Tạp Ghi
|
GCC
trở
thành công dân Canada
cc 1997
Passport đầu
tiên của Gấu
Cuốn sách quí
giá nhất của tôi, là tờ thông hành.
Salman
Rushdie
Trước
30 tháng Tư, đi đâu, Gấu cũng phải thủ đủ ba bửu bối, là thẻ căn cước -
tức giấy chứng nhận là công dân miền nam cộng hòa - giấy chứng nhận hợp
lệ tình trạng quân dịch, và thẻ nhà báo quân đội.
Đúng vào ngày 30 tháng Tư - sau này, khi phải nhớ lại, Gấu như vẫn còn
thấy trước mắt - là hình ảnh một người lính VNCH ở ngay đầu ngõ,
anh cởi vội bộ quân phục - Ôi, cái cảnh tụt cái quần nhà binh, 'nhổ'
đánh phẹt vào cuộc chiến, sao mà nó sướng đến thế! Bạn cứ thử tưởng
tượng, một anh chàng bị táo bón dài đằng đẵng,"ba mươi năm táo bón từng
ngày", tới lúc đó, phẹt một cái - chỉ giữ lại cái quần xà lỏn, cái áo
thun, và nhập vào đám người nhốn nháo trên đường phố Sài Gòn. Như một
phản xạ rất ư là tự nhiên, Gấu bèn bắt chước, nghĩa là đốt bỏ ngay hai
món đồ nguy hiểm, chỉ giữ lại tấm thẻ căn cước, như muốn "phân bua" với
một ông VC vô hình nào đó: Trình mí ông, tui chỉ là một phó thường dân.
Sau
ba ngày học tập cải tạo tại chỗ, nghĩa là tại ngay cơ quan Bưu Điện Sài
Gòn, khi bước ra, Gấu không còn một tờ giấy tùy thân, và sống trong
trình trạng bất hợp pháp như thế đó, cho đến ngày bỏ chạy quê hương.
Đúng ra, là, cho đến ngày nhận những cuốn sách quí, thí dụ sau
đây:
Sau
này, khi thi đậu quốc tịch, và được phát thẻ công dân Canada,
Gấu gọi điện thoại về Sài Gòn báo tin cho Bà Trẻ, bà mừng quá, nói: Bây
giờ, cháu lại là người rồi!.
Nhưng
- đúng như Rushdie hùng dũng tuyên bố ở trên - giây phút sung
sướng nhất, hạnh phúc nhất và cũng quí giá nhất đối với Gấu, đó là lúc
cầm tờ giấy thông hành, với cái mác công dân Canada, trình cho tay kiểm
tra tại phi trường, trong chuyến đi thứ nhất trở lại quê hương Lào, xum
họp cùng mấy đứa nhỏ. Đến lúc đó, mới thấm câu của Bà Trẻ của tui, bây
giờ mi mới lại là người.
Câu
nói của Rushdie, là trong bài viết "Hãy bước qua lằn ranh này". Ông nói
thêm, như tất cả những lời tuyên bố hùng dũng [ông dùng chữ, trần trụi,
bald], nó có vẻ cường điệu. Tờ thông hành, nói cho cùng, chỉ là một món
đồ tiện dụng, lẽ dĩ nhiên, nó đòi hỏi một chút chăm sóc nào đó: Đừng để
quá hạn, đừng làm hư hỏng... A passeport is no big deal.... It's
just ID. Một tấm giấy thông hành thì có ghê gớm chi đâu, chỉ là một thứ
căn cước cá nhân.
Đúng rồi, nó chỉ là một tờ căn cước. Nhưng với Gấu tui, và có thể nói,
với cả một miền đất, sau ngày 30 tháng Tư, chúng tôi đếch có thẻ căn
cước, và được gọi chung bằng một từ, ngụy.
Cho
tới khi Gấu tôi có được tấm thông hành Canada.
Nhân
đây cũng xin được nói lời cảm tạ đất nước đã cưu mang Gấu tui trên mười
năm trời, kể từ ngày lên máy bay, rời trại chuyển tiếp Panat Nikhom ở
Thái Lan, với tờ giấy mầu vàng "landed immigrant" [di dân thường trú],
vượt hai đại dương, tới thành phố Toronto, vào đúng một ngày bão tuyết,
trận bão tuyết khủng khiếp nhất kể từ 40 năm, theo như báo chí địa
phương lúc đó, 44 độ âm. Đó là ngày 23 tháng 11 năm 1994.
Trên
mười năm trời, mới thỏ thẻ một lời cám ơn, liệu như vậy là quá trễ
chăng?
Trong
một câu chuyện mà Gấu tôi đọc từ hồi còn nhỏ, [hình như trong tập
"Những Tâm Hồn Cao Thượng" do Hà Mai Anh dịch từ một tác giá Ý, De
Amicis (?)], có một cô bé bị câm, được một bác sĩ chữa trị. Một đêm nọ,
cô bé trong lúc cố tập nói, bất thình lình âm thanh phát ra. Thế là cô
bé cứ âm thầm ngậm những âm thanh đầu tiên đó, đợi tới sáng, khi vị bác
sĩ tới giường cô, bấy giờ cô mới thốt lên mấy âm thanh mà cô tập nói
suốt trong đêm: Con cám ơn bác sĩ.
Trường hợp của
Gấu tôi cũng tương tự như vậy, nhưng không phải những âm thanh đầu
tiên, mà có thể, cuối cùng, của một người già cảm thấy sắp sửa đi hết
cuộc đời của mình.
****
Cuốn
sách quí trên, có được vào năm 1985. Nó cho phép vượt "biên giới" -
những hàng rào kẽm gai nhà giam Bà Bèo, sau lần vượt biển thất bại tại
bãi Vàm Láng, vào đúng đêm ông Táo về Trời. Tôi đã kể qua về chuyến đi
bi hài này, trên một số báo Văn. Trong cơn giông bão thập tử nhất sinh,
anh chàng thanh niên ngồi kế bên, cứ nhè tôi là người yêu đi cùng
chuyến với anh, mà vò đầu, mà bứt tai, mà hôn, mà hít, mà lảm nhảm
những lời nói hoảng loạn.
Cô gái là một trong những người rời trại Bà Bèo sớm nhất. Ba mẹ cô là
cán bộ gộc. Tôi, là nhờ bên vợ. Nhờ Cậu Tư. Người vô trại đón tôi, sau
đó chở Honda thẳng lên nhà tôi, ở Sài Gòn, là Hải, con trai cậu Tư. Một
trong những đứa trẻ miền nam, trong những năm chiến tranh, vượt Trường
Sơn ra bắc. Mấy người bạn tù bảo tôi: Trại này chưa từng có một trường
hợp công an vào tận nơi rước về nhà!
-Anh Hai, anh có nhớ em không?
Hải, mặt đỏ gay, từ trong một căn phòng ồn ào,
bước ra, hỏi tôi.
Quen hồi nào đâu mà nhớ?
Tôi chỉ cười cười.
Anh công an tự giới thiệu:
-Em Hải, con ông Tư Long. Chị Hai biểu dzô rước anh về Sài Gòn.
À, con ông Tư. Lần thăm nuôi vừa rồi, bà xã đã cho biết sơ sơ về chuyện
nhờ cậy ông cậu.
Sau này, tôi nghĩ, câu "Anh còn nhớ em không?", là Hải cố tình nói,
nhắm vào đám công an coi trại.
Nhờ có chuyến đi 1985 mà có chuyến đi sau đó.
Tôi vẫn đinh ninh sẽ có ngày chạy thoát được quê hương. Tôi cũng vẫn
đinh ninh, không thể nào vượt biển.
Gia đình tôi bị nước trù yểm. Ông già tôi bị giết, bị buộc đá, bỏ sông
cho xác đừng nổi lên. Thằng em trai chết tại một khúc sông, khi là
thiếu uý chủ lực quân biệt phái địa phương quân, bảo vệ vòng đai phi
trường Sóc Trăng. Còn tôi, ăn hai trái mìn claymore nơi nhà hàng nổi Mỹ
Cảnh tại bờ sông Sài Gòn. Nằm trong nhà thương Grall, vị bác sĩ
ngó vết thương, hỏi, có té xuống sông không, tôi lắc đầu, sau này vẫn
thường nhớ lại, và vẫn thường tự hỏi, nếu té xuống sông, liệu có thể
chết vì nhiễm độc?
Lần đầu tiên, bước ra ngoài, đi dạo với Bông Hồng Đen giữa những luống
hoa trong nhà thương Grall, ngó bộ mặt méo xệch của tôi, cô an ủi, anh
bị gãy xương, liền lại mấy hồi, mất khúc nào là mọc thêm khúc đó, không
chết đâu, đừng lo!
Cô đang tính học, hoặc đang học y khoa, năm đó.
[Khi tôi đang viết những dòng này, Bông Hồng Đen đang phải nhập viện
trị chứng ung thư -phương pháp hóa trị liệu gì đó - và không được
ra khỏi phòng chữa trị trong một tháng. Nghe nói, thời gian của cô
không còn nhiều. Tôi bỗng nghĩ đến những ngày nằm tại salle hậu giải
phẫu tại bệnh viện Grall, và chỉ mong được "phóng thích" để gặp cô...]
Rushdie, trong
bài viết đã dẫn, kể lại, lần đầu đọc cuốn Among the Believers, Giữa
Những Tín Đồ, của V.S. Naipaul, viết về những chuyến du lịch trong thế
giới hồi giáo, đoạn một người tài xế trẻ tuổi dẫn ông đi lòng vòng tại
Pakistan, anh này nói với ông nhà văn, anh ta không có giấy thông hành,
và thật muốn đi ra nước ngoài, và thèm biết bao nếu có được nó. Ông nhà
văn tỏ ra buồn phiền, pha chút châm biếm, thật là xấu hổ, tại sao tự do
độc nhất anh mong có được, là rời khỏi đất nước. Rushdie nghĩ, giá mà
có ông Naipaul ở trước mặt, thì ông sẽ sạc cho ông này một trận. Tôi
tin rằng, bất cứ một người Việt Nam nào cũng biết, mà ngay cả ông
Naipaul cũng biết, tại sao lại phải "sạc"!
Bởi vì, luôn cả chuyện ông viết văn bằng tiếng Anh thay vì một thứ
tiếng bản xứ, là cũng thoát thai từ một giấc mơ rất đỗi tuyệt vời, rời
khỏi đất nước.
Như sau đó, Rushdie giải thích, từ kinh nghiệm bản thân: Sinh ra trong
một thứ tiếng, Urdu, tôi làm nên cuộc đời của tôi, tác phẩm của tôi
bằng một ngôn ngữ khác. Bất cứ một người nào đã từng làm như tôi, điều
hiểu rất rõ, rằng một cuộc vượt biên giới ngôn ngữ như thế là một sự
chuyển ngã, chuyển dịch chính mình [shape-shifting, or
self-translation]. Thay đổi ngôn ngữ là thay đổi chúng ta [The change
of language changes us].
Trong những chuyển ngã như thế đó, có nghi lễ tẩy trần, tẩy rửa cả thể
xác lẫn linh hồn, trước khi được đón nhận vào đất mới.
Đất nước Canada đã cưu mang Gấu tôi cho tới nay, là trên mười năm trời.
Và người đại diện đất nước Canada nói, đất nước chúng tao sẽ cưu mang
mày, là ông trưởng phái đoàn Canada tại Cao Uỷ Tị Nạn ở Thái Lan.
Cái tay này thật là tuyệt vời.
Trong
thuật ngữ của "tị nạn học", có từ đệ tam quốc gia. Đệ nhất, là quê hương mà bạn bỏ
chạy. Đệ nhị, nước tạm dung. Đệ tam, nước đón nhận. Khi ở trại tị nạn Thái Lan, sau
khi được nhà nước đất tạm dung, qua chương trình thanh lọc, công nhận
là tị nạn chính trị, tụi này được ra khỏi trại cấm, đưa tới trại chuyển
tiếp, transit camp, chờ gặp phái đoàn các nước nhận người, phỏng vấn,
để được "tái định cư".
Tị nạn Việt, sau khi được coi là tị nạn chính trị, thường chọn Mẽo. Và
Mẽo là nước ưu tiên số một, trong việc nhận người. Và luôn cả, không
nhận người. Tôi muốn nói, một hồ sơ nào mà Mẽo dính vô, chỉ trừ khi
Mẽo, nói ,tao bỏ thằng này, thì các nước khác mới có quyền nhận hồ sơ
đó, để phỏng vấn. Thời gian Mẽo lôi từ ngăn kéo ra một hồ sơ, cho phép
gặp để "năn nỉ", và sau đó quyết định "treo", [pending], là một
cực hình đối với đám tị nạn.
Treo thường kéo dài, tệ lắm trên một niên.
Treo nghĩa là có vấn đề, cả ở hai phía, kẻ xin cũng như người nhận.
***
How
many languages do you know?
(Anh biết mấy ngôn ngữ?)
Do đến trại tị
nạn sau “tử điểm”, tức là sau thời hạn được “tự động” coi là tị nạn
chính trị, những người như tôi phải trải qua một cuộc thanh lọc, qua đó
nhà chức trách nước tạm dung sẽ quyết định coi đủ tư cách tị nạn chính
trị, hay chỉ là di dân kinh tế.
Thời gian chờ đợi thanh lọc
thường trên dưới một năm. Với chúng tôi, nó còn là thời gian “chạy
thuốc”: liên lạc thân nhân ở nước ngoài, nếu có, hoặc bạn bè, cơ quan,
đơn vị cũ… để xin tiếp tế và lo giấy tờ xác nhận, hoặc làm hồ sơ bảo
lãnh.
Nhân đọc một số báo (hình như của lực lượng kháng chiến Hoàng Cơ Minh)
ở trong trại, thấy tên nhà văn Trùng Dương, tôi viết thư tới bà, qua
địa chỉ toà soạn.
“Thư
của bạn tới tôi sau khi đã đi gần hết nửa vòng trái đất,” bà viết thư
trả lời, từ một địa chỉ Hồng Kông, do đang được học bổng nghiên cứu về
Trung Hoa lục địa. Bà than giùm, “Bạn qua trễ quá!”
Kèm, là
thư của Nguyễn Ngọc Ngạn (khi đó là chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải
Ngoại), gửi cho Trùng Dương, chứ không phải cho tôi, “Bạn nhờ tôi can
thiệp cho một ông bạn nào đó, nhưng lại quên không cho địa chỉ…”.
Tôi liên lạc. Anh trả lời, gửi tặng sách (cuốn Ý Trời, nguyên tác tiếng
Anh, anh là tác giả, The Will of Heaven, chắc là muốn dặn dò khéo: hãy
cố lo học tiếng Anh!).
Kèm
giấy xác nhận. Là hội viên Văn Bút Việt Nam từ trước 1975.
Sau này gặp, anh cho biết, đã phải nhờ một tờ báo địa phương lo
in giùm, chỉ bốn giấy chứng nhận, với tiêu đề Văn Bút Việt Nam Hải
Ngoại thật tuyệt. Bốn tờ xác nhận, cho bốn người, lúc đó đang ở trại tị
nạn vùng Đông Nam Á. Ở Thái Lan, có ký giả Hồ Ông và tôi.
Có thể, việc xác nhận là “bổn phận” của anh, với tư cách đương kim chủ
tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, nhưng cứ nghĩ đến cảnh anh loay hoay
nhờ cậy người này người nọ “vẽ” giùm cho một “tác phẩm” đẹp tuyệt vời
như trên, thật là đáng quí.
Thật sự, nếu gặp một người khác, không phải anh, có thể mọi chuyện
không đơn giản như vậy.
Chả là, trước 1975, do viết ba thứ phê bình điểm sách, khi tuổi còn
trẻ, ngựa non háu đá, như các cụ nói, Gấu tui gây không ít ân oán
giang hồ. Cứ nghĩ, nếu gặp một ông, hay một bà, đã từng bị Gấu tui
phạng, chưa chắc người đó đã xử sự như Nguyễn Ngọc Ngạn. Hơn nữa, tôi còn nhớ, đúng
thời gian đó, một số nhà văn hải ngoại đang vận động ký tên danh sách
yêu cầu nhà nước Việt Nam thả nhà văn Dương Thu Hương [thời gian 1990
-1992, hình như vậy]. Trên tờ Làng Văn, có bài viết về trường hợp này,
của Nguyễn Ngọc Ngạn. Anh cho rằng, cái việc khóc người hàng xóm, trong
khi bà con thân nhân của mình đang bị kẹt ở trại tị nạn, và có nhiều
nguy cơ bị trả về cho ông nhà nước xi-xi, là một việc làm cần xét lại.
Tôi gặp Hồ Ông tại trại cấm
Sikiew, do anh tới trại trước, và đã trải qua thanh lọc. Anh dặn tôi,
khi đi thanh lọc, phải nổ. Và nổ thật dữ. Đừng khiêm tốn. Không được
quyền khiêm tốn!
Anh lấy thí dụ, tay thanh lọc đã hỏi anh:
-Ông có nghĩ, ông là một ký giả nổi tiếng, chống Cộng, và rất nguy hiểm
cho chế độ hiện thời ở Việt Nam?
Hồ Ông trả lời:
-Đúng như vậy. Riêng về trường hợp nổi tiếng, tôi có thể chứng minh
liền lập tức. Khi thuyền tị nạn chúng tôi tới bờ biển Thái Lan, đài
truyền hình địa phương đã cho phóng viên tới gặp, và phỏng vấn tôi.
Ngoài tờ giấy xác nhận của Văn
Bút, tôi có thêm được một tài liệu quí giá cũng chẳng kém: cuốn "Hai
Mươi Năm Văn Học Miền Nam", còn có tên thật nổ là "Những Truyện Ngắn
Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta", do Nguyễn Đông Ngạc xuất bản. Trong,
có hình tôi, và vài dòng tiểu sử. Cuốn này tôi cũng tình cờ gặp được ở
trong trại. Chủ nhân cuốn sách, một học trò học tiếng Anh của tôi, đã
tặng luôn cho thầy, làm tài liệu thanh lọc.
Phỏng vấn thanh lọc, thường do một sinh viên luật Thái Lan đảm trách,
với một thông dịch viên,thưòng là một người Việt ở Thái Lan. Như đa số
ở đây, họ đều có cảm tình với miền bắc. Nhà thường có treo hình ông Hồ.
Nhưng cảm tình hay không cảm tình, nói chung, họ cố dịch trung thực
những gì họ nghe, và hiểu được.
Trong
cuộc phỏng vấn thanh lọc, có mấy chi tiết thật lý thú liên quan tới
“văn chương” có lẽ cũng nên viết ra ở đây, để bạn đọc cùng thưởng thức.
Nói
chung, thường rất khó mà hiểu được, người phỏng vấn tin hay không tin,
những câu trả lời. Và thường ra, họ giữ một bộ mặt hết sức khách quan,
phải nói là dửng dưng, lạnh lẽo, suốt buổi hỏi cung. Riêng trường hợp
của tôi, khi nghe tôi nói là nhà văn, anh sinh viên luật nhìn phần lý
lịch ghi trên tờ phiếu cá nhân trong hồ sơ Cao Uỷ Tị Nạn, và không qua
thông dịch viên, hỏi thẳng bằng tiếng Anh:
-Anh nói anh
là nhà văn, nhưng anh viết thứ gì?
Nhớ lời dặn
của Hồ Ông, tôi cho tới luôn:
-Tôi viết
truyện ngắn, và phê bình văn học.
Anh nhìn lại
tờ lý lịch và nói:
-Tôi cho anh
nói lại. Ở đây, thấy ghi anh học hết trung học, có một văn bằng đại
học. Anh nói anh làm thơ, viết truyện ngắn, tôi tin. Nhưng phê bình văn
học, tôi không tin. Tôi cho anh nói lại.
-Tôi mê văn
chương từ hồi nhỏ, lại may mắn biết chút ngoại ngữ, nên có đọc văn
chương thế giới, và có chút khiếu về phê bình văn học.
-Anh học tiếng
Anh ở đâu, bao nhiêu năm?
-Tôi học hồi
trung học, và sau đó có làm cho một cơ quan thông tấn nước ngoài.
-Anh nói, anh
có chút hiểu biết về ngoại ngữ, anh biết mấy thứ tiếng?
-Tôi biết ba
thứ tiếng.
-Trong này chỉ
ghi tiếng Anh?
-Tôi biết
tiếng Pháp nữa.
-Như vậy mới
có hai, làm sao anh nói ba?
Tới lúc đó,
tôi cũng hết còn bình tĩnh, và hỏi lại:
-Ông quên
tiếng mẹ đẻ của tôi ư?
Anh ta chợt
mỉm cười.
Tôi nghĩ,
trong số những người bị phỏng vấn, có lẽ tôi là người độc nhất được
hưởng một nụ cười như vậy!
[Sách
Quí 2]
|