushed
by the spirit of light...)
(Pasternak,
‘Nobel’, 1959)
_________________________
(*) ‘Doctor
Zhivago’ được xuất bản lần đầu ở Ý và bằng tiếng Ý, 1957.
(**) ‘Doctor
Zhivago’ được trao giải thưởng Nobel Văn Chương 1958. Pasternak không
được nhà
cầm quyền Liên Xô cho nhận giải.
(***) Trong
hơn 10 năm, 'Ung Thư' được TTT viết đi viết lại nhiều lần và đã được
đăng nhiều
kỳ trên tạp chí Văn (Saigon)
trong khoảng hai năm. Cuối 1974, TTT quyết
định
cho xuất bản, mọi chuyện tiến hành thì biến cố 30/04/1975 xẩy đến...
"Il Dottor
Zivago" - ấn bản đầu tiên
thế giới,1957
Thanh Tâm
Tuyền
'
Bếp Lửa', ấn
bản thứ Ba, 1969
Note [NQT]:
V/v
Pasternak. Như tôi biết, không phải nhà nước Liên Xô không cho ông nhận
Nobel.
Cho đi nhận, nhưng không cho trở về. Ông đành từ chối.
Vv xb “Ung
Thư”. GCC không biết chi tiết này. Nhưng chắc là không có. Vì TTT sau
đó viết “Một
Chủ Nhật Khác”, là để thay thế “Ung Thư”, như qua trả lời phỏng vấn Le
Huu Khoa
cho thấy
V/v Chuơng
trình nhạc chủ đề của NDT: Do NDT phụ trách. Ông là nhân viên DPT Sài
Gòn. Qua
c/t này một số ca sĩ thành danh, hay nói khác đi, họ thành danh 1 phần
là nhờ
nó. Thí dụ, Sĩ Phú, Khánh Ly, Vũ Thành An… GCC còn nhớ là mỗi thứ năm
ông phải
vô đài để thu thanh, nhưng không nhớ phát thanh ngày nào, giờ nào.
Hoàng Hải
Thuỷ có đi 1 bài về c/t này, từ hồi còn Sài Gòn. Đúng ra là về giọng
đọc của
NDT. Ông nhớ đến câu nói của 1 anh chàng, đang làm tình, mà đã giao
hẹn, lát nữa,
nữa nhá?
Gấu nhớ hoài chi tiết này, hăm he lập lại hoài, mà không có dịp.
TTT có nét giống Brodsky, hơn là Pasternak, theo GCC. Ông không
thích được
dân Mít & Liên Xô yêu. Ông đếch thèm đến với nước Nga, nước Nga bèn
"âm thầm" đến với ông.
Khác hẳn Pasternak.
Khi TTT còn sống, ít
người yêu
thơ, cũng như con người của ông.
Đọc MT viết về ông, khi ông còn ở trong tù VC,
là biết.
Chỉ khi ông chết đi, thì mới được mọi người trân trọng. Tếu thế.
*
Coetzee nói
về Brodsky: Ông chẳng hề loay hoay hì hục làm cho mình được yêu,
thí dụ,
như Pasternak, rất được yêu. Venclova cho rằng, người Nga tìm chẳng
thấy, ở
trong thơ của ông sự "ấm áp", "tha thứ tất cả", "sướt
mướt", "nức nở con tim", hay sự "vui tươi, nhí nhảnh".
Nhà thơ Viktor Krivulin nghi ngờ tính hài hước, rất ư là không giống
Nga, very
un-Russian, vốn trở thành thói quen trong thơ Brodsky. Ông trau giồi
hài hước,
Krivulin nói, để bảo vệ mình, từ những ý nghĩ, tư tưởng, hay hoàn cảnh
mà ông cảm
thấy không thoải mái. "Một sự sợ hãi phải phơi lòng mình ra, hay có
thể,
chỉ là một ước muốn đừng phơi mở...".
Ui chao, liệu
có thể bệ cả đoạn trên sang bài tưởng niệm ông anh nhà thơ?
Why not?
5 năm rồi
không gặp...
5 năm rồi
TTT đã ra đi, nhưng hẳn là ai cũng còn nhớ, khi ông sắp đi, ra lệnh cho
vợ con,
đừng làm phiền bè bạn, đừng thông báo thông biếc, sống ta đã chẳng làm
cho họ
vui, cớ sao ta chết, lại làm cho họ buồn?
Gấu phải mãi
sau này, mới hiểu ra tại làm sao mà Milosz thèm được cái số phận bảnh
tỏng của
Brodsky: được lọc ra giữa những thi sĩ của thời đại của ông, của thành
phố của
ông, để nhân dân ban cho cái án cải tạo, rồi được Đảng tha cho về, được
Đảng bắt
phải lưu vong, và sau đó, khăn đóng áo dài bước lên Đài cao nhận Nobel.
Trong
khi cái số phần của Milosz, chính là cái mà ông miêu tả trong bài viết
Rửa, To
Wash, 1 thi sĩ bửn của thời đại của ông.
To Wash
At the end
of his life, a poet thinks: I have plunged into
so many of the obsessions and stupid ideas of
my epoch! It would be
necessary to put me in a bathtub and scrub me still all that dirt was
washed
away. And yet only because of that dirt could I be a poet of the
twentieth
century, and perhaps the Good Lord wanted it, so that I was of use to
Him.
Một nhà thơ
của thế kỷ 20, cuối đời nhìn lại, thấy mình bẩn quá, bèn chui vô bồn
tắm, dùng
xà bông thơm kỳ cọ, cho văng tất cả những cái bẩn đi.
Kỳ mãi, kỳ
mãi, vẫn không hết, và ông ngộ ra, số phận của ông là như vậy.
Bởi vì, nếu
ông ta sạch,Thượng Đế đã không giao cho ông ta "nghĩa cả" đó, và nhân
loại cũng đếch cần đến ông ta.
Gấu tin là
trong bài thơ tự trào về mình, TTT cho biết, chưa từng bắn một phát
súng, bảo
là tự hào, thì thật nhảm (1): thi sĩ cũng muốn có tí bùn dơ ở trên
người, và
sau 30 Tháng Tư, phải cám ơn VC đã cho ông đi tù, cùng bạn bè,“cùng hội
cùng
thuyền”, nhờ cú đi tù mà lại làm được thơ, như những ngày đầu đời, “nụ
hôn đầu
Ga Hàng Cỏ”, bẽn la bẽn lẽn giấu các bạn tù!
(1) Một
chủ nhật khác, một cách nào đó, là một bản văn giải thích hành động
không
rút súng bắn VC một lần nào!
Nên nhớ, TTT
đã từng nhập thân vào bạn của ông, là anh chàng sĩ quan VNCH, Đạo, anh
này đã từng
nằm suốt đêm ở bên ngoài, chờ cho tên VC nằm vùng, một “serial killer”,
chuyên
xử tử những tên Ngụy trong vùng, đêm đó lén về nhà, hú hí với vợ con,
sáng trở
về rừng, mới ra lệnh cho lính dưới quyền nổ súng!
TTT có mấy
cuốn tiểu thuyết viết bỏ dở, chưa kể Ung Thư, hoàn tất, nhưng
không cho
xb. Trong mấy cuốn đó, cuốn nào cũng thật là tuyệt, ở những đoạn mở.
Uổng thật!
Tiếc quá!
Giấu mặt, viết về 1 em mới nhơn
nhớn, khung cảnh
Đà Lạt.
Truyện anh chàng sĩ quan
VCNH tên Đạo.
Một cú tự
thuật, TTT vô Quang Trung, giữa đám con nít mới lớn, chúng gọi ông là
Cụ, hay Bố
gì đó.
Còn ông, qua nhân vật kể chuyện, xưng là Ông Già.
Nhân nói
chuyện... Bố: Cả trại tù Đỗ Hòa, đám học viên, không chỉ Đội Ba,
mà Gấu là
Y Tế Đội, đều gọi Gấu là Bố!
Bà Cụ Gấu tự
hào lắm, vì “chi tiết là Thượng Đế” thần sầu này! (2)
Về Pạt, thật
nhã
Với những ai
quen thuộc với thơ của ông, trước khi ông nổi tiếng thế giới, thì giải
Nobel ban
cho ông vào năm 1958 quả là có 1 cái gì tiếu lâm ở trong đó. Một nhà
thơ mà thế
giá ở Nga, người ngang hàng với ông chỉ có 1, là nữ thần thi ca
Akhmatova; một đại gia về dịch
thuật, nếu không muốn nói, "thiên tài dịch dọt", [hai từ đều thuổng
cả!], thì mới dám đụng
vô Shakespeare, vậy mà phải
viết một
cuốn tiểu thuyết to tổ bố, và cuốn tiểu thuyết to tổ bố này phải gây
chấn động
giang hồ, cả Ðông lẫn Tây, cả Tà lẫn Chính, và trở thành một
best-seller,
[có lẽ phải
thêm vô, phải có bàn tay lông lá của Xịa nữa] tới lúc
đó, những thi sĩ của những xứ sở Slavic, mà ông ta nhân danh, mới được
Uỷ Ban Nobel ở Stockholm, thương tình để mắt tới.
Giá
như mà ông được Nobel trước đó vài năm, thì lại chẳng sao. Chính vì thế
mà mùi
vị Nobel mới cay đắng làm sao, và thật khó coi đây là một bằng chứng về
một sự quan tâm thực sự của giới độc giả Tây Phương với những nền văn
học Ðông Âu,
và điều này nằm ngoài những thiện ý của Hàn Lâm Thụy Ðiển.
Sau khi được
Nobel, Pạt mới hiểu ra được, và thấy mình, ở trong một đại ác mộng! Một
đại ác mộng
về sự hồ nghi, chính tài năng của mình! Trong khi ông khăng khăng khẳng
định với
chính mình, tác phẩm của ta là một toàn thể, thì cái toàn thể bị bẻ gẫy
vì những
hoàn cảnh.
Nhân dân Nga, chắc là có cả nhà nước VC Nga khốn kiếp, hè nhau bịt mũi,
mi được Nobel vì 1 cuốn tiểu thuyết chẳng ai biết tới, đếch ai thèm
đọc….
Tôi không kiếm thấy trong tác
phẩm của Pasternak tí mùi vị của sự
chống đối triết học của ông, với lý thuyết của nhà nước, ngoại trừ cái
sự ngần
ngại khi phải đối đầu với những trừu
tượng
– và như thế, thuật ngữ “trừu tượng” và “giả trá”, với ông, là đồng
nghĩa – và đây
là chứng cớ của sự chống trả của ông. Cuộc sống của công dân Xô Viết là
cuộc sống
của ông, và trong những bài thơ ái quốc, ông không chơi trò chơi chân
thực. Ông
chẳng nổi loạn gì hơn bất cứ 1 con người bình thường Nga Xô.
Dr Zhivago là 1 cuốn sách Ky Tô, tuy nhiên
chẳng thấy có tí dấu vết nào của thứ khẩu khí làm nên sức mạnh của Dos,
về 1
quan điểm con người chống-Ky-tô.
Ky Tô giáo của Pasternak
là vô thần,
[atheological].
Pasternak là 1 người bị hớp hồn bởi thực tại, đối với
ông, thực
tại thì thật là lạ lùng như một phép lạ. Ông chấp nhận khổ đau vì ở nơi
thâm sâu
của yếu tính của cuộc đời là đau khổ, chết chóc và tái sinh. Và ông coi
[treat]
nghệ thuật như là một quà tặng của Chúa.
Czeslaw Milosz
Note: Pạt được
Nobel, là nhờ XỊA. Điều kiện cho Nobel, là phải có bản dịch tiếng Anh.
XỊA bèn
lập tức cho người dịch, nhờ vậy Pạt được. Nguyễn Huy Thiệp hụt Man Booker, là cũng
do vậy: Đếch có bản dịch tiếng Anh, như tay Manguel, trong ban giám
khảo giải này
cho biết
*
TLS số
đề ngày 1 Tháng Bẩy, 2005,
mục Sổ Tay, bàn về giải Man Booker
Quốc Tế, khác với Booker Prize, dành
cho nhà
văn Hồng Mao, cho biết một "tin động trời", đối với đám viết lách
người Mít: Có tên Nguyễn Huy Thiệp trong danh sách những tác giả thượng
hảo
hạng, fisrt rate, được ban giám khảo lọc ra để lấy người đoạt giải.
TLS trích lời một ông giám
khảo [Alberto Manguel], trên tờ Spectator tháng
vừa qua [Tháng Sáu], "trong danh sách những
tác giả thượng
hạng... chúng tôi đã phải gạt bỏ Peter Handke, Antonio Lobo Antunes....
Nguyen
Huy Thiep, Pascal Quignard, và Christa Wolf, tất cả những người này
đều, hoặc
chưa được dịch sang tiếng Anh, hoặc đã dịch nhưng nay tuyệt bản".
Về tác giả Kadare, người đoạt
giải, [Tin Văn đã loan tin] ban giám khảo dựa trên những bản dịch tiếng
Anh,
được dịch từ tiếng Pháp, dịch từ nguyên bản tiếng Albania, và điều này
làm cho
giải thưởng hơi mất giá, [hơi rẻ tiền], theo người bình luận trên tờ
TLS.
Rẻ tiền, là 60 ngàn Anh Kim!
Nhưng, với tên Nguyễn Huy
Thiệp trong danh sách, quả đúng như Kadare nhận xét, “Danh sách chót
không
thôi, tự nó đã làm nên một gia đình văn học lạ thường rồi.”
Và, Nguyễn Huy Thiệp kể như
đã nhận được giải thưởng, bởi vì Kadare có thể coi như một Nguyễn Huy
Thiệp của Albania.
Tin Văn tính giới thiệu bài
viết về ông, trên Guardian,
khi ông được giải, nhưng nay có bài viết
trên TLS
sẽ cống hiến các bạn dưới đây.
Tin Văn Cũ
Cái sự hồ hởi với Nobel 2009, "của người", cho thấy, có thể đây là
đòn "cách
sơn
đả ngưu" của Mít ta, chăng?
Viện Hàn Lâm Thuỵ Điển không cho DTH Nobel, và nếu cho, cũng chẳng dám
bốc
thơm, thì đành "xoa... đầu" bà Muller, vậy!
Cái gạt nước
xua đi nỗi nhớ.
Mưa xối xả
trên kính trước chiếc xe díp nhà binh được dành riêng cho vị tướng là
một ẩn dụ
bình dị trong văn Kadare. Vào lúc Tướng
Âm Binh được xuất bản, cơn mưa xối xả thường hằng [constant], và
nhiều cảnh
khác ở trong truyện cứ thế lừng lững đi thẳng vào văn học Albania.
Những đám
mây bão xám xịt, bùn, và thực tại ủ rột, đơn điệu của một ngày như mọi
ngày,chúng đối chọi thật sắc bén với phương đông hồng sáng chói không
thể nào
khác được, cùng cả trăm ngàn những vinh quang, những chiến thắng của Chủ Nghĩa Hiện Thực Xã Hội. Cũng thế, là
viên tướng Ý. Ở đây, chúng ta thấy một thủ thuật đắc ý nhất, của nhà
văn, hơn bất
cứ thủ thuật nào khác, nhằm đạt được tham vọng, kéo văn học của xứ sở
của mình
thoát ra khỏi sự dửng dưng, cả về văn phong lẫn đề tài của nó, thoát ra
khỏi
cái nhìn Albania xa vời và bị ám ảnh bởi quá khứ, dưới mắt ngây thơ và
không thể
nào hiểu nổi của người ngoại quốc. Ao ước của nhà văn, hay viễn tượng
của ông,
là làm sao tạo được hình dáng cho một xứ sở Âu Châu, đã trở nên tách
biệt hẳn
ra khỏi Tây Phương, còn hơn cả Tây Tạng, và còn giúp cho những người
dân
Albania, chính họ, nhìn rõ mảnh đất quê hương, như là những người khác
sẽ nhìn
nó như vậy.
Sau lần xuất
bản đầu, 1963, và lần sau, có sửa chữa lại, 1967, chính bản dịch tiếng
Pháp của
tác phẩm, Tướng Âm Binh, Le Genéral de
l’armée morte, 1970, đã đạt cơ sở cho sự nổi tiếng quốc tế của
Kadare. Bản
tiếng Anh, xuất hiện liền sau đó, đã được tái bản ít nhất là sáu lần.
Cái gì đã
khiến cho Kadare, sống trong một chế độ Stalin tàn bạo nhất, không thể
tưởng
tượng được, có đủ can đảm để viết rồi xuất bản một cuốn tiểu thuyết với
những
nhân vật chính là một viên tướng Phát xít và một tu sĩ người Ý? Bởi vì
can đảm
là cần thiết, ở đây….
[còn
tiếp]
Note: Bài này
tuyệt quá, dịch dở dang, giờ kiếm không ra nguyên bản, chán thế. Tướng Âm Binh
vs Tướng Về Hưu! (a)
V/v sự thực
lưu truyền.
Vấn đề này liên
quan tới đạo hạnh của người viết.
GCC
đọc bài viết của Susan Sontag, về chuyến đi Hà Nội của bà, trong
“Styles of
Radical Will” [tạm dịch "Những văn phong của ao ước gốc, cơ bản"].
Trong bài viết
về Godard [nhà làm phim Tẩy] cũng trong cuốn đó, bà trích câu của
Godard làm đề từ:
Có thể thực,
cái chuyện phải chọn giữa đạo và mỹ, nhưng cũng không kém thực, cái
chuyện, mặc dù
chọn món nào, thì sau cũng thấy món kia lòi ra ở cuối đường. Đây là
phận người.
Nguyên văn: “It
may be true that one has to choose between ethics and aesthetics, but
it is no
less true that whichever one choose, one will always find the other at
the end
of the road. For the very condition of the human condition should be in
the
mise-en-scène itself”
Robert
Hass,
không ưa thơ Mandelstam, phán, nhớ đại khái, về 1 ông khác, nhưng nhắm
Mandelstam:
Ông ta đi tù vì là Do Thái, không phải vì là thi sĩ.
Có thể nói, ở cuối đường, những nhà văn VC đều phải đối diện với cái
gọi là đạo
hạnh. Viết về họ là phải nhìn ra điều này. Đâu có phải tự nhiên mà Tô
Hoài viết
“Ba Người Khác”: Ông là 1 trong ba thằng "lăng nhăng” - chữ của Nguyên
Ngọc
– đó.
30.4.2014
“Tác phẩm của
Du Tử Lê xứng đáng được ra ngoài “ánh sáng” sau bao nhiêu năm nổi tiếng
âm thầm.”
Nhà văn
Trung Trung Đỉnh
Theo GCC, âm thầm thú hơn
nhiều!
Tatyana
Tolstaya, trong bài Tưởng niệm Brodsky viết, ông không tới với nước
Nga, nước
Nga bèn "âm thầm" đến với ông.
Nhà thơ Nga kỳ cục không muốn bám rễ vào
đất Nga.
Và cái nhà nước tống xuất ông, khi ông chết, thì bèn quì bên linh cữu
của ông,
như Milosz cho biết.
Hồi hộp trở
về.
Tuyệt!
Hồi hộp trở
về với Đất Mẹ. Chỉ sợ bị Đất Mẹ đá đít không cho về như Thầy Kuốc!
Nói thì
xấu
hổ, nhưng lần đầu về lại Đất Bắc, Gấu rất hồi hộp. Chỉ sợ cả hai đếch
nhận ra
nhau.
Gấu đã từng viết ra cái tâm trạng này, cái gì gì, ơ kìa, thằng chả này,
ta không quen, sao cứ xán tới, hà hà!
Đọc lại Blog
[Yahoo] TV: Lén lút trở về
Note: Tối
qua, trước khi đi ngủ, Gấu đọc một câu thơ của Pablo Neruda, mà Gabriel
Garcia
Marquez lấy, làm đề từ cho cuốn Clandestine
in Chile của ông, thú quá, bèn dịch
để tặng cho chính Gấu, nhân lần sinh nhật thứ 70.
Thế rồi,
sáng dậy, lớ ngớ làm sao, delete mất tiêu. Sau đó, cứ lơ ma lơ mơ, hình
như
đánh mất một cái gì đó, hoá ra là quà tặng, mình tặng cho mình, nhân
cái tuổi
thất thập cổ lai hi!
Oh, dark
captain,
defeated in
my country
may your
proud
wings
still soar
above
the final
wave, the wave of death.
Pablo Neruda
from
"Ode to the Voyager Albatross"
Translated
from Spanish by Magaret Peden
Ôi, vị thuyền
trưởng đen đúa kia ơi
bị đá văng
ra khỏi quê hương của tôi
cầu cho đôi
cánh ngạo nghễ của ông
vẫn hiên
ngang vượt lên đầu sóng dữ,
ngọn sóng cuối
cùng
của Thần Chết.
Lệnh tha của Công An Tiền Giang.
Cái cú nhà
làm phim người Chile, từ bên ngoài lén lút trở về, chơi một cuốn phim
12 năm đất
nước Chile sống dưới sự lãnh đạo anh minh của nhà độc tài Pinochet, vào
đầu năm
1985, lạ thay cũng là cái cú mà Gấu đã toan tính thực hiện, từ bên
trong nước
chơi một phóng sự dài gồm hình ảnh, bài viết , phỏng vấn... về 10 năm
Đại Thắng
Mùa Xuân!
Gấu đã kể sơ
sơ vài lần về vụ này, mà sự thất bại của nó đã đưa Gấu vô trại tù Bà
Bèo, Tiền
Giang, sau nhờ một ông cậu vợ, được tha. Sau chuyến đó, tới chuyến bỏ
chạy quê
hương bằng đường bộ, thành công, nhờ tắm nước sông Chín Con Rồng ở ngay
chân
ngôi chùa Long Vân Tự, tại Parksé mà được đổi kiếp.
Sách Quí
Cuốn sách
quí giá nhất của tôi, là tờ thông hành.
Salman
Rushdie
Nhịp của thời
gian.
Ôm em
trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
TTT
Nếu trong
thơ có tí mùi của ngày sắp tới, nếu thi sĩ là một thứ tiên tri, thì
nhạc luôn
có mùi của hiện tại, và khi hiện tại qua rồi, thì bản nhạc sẽ cất giữ
cho những
người đã từng nghe nó, chút kỷ niệm về nơi chốn, nhạc và người cùng gắn
bó.
Thành thử, vấn đề nghe ở đâu, vào lúc nào, một bản nhạc, là cũng rất ư
quan trọng.
Những cư dân của Sài Gòn, và nói chung Miền Nam đều giữ riêng cho họ,
kỷ niệm lần
đầu nghe nhạc Trịnh Công Sơn, thí dụ vậy, và sẽ nhớ ra rằng, bản nhạc
đã ra đời,
vào thời điểm nào.
Nhưng nhất,
vẫn là kỷ niệm những bài nhạc lính.
TCS do chưa từng đi lính,
nên không
thể diễn
tả được cái cảm giác, nỗi hoài mong, "Một mai qua cơn mê, qua cuộc đời
bình bồng, anh lại về bên em".
Đây là một
thiệt thòi của riêng ông, ảnh hưởng tới chúng ta.
Gấu này chẳng
đã từng lèm bèm rất nhiều lần, về cái lần nghe bản Tinh Nhớ, khi nó vừa mới ra
lò, lần bị gọi đi trình diện nhập ngũ tại Quang Trung, vào những ngày
cận Tết,
và đêm khuya, nghe một tay tân binh đang chờ kiểm tra sức khoẻ như Gấu,
nhớ
nhà, nhớ bồ, và cứ thế huýt sáo miệng bản nhạc, khiến Gấu gần như phát
khùng,
vì nhớ Sài Gòn.
Và nhớ cô bạn.
Bây giờ, nhớ
lại, Gấu hiểu ra rằng, những ngày liền trước đó, Gấu hẳn đã từng nghe
bản nhạc Tình Nhớ, rồi mang
theo cùng với mình vô Trung Tâm Ba, đợi đêm khuya, và, đến hẹn
lại lên, mỗi lần tay tân binh chưa từng nhìn thấy mặt, huýt sáo miệng
điệu nhạc,
là Gấu bèn sẵn sàng, đi thêm lời:
Ôi áo xưa lồng
lộng
Đã xô giạt
trời chiều
Như bờ xa nước
cạn
Đã chìm vào
cơn mưa
Và Gấu cũng
hiểu tại sao "bạn hiền" Đặng Tiến lại lầu bầu:
Tình Nhớ thì
có liên can gì tới phản chiến?
Khi đọc ông
phán như vậy, Gấu rất ngạc nhiên.
Nhưng sau hiểu:
Ông có cùng tình trạng như TCS, nghĩa là chưa từng có một ngày quân vụ.
Đừng nghĩ
là, Gấu nói cạnh nói khoé ông. Nhưng đây là một thiệt thòi lớn lao vô
cùng, vào
lúc cuối đời.
Cái tay thi
sĩ Đỗ KH, "cũng" bạn hiền của Gấu, chẳng đã sợ hãi, sẽ lâm vào tình
trạng đó, và đã phải trở về, nhập ngũ, đi vài đường tay súng, tay đàn
[bà], trước
khi cuộc chiến chấm dứt, sao?
Bạn có nhớ
cái tay Rhett Butler trong Cuốn theo
chiều gió, đang cùng em Scarlett
di tản,
nghe sắp mất Miền Nam bèn đá cho em một phát, trở về bắn một vài phát
đạn, trước
khi đăng ký trình diện học tập cải tạo?
Ôi, chẳng lẽ,
khi TTT ôm Em [Sài Gòn] trong tay, mà đã tiên tri ra được cái nỗi "Nhớ
Em
những ngày sắp tới", khi ông nằm an nghỉ tại một nghĩa trang, ở Huê Kỳ?
Chắc hẳn thế,
vì bạn ông là Mai Thảo, lúc sắp đi, hỏi Cậu Ngọc Dzũng:
Sắp về tới Ký
Con chưa?
(1)
(1) Ký Con
là con phố ngày nào Sáng Tạo
tá túc.
Gấu này, do
may mắn, thoát đời lính, nhưng cái cảm giác, nỗi hoài mong, qua cuộc
đời bình bồng,
anh lại về bên em, là cũng nếm sơ sơ, suốt mấy tuần lễ nằm Trung Tâm Ba
Tuyển Mộ
Nhập Ngũ Quang Trung, ngong ngóng chờ đến ngày cuối tuần, trở về Sài
Gòn,
"Hi" một tiếng với Gấu Cái, rồi lấy xe Honda, chạy suốt Sài Gòn, tới
một con hẻm ở đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn, nhìn cô bạn, coi dung nhan
vưỡn vậy,
hay vì nhớ Gấu, mà có tí sút giảm nào chăng?
Ấy đấy,
chính vào thời gian đó, Gấu được nghe bản 24 giờ phép
EUGENIO DE
ANDRADE (1923-2005)
Brief
September Elegy
I don't know
how you came,
but there
must be a road
leading back
from death.
You are
seated in the garden,
your hands
in your lap, filled with sweetness,
your eyes
resting on the last roses
of these
vast and calm September days.
What music
do you follow so intently
that you
don't even notice me?
What forest,
or river, or sea?
Or is it
within yourself
that
everything still sings?
I would like
to speak to you,
just to tell
you that I'm here,
but I'm
afraid,
afraid the
music all will stop
and you will
cease to see the roses.
Afraid of
breaking the thread
with which
you weave un-remembered days.
With what
words
or kisses or
tears
can one
awake the dead without harming them,
without bringing
them to that black foam
where bodies
and bodies repeat themselves,
parsimoniously,
among shadows?
Stay as you
are then,
filled with
sweetness
seated,
gazing at the roses,
and so very
far away
you don't
even notice me.
Translated from the
Portuguese by
Alexis Levitin
Bi Khúc Ngắn, Tháng Chín
Tôi không biết bằng cách
nào bạn tới
Hẳn là phải có con đường
Dẫn người chết trở lại
Bạn ngồi ở ngoài vườn
Tay đặt trên đùi, ngọt
ngào, êm ái làm sao
Mắt bạn dừng lại ở những
bông hồng cuối cùng
Của những ngày Tháng Chín,
thênh thang và êm ả.
Âm nhạc nào bạn lắng
nghe
Đến chẳng nhận ra sự hiện
diện của tôi?
Rừng nào, hay sông nào,
hay biển nào?
Hay là nó ở trong chính bạn
Mọi ngày xưa, vẫn hát?
Tôi muốn nói với bạn
Chỉ để rằng, có tôi ở đây
Nhưng tôi lại sợ
Âm nhạc sẽ ngưng
Và bạn sẽ ngừng ngắm những
bông hồng
Sợ làm đứt sợi
tơ
Với nó, bạn dệt những ngày
không thể nào tưởng nhớ được
Bằng những lời nào
Những cái hôn nào
Những giọt nước mắt nào
Chúng ta có thể đánh thức
những người đã chết
Mà không làm tổn thương
họ?
Không khiến họ trở lại biển
đen
Nơi xác người, xác người,
tự chúng lập lại chúng,
Một cách dè sẻn, giữa những
cái bóng?
Cứ ở đó nhé
Tràn đầy êm ái, ngọt ngào
Ngắm những bông hồng,
Xa ơi là xa
Chẳng cần bạn để ý gì đến
tôi.
EUGENIO DE
ANDRADE (1923-2005)
Brief September Elegy
I don't know
how you came,
but there
must be a road
leading back
from death.
You are
seated in the garden,
your hands
in your lap, filled with sweetness,
your eyes
resting on the last roses
of these
vast and calm September days.
What music
do you follow so intently
that you
don't even notice me?
What forest,
or river, or sea?
Or is it
within yourself
that
everything still sings?
I would like
to speak to you,
just to tell
you that I'm here,
but I'm
afraid,
afraid the
music all will stop
and you will
cease to see the roses.
Afraid of
breaking the thread
with which
you weave un-remembered days.
With what
words
or kisses or
tears
can one
awake the dead without harming them,
without bringing
them to that black foam
where bodies
and bodies repeat themselves,
parsimoniously,
among shadows?
Stay as you
are then,
filled wi th
sweetness
seated,
gazing at the roses,
and so very
far away
you don't
even notice me.
Translated from the
Portuguese by
Alexis Levitin
Time of Grief
SMALL
OBJECTS
My
contemporaries like small objects,
dried
starfish that have forgotten the sea,
melancholy
stopped clocks, postcards
sent from
vanished cities,
and
blackened with illegible script,
in which
they discern words
like
"yearning;' "illness;' or "the end."
They marvel
at dormant volcanoes.
They don't
desire light.
Chuyện nhỏ, Vật nhỏ
Người cùng
thời với GNV thích ba chuyện nhỏ,
sao biển
khô, quên mẹ mất biển cả từ đời nảo đời nào,
những chiếc
đồng hồ buồn ngưng chạy, những tấm bưu thiếp,
gửi từ những
thành phố đã biến mất,
đen thui với
những chữ không làm sao đọc được,
như ‘khát
khao’, ‘bịnh’ hay, ‘sau cùng’.
Họ ngỡ ngàng
trước những ngọn núi lửa đã nguội, và đang ngủ.
Họ đếch
thích ánh sáng
LIFE IS NOT
A DREAM
In the
beginning, freezing nights and hatred.
Red Army
soldiers fired automatic pistols
at the sky,
trying to strike the Highest Being.
Mother
cried, perhaps remembering
the
sentimental stories of her childhood.
Coldwater
Street ran beside the river
as if trying
to outrace it-
or to reach
its distant sources,
still pure
beyond a doubt, recalling the dawn's joy.
If life is a
dream,
then the
phoenix may actually exist.
But in
Krakow life revived
under the
sign of common pigeons:
in the
Planty Gardens, alongside veterans
clad in the
tattered uniforms
of at least
three armies,
young
beauties made appearances,
and
music-loving plane trees donned
their finest
new foliage outside Symphony Hall.
Should one
honor local gods?
A beggar at
the marketplace in Lucca
moved from
stand to stand
garnering
tributes-proud as Diana.
It's more
difficult to find nymphs
where we
live, though,
and great
Pan didn't leave his calling card.
Important
memories-stern monuments
to
monotheism - were inscribed
only in the
trees and on church walls.
We tried
courage, since there was no exit.
We tried
cunning, but it failed.
We tried
patience and fell asleep.
We wrote
poems like leaflets and leaflets
like pages
from burgeoning epics.
Dreams grew
like hibiscus flowers.
Dark wells
opened in the night.
We tried
cynicism; some of us succeeded.
There was
great joy, don't forget.
We tried
time; it was tasteless, like water.
Finally,
much later, for unknown
reasons, the
clocks began
to revolve
ever faster above us,
as in
archival, silent films.
And life
went on, inevitable life,
so
skeptical, so practiced,
coming back
to us so insistently
that one day
we felt the taste of ordinary failure,
of common
tragedy upon our lips,
which was a
kind of triumph.
Đời thì
không phải là 1 giấc mơ
Vào lúc thoạt
đầu, thì là những đêm lạnh giá, và hận thù
Hồng Quân bắn
súng lục như điên
Lên bầu trời,
tính hăm dọa Thượng Đế.
Mẹ khóc, có
lẽ nhớ những câu chuyện làm mủi lòng khi còn là 1 cô bé
Con phố
Coldwater Street chạy kế bên con sông,
Như muốn vượt
lên nó –
hay là tới
được những nguồn xa xôi,
vẫn trinh
nguyên, vượt quá hồ nghi, gợi nhớ niềm vui rạng đông
Nếu đời là 1
giấc mơ,
thì chim phượng
hoàng hẳn là có thực.
Nhưng cuộc sống
ở Krakow đã sống lại
dưới dấu hiệu
của những con chim bồ câu chung:
tại công
viên, dọc theo những cựu chiến binh,
trong những
bộ quân phục rách bươm, của ít nhất là ba thứ quân đội,
những em
xinh như mộng khoe nhan sắc,
và những cây
tiêu huyền mê âm nhạc
xúng xính
trong những tàng lá đầu tiên tuyệt vời của chúng,
ở phía bên
ngoài Viện Âm Nhạc Hòa Tấu.
Liệu ai đó
có nên vinh danh những vị thổ thần?
Một đấng ăn
mày ở Chợ Bến Thành nhích nhích,
từ 1 chỗ lạy
ông đi qua, tới 1 chỗ lạy bà đi lại,
thu gom những
đồng bạc Cụ Hồ,
ấy chết xin
lỗi, những lời vinh danh, tưởng niệm – hãnh diện như Diana.
Tuy nhiên,
thật quá khó, để mà tìm những nàng ‘nymphs’,
và vị thần
Pan vĩ đại thì lại quên không để lại tấm thẻ gọi điện thoại.
Những kỷ niệm
quan trọng – những đài tưởng niệm lạnh lùng thờ độc thần –
thì chỉ được
khắc ở trên cây hay trên tường nhà thờ.
Chúng ta thử
can đảm, kể từ khi không còn lối ra.
Chúng ta thử
bịp, nhưng thất bại.
Chúng ta thử
kiên nhẫn, và ngủ gục.
Chúng ta làm
thơ như những tờ rơi, tờ rớt
như những
trang sách từ những sử thi, hùng ca đang nở rộ.
Những giấc
mơ mọc lên như những bông dâm bụt.
Những cái giếng
âm u mở vào ban đêm
Chúng ta thử
trò đểu giả; có vài tên thành công
Có niềm vui
lớn, đừng quên
Chúng ta thử
thời gian; nó nhạt thếch như nước lã.
Sau cùng,
mãi thật lâu sau đó,
Không hiểu
vì những lý do gì, những cái đồng hồ tích tắc trở lại,
nhưng chạy
ngược chiều, nhanh như chưa từng như thế, ở trên đầu chúng ta,
Như trong những
cuốn phim câm, chứa trong kho.
Và cuộc đời
lại tiếp tục, cuộc đời không thể nào tránh được,
Thật nản, thật
thực dụng.
Nó trở lại với
chúng ta thật nhẫn nại, thật nài nỉ, dai như điả đói
đến một ngày
nào đó, chúng ta cảm thấy mùi của sự thất bại bình thường,
của bi kịch
chung,
ở trên môi của
chúng ta,
giống như là
1 thứ chiến thắng.
Adam
Zagajewski: Eternal Enemies
30.4.2014
Note: Bài dưới đây, đầu
tháng lòi ra. Đúng tháng Tư mới tếu chứ!
Charles
Simic, Poet Laureate, nhà thơ với vòng nguyệt quế, ["nhà thơ nhà nước",
với thế giới CS], đã gọi cảm giác ‘gai gai’ như thế, là "sành điệu"!
Hy sinh đã
đau đớn rồi, hy sinh để góp phần dựng nên cái nhà Mít đàng hoàng, đâu
chẳng thấy,
mà chỉ thấy cỗ máy toàn trị, lại càng đau đớn, và hàng năm tưởng niệm
thì lại vừa
đau lại vừa nhục!
Chúng ta là những kẻ sành điệu về cái sự độc ác!
Connoisseurs
of Cruelty, Những kẻ sành điệu về sự độc ác là tên bài viết của
nhà thơ Simic,
khi điểm một số sách mới ra lò viết về Bosnia trên tờ NYRB, số đề ngày
12 Tháng
Ba, 2009. Trong số đó, có cuốn của Wojciech Tochman, và cái tên của
cuốn sách của
ông miêu tả đúng cái tình trạng gai gai của chúng ta, nhưng ông gọi là,
"Như ăn sỏi, ăn đá: Sống sót Quá khứ Bosnia" [Like Eating a Stone:
Surviving the Past in Bosnia, by Wojciech Tochman, Antonia Lloy-Jones
dịch từ
tiếng Ba Lan, nhà xb Atlas, 141p, $20.00]
Chúng ta
cũng đang sống sót Quá Khứ Cuộc Chiến Thần Kỳ. "Chúng ta" cũng cảm thấy
gai gai,
như ăn sỏi ăn đá, mỗi lần tưởng niệm một liệt sĩ nằm xuống vì nghĩa cả,
như
Dương Thị Xuân Quý, như Đặng Thuỳ Trâm, thí dụ.
Nhưng chắc
chắn đếch có tên sĩ quan Ngụy, là thằng em trai của Gấu, trong số những
kẻ được
vinh danh, tưởng niệm, ở cả hai bên Quốc Cộng!
Gấu đếch cho
phép!
Walter
Benjamin coi Herodote là người kể chuyện đầu tiên của người Hy Lạp, và
một
trong câu chuyện ông kể, là về một vì vua Hy Lạp bị kẻ thù bắt, và làm
nhục bằng
cách bắt nhà vua đứng nhìn cuộc diễu hành của kẻ thắng trận, và trong
số những
tù nhân lũ lượt đi qua, có cô con gái của nhà vua. Dân chúng nhìn thấy
công
chúa bị làm nhục ồ lên khóc, nhưng nhà vua tỉnh bơ, và chỉ bật khóc,
khi thấy
người hầu già trong số những tù nhân. Ngài bật khóc, vò tai, đấm đầu tỏ
ra hết
sức đau lòng.
Walter
Benjamin giải thích, câu chuyện kể chỉ mở ra, bằng chi tiết mới mẻ đó,
nó chỉ
trở nên sống động, đúng vào có cái chi tiết lạ thường đó, thấy con gái
bị làm
nhục, không khóc, mà thấy người hầu bị hành hạ thì bật lên khóc.
Montaigne, qua Benjamin kể
lại, khi được hỏi, trả lời: Khi nỗi đau thật
đầy,
thì chỉ cần một giọt nước là làm tràn ly.
Nhưng, theo Benjamin, người ta có thể
giải thích, nỗi đau công chúa bị làm nhục là nỗi đau riêng, của hoàng
gia. Hay,
nỗi đau tự chứa trong nó, và chỉ bùng ra, vào lúc ‘détente’ [relax].
Nhìn thấy
người hầu già là lúc xả ra, xì ra, của nỗi đau.
*
Gấu này lèm
bèm, lăng ba vi bộ chán chê, chỉ để nói, có lẽ đã đến lúc détente rồi.
Cứ gân cổ
lên hoài, niệt sĩ, niệt sĩ, không có gì quí hơn độc nập tự do, chưa
chán sao?
Ba mươi năm
mới có ngày nay, vui sao nước mắt lại trào. Trào vãi ra rồi, ‘détente’
là… dzừa!
Khi cơn đau
lên đầy, là thuyền đã ra khơi.
Note: Đọc lại
bài cũ, nhờ server đầu tháng lòi ra, cùng lúc, đọc bài sau đây, của 1
trong “Ba
Lan Tam Kiệt”, và bèn “liên tưởng”, thi sĩ BMQ/Orpheus, thay vì tham dự
lễ vinh danh và tưởng niệm cái con mẹ gì đó, bèn làm 1 chuyến ngao du
địa ngục,
tìm phu nhân, nhà văn- liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý/Eurydice, và trở về
lại dương
thế, cùng lúc, khám phá ra 1 thứ thơ mới cho xứ Mít:
Thơ của phản ảnh và bóng đen.
Orpheus comes into the light of day. He with joyful pride that he has
experienced a revelation and discovered new kind of literature, called,
from
now on, the poetry of reflection and darkness.
II
THE GODS OF
THE COPYBOOK HEADINGS
H.E.O
To Kasia
DO WE HAVE
to? asks Eurydice. Hermes smiles, he is silent. As they walk, darkness
parts
before them and immediately closes after them. They pass through
countless
gates.
-Is it necessary?
asks Eurydice. Orpheus is
old, I won't live with him much longer. I have forgotten the herbs I
used for
his throat which was sore from singing. I have forgotten what it is to
get up
at dawn. Or what a man wants when he touches my belly.
-Your memory will
come back, Hermes says,
gently and without conviction.
-You want to
cheer me up, says Eurydice.
The road goes uphill, it is not a road but
an obedient parting of cliffs. Flints smell like dried lightning. The
small
pebbles underfoot have completely forgotten the sea.
-Does he see us?
Eurydice asks with
concern.
With a motion of
his head, Hermes denies
it.
-I see his back.
Always, when I was alive,
I was moved by a man's back; it is helpless. But I don't feel this any
longer.
Tenderness-what is tenderness?
-The joy of
touch, Hermes answers, a kind
of lower ecstasy.
-My fingers are
no longer alive, complains
Eurydice. I couldn't a needle or remove a mote from the eye of someone
I
loved.
One more turn and the descent begins.
Darkness, as if slanted, leaning over another deeper darkness.
-Eurydice, Hermes
says in a low voice, I
will reveal the secret of fate. Orpheus will soon die in suspicious
circumstances. You will be free and take as husband a healthy athlete
with
shoulders like the branches an oak. He will be a young man, without
imagination, wise enough not to desire unattainable things. You can't
imagine
how invigorating it will be after a life with a talented crybaby.
-I think,
Eurydice says quickly, they would
stone me to death rather than permit a second marriage. I will become a
national widow, an advertisement for faithfulness and poetry. They will
put me
on a cliff where I am supposed to mutter inspired prophecies, or
imprison me in
a temple which amounts to the same thing. Then I will die for a second
time.
How does one die a second time? I hope it isn't as painful and
difficult as the
first.
Orpheus hears all
of this through the
pouring darkness. For the first time he admires Eurydice's wisdom. Is
it really
necessary to die in order become an adult?
A basalt
landscape opens before him, as stately as a burnt forest, motionless as
the eye
of a volcano or the inside of thick matter. Azure of night burnt by
nothingness.
I sang dawns
the coronations of the sun
the journey
of colors from morning to evening
but I forgot
about you
eternal
night
Orpheus suddenly turns toward the shadows
of Eurydice and Hermes and shouts in rapture-I've found it! The shadows
disappear. Orpheus comes into the light of day. He bursts with joyful
pride
that he
has experienced a revelation and discovered new kind of literature,
called,
from now on, the poetry of reflection and darkness.
Zbigniew
Herbert: The Collected Prose
1948-1998
Eurydice,
Hermes thầm thì nói, ta sẽ bật mí phần số của mi. Orpheus chẳng mấy
chốc sẽ chết
trong những hoàn cảnh ám muội. Mi sẽ được tự do, và sẽ có 1 ông chồng
khoẻ mạnh,
một lực sĩ vai rộng như cánh phản. Một người đàn ông trẻ, không tưởng
tượng, “liên
tưởng” cái con mẹ gì hết, khôn như 1 tên Bắc Kít, hay tệ lắm, thì cũng
đủ để mà
không ao ước những điều quá tầm tay, đếch sờ tới được. Mi không thể nào
tưởng
tượng ra được cuộc đời sẽ đẹp, sẽ cường tráng, sẽ sướng điên lên như
thế nào,
sau khi vớ phải 1 thằng chồng chỉ biết vòi.
-Chúng sẽ không
cho tôi lấy chồng lần nữa đâu. Chúng sẽ ném đá tôi cho tới chết. Tôi sẽ
trở thành
một góa phụ quốc gia, một “dấu ấn” của trung kiên và thi ca. Chúng sẽ
đẩy tôi tới
mỏm đá, ở đó, tôi sẽ thì thầm những điều tiên tri hứng khởi, hay bỏ tù
tôi, vì một
điều cũng như thế. Và rồi tôi sẽ chết một lần thứ nhì.
Như thế nào, chết
lần thứ nhì? Tôi hy vọng nó không đến nỗi đau đớn và khó khăn như lần
đầu.
Orpheus nghe
tất cả những lời nói đó qua bóng tối dày đặc cứ thế tuôn trào. Lần đầu
tiên,
anh cảm phục sự khôn ngoan, thông thái của Eurydice.
Liệu có cần phải
chết đi để
trở thành một người lớn?
Đường
ra trận
mùa này đẹp lắm
Không
có gì quý hơn Độc lập, Tự do!
Ta
vượt Trường Sơn cùng tiếng gọi Bác Hồ
Ta dấn bước như chính lòng ta gọi
Trăm dốc nghìn đèo không rời đích Tự do
Ta
ca ngợi những buổi bình minh
Mặt trời chân lý chiếu qua tim
Ta
quên Em của Ta,
Đêm Dịu Hiền
Đêm Vĩnh Cửu
Orpheus bất
thình lình quay về phía những cái bóng của Eurydice và Hermes, và sảng
khoái la
lên - Ta kiếm thấy rồi!
Những cái bóng
biến mất.
Orpheus trở
về với ánh sáng ban ngày. Anh bật ra niềm tự hào, hãnh diện, sung
sướng, rằng thì
là mình đã trải qua mặc khải, và đã khám phá ra một thứ văn chương mới,
được gọi
là, kể từ giờ này, thơ của phản chiếu và của bóng đêm
Tuyệt tác thế giới
Cassandra,
nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, được thần Apollo ban cho tài tiên
tri, nhưng
do từ chối tình yêu của Apollo nên bị thần trù eỏ, mi tiên tri, nhưng
đếch ai
tin điều mi tiên tri.
Trong bi kịch Agamemnon
của Aeschylus, Cassandra cảnh cáo đám Mít Miền Nam, đừng rước Yankee
mũi tẹt vô,
đừng đuổi Yankee mũi lõ. Đếch ai nghe. Thế là mất mẹ Miền Nam. Đến lúc
đó, lời
tiên tri mới thành hiện thực!
Hà, hà!
Nhưng ít người
biết số phận của Cassandra, sau khi thành Troy bị mất. Em bị Yankee mũi
tẹt bắt,
hãm hiếp, và trao cho Víp Va Ka, Trùm VC nằm vùng, làm bồ nhí. Nhưng em
bị ám
sát, và thê thảm là, em nhìn thấy trước tất cả những điều này!
Hà, hà!
Lần cuối mà
miền Nam tự do có buổi sinh hoạt để vinh danh Vũ Hoàng Chương là vào
Tháng Ba
năm 1975, tại phòng trà của Khánh Ly, do Mai Thảo và Thanh Tâm Tuyền tổ
chức.
Ðã 35 năm tròn rồi. Sau đó là cảnh chia ly tan tác. “Vàng tung cánh
hạc”... như
ánh chớp chợt lóe rồi vụt tắt.
Dư âm còn lại
là tiếng nhạc lãng đãng trong chiều tà. Sau đấy là cõi tối đen của thơ
và nhạc...
Quỳnh Dao
Tác giả nhớ
lộn, vì theo bài viết trên Diễn Đàn Thế Kỷ, post lại bài viết trên Văn,
thì đó
là ngày 16.1.1975.
Nhưng câu
phán, "Sau đấy là cõi tối đen...", thì quả là thần sầu, bởi vì, một
cách nào đó, từ đó vọng lên câu của Holderlin:
Tại sao thi
sĩ trong thời khốn kiếp?
Và cùng với
nó, là những lèm bèm của Heidegger về đêm đen, về hậu kỳ, mạt kỳ của
thơ, và nhất
là những lời lèm bèm của ông, về Rilke: Thi sĩ của đêm đen.
Bởi thế, mà
Heidegger, trong "Tại sao thi sĩ, trong thời điêu đứng?", coi Rilke
là thi sĩ của đêm đen, của mạt kỳ, của thời điêu đứng.
Chỉ có triết
gia, thì mới lèm bèm về thơ, tới chỉ, và chỉ có Heidegger, với kinh
nghiệm, đã
từng phò Nazi, thì mới phán về thơ thời mạt kỳ, tới chỉ. Bài "Tại sao
thi
sĩ trong đời điêu đứng?", quả là bảnh nhất trong những bài phán về thơ,
và
nhất là, thơ tù.
What gets
left of a man amounts
to a part.
To a spoken part. To a part of speech.
Joseph
Brodsky: A Part of Speech
Những gì còn
lại của một người dồn
một mảnh. Mảnh
ngôn. Mảnh lời.
Ta còn để lại
gì không
Kể non đá lở,
nọ sông cát bồi.
....
Ta van cát bụi
bên đường,
Dù nhơ dù sạch
đừng vương gót này.
Để ta trọn một
kiếp say,
Cao xanh liều
một cánh tay vói trời.
Nói chi thua
được với đời,
Quản chi những
tiếng ma cười đêm thâu.
Tâm linh đốt
nén hương cầu,
Nhớ quê rằng
rặc ta sầu đó thôi
Bao giờ ta
trở về ngôi,
Hồn thơ còn
lại luân hồi thế gian.
Một phen đã
nín cung đàn,
Nghĩ chi còn
mất hơi tàn thanh âm.
Vũ Hoàng
Chương: Nguyện cầu
Ho Chi Minh
Visiting
President Ho Chi Minh, I found him very courteous, and he explained the
difficulties which had made him refuse my previous visit. He took me
for a walk
in the countryside surrounding his HQ. One had to keep a weather-eye
open for
American bombers. A helicopter approached and I wondered whether it was
American, but it proved to be one of 'ours' and landed. A very pretty
European
girl appeared and began to walk off on her own. "Is she safe". I
asked Ho Chi Minh and he called after her, "Come back. You don't know
what
our boys mightn’t want to do with you."
[Thăm Chủ Tịch
Hồ Chí Minh, tôi nhận thấy ông rất lịch sự. Ông giải thích những khó
khăn khiến
ông từ chối lần thăm trước của tôi. Ông dẫn tôi làm một vòng dạo quê,
quanh Tổng
Hành Dinh của ông. Mọi người lúc nào cũng phải trông chừng máy bay Mẽo.
Một chiếc
máy bay lên thẳng sà xuống, tôi nghĩ thầm, dám tụi khốn đó nhưng hoá ra
là của
"phe ta". Chiếc lên thẳng đậu xuống mặt đất, và một em Âu Châu xinh đẹp
xuất hiện, cứ thế làm một đường tự biên tự diễn, vung va vung vẩy đi
một mách,
không thèm ngó ngàng mấy đồng chí công an hay cận vệ...
"Này,
liệu con bé có yên ổn không đấy", tôi hỏi ông Hồ. Ông gọi với theo cô
gái:
"Quay lại đây, con ngốc! Mày không sợ mấy thằng bỏi của chúng tao làm
thịt
mày hả?"].
Graham
Greene: Một Thế Giới Của Riêng Tôi, Nhật
Ký Mơ, A World of My Own, A Dream Diary,
[nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1992].
Bài viết ngắn
trên, chắc là phịa, hoàn toàn phịa. Nhưng nó có nguồn của nó, là 1 sự
kiện thực,
được Greene kể lại trong Tẩu Vi Thượng
Sách, Ways of Escape.
Greene ra Hà
Nội xin gặp Bác, Bác phán OK, nhưng đợi hoài đợi hoài, cuối cùng GG
phải phịa
ra 1 cái tin gì đó, như là 1 cú đe dọa, mi không gặp ta là ta sẽ gì gì
đó, và
Bác hoảng quá, bèn tiếp liền!
Trên TV
có
viết về cú này, và về lần tiên trong đời Greene được hít tô phe, trong
những
ngày chờ gặp Bác.
30.4.2014
Cũng trong số
báo TLS 7 March 2014 có bài của Robert Chandler, viết về nhà thơ thất
lạc của
Gulag, a lost poet of Gulag. Bài này làm nhớ Nguyễn Chí Thiện và
những vần
thơ tù của ông.
Tuy nhiên, nhà thơ thất lạc mà Chandler kiếm ra, hóa ra
là nhà
văn số 1 của Gulag - thê lương hơn nhiều so với Solz nên đáng số 1 hơn,
theo
GCC – tác giả của cuốn Chuyện kể về trại
tù Kolyma Tales.
Bài này tuyệt
vời. Đúng dịp 30 Tháng Tư, vinh danh mấy nhà tù VC, Nguyễn Chí Thiện,
Thanh Tâm
Tuyền, Tô Thùy Yên….
Cái cú
Nadeau khám phá Chalamov, kẻ sống sót trại tù Kolyma, khủng khiếp nhất
Gulag,
mà chẳng thú sao?
Tôi không
tin là có Chalamov, cho đến khi ông ta gửi hình cho tôi.
Chalamov, je
n'étais pas sûr qu'il existait! Jusqu'à ce qu'un jour il m'envoie
lui-même sa
photo. (1)
Về câu hỏi,
tại sao đầy tù cải tạo lên phía Bắc, đã có một lần Gấu đưa ra một câu
trả lời,
khi đọc một số Granta.
Nay có câu
trả lời đơn giản hơn của Shalamov:
Nature
simplifies itself as it heads toward the poles (and we head north now
because
so many scores of thousands were doing so, as Stalin's rule developed,
and as
the camps crazily multiplied). Nature simplifies itself, and so does
human
discourse.
Thiên nhiên
tự giản tiện chính nó khi hướng về phía cực, (và chúng tôi, bây giờ
hướng bắc, ấy
là vì hàng hàng lớp lớp đã đang làm như thế, khi chế độ Stalin phát
triển, khi
nhà tù cứ khùng điên nở rộ, tăng trưởng lên mãi). Thiên nhiên tự giản
tiện, và
cũng vậy, cách ăn nói của con người cứ thế co lại.
Kolyma Tales [Chuyện trại tù
Kolyma]
Varlam
Chalamov
L'ancien Zek
rend visite à Pasternak dès sa sortie du Goulag en 1953.
"La porte
s'ouvrit aussitôt, Pasternak était sur le seuil. Des cheveux gris, un
teint
mat, de grands yeux brillants, une mâchoire lourde, des mouvements vifs
et
harmonieux. Un petit vestibule, un porte-manteau, à droite la porte de
son
cabinet de travail, et au fond, une pièce avec un piano jonché de
pommes, un
profond divan contre le mur, des chaises. Aux murs, des aquarelles de
son père.”
Vừa ra tù là
đi kiếm Pasternak liền. Bài trên TLS cho biết lý do. Ông sống sót, 1
cách nào
đó, là nhờ thơ Pasternak:
Và tôi thầm thì chúng, như những lời cầu nguyện.
Chúng là nước làm tôi sống lại
They were water to revive me
Bức tượng Phật, keep me safe, giữ mạng sống, nơi trận tiền
Ngôi sao dẫn đường của tôi.
Nguyễn Chí
Thiện thì có Lý Bạch, bạn thơ/nhậu.
30.4.2014
Mới &
Cũ. Mua rồi, về nhà mới biết! Nhưng có khác.
Cũng giống 30 Tháng Tư, mỗi năm mỗi
khác!
]
Einstein,
khoảng 1910, khi đã cho ra lò thuyết tương đối. Những bức
thư riêng của ông, viết trong năm sôi động, lần đầu tiên được mở ra cho
công
chúng.
Một cái
thoáng nhìn, vào bên trong trái tim và cái đầu, của thiên tài vĩ đại
nhất thế kỷ
20.
[Trích Thời
Báo, Time, July 17]
30.4.2014
CHÂN DUNG HAY “CHÂN TƯỚNG”
NHÀ VĂN ?
(kỳ
2)
Nhà
thơ Nguyễn Bính, tham gia
cách mạng từ 1947, về Hà
nội năm 1954, làm báo tư nhân Trăm hoa từ năm 1956. Thời đó, báo của
Nguyễn
Bính là cái gai đối với các nhà lãnh đạo văn nghệ. Ông “cả gan” chê thơ
Tố Hữu
và Xuân Diệu :”Vì những sai lầm nghiêm trọng, cần phải xét lại toàn bộ giải thưởng văn học 1954-1955;
đề nghị
đưa tập thơ Việt Bắc xuống giải nhì. Loại tập thơ Ngôi sao và một số
quyển
không xứng đáng.”. Táo tợn hơn nữa, Trăm Hoa còn “đề nghị bỏ lệ khai
báo trong
chính sách quản lý hộ khẩu”. Tất nhiên chỉ ra được vài số Trăm Hoa
“chết yểu”
.Tuy không xơi đòn nặng như Nhân Văn Giai phẩm nhưng Nguyễn Bính cũng
phải rời
Hà Nội về Nam định làm anh nhân viên ngoài biên chế dưới sự “quản lý
chặt chẽ ”
của Trưởng ty văn hóa, nhà văn Chu Văn. Trong thơ chân dung về nhà thơ
tình số
1 VN này , Xuân Sách điểm có hai tác phẩm tiêu biểu Lỡ Bước Sang Ngang
(1940),
Giếng Thơi (1957) nhưng vẫn không quên “sự kiện báo Trăm Hoa” với tình
cảm xót
xa :
“Hai lần “lỡ bước sang ngang “
Thương con bướm đậu trên dàn
mồng tơi
Trăm hoa thân rã cánh rời
Thôi đành lấy đáy “giếng
thơi” làm mồ.
Nhà thơ Tú Mỡ trước cách mạng
đã từng “ngang ngạnh”
trong “dòng nước ngược” :
“Trong đình quan khách cỗ bàn.
Vòng ngoài dân đói hàng ngàn
xúm đông
Há mồm lố mắt đứng trông
Chúc thầm các cụ các ông muôn
đời”
Vậy nhưng từ ngày theo kháng
chiến thì “Tú mỡ” đã
thành “Tú tóp” :
“ Một nắm xương khô cũng gọi
mỡ
Quanh năm múa bút để mua vui
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước
ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi
xuôi.”
Nhà thơ Quang Dũng tác giả
“Tây tiến”- một trong số
ít bài thơ hay nhất thế kỷ, năm 1957 phải đi chỉnh huấn trong vụ Nhân
Văn Giai
phẩm , từ đó ông sống rất nghèo ,lặng lẽ trong cương vị biên tập báo
Văn Nghệ
và sau là NXB Văn Học. Năm 1978, tôi cùng ăn cơm với ông tại nhà ăn tập
thể NXB
Văn học, Quang Dũng cao to nên ăn rất khỏe lâu lâu lại thấy ông đứng
lên đi xin
thêm cơm. Bà Gái cấp dưỡng lúc đầu còn cho thêm cơm, sau chỉ cho …
miếng cháy.
Xuân Sách viết chân dung ông với lời lẽ xót thương và mến phục :
““Sông Mã xa rồi tây tiến
ơi...”
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp
người.
“Áo sờn thay chiếu anh về đất”
Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Nữ thi sĩ Anh Thơ (1921),
được giải thưởng của Tự Lực
Văn đoàn năm 1939 khi mới 18 tuổi, tác giả tập “ Bức tranh quê” (1941)
. Đi
cách mạng năm 1945 trở thành cán bộ phụ nữ và làm thơ cách mạng, đại
loại như :
CON ĐÃ VỀ NƠI BÁC Ở NGÀY XƯA
Bác về, mời cụ “Các Mác’’ về,
trên núi đá
Trong cả lòng hang, Bác tạc
tượng người.
Như tạc niềm tin cho con cháu
đời đời
Từ thẳm rừng sâu ngời lên chủ
nghĩa.
Bởi thế, Xuân Sách có vẻ tiếc
cho bà :
Ấy "bức tranh quê" đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
Khắc khoải kêu chi suốt một
đời.
Nhà văn Vũ Trọng Phụng, tiểu
thuyết gia vào loại
hàng đầu ở ViệtNam nhưng số phận tác phẩm của ông thật bi thảm. Năm
1957, ông
Trương Tửu và Trần Thiếu Bảo (nhà in Minh Đức) tổ chức giỗ Vũ Trọng
Phụng và
tái bản “Số đỏ”. Có kẻ ỏn thót với Ủy viên Bộ chính trị Hoàng Văn Hoan
là Vũ Trọng
Phụng viết bài nói xấu ông ký ga , không may bố ông “lãnh đạo cao cấp”
này lại
cũng làm nghề đó. Thế là một chiến dịch triệt hạ Vũ Trọng Phụng được
phát động.
Ông bị quy là đệ tử của Freud, rồi ai đó moi trong thư viện ra bài báo
của ông
“Nhân sự chia rẽ giữa đệ tứ và đệ tam quốc tế, ta thử ngó lại cuộc cách
mệnh cộng
sản ở Nga từ lúc khỏi thủy cho đến ngày nay" in trên Đông Dương tạp chí
số
ra ngày 25/9/ 1937, ông bị quy là phần tử Trotskít. Từ đó Vũ Trọng
Phụng coi
như bị “khai trừ” khỏi văn đàn. Sau này khi tôi về NXB Văn Học, nhà phê
bình
văn học , Giám đốc Như Phong rỉ tai tôi :” Trong cuộc họp phê phán Vũ
Trọng Phụng
ở Thái Hà ấp toàn những nhà văn hàng đầu mà không một thằng nào dám mở
mồm bênh
Vũ Trọng Phụng lấy một câu…”. Mãi tới thời kỳ đổi mới, ông Lý Hải Châu,
GĐ NXB
Văn Học mới lần lượt tái bản tác phẩm của Vú Trọng Phụng. Khắc họa chân
dung
ông, Xuân Sách đầy lòng cảm phục :
Đã đi qua một thời "Giông tố",
Qua một thời “cơm thầy cơm cô”
Còn để lại những thằng “Xuân
tóc đỏ”
Vẫn nghênh ngang cho đến tận
bây giờ”
Nhà văn Nam Cao , cha đẻ của
Thị Nở, Chí Phèo, cán
bộ cách mạng, từng phụ trách báo Cứu Quốc, hy sinh năm 1951 trên đường
công tác
thuế nông nghiệp ở khu III.Giả dụ ông còn sống như các nhà văn cùng
thời khác ,
không hiểu có còn đứng vững trên lập trường cách mạng trong cơn “tai
biến” “
Nhân Văn Giai Phẩm” như Nguyễn Huy Tưởng
Nguyễn Đình Thi, Tô
Hoài…không ? Xuân Sách viết về
ông đầy ưu ái :
“Em còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn mà vẫn đợi chờ tương
lai
Thương cho thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say
Chí Phèo!”
Nhà thơ, kịch tác gia Thế Lữ
, tác giả của “Mấy vần
thơ” (1935) trong có những bài nổi tiếng : Nhớ rừng, Tiếng trúc tuyệt
vời, Tiếng
sáo Thiên Thai, Vẻ đẹp thoáng qua, Bên sông đưa khách, Cây đàn muôn
điệu và
Giây phút chạnh lòng. Năm 1936, hoạt động kịch với Ban kịch Tinh Hoa,
ban kịch
Thế Lữ . Sau năm 1947, ông tham gia kháng chiến, năm 1957 được bầu làm
Chủ tịch
Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, hầu như không viết gì .
Xuân Sách tiếc cho ông đã quá
sớm “về vườn bách
thú”:
“ Với tiếng sáo Thiên Thai
dìu dặt
Mở ra dòng thơ mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn
hơi “
Nhà văn Bùi Hiển, nổi tiếng
với truyện ngắn “Nằm vạ
“ (1940), nhưng sau đó tham gia cách mạng quá sớm, không viết được gì
nhiều, nổi
bật là tập “Trong gió cát”. Năm 1958, ông viết truyện ngắn “Ngày công
đầu tiên
của cu Tí” để cổ vũ cho phong trào hợp tác xã. Truyện ngắn này được sử
dụng
trong giáo trình văn học phổ thông tại miền Bắc và cả nước Việt Nam
trong nhiều
năm. Những năm 1945-1960 ông là Chủ tịch Hội văn nghệ Nghệ An, sau đó
suốt
trong nhiều năm , ông công tác trong Hội nhà văn VN.Xuân Sách giễu cợt :
“ Sinh ra “ trong gió cát”
Đất Nghệ An khô cằn
Bao nhiêu năm “nằm vạ”
Trước cửa hội Nhà văn”
(còn tiếp)
Nhật Tuấn
FB
Note: Cái này, "đi" trong
dịp
30 Tháng Tư, được, được, thay vì
loan tin đại công thần của chế độ, 007 Mít bị mất nhà!
Lật cái nón lên làm tên ăn
xin mà VC cũng vờ!
Lapham's Revolutions
Kẻ nào làm
cho cách mạng ôn hoà bất khả, kẻ đó sẽ làm cho cách mạng dữ dội không
thể tránh
được.
Those who
make peaceful revolution impossible will make violent revolution
inevitable.
John F.
Kennedy, 1962
Cách mạng là
phải đổ máu. Cách mạng đếch đổ máu thì rất đáng ngờ!
[Câu này GCC
thuổng ở đâu đó, đưa vô Lần Cuối Xề
Gòn]:
Gặp lại những
nhân vật của Koestler, những nhân vật văn chương còn mang nặng những
nét đặc
thù của nguyên mẫu ngoài đời, những Roubachof suốt đời tắm bằng máu của
kẻ
khác, kể cả của người yêu, bạn bè, đến khi chết lại mong trở thành
những Thánh
Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn mang sự thực khủng khiếp còn hơn cả
những lời
nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng ta quất lên đám đông đang rên rỉ, bắt
họ
hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai và hoàn toàn lý thuyết...",
tôi bỗng
nhận ra một điều thật giản dị: Nếu những tác phẩm lớn đều cưu mang
trong nó
bóng dáng của những tác phẩm lớn khác - một cách nào đó Hemingway chú
giải
Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ ràng Garcia Marquez viết lại
Faulkner... - Cũng
vậy, những bạo chúa chỉ là những bản sao của những bạo chúa khác.
Staline bắt
chước Néron, cả hai đều có tham vọng văn chương, một muốn làm thi sĩ,
một muốn
ngự sử văn đàn, kẻ ban phát giải thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt
sách,
chôn học trò. Molotov chỉ mong người đời coi là một Robespierre của
Cách Mạng
Nga. Người ra lệnh bắn vào sinh viên biểu tình tại Thiên An Môn là một
học trò
đắc ý của Chu Ân Lai, ông này lại là một học trò đắc ý nhất của Cách
Mạng Pháp.
Polpot đã từng du học ở Paris. Tất cả đều tâm đắc một điều: Không có
một cuộc
cách mạng nào mà không có quá độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu thì
rất đáng
ngờ.
Khi nhìn cột
nấm, từ trái bom nguyên tử thử nghiệm đầu tiên, Tháng Bảy, 1945, nhà
vật lý J.
Robert Oppenheimer bèn nhớ ra dòng sau đây, trong Bhagavad
Gita:
“Now I am become Death, the Destroyer of worlds”
Bây giờ tớ
trở thành Thần Chết, kẻ huỷ diệt mọi thế gian.
Mọi văn
minh
thì lâu lâu, thi thoảng, cũng sẽ có 1 lúc, thấy nó như 1 miếng lụa
mỏng, ở trên
vú 1 một em, nóng hổi như là miệng núi lửa, của 1 cuộc cách mạng.
Dịch nhảm. Nguyên văn:
All civilization
has from time to time become a thin crust over a volcano of revolution
Havelock
Ellis,
1921
Bạn chọn câu nào [thuổng "xì tai" Thầy Kuốc]?
30.4.2014
As for
me, I prefer to
smell French shit for five years, rather than Chinese shit for the rest
of my
life.
Ta thà ngửi
cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu
cả đời
Di chúc
Bác Hồ
Don't you realize what it means if the
Chinese stay?
... The last time the Chinese came, they stayed one thousand years!
The French are foreigners . . . Colonialism is dying
out. Nothing will be able to withstand world pressure for
independence. They may stay for a while, but they will have to go
because the
white man is finished in Asia. But if
the
Chinese stay now, they will never leave.
As for me, I prefer to smell French shit for five
years, rather than Chinese shit for the rest of my life.
Tháng
Ba, 1946, năm năm trước khi Greene tới Việt Nam,
Ho [HCM]
ký hòa ước với Tây, thừa nhận, sự ra đi của họ để lại một khoảng trống.
Viễn
ảnh một Việt Nam
độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, do Tây nhử, làm Ho khoái. Ông chửi
đám bộ hạ
phò Tầu:
Mấy bồ có hiểu nghĩa là gì, chuyện đám Tầu ở lại? Lần
chót tụi nó ở một ngàn năm! Tây dù sao cũng mũi lõ, họ có thể ở một
thời gian,
và rồi sẽ cút, vì tụi da trắng hết thời ở Á Châu rồi. Ta thà ngửi cứt
Tây năm
năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời!
Norman
Sherry: Tiểu sử Greene,
chương 24: Bonjour
Vietnam [Sherry trích câu này từ Hồ Sơ Ngũ Giác Đài, The Pentagon
Papers, Senator Gravel Edition, vol 1, Beacon Press, 1979,
trang 49-50]
Cái
đoạn gạch đít trên, được Tô Hoài, diễn tả, trong
Bút Ký, qua những lời tố cáo Việt Minh bắt tay với Tây, của một nhân
vật Hà Nội
của ông, trong không khí thủ đô tưng bừng, hăm hở vô Nam:
Chúng
ta còn ở Hà Nội làm gì? Để đến khi họ chiến thắng
trở về thì chúng ta được góp vào cái đuôi người , chảy đi xem duyệt
binh chăng?
Không Hà nội không ai nghĩ như thế. Đời đương lên và
đẹp vô cùng đẹp. Chiều nay, gã bạn hoạ sĩ gác trên đã nhờ người đi hỏi
han hộ
xem ở “trong ấy” có cần người vẽ thì đễ gã vào.
Hà Nội bây giờ thế cả. Cái quê yêu quí nhất của người
ta bây giờ là ở đâu trong đất nước có kẻ dám phá cuộc cách mạng. Buổi
chiều
cuối năm này, chúng tôi nhớ Nam
bộ, cái quê một lúc, cái quê muôn đời đương rừng rực máu. Chúng ta và
các anh.
Gã đi rồi.
*
Bố có một mơ ước. Mơ ước này
tôi nghe thường
xuyên trong những bữa cơm tối lúc tôi còn nhỏ, khi bố còn làm ở công ty
điện
lực Hà Nội. Mà không, tôi đã nghe nó từ trước đó, suốt những năm tôi
còn nằm
cũi và bố mới ở chiến trường miền Nam về. Sau gần một năm nằm
dưỡng thương
ở chiến trường Nam Lào toàn rừng khộp và nắng, bố hành quân ghép với
các đơn vị
khác vào đến Đà Lạt; lần đầu tiên bố nhìn thấy những đồi thông xanh và
những
thung lũng đầy hoa. Bố bảo khi nào để dành được nhiều tiền, bố sẽ vào
Đà Lạt
mua một miếng đất, xây một cái nhà nhỏ và làm trang trại trồng rau
xanh. Khí
hậu Đà Lạt tốt, bệnh xoang và khớp bắt nguồn từ những năm nằm rừng của
bố có
thể không cần chữa cũng sẽ tự khỏi.
Hơn 20 năm
qua, lúc nào bố cũng chỉ có một
mơ ước như thế. Bây giờ, cái ước mơ ấy dồn cả vào gốc đậu ván bố trồng
ở hiên sau.
Cây đậu ván leo từ tầng một lên sân thượng; hoa đậu ván nở suốt mùa
đông, tím
ngắt cả ba tầng nhà. Hôm tôi mới về, bố cầm rổ cho tôi và Tu Ti nhặt
những quả
đậu ván già trên sân thượng để luộc. Bố lại nói bố muốn có một trang
trại trong
miền Nam – không cần Đà Lạt vì đất Đà Lạt bây giờ đắt quá, chỉ cần chỗ
nào đó ở
đồng bằng sông Cửu Long, rẻ thôi, miễn là ấm áp. Chỉ cần vào đó trồng
trọt thì
tự khắc bệnh xoang, rồi bệnh khớp, rồi bệnh tiền đình sẽ khỏi hẳn. Có
thể bố sẽ
lại nghe lại được.
Bố ạ, con tốt
nghiệp đi làm bên đó, con sẽ
để giành tiền cho bố mua đất trong Nam.
Phan
Việt: Những ngày ở Việt Nam.
*
Gấu
đọc Tô Hoài rất sớm, và giấc mộng, sẽ có
ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn
thêm một
câu nói, là giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi tới được nước Nam
Kỳ.
Tưởng thỏa mãn, mà thoả mãn thực, nhưng, oái oăm thay, một nước Nam Kỳ
khác
xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và cái nước Nam Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính
là cái
xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
*
Cũng
vẫn giấc mơ đó, hiện giờ,
ở những người con dân xứ Mít, tìm đủ mọi cách chạy trốn đất nước, dù có
phải
bán mình cho Mafia Đỏ.
Interview: Gao
Xingjian
V/v viết như là một cách để
kiếm sống
Trông vào viết để có miếng ăn
ư? Tôi nghĩ, tốt nhất, nên bỏ cái ý nghĩ đó đi. Đây là kinh nghiệm của
riêng tôi.
Lý do tôi viết – ‘văn chương lạnh’ – tôi gọi như vậy - bởi vì nó không
liên
quan tới thị trường. Đây là một yêu cầu nội tại. Chỉ khi nào bị thúc
bách thì tôi
mới cầm lên cây viết. Không phải để bán sách. Có thị trường sách, và
chúng ta
không chống đối chuyện khuyến mãi sách, bởi vì có thứ văn hóa tiêu thụ.
Nhưng
chúng ta đừng lẫn lộn hai thứ đó. Nhà văn phải thật là rạch ròi về
đường ranh
giữa sự tiêu thụ văn hóa, cultural consumption, và văn chương nghiêm
túc. Liệu
anh ta viết cho sự tiêu thụ của người khác hay là viết cho chính anh
ta? Theo cái
nhìn của tôi, văn chương nghiêm túc được viết dính cứng vào với mình,
serious
literary writing is inherent written for oneself. Chính là vì viết cho
chính mình
như thế mà chúng ta mới đạt tới được cái chân thực của cuộc đời, và nhờ
đó mà có
một cái gì có giá trị để mà cống hiến cho độc giả. Cũng vậy, là với
những từ,
những con chữ. Khi độc giả đọc chúng, họ cũng có thể kinh nghiệm chúng.
Điều này
“chuyển hóa” người đánh dấu, [This ‘transcends’ the marker]. Descartes nói, “Tôi suy tư vậy tôi hiện hữu”.
Với nhà văn, điều này không có nghĩa, “Tôi trình bầy chính tôi, vậy tôi
hiện hữu
[‘I express myself therefore I am']," nhưng mà là, “Tôi viết, vậy tôi
hiện hữu”.
Bằng viết, anh ta không còn sống trong mù lòa, ngớ ngẩn, mà trong sự
sáng suốt
của tâm hồn. Tự thân, kinh nghiệm tự hiểu mình và xác nhận giá trị
những gì
viết ra - xẩy ra trong khi viết – thì cũng là khẳng định giá trị của
nhà văn và
điều này đủ là một phần thưởng rồi.
V/v Mai Thảo
viết về NDT
Có vài chi
tiết sai. Vì NDT còn sống, GCC viết ra đây những gì Gấu biết, nếu cần
anh còn
có thể đính chính.
NDT làm cho
DPT/Sài Gòn như 1 freelance, như “từ” bây giờ gọi. Có thể anh là nhân
viên khế
ước. Gấu chẳng bao giờ hỏi, nhưng đoán thế. Không thể có chuyện biệt
phái.
Chứng cớ là có lần anh bị Quân Cảnh tó vì trốn động viên, đưa vô Trung
Tâm
Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, ở Quang Trung. GCC
có lên thăm anh những ngày anh nằm ở đây, có lần đi cùng với Võ Đại
Tôn, cũng bạn
NDT. Sau đó, nhờ Nguyễn Mạnh Côn can thiệp, anh được tha, nhưng phải về
làm tờ “Hoa
Tình Thương”, do mấy bà Tuớng Tá đứng làm chủ xị, để thổi hứng chiến
đấu chống
VC vào quân đội VNCH. Gấu nhớ là có lần cũng đóng góp bài.
Vào lúc anh bị bắt, Gấu có
hơi ngạc nhiên, hỏi bà xã của anh, khi anh
vừa bị bắt và
còn nằm
ở đồn Quân Cảnh, bị bắt hả, đi lính thì đi lính chứ sợ gì, thì cũng vô
Thủ Đức,
rồi ra trường làm 1 tên sĩ quan VNCH, bảnh tỏng, có gì đâu mà sợ. Bà
bật cười,
chồng tui đâu có tí bằng cấp nào như anh mà đi trường sĩ quan Thủ Đức!
Viết lại ở
đây, là vì bà xã anh rất quí Gấu, trong số bè bạn của anh. Sau xẩy
chuyện, là
do chuyện khác.
Lỗi về phần gia đình của GCC, nhưng hai bên hết còn liên lạc.
NDT viết trước
đám HPA, NQT, NDD, DPQ. Anh đã nổi tiếng, và là 1 trong những người
chọn bài
cho tờ Văn. Khi HPA học sư phạm Đà Lạt, ra trường,
về Sài Gòn, chính GCC giới thiệu anh với NDT, và từ đó, anh viết cho Văn.
Anh chẳng hề có ý làm mới tiểu thuyết,
theo kiểu "tiểu thuyết mới" của Tẩy. Thành ra không hề có cái chuyện,
trong đám
tiểu thuyết mới, anh bảnh nhất, như MT phán.
Nói cho rõ,
chứ chẳng hề có tí đôi co.
Hà, hà!
NDT gặp MT
là mày tao, còn Gấu, đâu dám, vì ông là bạn của TTT, anh của Gấu, vì
Gấu chơi với
ông em của TTT.
Cách viết của đám có tên chung là tiểu thuyết mới Mít, khác hẳn
nhau, đó là điều giống đám tiểu thuyết mới Tẩy. Có chung bảng hiệu mà
chẳng ai
viết giống ai. NDT viết văn ẻo lả, nhẹ nhàng, hình như có lần Gấu nghe
MT khen,
như những giọt mưa gặp gió nhẹ, bay nghiêng nghiêng.
Gấu đâu viết thứ văn đó.
HPA lại càng không.
Cái vụ MT
không ưa Gấu là có thể, ông biết, Gấu không đọc được ông!
Có đọc, khi
còn đi học, Quá mê Chúc Thư Đỉnh Trời, như mê Dòng Sông
Định Mệnh
của DQS.
Đúng khi đọc được văn Tây, của, thí dụ Camus, Sartre, là bèn hết mê!
Một
phần là do khiếu thưởng ngoạn thay đổi, một phần do thách đố, cho chính
mình, phải làm
sao cắt
nghĩa được cuộc chiến. Bởi thế mà đọc Lukacs, vưỡn thí dụ.
V/v bằng cấp.
Gấu chỉ có cái Tú tài 2. Toán nhe. Đậu xong Tú Tài là đói rã cổ họng.
Gấu xin ý
kiến ông anh, ông phán, nhà nghèo, học tới đó được rồi, kiếm cái gì
làm, vừa
làm vừa học. Gấu bèn nộp đơn thi vô Bưu Điện, đúng lúc đó, vừa mới
thành lập. Gấu
học trước đám bạn bè như HPA, NDD, NXH, Thầy Đạo, Thầy Quân. Họ học,
khi có cái
gọi là động viên, rớt là đi lính. Chính vì thế, anh nào cũng học Triết,
thứ dễ
nhất. Đó là sự thực. Gấu ra trường, học hàm thụ, lấy cái chứng chỉ Dự
Bị Triết,
tính chơi cái cử nhân, dễ ợt, cứ cua Thầy sao, trả bài Thầy, là đậu.
Nhưng vô
chứng chỉ Triết Tây, gặp ngay NVT, bèn trở lui. Đó cũng là sự thực. Ông
này, đi
đâu cũng "thằng đó học tui". Nghe quê 1 cục. Bèn bye Văn Khoa. Vả
chăng cái bằng Bưu Điện của Gấu có giá hơn cử nhân Triết nhiều. Nó cần
đủ thứ
tri thức, chưa kể thực hành. Khác hẳn những thứ bằng khác, chỉ có phần
tri, mà
không có phần hành.
Mấy ông bạn của Gấu, đậu xong, ra trường xong đi dậy học, có ông nào
cầm đến cuốn
sách triết nữa đâu. Nếu có cầm thì cũng để “ta đây, thầy triết”. Trong
khi Gấu
đọc, 1 thứ triết khác, nhờ thế sau này, vẫn tiếp tục đọc, viết được.
Nếu không học Bưu Điện, là chẳng thể nào quen Cao Bồi, thí dụ. Chẳng hề
biết gì
về cuộc chiến cả.
Làn Sóng Mới
& Tiểu Thuyết Mới
Sau “Hiroshima Tình Tôi”,
Alain Resnais chuyển thể tiểu thuyết của Duras, bọn chúng ta,
những tiểu thuyết gia khác, phải làm gì?
Paris Match 6
& 12 Mars 2014
Lapham's Revolutions
Hiệu quả
chính của 1 cuộc cách mạng thứ thiệt có lẽ là, nó quét sạch những thứ
con người
rác rưởi, những kẻ không biết cả đến cái chuyện, ao ước mong ước nó ra
làm
sao, và đưa tới tiền phương những con người với sự thèm khát không bao
giờ hết thèm:
Hành động, quyền lực và tất cả những gì mà thế giới phải dâng hiến cho
họ.
The main
effect of a real revolution is perhaps that it sweeps away those who do
not
know how to wish, and bring to the front men with insatiable appetites
for
action, power, and all that the world has to offer.
Eric Hoffer,
1955
[Mất
appétit là mất tất cả! Hà,
hà!]
Đám con cháu cách mạng thì
bao giờ cũng vô ơn, và cách mạng phải biết ơn, nó là như thế.
The children
of the revolution are always ungrateful, and the revolution must be
grateful
that it is so.
Ursula K. Le
Guin, 1983.
Bạn có thể dùng
câu trên, để trả lời nhà văn, cha đẻ ra quái vật Núp, xưa rồi, và mới
đây, Hội
Nhà Thổ, khi ông ta chửi đám Mít trẻ ở trong nuớc là vô cảm cái con mẹ
gì.
Trên
net cũng có 1 em du học người Nhật, viết thư ngỏ gửi Mít trẻ, đất nước
các bạn
thì giầu có mà các bạn thì không ngoan.
Hay như 1 cái thư mà GCC nhận được từ 1
bạn học cũ, khen 1 bài viết của 1 em ở Hà Nội, viết về hiện tượng vô
cảm ở xứ Mít, tuyệt cú mèo!
TV sẽ thu
gom và làm thành 1 trang “vô cảm”.
Theo GCC nhảm
hết.
Cái gốc của vô cảm là hậu quả tất yếu của cuộc chiến Mít, khi Thiên Sứ
biến
thành Quỉ Đỏ.
Tưởng là sẽ có 1 cái nhà Mít to đùng, hoá ra có 1 lũ Bọ.
Có đất nước
nào, dân tộc nào mà đến cả Thượng Đế, trước khi ngủ còn mong, ngủ dậy,
biến
thành…. Mít?
Có thứ trẻ nào, nhỏ máu đầu ngón tay, viết đơn tình nguyện xẻ dọc
Trường Sơn đi kíu nước?
Đâu chỉ vài người,
mà vài thế hệ?
The
French in Indochina
When
the battle's lost and won
Tây mũi lõ ở Đông Dương
Khi
trận đánh thua và thắng
*
Valley of Death: The
Tragedy at Dien Bien Phu That Led America into the Vietnam War.
Thung Lũng Tử Thần: Bi kịch Điện Biên Phủ khiến Mẽo vô nước Mít
By Ted Morgan. Random House; 752 pages; $35. Presidio Press
Cú
này, thật, và cú
đầu độc tù Phú Lợi,
giả, đưa đến cuộc chiến thần thánh chống
Mẽo cứu nước
DBP là
một tiền đồn cô quạnh ở
vùng núi Việt Nam,
một xứ sở thuộc địa của Tây, nơi lính Tẩy đụng độ với Việt Minh, không
phải thứ du kích đói rách mà
là một đội quân được trang bị bằng những vũ khí mới tinh, mới ra lò,
bởi TQ, ngay
vào đầu thập niên 1950. Vào mùa Xuân 1954, khi đám đầu sỏ Đông Tây –
Dulles,
Eden, Molotov, Chu Ân Lai - gặp nhau ở Geneva, để quyết định tương lai
Đông
Dương thuộc Pháp, thì 10 ngàn lính Tẩy dồn thành một cục tại DBP, để
nhử Việt
Minh mò tới quần thảo.
Hầu hết
đám lính không phải
Tẩy chính cống, mà là Algerians, Ma rốc, Phi châu, Việt… gian, cùng với
một dúm
tinh nhuệ Tây nhẩy dù. Còn có bốn tiểu đoàn Lê Dương, sĩ quan Tây,
nhưng binh lính
hầu hết thì là Đức, rất nhiều trong số đó là những kẻ sống sót tại mặt
trận
Nga. Còn có một đàn bướm di động nữa, vừa là bướm vừa là y tá!
*
Bức điện tín
của Phạm Xuân Ẩn, chấm dứt cuộc chiến, hối thúc Bắc Việt đừng lo lắng
chi hết về
cái chuyện Yanke mũi lõ trở lại Việt Nam, nhờ vậy mà BV bỏ ngỏ Miền Bắc
thúc
quân ào ào, thần tốc dượt tông tông Thiệu bỏ chạy có cờ, không kịp mang
theo ấn
tín, cây gậy đả cẩu, và như thế, tất nhiên đâu có thì giờ mang theo 17
tấn
vàng, vậy mà ông mang tiếng cho tới khi me-xừ Oánh lên tiếng, không
phải ổng,
mà là VC chia nhau!
PXA không thể
ngờ, không phải Yankee mũi lõ, mà là Tầu Phù đã chiếm Bắc Bộ Phủ từ hồi
nảo hồi
nào, từ đầu thập niên 1950, rồi!
Bây giờ đọc
mấy anh VC chửi Tẫu như điên, Gấu thấy nực cười. Không có Tẫu, làm sao
có chiến
thắng 30 Tháng Tư, thống nhất đất nước, VC Bắc Kít làm chủ? Khi nó
trang bị anh
bộ đội Cụ Hồ, đến cái lông chim, cũng “made in China”, sao không chống?
Đâu phải Bác
Hồ không cảnh cáo chuyện này: Ta thà ngửi
cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu
cả đời
Cũng PXA, trấn an chủ
Mẽo Time, làm gì có
chuyện đó, trong khi tờ Le Monde
bị Xịa lừa, đi trang
nhất, Mặt
Trận Giải Phóng họp báo ở Tây Ninh, tuyên bố ly khai với Miền Bắc: Sau
1975, quả
có chuyện này, mấy anh VC miệt vườn lập câu lạc bộ, đếch thèm chơi với
Yankee mũi
tẹt nữa!
30.4.2014
Tks. NQT
Note: Cú “thọi”
thằng khốn “sa đích văn nghệ” đếch thèm viết gì về Mai Thảo, trước 1975!
Ghi chú thêm: Tên của mấy đấng, trong băng đảng tiểu thuyết mới Tẩy,
Mai Thảo
"đánh máy", hoặc “nhớ”, trật. Sarraute, Alain Robbe-Grillet...
NDT, quen GCC, thì mới làm quen với tiểu thuyết mới. Ông không đọc
tiếng Tây được, vào lúc đó,
đó là sự thực. Người rành về tiểu thuyết mới, Mít, thực sự, là Mít
Butor. Gấu
đã viết về chuyện này rồi. (1)
MT thực sự cũng không rành. Ông qui tiểu thuyết mới
về trường phái cái nhìn, école du regard, thì quá giản lược nó. Nhưng
thôi, nói
làm khỉ gì nữa, tiểu thuyết mới thì cũng ngỏm rồi….
30.4.2014
30.4.2014
007 Mít sập
tiệm: Điềm báo chế độ VC?
Có thể lắm.
Chuyên đóng vai “Ván bài bật ngửa” [“bật” nhe, không phải “lật”], biểu
tượng
người hùng của “chế độ ta”, người không mặt, bi giờ sập tiệm, không
phải là điềm
báo động chế độ sập ư?
GCC post liền
mẩu S.O.S, trên, để cứu nguy 007 Mít. Đọc 1 phát là “Y tá dạo ngày nào”
bèn xì
tiền ra liền, đếch cần nhân dân, nhà hảo tâm nào khác.
Nghe nói, cũng bà con gì
đó!
Hà, hà!
Đã có tiền lệ rồi. Thời ông
Thầy của GCC, VKK, còn sống, có lần ông kể cho lũ học trò của ông
nghe, có những tên Tẩy mũi lõ, ở bên mẫu quốc, đói quá, bèn mò qua Hà
Nội, chẳng
làm gì hết, cứ mỗi lần cần tiền là ra nhà hàng Godard, ngửa cái mũ lên.
Bọn mũi lõ bèn bỏ
tiền vô. Thấy đủ mức cần dùng, là đi.
Để “bảo chứng”
cho cú lừa mang theo lương thực 10 ngày, là cú học tập 3 ngày tại cơ
quan. Gấu
thực sự chỉ trải qua ba ngày học tập cải tạo tại Trung Ương Cơ Xưởng
VTD Bưu Điện,
số 11 PDP, đúng nơi làm việc đầu tiên, sau khi ra trường. Hết 3 ngày,
ngày ngày
vô Sở, chẳng có việc làm gì làm, thời gian quân quản, thế là chuồn, đi
chích.
Ra ngay Bến Tầu Sài Gòn. Đi cổng sau, dành cho nhân viên ra vô, quẹo
trái, đi bộ
tà tà, tới bờ sông, thì vẫn nơi cũ cảnh cũ, làm một mũi, thuê cái ghế
bố nằm
phê, hà hà!
Đám sĩ quan
Ngụy hầu hết dính quả lừa này: 10 ngày phù du, sau là về cùng xây cái
nhà Mít mới,
hoành tráng bằng trăm bằng muời nhà cũ!
Lần đầu tiên
trình diện Sếp trực tiếp, Gấu sững người. Ông ta xanh lét, gầy nhom,
đúng ba thằng
VC trèo cọng đu đủ đếch ép chê chi hết. Đủ thứ bịnh, sốt rét, gan,
thiếu ăn. Món
ăn ông ta mê nhất là món mì gói, ông ta giải thích, cực gọn, tiện, phải
Cách Mạng
thành công, ông mới được thưởng thức. Và đúng như Brodsky phán, về ông
con trai
bà chị nhà thơ, bao nhiêu nỗi khổ của đám VC đổ hết lên đầu tụi Ngụy.
Chuyện cũng
bình thường. Trong lịch sử, bao nhiêu thành phố chống giặc ngoại xâm
hăng quá,
khi thua, chúng vô, làm cỏ sạch. Bởi thế mà VC phán, tha không “biển
máu” là
may quá cho tụi Ngụy mi rồi, kêu ca gì nữa!
Ui chao,
bỗng
nhớ… Sến Cô Nương và những ngày GCC cắp
rổ theo hầu, thời còn Chợ Cá Bá Linh.
Sến mắng “êu” Gấu, sao anh cứ cay đắng “Hoài” như thế.
Nếu không có Giải Phóng,
làm sao anh được cắp rổ theo hầu… Em?
JULIA
HARTWIG 1921-
Expectation
of an imminent calamity. Many people have lived through such a moment,
but they
haven't left poems about it.
Yet those moments are an integral part of history,
of many cities and countries.
Ngửi thấy
mùi thảm họa. Nhiều người Mít đã trải qua một khoảnh khắc như thế,
nhưng họ
quên không để lại 1 bài thơ.
Tuy nhiên,
những khoảnh khắc này là 1 phần toàn thể của lịch sử, của nhiều thành
phố và xứ
sở.
ABOVE US
Boys kicking
a ball on a vast square beneath an obelisk
and the
apocalyptic sky at sunset to the rear
Why the
sudden menace in this view
as if
someone wished to turn it all to red dust
The sun
already knows
And the sky
knows it too
And the
water in the river knows
Music bursts
from the loudspeakers like wild laughter
Only a star
high above us
stands lost
in thought with a finger to its lips
Translated
from the Polish by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh
Czeslaw
Milosz giới thiệu, trong A Book of
Luminous Things
Ở bên trên
chúng ta
Trẻ con chơi
đá banh ở một công viên rộng lớn
bên dưới Đài
Kỷ Niệm Điện Biên
và bầu trời
tận thế thì đỏ mọng,
‘không gian
bỗng đỏ rực, rồi đêm xuống trùm lên tất cả’
Tại sao cái
sự hăm dọa bất thần như thế
Như thể có 1
người nào đó ao ước biến tất cả thành bụi đỏ
[Có phải đốt
sạch Trường Sơn, thì cũng đốt]
Mặt trời biết
điều đó
Bầu trời
cũng biết điều đó
Nước sông
Sài Gòn cũng biết luôn
Nhạc “Như có
Bác H trong ngày vui như thế này”,
bỗng ré lên
như 1 tiếng cười man rợ
từ chiếc loa
của Ban Thông Tin Phường Bến Nghé
Chỉ có 1
ngôi sao ở thật cao trên đầu chúng ta,
thì vẫn như
lạc lõng trong suy tư,
với ngón tay
đặt lên đôi môi
Eternities
A child lifted in his
mother's arms to see a parade
And that old man throwing breadcrumbs
To the pigeons crowding
around his feet in the park,
Could they be the same person?
The blind woman who may
know the answer recalls
Seeing a ship as big as a city block
Glide one night all lit up
past her kitchen window
On its way to the dark and stormy Atlantic.
Charles Simic. Granta:
Summer 2013: Travel
Vĩnh Cửu
Đứa bé níu tay mẹ, cố
ngước nhìn đám rước ngày 30 Tháng Tư
1975
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay
Vui sao nước mắt lại trào.
Và cái tay già khằn, vừa lùn vừa lé, đang ném những mẩu bánh mì cho đàn
bồ câu
quanh quẩn dưới chân anh già ở 1 công viên Toronto, Canada
Phải chăng là cùng 1 người?
Người đàn bà mù có thể có
câu trả lời
Nhớ lại
Đã có 1 lần nhìn thấy 1 con tầu to bằng cả 1 góc biển Đông,
Chạy suốt mảnh đất hình chữ S
Đưa bà và hai đứa con đến bến cảng Xề Gòn
Trong 1 đêm tối thui, bão tố đầy trời.
Bosnia Tune
As you sip
your brand of scotch,
crush a
roach, or scratch your crotch,
as your hand
adjusts your tie,
people die.
In the towns
with funny names,
hit by
bullets, caught in flames,
by and large
not knowing why,
people die.
In small
places you don't know
of, yet big
for having no
chance to
scream or say goodbye,
people die.
People die
as you elect
brand-new
dudes who preach neglect,
self-restraint,
etc.-whereby
people die.
Too far off
to practice love
for thy
neighbor/brother Slav,
where your
cherubs dread to fly,
people die.
While the
statues disagree,
Cain's
version, history
for its fuel
tends to buy
those who
die.
As you watch
the athletes score,
check your
latest statement, or
sing your
child a lullaby,
people die.
Time, whose
sharp bloodthirsty quill
parts the
killed from those who kill,
will
pronounce the latter band
as your
brand.
[1992]
Joseph
Brodsky: Collected Poems in English
*
Chuyện
trò với Brodsky, chương Tưởng
nhớ Akhmatova.
Volkov: Lev
Gumilyov con trai của Akhmatova, trách mẹ nhiều lần là đã không lo lắng
đủ, not
doing enough, cho anh ta, khi còn là đứa con nít cũng như trong những
năm tù. Tôi
có nói chuyện với 1 hoạ sĩ già Latvian, cùng ở trại tù với Lev. Khi tôi
nhắc tới
Akhmatova, mặt ông ta đanh lại và nói, bà ta gửi những gói quà nhỏ xíu
cho thằng con.
Nghe cứ như chính giọng ông con.
Brodsky: Lev
trách, blame, mẹ, và anh nói điều gì đó, làm bà đau lắm. Tôi nghĩ những
cú đau tim
của bà là do ông con trai hay 1 trong những lý do của căn bịnh. Nhưng
không
hẳn như bạn nói. Ý của những lời nói của Lev là vầy: Với bà thì cách
tốt đẹp nhất
xẩy ra cho tôi, là chết ở trong tù VC Liên Xô.
Anh ta muốn nói, với bà,
“như là
1 thi sĩ”.
Ngay cả 1 người bạn cũ
phán như thế, thì tôi cũng vặc lại anh ta,
mi là thứ heo chó, huống hồ đây là ông con trai do mình đẻ ra!
Lev đã trải
qua 18 năm trong tù, và thời gian dài đằng đẵng đã làm anh ta
thành què
quặt (and those years apparently maimed him). Anh ta bèn quyết định, ta
đã khổ
như thế, thì ta có thể làm bất cứ điều gì.
GCC đọc đoạn
trên, và THNM, bèn liên tưởng đến cuộc chiến Mít, kèm với nó là chiều
dài lịch
sử dựng nước Mít.
Cả 1 bốn ngàn năm văn hiến
như thế, Bắc Kít chỉ biết đói và lạnh,
thì chỉ nêu cái cú khủng nhất. Trong khi Nam Kít, cả 1 cuộc sống thiên
đàng dài
dài, từ mùa màng cho đến thời tiết, thiên nhiên ưu đãi, lòng người cũng
mở
toang ra cùng với nó. Nhưng trên hết, và sau cùng, giả như cuộc chiến
ngắn đi 1 chút,
có lẽ Bắc Kít đã không đối xử tàn tệ đến mức như thế!
Ba mươi năm mới có ngày nay, vui sao nước mắt lại trào!
Hà, hà!
Đúng là 1 thời
đắng nghét! [chữ của DMT, khi viết về 007 Mít, NCT]
Brodsky. Lev
did blame her, and he said something to her that tormented Akhmatova
greatly. I
think it may have been the cause of her heart attack, one of the causes
in any
event. This isn't an exact quotation, but the sense of Gumilyov's words
was
this: "For you it would have been even better if I'd died in the
camp." He meant "for you as a poet."
Even if an old friend had said it, my first thought would
have been, "What a pig you are really." But this was her son saying
it! Lev Gumilyov spent eighteen years locked up, and those years
apparently
maimed him. He decided that because he had endured so much, he could do
anything, that from then on everything would be forgiven.
In the case of Lev Gumilyov, all kinds of psychological
elements are layered in here as well. Above all, in the absence of his
father,
he was the man of the family, and although she was both a mother and a
poet and
Akhmatova, nonetheless, she was a woman. Therefore he thought he could
tell her
anything he felt like. All of this is the poor man's Freud, of course,
but
that's apparently how he manifested his masculinity. I gave this quite
a lot of
thought at one time-and Akhmatova would be the first to condemn me for
getting
mixed up in this-but her son did not end up occupying the high ground
here.
With this sentence about its being "better for her," he showed that
he had let the camps cripple him, that ultimately the system had got
what it
was after.
Solomon Volkov: Conversations with Joseph Brodsky.
Remembering Anna Akhmatova
"For you it would have
been even better if I'd died in the
camp." He meant "for you as a poet."
Đây là thái
độ của đám nhà văn Miền Nam chạy thoát cuộc chiến từ ngay những ngày
đầu. Họ đều
nghĩ, đám đi tù VC thì đều đã chết rồi.
Tốt nhất, là chúng chết trong tù VC, như là những nhà văn Ngụy!
Tưởng niệm Brodsky nhân ngày mất của ông
January 2001
Archangelsk, cái lạnh mặn,
những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết
Cái ớn lạnh Bắc Cực của
mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ hành cuộn.
Mặt trời rùng mình sau
những ống khói
Như một tên lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Ở Viện Bảo Tàng Viễn Bắc
lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ
Siêu hình đấu với Lịch sử,
và
Cuộc chiến đấu thê lương giữa Thơ và Thời gian
Một Cuộc Chiến Lạnh chẳng
hề chấm dứt.
Thì cũng y chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước
Và những con mèo bướng
bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ Bạch Hải
Sau đó, là một cuộc tản bộ
lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo choàng ở những trại lính đã được cải tạo
Suốt đêm tôi nghe có những
tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội quân diễn hành qua những con phố
Dưới cái vỏ thật là dầy
của đêm đen
Nhưng vào buổi sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,
Tôi thức
giấc, bổ choàng
vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết
chiếm cứ thành phố. Milosz cực mê
Brodsky, không phải thơ, mà cuộc đời thật bảnh của ông, không tì vết,
trong khi
ông, nhà thơ bửn của thế kỷ được Nobel văn chương! Chính ông tự thú,
qua bài thơ
“Wash”, TV đã giới thiệu. Đây cũng là 1 đề tài của thế kỷ. Trong “Tiền
Thân
Kafka”, Borges chẳng đã kể về 1 tay chuyên làm bạc giả, được Thượng Đế
trao cho
trách nhiệm đếm bạc ở kho tiền Luân Đôn: chính là vì thằng chả thân
quen với cái
xấu.
GCC tin rằng TTT đếch làm sao viết được nữa sau Trại Tù, ấy là vì ông… sạch quá.
|