TẠP GHI
|
Dương
Nghiễm Mậu
Dương
Nghiễm Mậu
I KILLED
HITLER
IT IS LATE;
I am old. I should finally confess to what happened in the summer of
1937 in a
small town in Hesse. I killed Hitler.
I am Dutch,
a bookbinder, retired for some years now. In the thirties I was
passionately
interested in the tragic European politics of the time. But then my
wife was
Jewish, and my interest in politics was in no way academic. I decided
to wipe
out Hitler myself, with a draftsman's precision, just as one would bind
a book.
And I did it.
I knew that Hitler liked to travel in the summer
with a small
group, practically without bodyguards, and that he stopped in small
villages,
often in outdoor restaurants, in the shade of linden trees.
What good
are the details. I will say only that I shot him and was able to get
away.
It was a
humid Sunday, a storm was on its way, bees meandered as if they were
drunk.
The
restaurant was concealed beneath enormous trees. The ground was covered
with a
fine gravel.
It was
almost completely dark, and there was such drowsiness in the air that
it took
great effort to press the trigger. A wine bottle was knocked over and a
red
blot spread over the whit paper tablecloth.
Then I sped
away in my small car like a demon. But no one was after me. The storm
broke,
down came a heavy rain
Along the way I threw the gun into a ditch overgrown
will nettles; I flushed out two geese, which began to run with an
awkward
waddle.
Why the
details?
I returned
home triumphant. I tore off the wig, burned my clothes, washed the car.
And all for
naught, because the next day someone else exactly like him down to the
last
detail and perhaps even crueler than the one I killed, took his place.
The
newspapers never mentioned the murder. One man vanished, another
appeared.
The clouds
that day were completely black, the air sticky as molasses.
Adam
Zagajewski: Two Cities
Note: Đây là
truyện ngắn “Kinh Kha với con chủy thủ
trên đất Tần bất trắc" của DNM, được nhà thơ Ba Lan mô phỏng,
hoặc viết
lại, bằng 1 văn phong nhẹ nhàng hơn nhiều!
Một anh chàng
thú tội, đã từng ám sát Hitler, nhưng lạ làm sao, chẳng ai phát hiện,
và 1 kẻ
khác, y chang Hitler, có lẽ còn hung ác hơn nhiều, thế chỗ tên bị giết!
Hai mươi năm VHMN
"Những con dã
tràng", truyện ngắn đầu tay của GCC, là cũng nằm trong dòng văn
chương hục hặc
hiện sinh, như truyện Cuối Đường, hay Tư của TTT. Sau này, đọc Kẻ Xa
Lạ, Gấu nhận
ra nhân vật chính trong truyện có dáng dấp của Meursault, và luôn cả
Camus, vì
Camus có thời gian ho lao, như nhân vật chính trong “Những con dã
tràng”.
Như thế, có thể nói, Gấu đọc Camus, gián tiếp, qua TTT.
Bởi là vì thời gian đó, Gấu chưa biết gì về Camus.
Truyện
viết từ chuyến đi Nha Trang, trong dịp hè, sau khi rớt Tú Tài Hai, Khoá
I, và
nhân bà bạn của bà cụ Chất, bà Thời, tổ chức Trại Hè cho đám con cái
công nhân
viên hoả xa, hai cụ cho đi theo luôn. Hết hè về, Gấu thi đậu khoá hai,
bạn bè rớt
hết.
Gấu vẫn còn
nhớ, là, khi đọc bản nháp, bài luận Triết của Gấu, đưa về trình ông
anh, TTT không nói gì hết. Chỉ
đến khi
Gấu làm được cả hai bài Toán, và Vật Lý, ông mới gật đầu, phán, đậu,
nhưng do
Toán
và Vật Lý, chứ bài Triết chỉ đáng 1 gậy!
Như thế, ông
không tin tài văn, tài triết con mẹ gì ở Gấu, và cũng thế, là nhận xét
khi đọc “Những
Con Dã Tràng”, mi sẽ đi xa hơn DNM.
Ông đâu khen Gấu viết hay hơn DNM!
Chỉ đến khi viết
được truyện ngắn “Những Ngày Ở Sài Gòn”, thì Gấu hiểu ra, mình đã thoát
ra khỏi
cái bóng của ông anh, và đã tìm ra được văn phong của riêng mình, nhờ
kiếm ra ông
thầy, là Faulkner.
Đây cũng nằm trong lời khuyên của ông anh, mi hãy
đọc, đọc, đọc,
đọc thật nhiều, và sẽ có 1 ngày, mi tìm ra cái dòng văn của mi, qua ông
thầy của
mi.
Trên số báo
sau đây, Asia Literary Review, Spring 2010, có bài viết “Pico Iyer và
Dalai
Lama”, thật là tuyệt, với riêng Gấu.
Thầy của
Iyer Pico là Graham Greene. Và ông nhìn Dailai Lama qua Thầy của mình.
Không chỉ
Dalai Lama mà còn luôn cả Phật Giáo, qua cá nhân Phật Sống.
Số này có
mấy đấng
Mít, Gấu mua là vì mấy đấng Mít, Nguyễn Quí Đức và Andrew Lam, bỏ qua
bài về
Pico.
May quá, mới kiếm thấy tờ báo!
THE QUIET
AMERICAN
by Graham
Greene, 1955
Greene's book
is widely regarded as a classic, prophetic literary tale that examines
the
start of American engagement in Vietnam. The acclaimed English novelist
and
journalist, who covered the French war in Vietnam from 1951 to '54, set
the
book in 1954 Saigon. The quiet American of the title is Alden Pyle, who
tries
to forge an American solution to the Communist insurgency. Another
character,
cynical British journalist Thomas Fowler, say of Pyle : "I never knew a
man who had better motives for all the trouble he caused”. In a
discussion of
The Quiet American , essayist Pico Iyer said: “Lyrical, enchanted
descriptions
of rice paddies, languorous opium dens and even slightly sinister
Buddhist
political groups are a lanterned backdrop to a tale of irony and
betrayal."
Greene died in 1991.
Note: Bài
viết ngắn trên, trong số báo trên, trong nhắc tới câu của
anh ký giả ghiền Hồng Mao, nói về anh Mẽo trầm lặng: "Tôi chưa từng
thấy
thằng nào có những ý hướng tốt đẹp hơn, như anh, về những khốn nạn mà
nó gây ra
[cho xứ Mít, ở đây]".
Quả như
thế thực. Đau thế.
Bài
viết
ngắn nhắc tới Pico Iyer. Tò mò, Gấu lần ra bài viết của tay này, cũng
thật
là tuyệt vời, về GG:
The Disquieting Resonance of 'The Quiet
American'
by Pico Iyer
April 21, 2008 5:08 PM ET
Pico còn viết cả 1 cuốn sách về ông thầy của mình, ở trong đầu của
mình, The Man Within My Head
Ever since
he first discovered Graham Greene's work, Pico Iyer has felt a haunting
closeness with the English writer. In The Man Within My Head,
Iyer
follows Greene's trail from his first novel, The Man Within, to
such
later classics as The Quiet American, examining Greene's
obsessions, his
elusiveness, and his penchant for mystery. The deeper he plunges into
this
exploration, the more Iyer begins to wonder whether the man within his
head
might not be Greene but his own father, or perhaps some more shadowy
aspect of
himself.
Drawing upon experiences
across the globe, from Cuba to Bhutan, and moving, as
Greene would, from Sri Lanka in war to intimate moments of
introspection, this
is the most personal and revelatory book yet from one of our most
astute
observers of inner journeys and crossing cultures.
Võ Phiến,
khi qua Paris, ở nhà Kiệt Tấn, khi nghe chủ nhà hỏi về TTT, đã phán,
nhớ đại
khái, thằng chả nổi tiếng nhờ tiểu thuyết.
Thoạt nghe Gấu bật cười, nhưng sau nghĩ
lại, có phần đúng. TTT được đọc nhiều, và có đệ tử, là nhờ truyện ngắn,
tiểu
thuyết.
Thơ của ông, số 1, nhưng đếch có đệ tử, đúng như Đặng Tiến nhận xét.
Trong kho
chuyện cổ của Trung Hoa, có câu chuyện về một quả chuông, đánh lên
không nghe,
nhưng lại ngân lên ở một nơi khác.
Rượu Chưa Đủ,
bản thân nó, cũng là một tiếng chuông lạ, đến từ một miền đất khác.
Sến có 1
câu, Gấu cực mê, và có thể cả đời, chỉ còn lại câu này, và câu này,
dùng để chỉ
vô đời Sến, quá đúng, nếu muốn lái sang chuyện, VC đếch cho Sến về, cứ
bật PC
lên là thấy quê nhà rồi.
Câu của Sến,
sau này, GCC gặp lại, khi đọc Bolano.
Ông phán,
tay thằng chả là quê nhà của thằng chả.
Tuyệt!
Cái lũ Mít
bò về không hiểu được điều này.
Tay của Gấu
là quê Mít của Gấu!
Sướng thiệt!
Câu phán của
Bolano là ở trong bài viết “Văn Chương và Lưu vong”. Bài này cũng quá
tuyệt.
GCC cứ thèm dịch hoài, mà hết dám hứa lèo. Ông có mấy bài viết về lưu
vong,
không chỉ bài trên. Hình như trên TV cũng có giới thiệu. Để coi lại,
rồi lại
lèm bèm tiếp. Trong bài "Exiles", Những Cuộc Lưu Đày, ông phán, lưu
vong là can đảm.
Quả có thế.
Lũ bò về đều là 1 lũ chết nhát, theo GCC.
Gọi, lũ chó
chết, cũng được.
*********
Đính chính:
Câu của
Bolano, và luôn cả đoạn văn, trong có câu đó, sau đây, cho thấy, GCC do
đọc ba
chớp ba nhoáng, hiểu lộn:
Literature
and exile, I think, are two sides of the same coin, our fate placed in
the
hands of chance. "I don't have to leave my house to see the world,"
says the Tao Te Ching, yet even when one doesn't leave one's
house,
exile and banishment make their presence felt from the start. Kafka's
oeuvre,
the most illuminating and terrible (and also the humblest) of the
twentieth
century, proves this exhaustively. Of course, a refrain is heard
throughout
Europe and it's the refrain of the suffering of exiles, a music
composed of
complaints and lamentations and a baffling nostalgia. Can one feel
nostalgia
for the land where one nearly died? Can one feel nostalgia for poverty,
intolerance, arrogance, injustice? The refrain, intoned by Latin
Americans and
also by writers from other impoverished or traumatized regions, insists
on
nostalgia, on the return to the native land, and to me this refrain has
always
sounded like a lie. Books are the only homeland of the true writer,
books that
may sit on shelves or in the memory. The politician can and should feel
nostalgia. It's hard for a politician to thrive abroad. The working man
neither
can nor should: his hands are his homeland.
Sách là chốn
quê nhà độc nhất của nhà văn thứ thiệt, những cuốn sách có thể ngồi
trên kệ,
hay trong hồi nhớ. Nhà chính trị có thể, và nên cảm thấy hoài hương,
nhớ nhà.
Thật căng, đối với nhà chính trị, khi làm giàu ở hải ngoại.
Một công nhân
không thể mà cũng không nên: Tay của anh ta là quê nhà của anh ta.
Do đọc lẹ, và
lé, quá, Gấu hiểu, tay thằng chả [nhà văn khi viết văn, khi đẻ ra chữ],
là quê
hương của thằng chả.
Sorry abt that.
GCC
Sau 30 Tháng
Tư 1975, được bạn văn, cũng VC nằm vùng, DH, đổi tên thành Vô Hạnh.
Hai mươi năm VHMN
Dương
Nghiễm Mậu
Literature and
exile, I
think, are two sides of the same coin, our fate placed in the hands of
chance.
"I don't have to leave my house to see the world," says the Tao
Te Ching, yet even when one doesn't
leave one's house, exile and banishment make their presence felt from
the
start. Kafka's oeuvre, the most illuminating and terrible (and also the
humblest) of the twentieth century, proves this exhaustively. Of
course, a
refrain is heard throughout Europe and it's the refrain of the
suffering of
exiles, a music composed of complaints and lamentations and a baffling
nostalgia. Can one feel nostalgia for the land where one nearly died?
Can one
feel nostalgia for poverty, intolerance, arrogance, injustice? The
refrain,
intoned by Latin Americans and also by writers from other impoverished
or
traumatized regions, insists on nostalgia, on the return to the native
land,
and to me this refrain has always sounded like a lie. Books are the
only
homeland of the true writer, books that may sit on shelves or in the
memory. The
politician can and should feel nostalgia. It's hard for a politician to
thrive
abroad. The working man neither can nor should: his hands are his
homeland.
Roberto
Bolano: Literature and Exile
Tớ đếch cần
rời xứ Mít để nhìn thế giới. Tao Te
Ching phán như thế. DNM cũng có thể nói như
thế.
Tuy nhiên,
“nhà” của anh, có lẽ là cái miền đất mà anh đang hiện sống, tức Xề Gòn
thay vì
Hà Nội, và với anh, lưu vong và bị biếm - chúng chẳng đã in sách của
anh rồi lại...
đốt thêm 1 lần nữa ư? - nói lên điều đó, như tiếng chuông được đánh
lên, ở Miền
Bắc, nhưng lại ngân lên ở Miền Nam, trước 1975. Tác phẩm của Kafka, soi
sáng rực rỡ nhất,
và cũng khủng khiếp nhất (và cũng khiêm tốn nhất) cái thế kỷ 20, trong có hai cuộc lưu vong 1954, và 1975
của lũ Mít, chứng tỏ hoài huỷ điều này...
Liệu có tên
Mít nào hoài nhớ xứ Mít, nơi nó xém chết như... TTT, DNM, hay… GCC?
Liệu có tên nào như lũ chúng tớ, hoài nhớ sự nghèo đói, bất công, ngạo
mạn, của cái xứ Bắc Kít ngày nào, mà chúng bỏ chạy?
From: PCL
To:
Cc:
Sent: Thursday, August 23, 2001 5:30 PM
Subject: Fw: NQT
Chào anh Trụ,
Thêm một độc giả ‘sensitive’ về chuyến về VN.
Anh có muốn viết trả lời?
PCL
----- Original Message -----
From:
To: vhnt@saomai.org
Sent: Thursday, August 23, 2001 2:07 PM
Subject: NQT
Xin cha`o ca'c ba.n,
Ma^'y tua^`n na`y ddo.c ba'o chi' ha?i ngoa.i cu~ng nhu+ trong nu+o+'c
tha^'y
dda(ng ba`i pho?ng va^'n Nguye^~n Quo^'c Tru.- mo^.t ngu+o+`i co^ng
ta'c vo+'i
qui' ba'o- ve^` chuye^'n vie^'ng tha(m Vn cu?a o^ng ta.
Xin qui' ba'o cho bie^'t y' kie^'n ve^` chuye^.n na`y. DDa^y co' pha?i
la`
ha`nh ddo^ng tro+? ma(.t ba('t tay vo+'i Cs cu?a NQT hay kho^ng?
To^i i't khi le^n tie^'ng ve^` chuye^.n chi'nh tri. nhu+ng vi` to^i la`
ddo^.c
gi?a thu+o+`ng xuye^ng cu?a VHNT online va` ra^'t ye^u me^'n ta.p chi'
na`y
ne^n to^i mo+'i le^n tie^'ng.
Xin tha`nh tha^.t ca'm o+n.
*
Gấu là người đầu tiên xé rào về
đầu thú, vậy mà cho đến nay, vẫn chưa có tác
phẩm nào được VC cho phép in ở trong nước.
Nhưng cứ nghĩ đến cái cảnh mấy ông VC, nằm trong bộ phận kiểm duyệt, sờ
mó, mân
mê, cắt xén chỗ này chỗ kia, lại nghĩ đến câu mụ Tú mắng Kiều, "mầu hồ
đã
mất...", thì lại thương cho nàng Kiều:
Chữ trinh còn một chút này.
Chữ trinh chỉ còn một tí đó,
khiến Sebald mơ mòng, ông đang ở Paris, bị
lột mặt nạ, trơ ra là một tên phản bội tổ quốc [một tên Chống Cộng điên
cuồng...]
*
Vậy mà bạn ta khen VC, chẳng bỏ một chữ nào, của cuốn Sông Côn Mùa Lũ.
Thế cái tội
sờ mó [của quí của] Sông Côn thì
sao?
Sông Côn đã từng được xb ở hải ngoại, có thằng mũi lõ mũi tẹt nào dám
sờ?
Ui chao, sách trong nước thì xin được tự thu hồi, sách hải ngoại thì
khoe không
bỏ một chữ, đúng chuyện khôi hài đen.
Bởi vì, như một người nào nói, xứ sở của một nhà văn, là ngôn ngữ của
người đó.
(1)
(1) "A writer's patria or country, as someone said, is his language.
That
sounds pretty demagogic, but I completely agree with him..."
Roberto Bolano.
Trong kho chuyện cổ của Trung Hoa, có
câu chuyện về một quả chuông, đánh lên không nghe, nhưng lại ngân lên ở
một nơi
khác.
Rượu Chưa Đủ, bản thân nó, cũng là một tiếng chuông lạ, đến từ một
miền đất
khác.
Sến có 1 câu,
Gấu cực mê, và có thể cả đời, chỉ còn lại câu này, và câu này, dùng để
chỉ vô đời
Sến, quá đúng, nếu muốn lái sang chuyện, VC đếch cho Sến về, cứ bật PC
lên
là thấy quê nhà rồi.
Câu của Sến,
sau này, GCC gặp lại, khi đọc Bolano.
Ông phán, tay thằng chả là
quê nhà của thằng
chả.
Tuyệt!
Cái lũ Mít bò
về không hiểu được điều này.
Tay của Gấu là quê Mít của
Gấu!
Sướng thiệt!
Câu phán của
Bolano là ở trong bài viết “Văn Chương và Lưu vong”. Bài này cũng quá
tuyệt.
GCC cứ thèm dịch hoài, mà hết dám hứa lèo. Ông có mấy bài viết về lưu
vong,
không chỉ bài trên. Hình như trên TV cũng có giới thiệu. Để coi lại,
rồi lại
lèm bèm tiếp. Trong bài "Exiles", Những Cuộc Lưu Đày, ông phán, lưu
vong là can đảm.
Quả có thế.
Lũ bò về đều là 1 lũ chết nhát, theo GCC.
Gọi, lũ chó
chết, cũng được.
Roberto Bolaño
Mọi văn
chương, bất cứ thứ chó nào, nếu đúng là văn chương, đều cưu mang trong
nó, cái
gọi là lưu vong, cho dù nhà văn khăn gói lên đường bỏ chạy quê hương
vào lúc hai
mươi, tóc còn xanh mướt, hay là cả đời chưa rời nhà.
Exile is
courage. True exile is the true measure of each writer.
Lưu vong là
can đảm. Lưu vong, thứ thiệt, là cái đo đúng, của mỗi nhà văn.
DNM cũng
là
1 nhà văn lưu vong. Tiếng chuông của ông, gõ ở 1 cái chùa nào ở xứ Bắc
Kít,
nhưng lại vang vọng ở xứ Nam Kít, đúng vào lúc xứ này cần tiếng chuông
đó lắm.
Rồi bặt luôn, theo GCC.
WRITERS LOST
IN THE DISTANCE
Những nhà văn mất vào quãng xa
A few days
ago, Juan Villoro and I were remembering the writers who were important
to us
in our youth and who today have fallen into a kind of oblivion, the
writers who
at the peak of their fame had many readers and who today suffer the
ingratitude
of those same readers and who-to make matters worse-haven't managed to
spark
the interest of a new generation of readers.
We thought, of course, of
Henry
Miller, who in his day was read all over Spain, and whose name was on
everyone's lips, but whose fame was perhaps due to a misunderstanding:
probably
more than half the people who bought his books did so expecting to find
a
pornographer, which in some sense was justified, and also
understandable in the
Spain that emerged after almost forty years of censure under Franco and
the church.
At the other extreme we remembered Artaud, the very
spirit of
asceticism, who
in his day also sold well and had not a few Spanish and Mexican
admirers, and
if today one makes the mistake of mentioning his name to someone under
the age of
thirty, the response will surely be devastating. These days, even film
buffs
have never heard of Antonin Artaud.
The same is true of Macedonio
Fernandez:
his books-except in Argentina, I imagine-are impossible to find in
book- stores.
And it's true of Felisberto Hernandez, who had a small resurgence in
the 1970s,
but whose stories today can only be found after much searching in
second-hand
bookstores. Felisberto's fate, I presume, is different in Uruguay and
Argentina, which brings us to a problem even worse than being
forgotten: the
provincialism of the book market, which corrals and locks away
Spanish-language
literature, which, simply put, means that Chilean authors are only of
interest
in Chile, Mexican authors in Mexico, and Colombians in Colombia, as if
each Latin American country spoke a
different
language or as if t aesthetic taste of each Latin American reader were
determined
first and foremost by national-that is, provincial-imperatives, which
wasn't
the case in the 1960s, for example, when the Boom exploded, or in the
1950S or
1940s, despite poo distribution.
But anyway, that's not what Villoro
and I
talked about. We talked about other writers, like Henry Miller or
Artaud or B.
Traven or Tristan Tzara, writers who contributed to our sentimental
education
and who are now impossible to find in the depths of bookstores for the
simple
reason that they have hardly any new readers. And also about the
youngest ones,
writers of our generation, like Sophie Podolski or Mathieu Messagier,
who were
simply incredible and highly talented and who not only can no longer be
found
in bookstores but can't even be found on the Internet, which is saying
a lot,
as if they'd never existed or as if we'd imagined them. The explanation
for
this ebb of writers, however, is very simple. Just as love moves
according to a
mechanism like the sea's, as the Nicaraguan poet Martinez Rivas puts
it, so too
do writers move, and one day they appear and then they disappear and
then maybe
they appear again. And if they don't, it doesn't really matter so much,
because
in some secret way, they're us now.
Roberto Bolano: Between Parentheses
Đọc bài viết
của nhà phê bình Nguyễn Lệ Uyên về Dương Nghiễm Mậu, (1) GCC bèn nhớ ra bài viết này.
DNM, nếu nói
về khí phách, về nhân cách, về cá nhân anh, thì thật là tuyệt vời, và
đúng là “tự
do hay là chết”.
Nhưng… văn
chuơng, nó không phải như vậy, chán thế!
Văn của DNM
có 1 thời gây chấn động Sài Gòn, nhưng thời đó qua rồi.
Đúng ra, anh
phải biết điều này, và không để cho VC in lại sách của anh.
GCC đã từng nhận xét
về anh và Nguyễn Đình Toàn, như là hai “bản sao” của một TTT, và 1 bạn
văn, nhận
xét, quá đúng.
Nay post lại ở đây, và sau đó, sẽ lèm bèm về Miller, “Thầy của Thầy”,
tức triết gia PCT.
Nhân vật của
Dương Nghiễm Mậu là những con người có một ý thức sáng suốt đến chua
xót về sự
cô đơn, bất lực của mình trong một xã hội đang manh nha tan rã, cuối
cùng lao
vào những hành động "phá phách, nổi loạn", cố tìm một thái độ đạo đức
bằng những hành xử vượt ra ngoài quan niệm đạo đức thông thường. Thế
giới,
khung cảnh truyện của ông "khô, đầy bụi", đầy "tóc rối",
trong khi ở Nguyễn Đình Toàn, là một khí hậu ẩm, ướt, với những nhân
vật hầu hết
là nữ. Truyện của hai tác giả giống như hai mùa mưa nắng ở Miền Nam,
trong khi
chờ đợi cơn bão tố chiến tranh xóa sạch tất cả. (2)
Dương Nghiễm
Mậu: Thật chững chạc, thật cảm động...
Nói một cách khác, không
có vụ di cư,
không có tờ
Sáng Tạo, không có Dương Nghiễm Mậu. Rượu
Chưa Đủ "chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự
khẳng định, để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh
của một
miền đất. Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh
Tâm Tuyền quá trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux... Một Thanh
Tâm Tuyền
"khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động... Nguyễn
Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một
bên là
bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau. Dẫn chứng quá nhiều: Chị
Em Hải (Nguyễn Đình Toàn) là một dị bản của kịch Ba
Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm Lãng Quên, truyện
ngắn được Võ Phiến
tuyển chọn ở hải ngoại, khi viết về những tác giả Miền Nam, thoát thai
từ một
truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền, tôi không còn nhớ tên, viết về ông già
gác
dan, (gác ga-ra?) cho cặp nhân tình tạm trú, cuối cùng bị gã con trai
nện cho sặc
máu mũi, gục xuống một đống... Trước khi bỏ đi, gã thét cô bồ: lột cái
xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão! Mùi vị đàn bà, cuộc tình hối hả...
làm ông
lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng, hay phía bên kia Địa Ngục
(Chiến
Tranh)... Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên,
về một già muốn làm con ong hút nhị từ cô gái.... Chất hung bạo trong
thơ Thanh
Tâm Tuyền tràn lan ra văn. Ở Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết
hơi, của
những bóng dáng đàn bà, không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của
chính họ:
Cái Chết, Cái Sống đều thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của
Chiến
Tranh lảng vảng ở trước, hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ
chối quyết
liệt, bởi những con người đứng bên lề...
“Có người đến
hỏi tôi: Có đi ra ngoại quốc không? Tôi đã trả lời dứt khoát: Tôi sống
và chết
tại nơi này. Người ấy hỏi: Anh chấp nhận sống chung với người Cộng Sản?
Tôi
nói: Tôi không phải là một con chó để nay sống với chủ này, mai sống
với chủ
khác chỉ vì miếng xương chúng liệng ra. Tôi tin tưởng con đường tôi đi.
Có một
nơi là lẽ phải và ánh sáng. Có một nơi là lẽ trái và bóng tối. Có trắng
và đen
không thể nhập nhằng được. Nếu tôi có chết chăng nữa, điều ấy tôi không
ân hận.
Lịch sử đã chứng minh rằng: Nhiều khi cái chết là một điều tốt hơn là
sống. Chết
đi cho người khác sống, cho lẽ phải và sự thực, sống chết như thế cần
thiết.
Tôi bình tĩnh với quyết tâm đó”. (1)
Note:
Đâu có phải
chỉ 1 DNM chọn ở lại. Gần như chẳng 1 ai chọn “đi”, trừ những người
không thể ở
lại.
Đọc những dòng
trên, như không phải của DNM. Lớn lối quá!
NQT
Cách viết của
DNM, thái độ của anh với cuộc chiến, một cách nào đó, hợp với những
dòng của tờ
Người Kinh Tế, khi tưởng niệm Boris Nemtsov, người hùng Nga Xô vừa bị
giết hại:
Ông ta sinh
ra không phải để hận thù, hay làm người hùng. Ông ta có những giấc mơ,
nhưng không
hề có ý trở thành 1 chiến sĩ chống lại chính quyền, nhà nước phát xít.
Ông ta
giản dị là 1 người tốt.
Đúng là thái
độ của DNM trong cuộc chiến.
Nên nhớ, chỉ đến những ngày tháng cuối cùng của cuộc
chiến, anh mới thực sự nhập cuộc, qua vai trò 1 ký sự gia, hay ký giả,
hay ký
giả chiến trường.
He was not
born for hatred or heroics. He had dreams, but had never intended to
become a
fighter against state-sponsored fascism. He was simply a good man: too
good, in
the end, for the country and the times he lived in. +
Obituary:
Boris Nemtsov
Cuon sach
nay tap hop mot so truyen ngan duoc dang tren Van Viet tieng noi cua
Ban Van
dong Van doan Doc lap nhan mot nam to chuc nay ra doi Du Van Viet da va
dang
tiep tuc trien khai nhieu loi tiep can khac nhau doi voi van hoc ke ca
van hoa
va tu nhieu goc do ly luan nghien cuu phe binh dich thuat … co gang
ngay cang
phong phu va da dang hon thi truoc mat va lau dai sang tac van la phan
quan
trong nhat Boi nhu nha tieu thuyet lon Milan Kundera luon khang dinh
Nhiem vu
cua nha tieu thuyet la noi nhung gi va bang cach chi duy nhat co tieu
thuyet
moi noi duoc Khi nhac den tieu thuyet Kundera khong chi noi ve mot the
loai ong
noi ve nghe thuat ngon tu Muc tieu cao nhat cua “mot nen van hoc dich
thuc” la
co sang tac hay cuoi cung phai co sang tac hay Cho nen nhu mot so ket
nho sau
mot nam o day la mot tap hop truyen ngan mot phan cua chuyen muc sang
tac
[Văn Vịt giới
thiệu tập truyện ngắn] (a)
Thú thực,
GCC không làm sao mà hiểu nổi, đây là 1 tập truyện ngắn, mắc mớ gì đến
1 định
nghĩa của Kundera về… tiểu thuyết?
Vả chăng, v/v “tiểu thuyết là gì”, thì đâu chỉ có 1 Kundera trả lời?
Còn Fuentes,
còn Lukacs, còn Broch…
Cái
gì, chỉ tiểu thuyết có thể
nói, trong khi không thể nói, bằng/trong,
bất cứ một cách nào khác?
Đây
là câu hỏi, cực cơ bản, được Hermann Broch - không phải Kundera - đưa
ra.
NQT
Một câu “cà
chớn” của TCS, vậy mà đem ra để nói về 1 tập truyện ngắn của cả 1 đám
nhà văn
trẻ?
Vả chăng,
truyện ngắn là thứ đụng thẳng vào đời sống, khác hẳn tiểu thuyết, làm
sao mà
“chẳng hề đả động” tới?
Soi đường
hay xoi đường?
“Anh già” NN
này là tác giả của quái vật Núp, chưa từng sám hối về thành quả đóng
góp trong
việc xây dựng lên địa ngục Mít, vậy mà còn chửi chúng bây giờ ơ hờ, vô
cảm, rồi
lại khen chúng không hề đả động tới xã hội nóng bỏng?
Đúng là Văn Vịt!
NQT
Dưới ánh sáng
đó, nhìn lại quá khứ có vẻ như tiên tri dòng tự sự của tương lai. Tiểu
thuyết
gia, không cứng ngắc, punctual, như sử gia, luôn nói với chúng ta, quá
khứ chưa
kết thúc
đâu, rằng, quá khứ phải được tái phịa, phát minh ra, reinvented, tại/ở
mọi giờ
giấc của ngày nếu chúng ta không muốn hiện tại tuồn khỏi kẽ tay của
chúng ta mỗi
lần chúng ta tính nắm bắt nó. Tiểu thuyết diễn tả mọi sự vật mà sử vờ
đi, đếch thèm
nhắc tới, hay, bất thình lình ngưng tưởng tượng. Một thí dụ về chuyện
này có
thể kiếm thấy ở Argentia - một xứ sở Mỹ Châu La Tinh với lịch sử thực
là ngắn
ngủi nhưng có những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất. Theo câu chuyện khôi
hài xa xưa,
người Mexico xuống từ Aztecs, người Argentia, từ thuyền bè. Hẳn nhiên
là
vì đây
là một xứ sở trẻ, với những làn sóng di dân mới có, Argentia phải phịa
ra một lịch
sử cho chính nó, vượt chính nó, một lịch sử lời, a verbal history, đáp
ứng cái
tiếng la khóc đơn côi, tuyệt vọng của tất cả những những nền văn hóa
trên thế
giới: làm ơn làm cho tôi cất tiếng
nói, please, verbalize me.
Borges, lẽ dĩ
nhiên, là 1 thí dụ được triển khai trọn vẹn nhất, về sử tính “kia”, nó
bồi hoàn
cho sự mất mát những điêu tàn Mayan, những tháp cổ Incan. Trước hai
chân trời –
Pampa và Atlantic – Borges đáp ứng bằng không gian toàn thể, của “The
Aleph”,
thời gian toàn thể, của “The Garden of the Forking Paths”, và cuốn sách
toàn thể
“Thư viện Babel”, chưa nói đến thuật nhớ không chút thoải mái của
“Funes, the
Memorious”.
Lịch sử như
vắng mặt. Không có gì gây sợ hãi “khủng” bằng nó. Nhưng, chẳng có gì
gây đáp ứng
dữ dằn hơn, so với tưởng tượng. Nhà văn Argentine, Héctor Libertella
đưa ra một
câu đáp thực là tiếu lâm cho cái thế luỡng nan này. Ném 1 cái chai
xuống biển.
Trong chai là chứng cớ độc nhất, Magellan đã đi thuyền vòng quanh trái
đất: Nhật
ký của Pigafetta. Lịch sử là cái chai được ném xuống biển. Tiểu thuyết
là bản
thảo tìm thấy được ở trong cái chai. Cái quá khứ mới rồi gặp cái cực
tức thời hiện
tại, khi, bị kìm kẹp, đàn áp bởi chế độ độc tài, cả một quốc gia, chỉ
được gìn
giữ trong những cuốn tiểu thuyết, như những cuốn của Luisa Valenzuela
của Argentina,
hay Ariel Dorfinan của Chile. Ở đâu, vậy thì, những bịa đặt lịch sử
tuyệt vời của
Tomás Eloy Martínez (The Perón Novel
and Santa Evia) xẩy ra? Trong quá khứ chính trị mê làm
tình với xác chết
của Argentina? Hay trong tương lai tức thời, trong đó sự hóm hỉnh, của
tác giả
có thể làm cho quá khứ biến thành hiện tại – nghĩa là, có thể trình ra
được, bày
ra đó – và, hơn bất cứ gì khác, dễ đọc?
Carlos Fuentes
Đoạn trên, 1
cách nào đó, là để trả lời cho Sến Cô Nương và Bọ Lập, về phát biểu,
giả tưởng
không đáng xách dép cho hiện thực, ở xứ Mít hiện nay. Khi GCC nhẹ nhàng
nhắc bài,
chỉ có giả tưởng, của 1 bậc thầy, của thứ có tài, mới viết ra được sự
thực của
xứ Mít, là đúng theo như Fuentes. Chứng cớ: Những Ba Người
Khác, Thời Gian Của Người, Nỗi Buồn Chiến Tranh… Chúng đều
là giả tưởng, và trong chúng, mỗi cuốn 1 tí, nói lên sự thực xứ Mít,
đâu phải hồi
ký Đêm Giữa Ban Ngày, hay Bên Thắng Nhục?
John Fowles,
khi được hỏi, tiểu thuyết chỉ là dối trá, hà cớ làm sao cứ đòi sự thực
[tuy nhiên,
một vài tiểu thuyết gia nghiêm trọng cố tìm ra tí sự thực qua viết
lách], với ông,
là thứ sự thực nào, đã trả lời:
Mọi nhà
văn
đều biết thế luỡng nan này, this dilemma - rằng, đối với tiểu thuyết
gia, chính
cái mác đó, đòi hỏi 1 khả năng nói dối, that for a novelist, his or her
trade
demands the ability to lie. Tuy nhiên, một điều gì đó, trong anh ta/chị
ả mong
nói ra sự thực, trọn sự thực, về phận người, something in him or in her
yearning to express a whole truth about the human condition.
Cái mà tôi tìm là
the Socratic: có phần bi quan, thường là xì níc, đểu giả, [dễ ghét, như
1 độc
giả TV nhận xét về Gấu Cà Chớn!], nhưng luôn luôn tìm kiếm 1 sự thực
đạo hạnh
[an ethical truth].
Tôi nhận ra sự thực đó thì ở quá xa đối với chủ nghĩa xã hội,
hay Mác Xít.
Ông này, 1
phần nào đó, cũng trả lời cho câu phán của SCN, và BL.
GCC sợ rằng,
cả xứ Mít sẽ chẳng bao giờ biết sự thực về chính nó!
V/v Giả tưởng
xách dép cho hiện thực.
Hai cuốn - không chỉ hiện thực, mà là sự thực, viết về cuộc
chiến Mít, dưới dạng hồi ký - thì cả hai đều có mùi ăn cắp. Bóng Đêm Giữa Ban Ngày,
ăn cắp cái tít của Koestler. Bên
Thắng Nhục. Cái ý tưởng, kẻ được giải phóng đúng
ra lại là Miền Bắc, ăn cắp của… Gấu Cà
Chớn, trong 1 bài viết, từ những ngày còn ở Trại Tị Nạn Thái Lan, về
cuốn Hình
Bóng Cũ của Sơn Nam.
Dương Nghiễm
Mậu: Thật chững chạc, thật cảm động...
Nhớ đó là một
buổi trưa rảnh rỗi, tôi ghé thăm một diễn đàn bạn. Người bạn đang cắm
cúi làm
việc. Tôi kéo ghé ngồi hút thuốc lá thấy ở bên cạnh mình một cái sọt
rác đựng đầy
những bản thảo gởi đăng không đăng và liệng bỏ đi. Buồn tay tôi nhặt
lên những
tờ bản thảo bị xé bỏ ấy lên coi. Cuối cùng và ở tận đáy cái sọt rác ấy
là bản
thảo một truyện ngắn.
-Bỏ đi tất cả
đấy à?
-Ừ đã đọc rồi
bỏ không đăng.
-Moa lấy đi
được không?
-Để làm gì vậy?,
người bạn ngạc nhiên hỏi.
-Mặc moa,
tôi nói và cất cẩn thận cái truyện ngắn bị vất bỏ ở một diễn đàn bạn
vào túi
áo, trở về đăng ngay nó nguyên văn không sửa một dấu phẩy trên tờ Sáng
Tạo số
đang làm.
(Mai Thảo,
Chân Dung nhà văn).
Trong thế giới
văn chương, những trường hợp như trên không nhiều, nhưng cũng không
phải là quá
hiếm hoi. Bel Kauffman, tác giả cuốn Lại lên cầu thang đưa xuống En
remontant
l'escalier qui mène en bas, kể lại, một bữa bà đưa con đi coi xiếc,
trên đường
đi, bà mua cho con một trái bóng bay. Đứa bé từ lúc đó, chỉ mải mê
phiêu lưu
cùng chiếc bong bóng bay trên trời, chẳng thèm để ý đến những chú voi
khổng lồ
đang diễn trò. Và bà chợt nhận ra, đứa con đã nhìn thấy nhiều hơn là
những đứa
trẻ khác đang cùng ngồi trong rạp. Trường hợp En remontant cũng thật ly
kỳ: tiền
thân của nó là mấy mẩu giấy học trò, trong một giỏ bỏ giấy vụn, tại một
trường
tiểu học tại New York; một ông Mai Thảo nào đó tò mò lượm lên, rồi được
một nhà
xuất bản New York đăng (1962). Cuộc phiêu lưu của mấy mẩu giấy vụn chưa
chịu
ngưng ở đó: nó biến thành những chiếc bóng bay, khi một nhà xuất bản
lớn tình cờ
đọc mẩu chuyện nho nhỏ, và đã đề nghị tác giả viết lại, từ bốn trang
giấy vụn.
Đề tài trong
En remontant (theo tờ Thời Mới, Temps Nouveaux, một tạp chí tiếng
Pháp của
Liên-xô) có thể tóm gọn: giữa Sự Thực và Tình Thương, cái nào hơn? Câu
trả lời:
Tình Thương.
Trí nhớ thường
lầm lạc, có khi còn do cố ý, hoặc tiềm ẩn, hoặc hiển nhiên; đây là một
trong những
bản năng của con người, luôn luôn muốn tái tạo quá khứ, cho những nhu
cầu hiện
tại. Trong Chân Dung nhà văn, cùng
bài về Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo viết... kỷ niệm với mỗi người mỗi
khác, (với)
Thanh Tâm Tuyền, (là) căn gác xép ám khói ở Tòa soạn Dân Chủ (của Vũ
Ngọc Các,
thập niên 1960), hắn hỏi xin một điếu thuốc và tôi tưởng hắn là thợ sắp
chữ.
Trong khi đó, qua bài viết của Thanh Tâm Tuyền trên tạp chí Thơ
(số Mùa Xuân 1998), nhà thơ nhận ra
bạn mình ngay lần gặp mặt đầu tiên, sau khi nhận được một bản thảo đánh
máy...
Liếc nhìn dòng chữ đầu tiên của bài gửi, tôi giật mình kinh ngạc...
Còn điều này
nữa, cơ duyên truyện đầu tay, nhiều khi tự nó đã là một giai thoại. Như
sau
đây, tôi viết lại theo trí nhớ. Qua kể lại của Simone de Beauvoir,
Sartre trong
khi viết Buồn Nôn, La Nausée, lúc nào
cũng cảm thấy có “cua bò trên lưng”! Gửi bản thảo tới nhà xuất bản
Gallimard, bị
chê: phần đầu ảnh hưởng Dostoevsky... một cuốn tiểu thuyết bình dân!
Sartre thời
gian đó, suốt ngày chầu chực ở văn phòng nhà xuất bản; một bữa ông đang
ngáp
gió, thấy một ông vô, trong khi nói chuyện với bè bạn, ông này lấy
thuốc lá,
loay hoay tìm hộp quẹt, Sartre nhanh nhẩu tới làm cử chỉ đẹp. Ông này
hỏi, xin
lỗi ông là ai, Sartre tự giới thiệu. Hóa ra là Jean Paulhan, ông chủ
tiệm. Phần
tiếp theo, chắc các bạn đoán ra được...
Trường hợp
Dương Nghiễm Mậu, giả sử Mai Thảo không buồn tay, có thể chúng ta vẫn
có một
Dương Nghiễm Mậu, nhưng thiếu Rượu Chưa Đủ,
thì thật là một vô cùng thiếu sót. Bởi vì đây là một truyện ngắn, như
một loài
chim hiếm quí, khi nó xuất hiện, văn chương sẽ... không còn như trước
nữa!
Trong kho
chuyện cổ của Trung Hoa, có câu chuyện về một quả chuông, đánh lên
không nghe,
nhưng lại ngân lên ở một nơi khác. Rượu
Chưa Đủ bản thân nó cũng là một tiếng chuông lạ, đến từ một miền
đất khác
(1), âm thanh của nó như được nén lại, ra tới nơi quê người, mới thực
sự rền
rĩ. Ở đây, chúng ta như mường tượng ra bức địa đồ tỉ lệ xích 1/1 của
Borges, mà
người Việt cố mang ra ngoài để vá víu lại, cho nó như xưa. Chúng ta
càng nghe
rõ âm thanh của tiếng chuông lạ này, khi đọc Mai Thảo, viết về đoạn kết
Rượu Chưa Đủ:
Bao năm rồi
không đọc lại tôi chẳng thể nhớ hết từng chi tiết của truyện, chỉ nhớ
cái anh
chàng nào đó, với bút hiệu Dương Nghiễm Mậu đã có ở Rượu
Chưa Đủ một kết thúc tuyệt hay. Đoạn tả người anh đến đón em ở
viện mồ côi. Hai anh em cùng mồ côi cha mẹ từ sớm (một ẩn dụ về một
Hà-nội?,
người viết bài này thêm vô). Hai anh em đi lang thang một ngày trong
thành phố
không có một đồng xu nhỏ (những ngày đầu di cư của họ Dương?). Buổi
chiều, trước
khi đưa em trở về viện, anh dẫn em vào công viên, yên lặng lấy đất đắp
thành những
mô hình sông núi, thầm nghĩ hai anh em trơ trọi giữa đời, thôi bầy trò
chơi đắp
hình sông núi với em để có được cùng em, dù một cách rất tội nghiệp,
buồn rầu một
ý niệm về một điểm tựa, về nguồn gốc. Thật chững chạc và thật cảm động.
Đó là
truyện ngắn thứ nhất của Dương Nghiễm Mậu. Một công viên vắng lặng...
Hình ảnh
con đường văn chương Mậu mở ra và đi trên đó một mình... Những mô hình
sông núi
quê hương. Đứa trẻ mồ côi, nghiêm chỉnh sớm hiểu biết, ý thức trong
truyện
chính là Dương Nghiễm Mậu, đã đắp xong, rất hoàn chỉnh, những mô hình
sông núi
cho cõi văn cõi viết của mình... Và Mai Thảo kết luận: Cuối cùng là đứa
trẻ mồ
côi trong truyện ngắn đầu tay của Dương Nghiễm Mậu sự thực không bao
giờ mồ
côi. Mồ côi là những kẻ khác kia.
Hay khi đọc
Thanh Tâm Tuyền viết về Đêm Giã Từ:
Đấy là một
truyện không cốt truyện. Sự hấp dẫn bắt đọc là ở lời, giọng kể, ở ma
lực của tiếng
nói bắt lắng nghe - theo bước di chuyển của nhân vật giữa thành phố bỏ
ngỏ
trong đêm, sự vật ẩn hiện nổi chìm trong giấc kín bưng triền miên của
nó -, ở sự
dồn đẩy khôn nguôi của chữ nghĩa tưởng chừng không sao dứt tạo thành
những vận
tiết mê mải tới chốn nhòa tắt tiếng...
Năm di cư thứ
hai mươi (1974), khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh ở
cả hai
miền lúc ấy...
Khi từ Phú
Thọ ra, ghé lại Hà-nội đợi giờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên thềm
ga Hàng
Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét
lạnh của
một ngày cuối năm tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai 'Nhìn xuống vực
thẳm... dưới
ấy', câu của Anh vẳng ngân như một câu thơ. (Câu văn là một câu gắn
liền trong
mạch văn, tách khỏi mạch không ít thì nhiều cũng bất toàn. Câu thơ tách
khỏi mạch
vẫn tự đầy đủ, tự lập trên cái nền thiếu vắng nó gợi nhắc).
Cái nền thiếu
vắng, những mô hình sông núi tưởng tượng, tiếng chuông ngân ở một nơi
khác: mồ
côi là những kẻ khác, nhưng Rượu Chưa Đủ,
Đêm Giã Từ, Bếp Lửa... mãi mãi vẫn
chỉ là những đứa con tư sinh của một miền đất.
Hình ảnh con
đường Mậu mở ra và đi trên đó một mình..., câu này chỉ có thể coi như
một nghi
vấn, thay vì một khẳng định. Nói một cách khác, không có vụ di cư,
không có tờ
Sáng Tạo, không có Dương Nghiễm Mậu. Rượu
Chưa Đủ "chưa đủ", nó cần một, hay nhiều hình ảnh khác nữa để tự
khẳng định, để hoàn tất: chúng bổ túc cho nhau, những đứa con tư sinh
của một
miền đất. Nói rõ hơn, Dương Nghiễm Mậu là một "dị bản", của một Thanh
Tâm Tuyền quá trí thức, quá Tây-phương, quá say mê Malraux... Một Thanh
Tâm Tuyền
"khác", khô, cứng, thật chững chạc, nhưng cũng thật cảm động... Nguyễn
Đình Toàn, lại một Thanh Tâm Tuyền khác nữa, một bên là mặt trời, một
bên là
bóng đêm, chúng bổ túc cho nhau. Dẫn chứng quá nhiều: Chị
Em Hải (Nguyễn Đình Toàn) là một dị bản của kịch Ba
Chị Em (Thanh Tâm Tuyền). Đêm Lãng Quên, truyện
ngắn được Võ Phiến
tuyển chọn ở hải ngoại, khi viết về những tác giả Miền Nam, thoát thai
từ một
truyện ngắn của Thanh Tâm Tuyền, tôi không còn nhớ tên, viết về ông già
gác
dan, (gác ga-ra?) cho cặp nhân tình tạm trú, cuối cùng bị gã con trai
nện cho sặc
máu mũi, gục xuống một đống... Trước khi bỏ đi, gã thét cô bồ: lột cái
xú-chiêng ra, ném lên mặt khứa lão! Mùi vị đàn bà, cuộc tình hối hả...
làm ông
lão tỉnh dậy, thấy mình đang ở Thiên Đàng, hay phía bên kia Địa Ngục
(Chiến
Tranh)... Hãy so sánh với Đêm Lãng Quên,
về một già muốn làm con ong hút nhị từ cô gái.... Chất hung bạo trong
thơ Thanh
Tâm Tuyền tràn lan ra văn. Ở Nguyễn Đình Toàn, lại là sự tắt nghẹn, hết
hơi, của
những bóng dáng đàn bà, không còn đủ hơi sức, để kéo lê, thân xác của
chính họ:
Cái Chết, Cái Sống đều thoi thóp như nhau. Bóng dáng của Thần Chết, của
Chiến
Tranh lảng vảng ở trước, hoặc sau đời sống: nó vắng mặt, như một từ
chối quyết
liệt, bởi những con người đứng bên lề...
Dân làng sau
đó, tới nơi chuông ngân, làm lễ thỉnh tiếng chuông trở về, từ đó, nó
bình thường
như mọi quả chuông khác.
Nguyễn Quốc
Trụ
Chú thích:
(1) Dương Nghiễm Mậu vào Nam năm 1954.
|
|