|
Ông
viết, "Một cuốn
sách phải quậy nát bấy, những vết thương... Một cuốn sách phải là một
hiểm
nguy. Những cuốn sách của ông, chúng nguy hiểm theo nghĩa nào?"
"Thì đúng như vậy. Hãy nghe này:... khi cuốn "Précis...." của
tôi ra lò, một tay phê bình của tờ Thế Giới (Le Monde) gởi cho
tôi một
lá thư, với lời trách móc: 'Ông không nghĩ đến hậu quả, nếu cuốn sách
lọt vào
tay mấy người trẻ tuổi?'.
Thật là phi lý! Sách phục vụ lớp trẻ? Phục vụ như thế nào? Dạy dỗ
chúng? Giúp
chúng học? Nếu như vậy, chúng chỉ cần tới trường, tới lớp."
"Không, tôi cho rằng cuốn sách đúng là một vết thương. Nó phải thay đổi
cuộc
đời của người đọc, cách này hoặc cách khác.... Một bà viết về tôi, mới
đây,
trên tờ Le Quotidien de Paris: 'Cioran viết điều mà người ta
phải nói thầm,
khi nhắc lại'. Tôi không viết, theo nghĩa 'làm ra một cuốn sách', để
cho người
ta đọc. Không, tôi viết để hất đi một gánh nặng cho tôi. Nhưng rồi sau
đó, khi
nghĩ về 'nhiệm vụ của những cuốn sách của tôi' (la fonction de mes
livres), tôi
nói với mình, chúng phải như một vết thương. Một cuốn sách, mà người
đọc 'vũ
như cẩn' sau khi đọc nó, là một cuốn sách vứt đi."
Cioran
Thư ngỏ
nhân Sinh nhật Carlos Fuentes.
Mon Cher
Carlos,
Sinh nhật của bạn nhưng cũng là của tôi : Bạn ăn mừng 70, thất thập cổ
lai hy, và cũng đúng 30 năm đã qua, kể từ khi tôi gặp bạn ở Prague. Bạn
tới đó, vài tháng sau cuộc xâm lăng của Liên Xô, với Julio Cortazar,
với Gabriel Marcia Marquez, để tỏ mối lo âu của bạn, với chúng tôi,
những nhà văn Tiệp.
Vài năm sau đó, tôi định cư ở Pháp, còn bạn, là vị đại sứ của Mexico.
Chúng ta thuờng gặp nhau, trò chuyện. Chính trị thì ít, nhưng tiểu
thuyết thì nhiều. Đặc biệt là về cái món tiểu thuyết, cả hai thật gần
gụi với nhau.
Thời kỳ đó, chúng ta đều ngỡ ngàng về cái sự bà con giữa xứ sở Châu Mỹ
La Tinh lớn lao của bạn, và xứ Trung Âu nhỏ bé của chúng tôi, hai mảnh
đất của thế giới đều mang nặng dấu ấn hồi ức lịch sử về 1 thời kỳ
baroque, và nó làm cho nhà văn trở nên quá nhạy cảm với sự quyến rũ,
mồi chài của sự tưởng tượng mang tính kỳ quái dị, thần tiên, ma mị. Và
còn 1 điểm chung nữa : hai phần đất của chúng ta đều đóng 1 vai trò
quyết định trong cuộc tiến hoá của tiểu thuyết thế kỷ 20, tiểu thuyết
hiện đại, hay có thể nói, thời kỳ sau-Proust : thứ nhất, trong những
thập niên 1910, 1920, 1930, nhờ ở nhóm Nhị Thập Bát Tú, là những tiểu
thuyết gia lớn của phần Âu Châu của tôi : Kafka, Musil, Broch,
Gombrowicz… (chúng tôi ngạc nhiên vì nhận ra 1 điều là đã dành cho
Broch một sự ngưỡng mộ lớn lao hơn nhiều, so với những đồng bào của ông
ngưỡng mộ ông, và cũng thật khác biệt, so với họ : theo chúng tôi, ông
ta mở ra những khả thể mới mang tính mỹ học của tiểu thuyết ; ông ta,
trước hết, là tác giả của cuốn Những kẻ mộng du) ; rồi thì,
trong những năm 1950, 1960, 1970, nhờ ở 1 chòm Nhị Thập Bát Tú khác,
trong phần đất của các bạn, tiếp tục biến đổi mỹ học của tiểu thuyết :
Juan Rulfo, Carpentier, Sabato, rồi bạn và những bạn bè của bạn.
Hai điều trung thành xác định chúng ta : trung thành với cuộc cách mạng
nghệ thuật hiện đại của thế kỷ 20 ; và trung thành với tiểu thuyết. Hai
sự trung thành đó chẳng hề tụ hội. Bởi vì [trường phái] tiền phong
(nghệ thuật hiện đại trong ấn bản ý thức hệ hóa của nó) luôn luôn xếp
xó tiểu thuyết ở bên ngoài chủ nghĩa hiện đại, coi nó như là đã bị vượt
qua, mang tính qui ước không sao chịu đựng nổi, nghĩa là, miễn bàn.
Nếu, sau này, vào những năm 1950, và 1960, những đấng tiền phong 'hậu
phong' bắt đầu tái sáng tạo và tuyên xưng chủ nghĩa hiện đại dành cho
tiểu thuyết, họ đã làm điều này, thuần túy theo 1 đường hướng mang tính
phủ định: một cuốn tiểu thuyết không nhân vật, không
tình tiết, không câu chuyện, không chấm câu, nếu có thể,
thứ tiểu thuyết tự gọi nó, hay để cho mọi người gọi nó là phản-tiểu
thuyết [từ này của Sartre. GNV].
Kỳ cục: những người sáng tạo ra thơ hiện đại không có ý làm cái gọi là phản
thơ. Ngược lại, kể từ Baudelaire, chủ nghĩa hiện đại thơ
ca cố tới gần, một cách thật là triệt để, cái yếu tính của thơ, cái
chiều sâu thật đặc trưng của nó. Trong cùng 1 đường hướng như thế, tôi
tưởng tượng ra 1 thứ tiểu thuyết hiện đại không phải như phản-tiểu
thuyết nhưng mà là tiểu thuyết-trùm, hay tổng-tiểu
thuyết, hay tiểu thuyết-vua, an arch-novel. Cái thứ tiểu
thuyết-trùm này, thì, thứ nhất, xoáy vô điều mà chỉ tiểu thuyết
mới nói, đám khác đi chỗ khác chơi, cho được việc tiểu thuyết; thứ nhì,
nó sẽ làm sống lại tất cả những khả thể bị lơ là, bị bỏ quên, mà nghệ
thuật này đã tích luỹ được trong bốn thế kỷ của lịch sử của nó. Hai
mươi lăm năm trước đây, tôi đọc cuốn Terra Nostra của bạn: tôi
đọc đúng cái thứ tiểu thuyết có tên do tôi phịa ra đó: 1 cuốn tiểu
thuyết-trùm. Điều này chứng tỏ, quả có thứ đó, có thể có thứ đó,
và sẽ còn có nữa, nữa.
Thứ hiện đại lớn lao của tiểu thuyết. Cái mới thật khó khăn, và thật
ngỡ ngàng.
Ôm bạn quí của ta,
Milan
Tiểu thuyết
là 1 tái giới thiệu con người vô lịch sử. Trong cái vĩ đại nhất của
tiểu thuyết, nó
– con người, đề tài, chủ thể - được giới thiệu với định mệnh của nó,
và định mệnh của nó là tổng số kinh nghiệm của nó: vô phương trốn chạy,
và biếu không.
Tuy nhiên,
vào thời đại của chúng ta, tiểu thuyết thì giống như một cái thẻ gọi
điện thoại,
nó trình ra những văn hóa, thay vì tiêu trầm vì những làn sóng toàn cầu
hoá,
dám cưỡng lại, dám xác nhận sự hiện hữu của chúng, hoành tráng, hách xì
xằng như
chưa từng
bao giờ như thế. Đếch chịu tiêu trầm, qua những từ ngữ mà chúng ta đều
quen thuộc
(bài ngoại, chủ nghĩa quốc gia hung hăng con bọ xít, chủ
nghĩa man di độc ác, sự đồi bại nhân quyền nhân danh truyền thống, hay
sự
áp bức, đè
nén bởi người cha, bởi macho, bởi bộ
lạc), phong cách riêng chỉ tích cực, khi nó khẳng định những giá trị
đang bị
nguy hiểm, vì bị quên lãng, hay bị trừ khử, và điều này, ở trong và vì
chính chúng,
là những thành luỹ chống lại những bản năng bộ lạc tệ hại.
Không thể có
tiểu thuyết nếu không có lịch sử. Nhưng tiểu thuyết, bằng cách giới
thiện chúng
ta với lịch sử, cũng cho phép chúng ta tìm kiếm con đường, lối đi
không-lịch sử,
và nhờ thế, chúng ta có thể nhìn ngắm lịch sử bằng 1 cái nhìn sáng sủa
hơn, và
chúng ta trở thành 1 thứ lịch sử chân thực. Khi quá đắm đuối với lịch
sử, là chúng
ta lạc lối trong mê cung, đếch làm sao kiếm đường ra, và trở thành nạn
nhân của
lịch sử.
Tiểu
thuyết
V.S
Naipaul, một ông Ấn Độ từ
Trinidad; Breyten Breitenbach, Hà Lan Boer, từ Nam Phi; nhưng Marie-Claire Blais, nói tiếng Tây, Canada, và Michael Ondaatje, cũng Canada,
nhưng lại tới
từ Sri Lanka. Quần Đảo Anh bao gồm những hòn đảo ở bên trong và cả ở
bên ngoài
nó: Alasdair Gray's Scotland, Bruce Chatwin's Wales, or Edna O'Brien's
Ireland,
all the way to Kazuo Ishiguro's Japan. Sẽ chẳng có tiểu thuyết Bắc
Mỹ, mở
rộng đa dạng về văn hóa, sắc dân, chủng tộc, và giống đực/cái, nếu
không có
Toni Morrison [Mẽo gốc Phi Châu], Cristina Garcia [Cuba] Sandra
Cisneros
[Mexico], the Native American Louise Erdrich [Mỹ gốc Da Đỏ], hay Amy
Tan, gốc Tẫu. Tất cả họ,
thì đều là những Scheherazades hiện
đại; mỗi đêm,
khi họ kể những câu chuyện của họ, họ cứu những cái chết của chúng ta,
được thêm
1 ngày…
Jean-Francois
Lyotard nói
với chúng ta,
truyền thống Tây Phương bị kiệt quệ, cạn láng, về cái mà ông gọi là
“siêu-tự sự
về giải phóng”, "the meta-narrative of
liberation". Nhưng điều này liệu có nghĩa, sự chấm dứt những
“siêu-tự sự” Soi Sáng hiện đại - báo hiệu [signal] sự nhân cấp, tăng
trưởng, the multiplication,
của “đa-tự sự”, bật ra từ một vũ trụ đa văn hóa [polycultural], đa sắc
dân
[multiracical], và cái vũ trụ này, vượt [transcend] miền riêng biệt
[exclusive
domain] của hiện đại tính Tây Phương?
Perhaps
Western modernity's "incredulity toward meta- narratives" is being
displaced by the credibility being gained by the poly-narratives that
speak on
behalf of the multiple efforts for human liberation, new desires, new
moral
demands, and new territories of human presence throughout the world.
This
"activation of differences," as Lyotard calls it, is simply another
way of saying that despite the realities of globalization, our
post-Cold War
world (and, if Bush Jr. gets his way, a world of white-hot peace) is
not moving
toward one illusory and perhaps very damaging unity but rather toward a
greater, healthier, though often more contentious differentiation of
its
peoples. I say this as a Latin American. For much of our independent
existence,
we were absorbed by a nationalistic preoccupation with identity-from
Sarmiento
to Martinez Estrada in Argentina, from Gonzalez Prada to Mariategui in
Peru,
from Hostos in Puerto Rico to Redo in Uruguay, from Fernando Ortiz to
Lezama
Lima in Cuba, from Henriquez Urena in Santo Domingo to Picon Salas in
Venezuela, from Reyes to Paz in Mexico, Montalvo in Ecuador, and
Cardoza Aragon
in Guatemala. And this did, in fact, help give us exactly that: an
identity. No
Mexican has any doubt as to whether he is a Mexican, no Brazilian
doubts he is
a Brazilian, no Argentinian doubts he is Argentinian. This reward,
however,
comes with a new demand: that of moving from identity to diversity.
Moral,
political, religious, sexual diversity. Without respect for the
diversity that
is based upon identity, liberty cannot exist in Latin America.
Có thể cái
không thể tin được về siêu-tự của hiện đại tính Tây Phương, đang bị
thay thế bởi
cái có tin được, và cái này có được là nhờ những đa-tự sự, nhân danh
nhiều cố gắng, cho sự giải phóng con người, những ước muốn mới, những
đòi hỏi đạo
đức mới, và những lãnh thổ mới,của sự hiện diện của con người
xuyên suốt thế gian.
Sự “kích hoạt những khác
biệt”, như Lyotard gọi, thì giản dị chỉ là một cách khác
để nói, mặc dù những thực tại của toàn cầu hóa, cái thế giới hậu-Chiến
Tranh Lạnh của chúng ta (và, nếu Bush Jr, có cách của ông ta, một thế
giới hòa
bình trắng-nóng) không chuyển động về một khối, viển vông và có thể,
rất gây hại,
thay vì vậy, thì hướng về 1 khác biệt lớn lao hơn, mạnh khoẻ hơn, mặc
dù tham vọng
tràn đầy, thường xuyên hơn, của những dân tộc của nó.
Tiểu
thuyết là gì?
Tôi muốn nói,
cách giả tưởng hóa này làm đầy [fill] nhu cầu mà thế giới hiện đại [hay
hậu hiện đại,
nếu bạn muốn] cảm thấy. Nói cho cùng, hiện đại tính là một đề nghị
không giới
hạn, a limitless proposition, không hoàn tất hoài hoài, perpetual
unfinished. Điều
thay đổi, có lẽ, là cảm nhận được Jean Baudrillard diễn tả, “tương lai
đã tới,
mọi thứ đã tới, mọi thứ thì ở đây” (“the future has arrived, everything
has
arrived, everything is here”). Đó là điều mà tôi muốn nói, khi nói tới
một địa
dư mới cho tiểu thuyết, một địa dư trong đó tình trạng hiện tại của
tiểu thuyết
cư ngụ và không thể hiểu được - ở Anh, thí dụ - ngoại trừ con người
quan tâm tới
điều, là, những tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh, được viết bởi những
tác giả, với
những bộ mặt đa sắc da, đa văn hóa, họ thuộc về vùng đất cũ của cái gọi
là Đế
Quốc Anh – nghĩa là, Đế Quốc Viết Trở Lại, the Empire Writes Back.
Fuentes: Tiểu Thuyết
V/v Giả tưởng
xách dép cho hiện thực.
Hai cuốn - không chỉ hiện thực, mà là sự thực, viết về cuộc
chiến Mít, dưới dạng hồi ký - thì cả hai đều có mùi ăn cắp. Bóng Đêm Giữa Ban Ngày,
ăn cắp cái tít của Koestler. Bên
Thắng Nhục. Cái ý tưởng, kẻ được giải phóng đúng
ra lại là Miền Bắc, ăn cắp của… Gấu Cà
Chớn, trong 1 bài viết, từ những ngày còn ở Trại Tị Nạn Thái Lan, về
cuốn Hình
Bóng Cũ của Sơn Nam.
Thảm hơn nữa, trong cả hai, viết, chỉ để biện minh cho cá
nhân, hoặc cho 1 dúm người, không có cả 1 cái văn phong, nhờ đó, người
đọc "cảm
ra" sự thực, do tấm lòng của người viết, theo cái nghĩa Brodsky phán,
Mỹ mới
là Mẹ của Đạo Hạnh. Mỹ, ở đây là văn phong của người viết [nhân hậu và
cảm động,
thí dụ vậy!].
Trên số báo
Harper’s, HARPER'S
MAGAZINE / APRIL 2013, số có bài của Le Carré, Bạt, Afterword, viết muộn, 50 năm
sau,
khi cuốn The Spy Who Came in from
the Cold, được tái bản, Tin Văn đã giới thiệu, còn có bài
memoir - đúng thứ VHT & tà lọt Osin viết - của Janine di Giovanni,
thần sầu,
nhờ cái giọng văn của nó:
Đời Thời Chiến,
Nhớ lại cuộc vây hãm Sarajevo.
Đọc 1
phát là thèm dịch ra tiếng Mít, giới thiệu độc giả TV!
Lạ, là khi GCC đọc, "bèn" nhớ Mậu Thân, những ngày thành phố bị vây hãm
bởi hoả tiễn VC:
Những
ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về
quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề
cái chết
theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang
đầu....
Chôn thường
dân chết trong trận vây hãm, Jan 1993
MEMOIR
LIFE DURING
WARTIME
Remembering
the siege of Sarajevo
By Janine di
Giovanni
There was
spring rain and pale fog in Sarajevo as my plane approached the city
last
April, veering over the green foothills of Mount Igman. Through the
frosted window
I could see the outline of the road we used to call Snipers' Alley,
above which
Serbian sharpshooters would perch and fire at anyone below. Twenty
years had
passed since I'd arrived in Sarajevo as a war reporter. During the
siege of the
city, most foreign journalists had lived in the Holiday Inn, and it was
in that
grotty hotel that the man who was to become my husband and the father
of my child
professed undying love. I met some of my best friends in Sarajevo and
lost
several others-to alcoholism, drugs, insanity, and suicide. My own
sense of
compassion and integrity, I think, was shaped during those years.
Janine
di Giovanni has won four major awards for her war reporting and is a
member of
the Council on Foreign Relations. She is currently writing a book about
Syria,
to be published by Norton. She lives in Paris.
Janine di
Giovanni đợp bốn giải thưởng bự nhờ phóng sự chiến trường và là thành
viên của
"Council on Foreign Relations" [Hội Đồng Những Liên Hệ Ngoại]. Hiện
đang viết 1 cuốn sách, sẽ do Norton xb. Sống ở Paris.
HARPER'S
MAGAZINE / APRIL 2013
Tin Văn sẽ
post bài này, và dịch lai rai, song song với bài Novel,
của Fuentes
Why was it
that Sarajevo, and not Rwanda or Congo or Sierra Leone or Chechnya-wars
that
all of us went on to report-captured us the way this war did? One of
us, I
think it was Christiane Amanpour, called it "our generation's
Vietnam." We were often accused of falling in love with Sarajevo
because
it was a European conflict-a war whose victims looked like us, who sat
in cafes
and loved Philip Roth and Susan Sontag. As reporters, we lived among
the people
of Sarajevo. We saw the West turn its back and felt helpless.
Đây là "Việt Nam của thế
hệ chúng tôi". Chúng tôi
thường bị buộc tội tương tư Sarajevo, bởi vì đây là cuộc xung đột Âu
Châu
- một cuộc chiến mà nạn nhân trông giống chúng tôi, những kẻ ngồi trong
những tiệm
cà phê, mê Philip Roth và Susan Sontag
Tiểu
thuyết là gì?
Tôi muốn nói,
cách giả tưởng hóa này làm đầy [fill] nhu cầu mà thế giới hiện đại [hay
hậu hiện đại,
nếu bạn muốn] cảm thấy. Nói cho cùng, hiện đại tính là một đề nghị
không giới
hạn, a limitless proposition, không hoàn tất hoài hoài, perpetual
unfinished. Điều
thay đổi, có lẽ, là cảm nhận được Jean Baudrillard diễn tả, “tương lai
đã tới,
mọi thứ đã tới, mọi thứ thì ở đây” (“the future has arrived, everything
has
arrived, everything is here”). Đó là điều mà tôi muốn nói, khi nói tới
một địa
dư mới cho tiểu thuyết, một địa dư trong đó tình trạng hiện tại của
tiểu thuyết
cư ngụ và không thể hiểu được - ở Anh, thí dụ - ngoại trừ con người
quan tâm tới
điều, là, những tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh, được viết bởi những
tác giả, với
những bộ mặt đa sắc da, đa văn hóa, họ thuộc về vùng đất cũ của cái gọi
là Đế
Quốc Anh – nghĩa là, Đế Quốc Viết Trở Lại, the Empire Writes Back.
Fuentes: Tiểu Thuyết
Có một anh
chàng, mù chữ, tất nhiên, thấy mấy ông già vô tiệm mua kính, rồi đeo
lên mắt, rồi
đọc sách, thế là bèn cũng vô…. hồi nhỏ đọc Quốc Văn Giáo Khoa
Thư, thằng Gấu Cà Chớn [hồi đó đã cà chớn rồi] cứ cười hoài…
Ui chao, về già,
chạy thoát nhà nước VC, nhìn cái cảnh mấy anh chị viết toàn ba thứ kít
đái cũng
bày đặt dịch ra tiếng Anh, tiếng U, hay mấy đấng “nhà zăng” hải ngoại
bệ sách về
trong nước xin kiểm duyệt, rồi mướn đầu nậu in loạn xà ngầu, mới ngộ ra
câu
chuyện tiếu lâm ngày nào!
NMG chẳng đã từng trở về
xứ Mít, đi tua văn nghệ, và
nhắn lại
lớp đàn em hậu thế, đừng dính tới chính trị, thứ văn chương đó không
bền, nhưng
cả hai cuốn trường thiên của ông là tiểu thuyết lịch sử hàm trong đó,
là chính
trị.
Nhân vật Nguyễn Huệ trong Sông Côn
Mùa Lũ mà
không chính trị ư? Người Mít độc nhất thực
hiện cuộc Bắc Tiến, đảo ngược căn cước lịch sử, không chỉ thống nhất
đất nước, đuổi
Mãn Thanh ra khỏi xứ Mít, mà cùng lúc dậy cho sĩ phu Bắc Kít 1 bài học,
hãy nuốt
cái “gì gì” này, cho tỉnh ra, đừng vọng Tầu Lạ nữa, đừng bắt chước Lê
Chiêu Thống!
Nhân vật Tường của Mùa Biển Động mà
không… chính trị? Anh ta chẳng tiên đoán
số phận lũ VC nằm vùng ư?
Cái thứ chính
trị đỉnh cao, là thứ đẻ ra những nhà văn, nhà thơ như Brodsky, Milosz,
Camus…
Chính
trị đỉnh cao chính là cái "Mỹ là Mẹ của Đạo Hạnh" mà Brodsky rao giảng,
qua diễn
văn Nobel, mà TV lải nhải nhiều lần.
“Trong
diễn từ Nobel,
Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic
credo] mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền
tảng đó. Mỹ
học như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ
tới đâu
thì sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở
về phía
của cái tốt. [Good art is thus on the side of the good]. Cái ác, cái tà
ma, về
mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn
phong tồi
tệ” [Evil, on the other hand, ‘especillay political evil, is always a
bad
stylist”. On Grief… trang
49].”
Coetzee: Brodsky
Dưới ánh sáng
đó, nhìn lại quá khứ có vẻ như tiên tri dòng tự sự của tương lai. Tiểu
thuyết
gia, không cứng ngắc, punctual, như sử gia, luôn nói với chúng ta, quá
khứ chưa
kết thúc
đâu, rằng, quá khứ phải được tái phịa, phát minh ra, reinvented, tại/ở
mọi giờ
giấc của ngày nếu chúng ta không muốn hiện tại tuồn khỏi kẽ tay của
chúng ta mỗi
lần chúng ta tính nắm bắt nó. Tiểu thuyết diễn tả mọi sự vật mà sử vờ
đi, đếch thèm
nhắc tới, hay, bất thình lình ngưng tưởng tượng. Một thí dụ về chuyện
này có
thể kiếm thấy ở Argentia - một xứ sở Mỹ Châu La Tinh với lịch sử thực
là ngắn
ngủi nhưng có những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất. Theo câu chuyện khôi
hài xa xưa,
người Mexico xuống từ Aztecs, người Argentia, từ thuyền bè. Hẳn nhiên
là
vì đây
là một xứ sở trẻ, với những làn sóng di dân mới có, Argentia phải phịa
ra một lịch
sử cho chính nó, vượt chính nó, một lịch sử lời, a verbal history, đáp
ứng cái
tiếng la khóc đơn côi, tuyệt vọng của tất cả những những nền văn hóa
trên thế
giới: làm ơn làm cho tôi cất tiếng
nói, please, verbalize me.
Borges, lẽ dĩ
nhiên, là 1 thí dụ được triển khai trọn vẹn nhất, về sử tính “kia”, nó
bồi hoàn
cho sự mất mát những điêu tàn Mayan, những tháp cổ Incan. Trước hai
chân trời –
Pampa và Atlantic – Borges đáp ứng bằng không gian toàn thể, của “The
Aleph”,
thời gian toàn thể, của “The Garden of the Forking Paths”, và cuốn sách
toàn thể
“Thư viện Babel”, chưa nói đến thuật nhớ không chút thoải mái của
“Funes, the
Memorious”.
Lịch sử như
vắng mặt. Không có gì gây sợ hãi “khủng” bằng nó. Nhưng, chẳng có gì
gây đáp ứng
dữ dằn hơn, so với tưởng tượng. Nhà văn Argentine, Héctor Libertella
đưa ra một
câu đáp thực là tiếu lâm cho cái thế luỡng nan này. Ném 1 cái chai
xuống biển.
Trong chai là chứng cớ độc nhất, Magellan đã đi thuyền vòng quanh trái
đất: Nhật
ký của Pigafetta. Lịch sử là cái chai được ném xuống biển. Tiểu thuyết
là bản
thảo tìm thấy được ở trong cái chai. Cái quá khứ mới rồi gặp cái cực
tức thời hiện
tại, khi, bị kìm kẹp, đàn áp bởi chế độ độc tài, cả một quốc gia, chỉ
được gìn
giữ trong những cuốn tiểu thuyết, như những cuốn của Luisa Valenzuela
của Argentina,
hay Ariel Dorfinan của Chile. Ở đâu, vậy thì, những bịa đặt lịch sử
tuyệt vời của
Tomás Eloy Martínez (The Perón Novel
and Santa Evia) xẩy ra? Trong quá khứ chính trị mê làm
tình với xác chết
của Argentina? Hay trong tương lai tức thời, trong đó sự hóm hỉnh, của
tác giả
có thể làm cho quá khứ biến thành hiện tại – nghĩa là, có thể trình ra
được, bày
ra đó – và, hơn bất cứ gì khác, dễ đọc?
Carlos Fuentes
Đoạn trên, 1
cách nào đó, là để trả lời cho Sến Cô Nương và Bọ Lập, về phát biểu,
giả tưởng
không đáng xách dép cho hiện thực, ở xứ Mít hiện nay. Khi GCC nhẹ nhàng
nhắc bài,
chỉ có giả tưởng, của 1 bậc thầy, của thứ có tài, mới viết ra được sự
thực của
xứ Mít, là đúng theo như Fuentes. Chứng cớ: Những Ba Người
Khác, Thời Gian Của Người, Nỗi Buồn Chiến Tranh… Chúng đều
là giả tưởng, và trong chúng, mỗi cuốn 1 tí, nói lên sự thực xứ Mít,
đâu phải hồi
ký Đêm Giữa Ban Ngày, hay Bên Thắng Nhục?
John Fowles,
khi được hỏi, tiểu thuyết chỉ là dối trá, hà cớ làm sao cứ đòi sự thực
[tuy nhiên,
một vài tiểu thuyết gia nghiêm trọng cố tìm ra tí sự thực qua viết
lách], với ông,
là thứ sự thực nào, đã trả lời:
Mọi nhà
văn
đều biết thế luỡng nan này, this dilemma - rằng, đối với tiểu thuyết
gia, chính
cái mác đó, đòi hỏi 1 khả năng nói dối, that for a novelist, his or her
trade
demands the ability to lie. Tuy nhiên, một điều gì đó, trong anh ta/chị
ả mong
nói ra sự thực, trọn sự thực, về phận người, something in him or in her
yearning to express a whole truth about the human condition.
Cái mà tôi tìm là
the Socratic: có phần bi quan, thường là xì níc, đểu giả, [dễ ghét, như
1 độc
giả TV nhận xét về Gấu Cà Chớn!], nhưng luôn luôn tìm kiếm 1 sự thực
đạo hạnh
[an ethical truth].
Tôi nhận ra sự thực đó thì ở quá xa đối với chủ nghĩa xã hội,
hay Mác Xít.
Ông này, 1
phần nào đó, cũng trả lời cho câu phán của SCN, và BL.
GCC sợ rằng,
cả xứ Mít sẽ chẳng bao giờ biết sự thực về chính nó!
Cái
gì, chỉ tiểu thuyết có thể
nói, trong khi không thể nói, bằng/trong,
bất cứ một cách nào khác?
Đây
là câu hỏi, cực cơ bản, được Hermann Broch đưa
ra.
Và
nó đã được trả lời, một cách đặc
thù, bởi hằng hà những vì sao, trên một bầu trời đầy sao, là những tiểu
thuyết
gia, và họ cùng nhau đưa một quan niệm, mới hơn, rộng hơn, ngay cả theo
nghĩa đen,
của cái từ Weltliteratur, văn chương
thế
giới,
giấc mơ mà
Goethe đã từng thoáng nhìn ra viễn ảnh.
Nếu, như một phê bình gia Tây, và
cũng là 1 tiểu thuyết gia, Roger Callois, phán, nửa đầu thế kỷ 20 thuộc
về Bắc
Mỹ, trong khi nửa sau thuộc về Mỹ La Tinh, thì, ở vào lúc rạng đông của
thế kỷ
21, chúng ta có thể nói tới một cuốn tiểu thuyết phổ cập, bao gồm
Gunter
Grass, Juan Goytisolo, và Jose Saramago ở Âu Châu; Susan Sontag,
William
Styron, and Philip Roth ở Bắc Mỹ; Gabriel Garcia Marquez, Nelida
Pinion, và
Mario Vargas Llosa ở Mỹ Châu La Tinh; Kenzaburo Oe ở Nhật Bản; Anita
Desai ở Ấn
Độ; Naguib Mahfouz và Tahar Ben-Jeleum ở Bắc Phi, và Nadine Gordinier,
J.
M. Coetzee, và Athol Fugard ở Nam
Phi. Nigeria, chỉ nó, từ “trái tim của bóng đen” của những quan điểm
thiển
cận của đám người Âu Châu coi họ là cái rốn của vũ trụ, thì cũng có tới
ba nhà
kể chuyện lớn lao: Wole Soyinka, Chinua Achebe, và Ben Okri.
Cái
gì nối
vòng tay lớn, những tiểu thuyết gia lớn lao này, vượt ra khỏi biên
cương, bờ luỹ,
xứ sở, quốc gia của họ? Hai điều thiết yếu, cơ bản của tiểu thuyết ...
và xã hội.
Sự tưởng tượng và ngôn ngữ. Chúng trả lời câu hỏi về điều phân biệt
tiểu thuyết
với báo chí, khoa học, chính trị, kinh tế và ngay cả với điều tra triết
học. Chúng
đem “thực tại chữ”, tới cho cái phần thế giới chưa được viết ra. Và chúng cùng chia sẻ nỗi sợ khẩn thiết của tất
cả những tác giả văn chương: Nếu ta, một thằng như thằng cha GCC, thí
dụ, đếch
viết "từ" đó, thí dụ, Cái Ác Bắc Kít, lên trang Tin Văn, là sẽ đếch có
thằng chó nào khác, viết!
Nếu GCC
không thốt ra "từ" đó, lời đó, thế giới sẽ rơi vào câm lặng (hay là vào
tầm phào,
ngồi lê đôi mách, và giận dữ). Và 1 "từ"
không viết ra, kết án tất cả chúng ta chết câm nín, và bất bình, đếch
hài lòng.
Chỉ có cái gì nói ra thì thiêng liêng, đếch nói đếch thiêng. Bằng
cái việc nói
điều gì đó, tiểu thuyết làm
cho thấy, khía cạnh không thấy, của thực tại của chúng ta. Và nó làm
như vậy
theo một cách thức hoàn toàn không thể tiên đoán được, bằng những tiêu
chuẩn hiện
thực hay tâm lý, của quá khứ. Sửdụng "tới chỉ", cách thức, phương pháp,
của
Bakhtin, tiểu thuyết gia sử dụng giả tưởng như là 1 đấu trường, và
những nhân vật
xuất hiện, trang bị đủ thứ khí giới, nào ngôn ngữ, nào luật ứng xử…. mở
rộng mảnh
đất, nơi con người hiện diện trong lịch sử. Tiểu thuyết sau cùng làm
cho trở thành
thích ứng, chiếm hữu cái điều mà trước đó, nó không là: báo chí,
triết học…
Vì lý
do đó, tiểu thuyết còn quá cả cái điều mà người ta thường nghĩ về nó:
phản chiếu
thực tại. Nó tạo ra một thực tại mới, một thực tại chưa hiện hữu,
trước
đó, và nếu không có nó, chúng ta không thể nào tưởng tượng thực
tại, như
chúng ta biết nó. Và như thế, tiểu thuyết tạo ra một kiểu, một thứ
thời
gian cho độc giả. Quá khứ được giải cứu ra khỏi những viện bảo tàng, và
tương
lai trở thành một hứa hẹn ý thức hệ không thể nắm bắt được. Trong tiểu
thuyết,
quá khứ trở thành hồi ức, và tương lai, ham muốn, ước ao, thèm thuồng. Tuy
nhiên, cả hai xẩy ra trong bây giờ, trong thời hiện tại của người đọc,
đọc, thì
bèn nhớ và bèn thèm. Hôm nay, Don Quixote lên đường chiến đấu với mấy
cái cối
say gió, như là những thằng khổng lồ. Hôm nay, Emma Bovary sẽ đi vô
phòng bào
chế
Homais. Hôm nay,
Leopold Bloom sẽ sống hết một ngày đơn độc của tháng
Sáu ở thành phố Dublin. William Faulkner, cực bảnh, khi phán, thời gian
thì không
phải là tiến trình, tiếp tục, tiếp nối, nó là khoảnh khắc: "Làm đếch gì
có ngày hôm qua, ngày mai, chỉ có khoảnh khắc, tất cả chỉ là khoảng
khắc, lúc này,
bi giờ."
Tiểu
thuyết là gì?
Tiểu
thuyết, về bản chất, là đa nguyên.
Em lười Google quá, nên hỏi Anh luôn: "Đa nguyên" ở đây nghĩa là gì?
Blog
GM
Note:
Không lẽ, gõ Google mà ra được cái nghĩa của từ “đa nguyên” ở đây ư?
Về
nguồn gốc của tiểu thuyết, theo GCC, có hai thuyết, một, của Kundera,
Vargas Llosa… theo đó, tiểu thuyết là sản phẩm của Âu Châu.
Nhưng GCC thú nguồn của Lukacs hơn, như ông phán trong Lý thuyết về Tiểu thuyết.
Trong Lý thuyết về Tiểu thuyết (1916), lưu vong có
nghĩa: trục xuất ra khỏi Hy Lạp cổ. Theo chân Hegel, Lukacs
tin rằng thế giới Hy Lạp trở thành ngạt thở đối với những thời đại tiếp
theo sau nó. Đây là một thế giới khép kín. Chúng ta không thể thở được
nữa trong một thế giới khép kín. Hùng ca Homer do đó mở đường cho tiểu thuyết. Tiểu thuyết: hùng ca của
một thế giới bị thần thánh bỏ rơi. Nói một cách khác, tiểu
thuyết bắt đầu cùng với cái chết
của thượng đế. Tiểu thuyết
bắt đầu cùng với giấc mơ của con người: tìm lại tính siêu việt đã mất.
Những xã hội nặng chất tôn giáo không phải là môi trường thuận lợi của
giả tưởng, là vậy. Don Quixote
(của Cervantes) cho thấy một điều: thần Ky-tô đã tự ý vắng mặt, ra khỏi
thế giới, và những cá nhân con người bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa và bản
chất, và chỉ có thể tìm thấy, trong cái linh hồn "vô gia cư vô địa
táng" của họ.
Tiểu
thuyết, theo Lukacs,
là hình thức văn chương chính, la principale forme littéraire, của một
thế giới trong đó, con người cảm thấy không ở nhà của mình, mà cũng
không hoàn toàn xa lạ. Chỉ có tiểu thuyết, khi có sự đối nghịch cơ bản giữa con người
và thế giới, giữa cá nhân và xã hội. Hùng ca diễn tả sự tràn đầy của
linh hồn và của thế giới, của bên trong và bên ngoài, đó là một vũ trụ
mà những câu trả lời đã có sẵn, trước khi những câu hỏi được đặt ra,
một vũ trụ có hiểm nguy, nhưng không có hăm dọa, có bóng râm nhưng
không có tối mù... Dùng một hình ảnh của ông, giữa văn chương của tuổi
thơ và của thời trai trẻ (hùng ca) và văn chương của ý thức và của cái
chết (bi kịch), tiểu thuyết
chính là thể loại văn chương của sự trưởng thành hùng tính (Le roman
est la forme de la maturité virile).
Trong bài
viết nhan đề “tiểu thuyết”,
Fuentes có nhắc tới một câu của Kundera, thật tuyệt: Tiểu
thuyết là cuộc tái định nghĩa hoài
huỷ con người, như là vấn đề, that the novel is a perpetual
redefinition of the human being as problem.
Trong Gặp gỡ, Une rencontre,
Kundera coi La Peau của Malaparte là một “archi-roman”. Tác giả
của nó, trước Sartre cả hai chục năm, đã là một 'nhà văn dấn thân’ rồi.
Đúng ra, theo ông, phải coi Malapartre là tiền khuôn mẫu, pré-modèle,
của Sartre.
Câu của Kundera không ‘khủng’ bằng câu của Lukacs,
và có thể, từ Lukacs mà ra:
Nhân vật tiểu thuyết là một kẻ vấn
nạn (un être problématique), một gã khùng hay một tên tội phạm, bởi vì
luôn tìm kiếm những giá trị tuyệt đối dù chẳng biết, sống "chúng" một
cách toàn diện (chính vì vậy) mà không thể tới gần. Một tìm kiếm luôn
tiến mà chẳng tới, một chuyển động Lukacs định
nghĩa bằng công thức: "Con đường tận cùng, cuộc hành trình bắt đầu".
(Lucien Goldmann: Dẫn vào những bản viết
đầu tay của Georges Lukacs).
Bếp
Lửa trong Văn chương
Source
Tiểu thuyết là
để diễn tả về cõi không nhà siêu việt
(The form of
the novel is, like no other one, an expression of transcendental
homelessness)
G. Lukacs, Lý
thuyết về Tiểu thuyết.
Source
Tiểu thuyết
với tôi là một tình yêu lớn. Cũng bởi đó còn là ý muốn của tôi. Khi đến với tiểu thuyết, tôi không còn là một
cô nàng đôi mươi, ngây ngô tin rằng tình yêu nào cũng lớn, cứ yêu là
lớn, cứ
yêu là thành tác phẩm. Trải nghiệm và hiểu biết khiến tôi nhận thức
được rằng
tình yêu lớn không tự trên trời rơi xuống. Sáu tiểu thuyết, không biết
thành
công đến đâu, nhưng có thể xác thực tình cảm của tôi dành cho thể loại
này. Dù
thế nào thì chúng cũng không phải là những truyện ngắn đặt cạnh nhau
hay những
mảnh suy nghĩ cứ cố kéo dài thành vài trăm trang.
Blog GM
GCC tin rằng,
không có tình yêu, đếch có tác phẩm. Nhưng yêu thế nào, mới quan trọng.
Thời của
Gấu, đám Sài Gòn mê St. Ex, nhất là câu, “Yêu không phải nhìn nhau mà
là
nhìn về
cùng 1 hướng”.
Love does
not consist in gazing at each other, but in looking outward together in
the
same direction.
Antoine de
Saint-Exupery
[net]
GCC “hiểu” câu đó, như
sau, khi viết về “tình yêu ra tác phẩm”, của
Gấu:
Chúng ta yêu
nhau, vì chúng ta còn yêu những người khác
hay,
“il
est vrai
que nous aimons la vie non que nous soyons accoutumés
à la vie mais que nous sommes habitués à l’amour..",
[Nietzsche:
"Ainsi parlait Zarathoustra"],
chúng ta yêu cuộc đời không phải
vì quen với cuộc đời mà quen với tình yêu! (1)
Tình yêu lớn không tự trên giời, mà là từ Bắc Bộ Phủ, rót xuống, hẳn
thế?
Fuentes:
Tiểu thuyết
Camus 100
L'été. Plus
que le recueil L'été «L’été à Alger” (Noces) résume « l'âpre lecon des
étés
d’Agérie” en ce paradoxe : « Une seule chose est plus tragiqne que la
souffrance et c'est la vie d'un homme heureux”.
Điều thê thảm
độc nhất, thê thảm hơn cả sự đau khổ, là cuộc đời một con người hạnh
phúc.
Không hiểu
khi phạng NS, nhà văn "hạnh phúc và sung sướng", Gấu đã đọc câu trên,
của Camus?
Chắc là
chưa.
Thằng đó, tiếng
Tây ăn đong, đọc gì nổi Camus!
... Tới khi
đọc một bài viết về L'Étranger, cái tay
nào viết bài này, cũng nhận ra, y hệt Gấu khi viết về Bếp Lửa, Hà Nội,
Tâm
[trái tim] khi "chiết tự" : Meursault = Mer + Soleil = Mặt Trời Địa
Trung Hải: Quê hương, Bếp lửa của Camus.
Nhưng không
thể nào ngờ được, Trái Tim, Tâm, Bếp Lửa... của
dân Mít, sau cùng lòi ra... bộ
mặt thực: Trái Tim Của Bóng Đen!
Bếp
Lửa trong văn chương
Fuentes:
Tiểu thuyết
Cái
gì nối
vòng tay lớn, những tiểu thuyết gia lớn lao này, vượt ra khỏi biên
cương, bờ luỹ,
xứ sở, quốc gia của họ? Hai điều thiết yếu, cơ bản của tiểu thuyết ...
và xã hội.
Sự tưởng tượng và ngôn ngữ. Chúng trả lời câu hỏi về điều phân biệt
tiểu thuyết
với báo chí, khoa học, chính trị, kinh tế và ngay cả với điều tra triết
học. Chúng
đem “thực tại chữ”, tới cho cái phần thế giới chưa được viết ra. Và chúng cùng chia sẻ nỗi sợ khẩn thiết của tất
cả những tác giả văn chương: Nếu ta, một thằng như thằng cha GCC, thí
dụ, đếch
viết "từ" đó, thí dụ, Cái Ác Bắc Kít, lên trang Tin Văn, là sẽ đếch có
thằng chó nào khác, viết!
Nếu GCC
không thốt ra "từ" đó, lời đó, thế giới sẽ rơi vào câm lặng (hay là vào
tầm phào,
ngồi lê đôi mách, và giận dữ). Và 1 "từ"
không viết ra, kết án tất cả chúng ta chết câm nín, và bất bình, đếch
hài lòng.
Chỉ có cái gì nói ra thì thiêng liêng, đếch nói đếch thiêng. Bằng cái việc nói
điều gì đó, tiểu thuyết làm
cho thấy, khía cạnh không thấy, của thực tại của chúng ta. Và nó làm
như vậy
theo một cách thức hoàn toàn không thể tiên đoán được, bằng những tiêu
chuẩn hiện
thực hay tâm lý, của quá khứ. Sửdụng "tới chỉ", cách thức, phương pháp,
của
Bakhtin, tiểu thuyết gia sử dụng giả tưởng như là 1 đấu trường, và
những nhân vật
xuất hiện, trang bị đủ thứ khí giới, nào ngôn ngữ, nào luật ứng xử…. mở
rộng mảnh
đất, nơi con người hiện diện trong lịch sử. Tiểu thuyết sau cùng làm
cho trở thành
thích ứng, chiếm hữu cái điều mà trước đó, nó không là: báo chí,
triết học…
Vì lý
do đó, tiểu thuyết còn quá cả cái điều mà người ta thường nghĩ về nó:
phản chiếu
thực tại. Nó tạo ra một thực tại mới, một thực tại chưa hiện hữu,
trước
đó, và nếu không có nó, chúng ta không thể nào tưởng tượng thực
tại, như
chúng ta biết nó. Và như thế, tiểu thuyết tạo ra một kiểu, một thứ
thời
gian cho độc giả. Quá khứ được giải cứu ra khỏi những viện bảo tàng, và
tương
lai trở thành một hứa hẹn ý thức hệ không thể nắm bắt được. Trong tiểu
thuyết,
quá khứ trở thành hồi ức, và tương lai, ham muốn, ước ao, thèm thuồng. Tuy
nhiên, cả hai xẩy ra trong bây giờ, trong thời hiện tại của người đọc,
đọc, thì
bèn nhớ và bèn thèm. Hôm nay, Don Quixote lên đường chiến đấu với mấy
cái cối
say gió, như là những thằng khổng lồ. Hôm nay, Emma Bovary sẽ đi vô
phòng bào
chế Homais. Hôm nay,
Leopold Bloom sẽ sống hết một ngày đơn độc của tháng
Sáu ở thành phố Dublin. William Faulkner, cực bảnh, khi phán, thời gian
thì không
phải là tiến trình, tiếp tục, tiếp nối, nó là khoảnh khắc: "Làm đếch gì
có ngày hôm qua, ngày mai, chỉ có khoảnh khắc, tất cả chỉ là khoảng
khắc, lúc này,
bi giờ."
Nếu gọi tên
hai nhà văn Pháp, một trong quá khứ một ở
hiện tại, mà chị ngưỡng mộ hoặc đồng cảm thì đó là ai ? Chị muốn nhìn
thấy nhà
văn Pháp nào hoặc tiểu thuyết Pháp nào được dịch ở Việt Nam ?
Camus - ngắn
gọn, chính xác và bình thản. Houellebecq - sắc sảo, hài hước và khiêu
khích. Với
tôi, đó là hai cách thể hiện độc đáo cho cùng một đề tài không ngừng
được khai
thác trong văn chương - sự phi lý của nhân gian.
Nếu các tác
phẩm của hai tác giả này được dịch và giới thiệu một cách nghiêm túc và
có hệ
thống, tôi tin rằng đó sẽ là món quà đẹp cho độc giả Việt Nam.
Blog GM
Camus là tác
giả của thời mới lớn của Gấu, và của những người cùng tuổi Gấu, và, có
thể dùng
1 câu của ông, để diễn tả cái thời đó, với 1 chút thay đổi:
Tôi lớn lên
cùng với những người cùng tuổi tôi, trong tiếng trống trận Đệ Nhất Thế
Chiến,
và lịch sử, từ đó, không ngừng chỉ là bất công, bạo lực và sát nhân.
Cái thời của
ông là hậu chiến. Thời của Gấu là thời đợi cuộc chiến gọi tên. Ông là
tác giả rất
được đám Miền Nam say mê, và cũng đã được giới thiệu khá đầy đủ.
Món quà đẹp
cho độc giả Việt Nam, nào?
Thứ độc giả biến thành nạn nhân, của “bất
công bạo lực và sát nhân” do VC gây nên?
Bữa trước, đọc
SCN, thấy khoe, hai tác giả gối mông [từ này là của em NT] là Nabokov
và Kafka,
GCC đã sững sờ, một ông thiện và một ông ác, cùng tranh mông của 1 em
Mít.
Bây giờ Camus và Houellebecq lại tranh nhau
mông của 1 em Bắc Kít khác!
Camus thì cả
nhân loại quí, và... chịu. Còn ông
Houellebecp, đến mẹ của ông ta cũng không chịu nổi, chính thằng con của
bà, vậy
mà cùng tranh tí mông Mít, sao?
Vả chăng,
cái mà Camus thù nhất, là đặc quyền, của đám khốn kiếp, tư bản, CS, hay
bất cứ
ai. Em Mít này, khi còn bé, cũng thuộc cái sân gà vịt của đám con ông
cháu cha ở
thủ đô Hà Nội. [Xin coi bài viết của cái tay NG, của Đài Bi Bì Xèo, thì
biết về
cái sân chơi này]. Lớn lên thì đi Tây, đi Mỹ, vậy mà
mê Camus, sao?
Quái
đản thật!
Ngắn, gọn,
chính xác, và bình thản!
Camus 100
TV sẽ chuyển
ngữ bài viết “Trở về Tipsapa: Return to Tipasa”. (a)
Bản tiếng Anh có thêm
đề từ:
Return
to Tipasa
'You have
navigated with raging soul far from the
paternal
home, passing beyond the sea's double
rocks, and
you now inhabit a foreign land'
- Medea
Mi bơi, với linh hồn giận dữ đến phát khùng, xa tít khỏi xứ Mít, quá cả
Hai Hòn Bi của Biển, và bi giờ mi ở Xứ Người
Noces, thì
đã được ông Tẩy mũi tẹt TTD chuyển qua tiếng Mít là Giao Cảm.
August 12,
2013
The Life of
the Artist: A Mimodrama in Two Parts (1)
Posted by
Albert Camus
Translator’s
note:
“La Vie
d’Artiste,” originally published in a small Algerian journal in
February, 1953,
was recently collected in the fourth and final volume of the Pléiade
edition of
Albert Camus’s complete works. The play, now printed as an appendix to
the
short story collection “Exile and the Kingdom,” stands out as the only
of
Camus’s works in which the written words were not intended to be seen
or heard
by an audience. Unlike his other plays, “La Vie d’Artiste” contains no
dialogue; the text of the mime, or “mimodrame,” as Camus called it, is
made up
entirely of actions and directions. Composed in a clipped, elliptical
style,
and alternating between humor and horror, the play, appearing in
English here
for the first time, poses the question: How is one to be a pure,
authentic
artist and live in a world that corrupts and destroys purity?
This
question is also at the center of Camus’s later, better-known short
story
“Jonas, or The Artist at Work,” included in the same collection. While
the two
pieces have similar themes, “La Vie d’Artiste” is distinctly bleak in a
way the
later work is not. At the time the mime was written, Camus was
suffering from
deep personal and professional wounds as a result of a public argument
with
Jean-Paul Sartre over the political positions taken in Camus’s book
“The
Rebel.” This quarrel, coupled with his faltering marriage, sent Camus
into a
spiral of physical illnesses and a yearlong period of creative
sterility.
Whereas
“Jonas” ends with the artist recovering from a fall, surrounded by his
loving
wife, his friend, and his children, “La Vie d’Artiste” shows the
unnamed artist
alone, his wife dead, his friend gone, his children having fled long
ago. In
the short story, Jonas is granted a reprieve—an escape from his work,
however
temporary it may be—while the play’s painter is given no such luxury.
Ultimately,
“La Vie d’Artiste” is the more immediate, unfiltered response to the
anxieties
plaguing Camus at that stage in his life, while “Jonas” is the softer
version
that came to him with time and reflection. The short story concludes
with a
blank canvas “in the center of which Jonas had merely written, in very
small
letters, a word that could be made out, but without any certainty as to
whether
it should be read ‘solitary’ or ‘solidary.’ ” In the play, as the
curtain
slowly falls, we leave the artist beginning “to paint the dead face” of
his
wife.
—Ryan
Bloom
“Đời nghệ sĩ”,
kịch Camus, lần đầu tiên xuất hiện trên 1 tờ báo bèo ở Algeria, Tháng
Hai,
1953, nay được đưa vô ấn bản toàn bộ tác phẩm Pléiade, và được coi như
là phụ lục
của tuyển tập truyện ngắn Lưu Đày và
Quê Nhà.
Theo GCC, Lưu Đày
và Quê Nhà, chỉ nội cái tít thôi, nói lên toàn thể tác
phẩm của Camus,
và nó miêu tả, cực đúng, khí hậu nhân sinh, vào thời
kỳ này, như 1
đối cực của nghiệt ngã toàn cầu hóa.
How is one
to be a pure, authentic artist and live in a world that corrupts and
destroys
purity?
Làm sao 1 nghệ sĩ, thứ
thật trong trắng, thật chân thực, lại có thể sống trong
1 thế giới nhơ bẩn như hiện nay?
[nguyên văn: làm thế nào, là 1 nghệ sĩ trong trắng, chân thực, và sống
trong 1
thế giới làm hư ruỗng, huỷ diệt trong trắng, chân thực?]
(a)
Toi tinh
viet 1 cuon tieu thuyet!
GCC
-Anh
Trụ tính
chi thì làm đi, cứ hẹn dịch bài này, sách nọ mà rồi chả thấy mô hết!
-Thôi để kiếp
sau… sẽ dịch!
...
Tới khi đọc một
bài viết về
L'Étranger, cái tay nào viết bài
này, cũng nhận ra, y hệt Gấu khi viết về Bếp Lửa, Hà Nội, Tâm [trái tim] khi
"chiết tự" : Meursault = Mer + Soleil = Mặt Trời Địa Trung Hải: Quê
hương, Bếp lửa của Camus.
Nhưng không thể nào
ngờ được, Trái Tim, Tâm, Bếp Lửa... của dân Mít, sau cùng lòi
ra... bộ mặt thực: Trái Tim Của Bóng Đen!
Bếp
Lửa trong văn chương
Trong một phỏng
vấn mang tên “Đối thoại về nghệ thuật tiểu
thuyết”, Kundera nhiều lần nhắc đến “truy tìm bản ngã”. Ông nói: “Bản
ngã là
gì? Làm sao thấu triệt được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu
hỏi cơ bản
của tiểu thuyết”. Nhiều năm sau này, trong tiểu luận “Bức màn”,
lại bàn về
nghệ thuật tiểu thuyết, Kundera cho rằng tiểu thuyết mang sứ mệnh
“làm hé
lộ” những khía cạnh vẫn còn bị che khuất của cuộc sống.
Blog GM
Có thể, Kundera
nhiều lần nhắc đến truy tìm bản ngã, nhưng định nghĩa của ông, tiểu
thuyết là gì, thì được Carlos Fuentes rất ư là đồng
ý, khi viết: Chúng tôi [Mỹ Châu La Tinh] đồng nhất với ông bạn lớn của
chúng
tôi Milan Kundera, khi ông ta nhắc nhở chúng tôi, tiểu thuyết là một
tái định
nghĩa hoài hoài về con người như là vấn đề.
We identify with
our great friend Milan Kundera when he
reminds us that the novel is a perpetual redefinition of the human
being as
problem.
Carlos Fuentes : Novel
Ngay cái gọi
là đi tìm bản ngã, sự thực cũng không hẳn là điều mà một tiểu thuyết
gia tìm, mà
là ngược lại, nghĩa là, nếu bạn muốn trở thành 1 tiểu thuyết gia, thì
việc đầu
tiên, là đánh mất bản ngã của bạn.
Sở dĩ Mít đếch có thứ tiểu thuyết lớn, chính
là vì chẳng thằng nào chịu học viết cả, đếch chịu tìm Thầy dậy viết
tiểu thuyết.
Đây cũng là ý của Borges, khi ông coi tiểu thuyết gia là 1 tên mơ ngày,
sống
hai thực tại cùng 1 lúc. Gấu đã chôm ý này, khi viết về Nguyễn Huy
Thiệp.
Hình
như có một tác giả ngoại quốc đã để những
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp kế bên một số truyện của Borges. Trong
bài viết
"Chuyện Nghề" (The Writer's Apprenticeship), Borges viết: Nghề văn,
nghề thơ, là một nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có một điều cần -
tất
cả mọi điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không chỉ có
nghĩa "bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó. Thí dụ, một nhà văn
cần sự cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần
tình yêu,
anh ta được chia, và luôn cả, tình yêu không được chia.
Theo một nghĩa nào đó,
nhà văn là một kẻ mơ-ngày, một kẻ sống cuộc đời kép. Anh ta bắt đầu
viết, bằng
cách bắt chước những nhà văn mà anh ta thích. Đó là cách nhà văn trở
thành
chính mình, bằng cách làm mất bản thân - cung cách kỳ cục của một cuộc
sống
kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng lúc, trong thực tại khác -
thực tại
mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của những giấc mơ".
William
Trevor, nhà văn Ái nhĩ lan, định nghĩa, truyện ngắn, một câu chuyện kể
mà sức mạnh
của nó hệ tại ở "cái mà nó lấy ra y hệt như là cái mà nó bỏ vô."
Faulkner cho rằng, viết truyện ngắn là một nghệ thuật "cao, đặc biệt"
và chỉ một vài tiểu thuyết gia có thể "làm tốt"; phần lớn, không. Vẫn
theo ông, viết hay, một truyện ngắn, khó hơn viết hay, một truyện dài.
Trong
truyện dài, bạn có thể bỏ vài cọng rác vào trong đó, chẳng sao, người
đọc sẵn
sàng bỏ qua. (a)
L'EUROPE
RÊVÉE DE KUNDERA
Âu Châu trong mơ của
Kundera
L'écrivain tchèque entre
ce mois-ci dans la Pléiade. Installé en France depuis 1975, Milan
Kundera est partout célébré pour avoir ressuscité une Europe centrale
dont l'identité avait été annihilée par la logique bipolaire. Mais sa
vision de l'histoire est idéalisée.
VACLAV BELOHRADSKY. Literarni
Noviny.
L’idée d'Europe centrale
aura été le premier grand thème lancé par Milan Kunndera, avec un
succès surprenant. Avant que l'écrivain tchèque ne s'en mêle, les
éditeurs de l'Ouest traitaient les œuvres issues de la région comme de
simples témoignages sur le communisme, pas nécessairement d'une grande
importance littéraire, mais que le « monde libre » se faisait un devoir
moral de publier.
Note: Đây
là 1 bài viết lạ, và hay, về Kundera, từ 1 tác giả ở quê hương của ông.
Số
đặc biệt về K, khi ông được vô ed. Pléiade, ngay khi còn sống. Nhiều
bài OK.
K có tới 4 ông thầy: Robert Musil, Herman Broch, Franz Kafka và Witold
Gombrowwiz
Hồi
mới tập tành
viết, được ông anh chỉ cho ba búa Trình Giảo Kim. Muốn viết văn thì
phải tìm ra Thầy. Làm sao tìm? Đọc, đọc, đọc, rồi sẽ có ngày tìm ra
Thầy, bởi là vì nhà văn thì có nhiều, nhưng dòng văn đếm trên đầu ngón
tay. Tìm ra Thầy là tìm ra dòng văn hợp với mình. Ông than nhà văn Mít
chết non, cứ viết xong thời thanh xuân là ngỏm. Bây giờ thì Gấu nhận ra
nhà văn Mít đếch có Thầy, vì đếch chịu đọc!
Tiểu thuyết là gì?
Trong một phỏng
vấn mang tên “Đối thoại về nghệ thuật tiểu
thuyết”, Kundera nhiều lần nhắc đến “truy tìm bản ngã”. Ông nói: “Bản
ngã là
gì? Làm sao thấu triệt được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu
hỏi cơ bản
của tiểu thuyết”. Nhiều năm sau này, trong tiểu luận “Bức màn”,
lại bàn về
nghệ thuật tiểu thuyết, Kundera cho rằng tiểu thuyết mang sứ mệnh
“làm hé
lộ” những khía cạnh vẫn còn bị che khuất của cuộc sống.
Blog GM
Có thể, Kundera
nhiều lần nhắc đến truy tìm bản ngã, nhưng định nghĩa của ông, tiểu
thuyết là gì, thì được Carlos Fuentès rất ư là đồng
ý, khi viết: Chúng tôi [Mỹ Châu La Tinh] đồng nhất với ông bạn lớn của
chúng
tôi Milan Kundera, khi ông ta nhắc nhở chúng tôi, tiểu thuyết là một
tái định
nghĩa hoài hoài về con người như là vấn đề.
We identify with
our great friend Milan Kundera when he
reminds us that the novel is a perpetual redefinition of the human
being as
problem.
Carlos Fuentes : Novel
Tiểu thuyết, theo Lukacs, là hình thức văn
chương chính, la principale forme littéraire, của một thế giới trong
đó, con người cảm thấy không ở nhà của mình, mà cũng không hoàn toàn xa
lạ. Chỉ có tiểu thuyết, khi có sự đối nghịch cơ bản giữa con người và
thế giới, giữa cá nhân và xã hội. Hùng ca diễn tả sự tràn đầy của linh
hồn và của thế giới, của bên trong và bên ngoài, đó là một vũ trụ mà
những câu trả lời đã có sẵn, trước khi những câu hỏi được đặt ra, một
vũ trụ có hiểm nguy, nhưng không có hăm dọa, có bóng râm nhưng không có
tối mù... Dùng một hình ảnh của ông, giữa văn chương của tuổi thơ và
của thời trai trẻ (hùng ca) và văn chương của ý thức và của cái chết
(bi kịch), tiểu thuyết chính là thể loại văn chương của sự trưởng thành
hùng tính (Le roman est la forme de la maturité virile) (1)
Gấu thú định
nghĩa của Lukacs nhất, ngay khi đọc ông, khi tấp tểnh viết, và bèn áp
dụng vô
cuốn Bếp Lửa của TTT, khi
cuốn sách ra ấn bản chung quyết vào năm 1972 (2)
Câu của Kundera, là từ Lukacs. Cả cái từ "problem", cũng của Lukacs,
như trong bài viết về Bếp Lửa
của TTT, cho thấy.
Tiểu thuyết, một thế giới về chiều [le monde
dégradé], nhân vật chính mang trong người căn bệnh siêu hình [ le mal
ontologique] - nhân vật chính trong Bếp
Lửa cũng mang một con sâu ở giữa tim, giữa hồn, giữa não - một
căn bệnh vô phương cứu chữa: và chỉ thoát ra bằng sự thất bại. Thất bại
ở đây có nghĩa, như là sự chia lìa không sao hàn gắn, giữa nhân vật
chính và thế giới bên ngoài, sự thụ động ù lì của gã, chỉ vì ý thức của
gã quá rộng, trong khi thế giới quá bảo thủ, uớc lệ, không sao thỏa mãn
nổi. Đấy là nội dung của tiểu thuyết. Về hình thức: Tiểu thuyết bắt
buộc vừa là một truyện ký [biographie] - tiểu sử, cuộc sống của anh
chàng tên là Tâm ở trong Bếp Lửa,
vừa là một ký sự xã hội [chronique sociale] - xã hội Miền Bắc, thành
phố Hà Nội đúng hơn, trong cơn xao động của lịch sử.
Và sau cùng, biểu lộ tình cảm, "Anh yêu quê hương vô cùng, yêu em vô
cùng", kết thúc Bếp Lửa,
là một điểm vượt [le dépassement], khi đó, tác giả - tiểu thuyết
gia - rời khỏi thế giới về chiều, thế giới mộng ảo của tiểu thuyết, và
trở lại đời sống thực [Lưu Nguyễn về trần]. Đó là lúc ý thức tiểu
thuyết gia, vượt ý thức nhân vật, để tìm lại cái chính, cái thực
[l'authenticité], Lucien Goldmann, diễn ý Lukacs, gọi đó là sự chuyển
hoá [la conversion], từ thế giới tiểu thuyết qua thế giới thực, là đời
sống mất đi tìm thấy lại.
Borges không
viết tiểu thuyết. Đọc, thì vài cuốn, nhưng ông cho biết, ông không dám
nói gì chống
lại tiểu thuyết, vì như thế có có tội với Conrad và Stevenson và tất
nhiên,
Dos, và phần thứ nhì của Don Quixote.
Và khi người phỏng vấn [Coleman] nhắc lại
cái vụ cuốn truyện ngắn Giả tưởng,
Ficciones, bị những nhà xb ở New York chê, lấy
cớ rằng, truyện ngắn của Borges rất bảnh, nhưng chúng tôi đợi thứ bảnh
hơn của ông
là… tiểu thuyết [big novel], Borges [nóng mặt] bèn phán: Tớ đếch phải
là độc giả
tiểu thuyết, làm sao tớ có thể là tác giả tiểu thuyết, bởi là vì tất cả
tiểu
thuyết dù thứ bảnh nhất, luôn đầy rác ở trong đó, trong khi truyện
ngắn, không
thể có rác được, trừ thứ thực sự là… rác.
Faulkner cũng
đã từng phán tương tự, nhưng ông lại là tổ sư của tiểu thuyết.
Ngay cái gọi
là đi tìm bản ngã, sự thực cũng không hẳn là điều mà một tiểu thuyết
gia tìm, mà
là ngược lại, nghĩa là, nếu bạn muốn trở thành 1 tiểu thuyết gia, thì
việc đầu
tiên, là đánh mất bản ngã của bạn.
Sở dĩ Mít đếch có thứ tiểu thuyết lớn, chính
là vì chẳng thằng nào chịu học viết cả, đếch chịu tìm Thầy dậy viết
tiểu thuyết.
Đây cũng là ý của Borges, khi ông coi tiểu thuyết gia là 1 tên mơ ngày,
sống
hai thực tại cùng 1 lúc. Gấu đã chôm ý này, khi viết về Nguyễn Huy
Thiệp.
Truyện ngắn
"ngoạm" một miếng vào cuộc sống, xoáy vào một thời điểm, rồi
"lóc ra" một miếng xương, trần trụi như là một ẩn dụ, một công án
thiền;
và người đọc tha hồ làm đầy, bằng sức tưởng tượng, bằng kinh nghiệm
riêng tư,
có khi còn phải nhờ tới "cơ duyên". Được bảo vệ bởi bóng tối "tiền
kiếp" (huyền thoại, truyền thuyết, đồng dao...), truyện ngắn thường gây
"rối", cho người đọc, gây "nhiễu", cho một thời. Cho nhiều
thời. Những truyện ngắn của Kafka, chẳng hạn. Sartre đã từng cười ngất,
khi đọc
cho S. de Beauvoir, một đoạn trong số báo nrf, theo đó, ba nhà văn lớn
lao nhất
của thế kỷ là Proust, Joyce, Kafka. "Cái tên nhà văn 'baroque” cũng làm
tôi mắc cười. Nếu tay Kafka này thực sự là một nhà văn lớn, chúng tôi
đã phải
biết tới." (S. de Beauvoir, La force
de l'âge, p.128).
Trên nói tới
cơ duyên, bởi vì để giải mã" một truyện ngắn, chúng ta phải rị mọ, có
khi
phải liều, hoặc phải "giơ đầu chịu đấm", như Claude Lévi-Strauss, chẳng
hạn. Trong bài mở đầu cuốn "Chuyện Mèo Rừng" (Histoire de Lynx, nhà
xb Plon), ông coi việc nghiên cứu huyền thoại giống như chơi cờ tướng;
nhiều
khi phải lập lại một khởi đầu (ouverture) đã được chơi, hoặc đã biết
rồi. Ván cờ
kết liễu, khi chiến thuật của ông lấn lướt chiến thuật của địch thủ.
Trên Hợp Lưu,
6/92, sau khi đọc Mùa Mưa Gai Sắc, của Trần Vũ, và
Phẩm Tiết,
của Nguyễn Huy Thiệp, Trương Vũ đã đặt câu hỏi, tại sao phải là Nguyễn
Huệ?
"Hai truyện ngắn đó là những sáng tác phong phú, xuất sắc, cá biệt.
Những
sáng tác 'không' và 'không thể' "bôi nhọ anh hùng dân tộc". Người đọc
tinh ý thừa sức thấy rõ điều đó. Chẳng những vậy, nhân vật được gọi tên
là Nguyễn
Huệ được xây dựng với những nét rất sắc, rất mạnh, và rất độc. Nhưng
người đọc
cũng 'táng đởm' vì những nét đó. Không vì đó là những nhân vật a-b-c
của truyện,
mà vì đó là một nhân vật có thật và có như mọi người được biết. Ở đây,
người đọc
không thấy được sự công bình cũng như không hiểu được sự gán ghép để có
một
cách hư cấu như vậy. Câu hỏi do đó, vẫn là: Tại sao phải là Nguyễn
Huệ?"
Đụng vào một
nhân vật lịch sử cỡ như Nguyễn Huệ, không phải chuyện chơi! Ngoài lý do
như
Trương Vũ đưa ra, "mà vì đó là một nhân vật có thật, và có như mọi
người
được biết", còn một lý do liên can đến cả một thời thơ ấu của mỗi con
người.
Joseph Brodsky, trong bài viết "Homage to Marcus Aurelius", kỷ niệm lần
đầu ông tới Rome, pho tượng vị hoàng đế La Mã làm ông nhớ đến cô giáo
dậy môn sử,
và cùng với cô giáo, những âm thanh huyền hoặc Caesar, Augustus,
Flavius...
toàn những âm thanh có thể đánh thức quỉ sứ dưới địa ngục! Đó là lý do,
theo
ông, trẻ con mê môn sử. Một Nguyễn Huệ, áo bào còn đen kịt, sặc mùi
thuốc súng,
vào Thăng Long đúng ngày Tết, sông Hồng nghẹt xác giặc, đã ăn sâu vào
bộ óc non
nớt của chúng ta, không dễ gì bôi xoá. Và cái trách nhiệm "trồng người"
không dễ dàng, khi cố tình xuyên tạc lịch sử. Cho dù vậy, đây là "nhiệm
vụ"
của nhà nước, không phải của nhà văn.
Theo chân C.
Lévi-Strauss, người viết xin mượn ý tưởng của T. Tolstaya, để khai mở
"huyền
thoại" Nguyễn Huy Thiệp. Trong bài viết "Những Thời Ăn Thịt Người"
(Thế Kỷ 21, bản dịch), bà cho rằng, Á Châu sống bằng lịch sử, trong khi
Âu
Châu, bằng văn minh. Có thể vì sống bằng lịch sử, cho nên, những nhân
vật từ đời
thuở nào vẫn "bị", hoặc "được" đội mồ sống dậy, nhập thân
vào những anh hùng, cha già dân tộc. Có thể cũng vì vậy, câu nói "sĩ
phu Bắc
Hà chỉ còn có tôi", của Nguyễn Hữu Chỉnh, và hình ảnh một Nguyễn Huệ
tới
Thăng Long, làm tan hoang phủ Chúa, cung Vua, rồi bỏ đi, vẫn "nhức
nhối"
cho tới bây giờ. Tôi cũng cố tưởng tượng ra một Nguyễn Huệ "của tôi",
và tôi nghe Người vừa lắc đầu, vừa lẩm bẩm, khi đứng trước những miếu
đền, những
ngàn chương sử nay chỉ là một đống tro tàn: "Ta tìm gì ở đây?"
"Nơi này, ta không sinh ra, và cũng chẳng hề muốn sống ở đó".
Hình
như có một tác giả ngoại quốc đã để những
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp kế bên một số truyện của Borges. Trong
bài viết
"Chuyện Nghề" (The Writer's Apprenticeship), Borges viết: Nghề văn,
nghề thơ, là một nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có một điều cần -
tất
cả mọi điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không chỉ có
nghĩa "bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó. Thí dụ, một nhà văn
cần sự cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần
tình yêu,
anh ta được chia, và luôn cả, tình yêu không được chia.
Theo một nghĩa nào đó,
nhà văn là một kẻ mơ-ngày, một kẻ sống cuộc đời kép. Anh ta bắt đầu
viết, bằng
cách bắt chước những nhà văn mà anh ta thích. Đó là cách nhà văn trở
thành
chính mình, bằng cách làm mất bản thân - cung cách kỳ cục của một cuộc
sống
kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng lúc, trong thực tại khác -
thực tại
mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của những giấc mơ".
Trường hợp Nguyễn
Huy Thiệp, tôi nghĩ, thực tại "thực" của ông, một "nhân sĩ Bắc
Hà", và một trong những thực tại "mộng", của ông: Nguyễn Huệ. Có
thể, theo ông Thiệp, cái cảnh Nguyễn Huệ "nhét" gì gì đó, rất cần cho
sự sống lại của "tinh thần Bắc Hà", không phải theo kiểu, "chỉ
còn có tôi" của Nguyễn Hữu Chỉnh, hoặc "tôi nhét điếu thuốc vào mồm
tên giặc lái", của Nguyễn Tuân. Tại sao lại là Nguyễn Huệ?
Bởi vì còn
bao nhiêu kẻ muốn bắt chước ông, "chỉ có một nửa": tới Thăng Long rồi
ở lì lại. Phải chăng, chính vì vậy mà đã xẩy ra cơn xuất huyết não,
hiện tượng
chất xám thiên di vào Nam, hoặc ra hải ngoại, theo kiểu "cái cột đèn đi
được
nó cũng đi", hoặc, "Tôi ở đâu, văn chương Đức ở đó", của Thomas
Mann, khi bỏ nước Đức qua Hoa Kỳ, hoặc "Nước Nga bây giờ ở ngoài nước
Nga", của Solzhenitsyn, khi bị bắt bí, "Đi thì đi luôn, đừng trở về",
mà nhà nước Xô viết đã từng "hù dọa", và đã thành công, với
Pasternak.
Câu hỏi,
tại sao phải là
Nguyễn Huệ chỉ có thể
giải đáp, cùng một lúc, với câu hỏi, tại sao lại là Nguyễn Huy Thiệp?
Trong bài
viết, "Tác giả là cái gì?" (bản dịch tiếng Anh: What Is an Author?),
M. Foucault, cho thấy, ý niệm tác giả xuất hiện vào một thời điểm đặc
biệt của
quá trình "cá nhân hóa" (individualization), trong lịch sử tư tưởng,
tri thức, văn chương, triết học, và khoa học. Những bản văn, những cuốn
sách,
những bài viết/nói bắt đầu có tác giả... khi họ trở thành những mục
tiêu để trừng
phạt. Tác giả được nêu tên, khi cần một ai đó, để buộc tội! Ông viết
thêm,
trong văn hóa của chúng ta, (và chắc là trong nhiều văn hoá), thoạt kỳ
thủy,
bài viết/nói (le discours), không phải là một sản phẩm, một món hàng,
mà thiết
yếu là một hành động, được đặt trong "trường nhị cực" (bipolar
field), một đầu là sự thiêng liêng, đầu kia là sự báng bổ. Theo tính
cách lịch
sử, đây là một động tác đầy rủi ro. Nhìn theo quan điểm đó, chúng ta
mới thực sự
thông cảm, hành động "đầy rủi ro", của Nguyễn Huy Thiệp. Trong thế giới
toàn trị, văn chương bắt đầu, khi có kẻ dám nói "tôi", thay vì
"chúng ta", khi có kẻ dám nghi ngờ, điều thiêng liêng chưa chắc đã
thiêng liêng, và tin rằng, điều báng bổ có khi thật cần thiết...
William
Trevor, nhà văn Ái nhĩ lan, định nghĩa, truyện ngắn, một câu chuyện kể
mà sức mạnh
của nó hệ tại ở "cái mà nó lấy ra y hệt như là cái mà nó bỏ vô."
Faulkner cho rằng, viết truyện ngắn là một nghệ thuật "cao, đặc biệt"
và chỉ một vài tiểu thuyết gia có thể "làm tốt"; phần lớn, không. Vẫn
theo ông, viết hay, một truyện ngắn, khó hơn viết hay, một truyện dài.
Trong
truyện dài, bạn có thể bỏ vài cọng rác vào trong đó, chẳng sao, người
đọc sẵn
sàng bỏ qua. (a)
|