Tạp
Ghi
Đọc Bếp
Lửa
Bếp Lửa trong văn chơng
viết về LMH
Đọc
BL 1973 Văn
TTT 2012
Bếp
Lửa trong văn chương
Bếp Lửa
trong Văn chương
[xuất
hiện lần đầu trên TSVC]
|
Bếp lửa
Báo Văn, số đặc biệt về TTT
Nhân
đọc lại bài cũ
Note:
Trừ
đoạn đầu, Một vài ý
nghĩ nho nhỏ về thơ TTT, phần còn lại, Bếp Lửa trong văn chương,
đã
được đăng trên Tập San Văn Chương, do một nhóm bạn bè, trong có Gấu,
chủ
trương.
Khi Văn ra số đặc biệt về TTT, chính ông đã nói với TPG lấy bài này cho
số báo
đó.
Cám ơn 'bạn hiền' THT đã cho cơ hội gặp lại đứa con tinh thần, đã thất
lạc, từ
1973, tới nay.
Cám ơn Art2all,
qua đó biết đến
địa chỉ
trên
Toronto,
16
tháng Bẩy, 2007.
16, cũng là số trang, bắt đầu bài viết trên Văn. NQT
*
Ui chao, mới đọc lại một tí, mà thấy sướng điên lên được!
Gấu "1973" đây ư?
Muốn tìm một cách đọc khác cho Bếp Lửa, có lẽ
phải làm như Marx nói: Giải
phóng nó ra khỏi cái vỏ huyền hoặc, để tìm lại cái nhân thuần lý.
Ui chao, hoá ra hồi đó đã "rành" Marx như thế này ư? Mà đọc câu này ở
đâu nhỉ?
Hình như từ Pour Marx của Althusser?
Nếu thế, có thể đếch phải Marx, mà Althusser phán, và sau này, khi hấp
hối, thú
nhận [trước bàn thờ], "chúng ta" đã phịa ra cả một nền triết học ảo
cho Marx!
*
Nhận định của Lukacs, áp dụng vào Bếp Lửa, coi bộ thật 'hợp':
Tiểu
thuyết, một thế giới về
chiều [le monde dégradé], nhân vật chính mang trong người căn bệnh siêu
hình [
le mal ontologique] - nhân vật chính trong Bếp Lửa cũng mang một con
sâu ở giữa
tim, giữa hồn, giữa não - một căn bệnh vô phương cứu chữa: và chỉ thoát
ra bằng
sự thất bại. Thất bại ở đây có nghĩa, như là sự chia lìa không sao hàn
gắn,
giữa nhân vật chính và thế giới bên ngoài, sự thụ động ù lì của gã, chỉ
vì ý
thức của gã quá rộng, trong khi thế giới quá bảo thủ, uớc lệ, không sao
thỏa
mãn nổi. Đấy là nội dung của tiểu thuyết. Về hình thức: Tiểu thuyết bắt
buộc
vừa là một truyện ký [biographie] - tiểu sử, cuộc sống của anh chàng
tên là Tâm
ở trong Bếp Lửa, vừa là một ký sự xã hội [chronique sociale] - xã hội
Miền Bắc,
thành phố Hà Nội đúng hơn, trong cơn xao động của lịch sử.
Và sau cùng, biểu lộ tình cảm, "Anh yêu quê hương vô cùng, yêu em vô
cùng", kết thúc Bếp Lửa, là một điểm vượt [le dépassement], khi
đó,
tác giả - tiểu thuyết gia - rời khỏi thế giới về chiều, thế giới
mộng ảo
của tiểu thuyết, và trở lại đời sống thực [Lưu Nguyễn về trần]. Đó là
lúc ý
thức tiểu thuyết gia, vượt ý thức nhân vật, để tìm lại cái chính, cái
thực [l'authenticité],
Lucien Goldmann, diễn ý Lukacs, gọi đó là sự chuyển hoá [la
conversion], từ thế
giới tiểu thuyết qua thế giới thực, là đời sống mất đi tìm thấy lại.
Bếp Lửa trong văn chương.
Ui
chao, đọc lại mới thấy, hồi đó, sao mê Lukacs "vãi" [chữ này chôm
trên
net, chắc là từ Phạm Hải Anh, có nghĩa, mê quá, đến vãi linh hồn ra!].
Nhưng, quả là khủng khiếp. Nhận định của Lukacs, giống như một bảng
tuần hoàn
hoá học, nhốt cứng trong nó, mọi tác phẩm, đã có, đang có, và sẽ có,
những tác
phẩm có mùi "vãi", tức thứ tiểu thuyết ý thức hệ, mà ngay cả Bếp
Lửa cũng bị nó làm mê muội, tác phẩm thì chưa chắc, những tác giả
thì
"chạy trời không khỏi nắng".
Lạ, là, ngay hồi đó, Gấu đã nhìn ra điều này, khi dám phán về ông anh:
Cũng một cuốn sách tương tự, tác giả Alain Fournier, cuốn Anh Môn chỉ
được
coi là cuốn sách của thời mới lớn. Vậy thôi. Nhân vật chính trong Anh
Môn may mắn gặp người đẹp Yvonne de Galais, nhân vật trong Bếp
Lửa không may gặp... Marx. Phải chăng chính tác giả Bếp
Lửa cũng
bị huyễn hoặc bởi những giấc mộng biến cải thế giới, thay đổi cuộc đời,
trí tuệ
đương đầu định mạng... nên đã 'làm hỏng' Bếp Lửa, và cứ phải
loay hoay
hì hục viết một Bếp Lửa, khác....
*
Gấu đọc Lukacs hồi đó, còn trẻ măng, đang hung hăng con bọ xít, sẽ cho
ra đời,
chí ít, vài ba cuốn tiểu thuyết, nhưng nghĩ ra cuốn nào, là lọt vô trận
đồ của
Lukacs cuốn đó!
*
Ngoài Lukacs, còn nhận ra một số ông thầy, khác, của thời mới lớn:
Barthes,
Bachelard, Foucault...
Nhờ đô la Mẽo.
*
Trừ đoạn đầu, Một vài ý nghĩ nho nhỏ về thơ TTT, phần còn lại, Bếp
Lửa
trong văn chương, đã được đăng trên Tập San Văn Chương, do một nhóm
bạn bè,
trong có Gấu, chủ trương.
Ra hải ngoại, đọc một số tác giả ra đi từ Hà Nội, viết về một, Gấu, nhớ
bài
viết đã thất lạc từ 1973, nhớ Hà Nội của Bếp Lửa, và của Gấu trong
Những ngày ở
Sài Gòn, nhớ Tập San Văn Chương và bè bạn, Gấu dùng lại cái tít ngày
nào, như
một liên tưởng. Một nối kết.
Bếp
Lửa trong văn chương:
Tâm = Bếp Lửa = Hà Nội.
*
Tới khi đọc một bài viết về L'Étranger, cái tay nào viết
bài này,
cũng nhận ra, y hệt Gấu khi viết về Bếp Lửa, Hà Nội, Tâm [trái tim] khi
"chiết tự" : Meursault = Mer + Soleil = Mặt Trời Địa Trung Hải: Quê
hương,
Bếp lửa của Camus.
Nhưng không thể nào ngờ được, Trái Tim, Tâm, Bếp Lửa... của dân
Mít, sau
cùng lòi ra... bộ mặt thực: Trái Tim Của Bóng Đen!
*
Đọc lại bài viết, Gấu nhớ một chi tiết thật thú vị. Mấy câu trích dẫn
Sartre,
trong bài viết, liên quan tới Husserl, (1), sau này, đọc một số TLS,
Steiner
trích dẫn, đúng câu trên, để vinh danh Sartre, khi ông này ra khỏi Lò
Luyện
Ngục.
(1) "Husserl đã tái tạo dựng (réinstaller) sự ghê rợn và sự quyến rũ
vào
trong những sự vật. Ông tái tạo thế giới của những nghệ sĩ và của những
nhà
tiên tri: Ghê sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng trùng, với những bến
cảng, nơi
trú ẩn của ân sủng và tình yêu."
Sartre. "Situations I", trong bài viết về Faulkner.
*
Tôi đã lầm, khi nghĩ, chẳng bao giờ người ta lại được đọc những trang
sách
tuyệt vời, về Hà-nội. Có thể là do một câu thơ và viễn ảnh khủng khiếp
nó gây
ra ở nơi tôi.
"Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ" (Trần Dần), câu thơ như một
"Apocalypse Now" (Tận Thế Là Đây), không phải chỉ riêng cho Hà-nội.
Làm sao mà thi sĩ lại nhìn thấy suốt cuộc chiến sau đó, không phải
chiến thắng,
mà huỷ diệt, một thành phố, rồi cùng với nó, là biểu tượng của cả một
dân tộc?
Sartre viết, Husserl không hề là một nhà hiện thực. Nhà thơ như Trần
Dần, nhà
văn như Lê Minh Hà, lại càng không. Đừng coi những dòng kể của bà về
Hà-nội, là
hiện thực chủ nghĩa, theo một nghĩa thô bạo nhất của nó. Vẫn Sartre,
trong bài
viết đã dẫn, "Hiểu, là vỡ òa về...", (Connaitre, c'est
"s'éclater vers"), và đó là ý nghĩa câu nói nổi tiếng của Husserl: Ý
thức chỉ là ý thức về một điều gì (Toute conscience est conscience de
quelque
chose): y hệt như vết bom ngưng lại, vì biết rằng, có một người, sau
này sẽ
viết ra, điều này.
Câu Ý thức chỉ là ý thức về một điều gì, Sartre trích dẫn
Husserl, nổi
quá, đến nỗi, từ điển Robert đã lầm là của Sartre!
Bếp
Lửa trong văn chương
Gấu đọc
Lukacs hồi đó, còn
trẻ măng, đang hung hăng con bọ xít, sẽ cho ra đời, chí ít, vài ba cuốn
tiểu
thuyết, nhưng cứ thử phác họa ra, một cuốn nào, là lọt vô trận đồ của
Lukacs
cuốn đó!
*
Ngoài Lukacs, còn nhận ra một số ông thầy, khác, của thời mới lớn:
Barthes,
Bachelard, Foucault...
Nhờ đô la Mẽo. Tha hồ mua sách, đọc đui một con mắt, còn một! (1)
(1) Sự thực, mắt lé, thị lực một con, ngay khi còn trẻ, 10/10, con kia,
1/10.
*
Có lần Gấu kể, do nghèo quá, không có tiền mua sách, bèn phải tự mình
tìm ra
phương trình đường thẳng, sướng điên lên, ơ rơ ka một tiếng vỡ
trời, rồi
đi kiếm một tên bạn học cùng lớp để khoe, bạn nhìn với ánh mắt thương
hại, lấy
tay ra dấu, chờ tao một tí, và vô nhà, lấy cuốn giáo khoa toán, dí vô
mắt Gấu,
nè nè coi đi, thằng nhà quê, cả quỷnh, cái phương trình sơ đẳng, thiên
hạ đã
khám phá từ hồi nào rồi!
Ấy đấy, cũng như vậy, là nỗi đau, Gấu cứ thử nhen nhúm một sáng tác ở
trong
đầu, là Lukacs bèn dí vào mắt, bảng tuần hoàn văn học trong cuốn Lý
thuyết
về Tiểu thuyết , rồi xì một tiếng, ôi thằng nhà quê, cuốn tiểu
thuyết sáng
giá, mày "chưa viết", vậy mà "đã có", ở trong này rồi!
Cứ như Khổng Minh, nằm khểnh trong lều tranh, mà đã biết trước thiên hạ
sẽ phân
ba!
Bạn không thể tưởng tượng, nỗi thất vọng khủng khiếp của Gấu, những
ngày còn
trẻ măng, mộng đời rực rỡ, sẽ trở thành nhà văn, sẽ, sẽ... và bị ngay
ông
Lukacs phạng cho một cú.
Phải đến khi đọc Barthes, Gấu mới hiểu ra rằng, vưỡn có thể trở thành
nhà văn,
mà chẳng cần phải đọc Lukacs.
Nói rõ hơn, cái công thức của Lukacs đó, chỉ áp dụng cho một thứ tiểu
thuyết có
tên là ý thức hệ mà thôi.
*
Gấu tin rằng, TTT, có thể cũng trải qua những cơn khủng hoảng tương tự,
và đành
bỏ ngang một số tác phẩm viết sau Bếp Lửa, như Ung Thư, Thềm Sương
Mù... cho
tới khi "ngộ" ra, và viết Một Chủ Nhật Khác: Một truyện tình, với cái
nền của của nó, thơ mộng như Đà Lạt, khủng khiếp như cuộc nồi da nấu
thịt, ông
thầy và cô học trò yêu thương nhau, cùng nhau đi ăn tiệm, gọi món ăn
Quốc Cộng
tương tàn, Yankee mũi tẹt làm thịt thằng em Nam Bộ...
Phải đến khi đọc Barthes, Gấu mới hiểu ra rằng, vưỡn có thể trở thành
nhà văn, mà
chẳng cần phải đọc Lukacs.
Nói rõ hơn, cái công thức của Lukacs đó, (1), chỉ áp dụng cho một thứ
tiểu thuyết
có tên là ý thức hệ mà thôi.
(1) Nhân vật tiểu thuyết là một kẻ vấn nạn (un être problématique), một
gã
khùng hay một tên tội phạm, bởi vì luôn tìm kiếm những giá trị tuyệt
đối dù
chẳng biết, sống "chúng" một cách toàn diện (chính vì vậy) mà không
thể tới gần. Một tìm kiếm luôn tiến mà chẳng tới, một chuyển động
Lukacs định
nghĩa bằng công thức: "Con đường tận cùng, cuộc hành trình bắt đầu".
(Lucien Goldmann: Dẫn vào những bản viết đầu tay của Georges Lukacs).
*
Gấu tin rằng, TTT, có thể cũng trải qua những cơn khủng hoảng tương tự,
và đành
bỏ ngang một số tác phẩm viết sau Bếp Lửa, như Ung Thư, Thềm Sương
Mù... cho
tới khi "ngộ" ra, và viết Một Chủ Nhật Khác: Một truyện tình, với cái
nền của nó, thơ mộng như Đà Lạt, [mà đúng là Đà Lạt thật], khủng khiếp
như cuộc
nồi da nấu thịt, ông thầy và cô học trò yêu thương nhau, cùng nhau đi
ăn tiệm,
gọi món ăn Quốc Cộng tương tàn, Yankee mũi tẹt làm thịt thằng em Nam
Bộ...
Bếp
Lửa trong văn chương 2
Tôi cũng có đọc một lời khuyên, nên viếng thăm nghĩa địa, mỗi lần ghé
một thành
phố. Buendia, trong Trăm Năm Cô Đơn, muốn bỏ Macondo, tìm một đất lành
khác.
Anh giải thích: "con người thuộc về nơi chốn, khi dưới đất có một người
chết". Ursula, bà vợ, dịu dàng, nhưng quyết liệt, "nếu cần một cái
mả, tôi sẽ ra đó nằm." Còn nhớ một cụ già, khi nghe tin máy bay Mỹ oanh
tạc miền Bắc, bà cụ giật mình, vậy là động mồ động mả, ông bà mình làm
sao ngủ
yên ?..
*
Sự thực của nhà văn không phải sự thực của nhà phê bình. Sự thực đời
sống [sự
thực của những người đã chết truyền lưu cho kẻ sống sót. Bếp Lửa, Tựa,
lần xuất bản thứ hai, 1965] lại càng không phải sự thực văn chương.
Valéry gọi,
đây là ảo tưởng hiện thực, lòng tin ngây thơ, văn chương có thể
ghi lại
thực tại. Nhà văn là một kẻ "sống sót", thời gian dùng vào việc viết
là một thời gian xác định, nhưng tác phẩm chỉ sống sót khi vẫn còn là
một tác
phẩm văn chương - vẫn còn tham dự vào dòng thời gian vô định của trí
nhớ, của
hồi tưởng và của sự đọc.
Bếp Lửa trong văn chương. Văn, số đặc biệt về TTT
[1973].
Những dòng trên, bây giờ nhìn lại, nhận ra, chúng được viết dưới ánh
sáng của
tiểu thuyết mới, của Barthes, chứng tỏ Gấu hoàn toàn hồi phục, sau cú
đánh của
Lukacs, của dòng văn chương dấn thân, của dòng văn chương ý thức
hệ.
Bây giờ thì tha hồ mà viết, chẳng cần tại sao viết, viết cho ai, viết
để làm
gì.
Chỉ là, viết thế nào?
*
Không phải những câu hỏi văn chương là gì của Sartre, trong có những
câu tại
sao viết, viết cho ai, viết làm gì... là không còn có giá trị, nhưng rõ
ràng là
văn chương còn có một giá trị vượt lên trên những câu hỏi đó. Bởi thế
Barthes
phân biệt, nhà văn và nhà dùng văn. Bạn tha hồ viết cho ai, viết để làm
gì, tại
sao viết, khi bạn nhập vai "nhà dùng văn", écrivant, và bạn bức xức
với những vấn đề liên quan tới đời sống, xã hội của cái thời bạn đang
sống, và
bạn muốn thay đổi nó, làm sao cho nó tốt đẹp hơn. Nhưng, một khi bạn
rảnh rang,
muốn viết một cái đó, thật riêng tư, cho riêng mình, cho cái món mà
mình mê
nhất là văn chương, thì khi đó, bạn quên luôn, cái xã hội mà bạn đang
sống,
quên luôn cả bản thân, quên tuốt tuột, và bạn cắm cúi viết một cái gì,
mà bạn
mơ mơ hồ hồ nghĩ rằng, cái mà mình đang viết đó có vẻ như, chưa từng có
trên
đời, chưa từng có ai nghĩ đến, hoặc viết ra! Chính vì thế mà đám tiểu
thuyết mới
phán, tôi viết là để hiểu, tại sao tôi viết. Và khi Sartre phán, đứng
trước đứa
trẻ chết đói cuốn Buồn Nôn chẳng là thứ cứt đái gì, một ông tiểu thuyết
mới
[Yves Berger, hình như vậy. NQT], nhỏ nhẹ khều tay Sartre, này, ông có
cần tôi
tiếp tay, cho đứa trẻ khỏi chết đói, thì OK, nhưng ông vưỡn cho phép
tôi viết
văn nhé!
*
Bất giác nhớ Joseph Huỳnh Văn.
"Hắn" nói, mi viết bài này vì ta, là tổng thư ký Tập San Văn
Chương, chứ đâu vì TTT, hay vì bất cứ một độc giả nào!
*
Gấu có một kỷ niệm thật là thú vị, về bài viết.
Bữa đó, tình cờ ghé nhà sách nhỏ - không nhớ tên, trên đường Lê Lợi, kế
bên nhà
sách lớn Khai Trí - nơi có gửi bán Tập San Văn Chương,
Gấu thấy TTT
đang chăm chú đọc bài viết trên. Ông đọc cọp. Xong xuôi, ông bỏ tờ báo
xuống
sạp, đi ra, không nhìn thấy Gấu.
Khi đọc Lý Thuyết về Tiểu Thuyết của G. Lukacs, Hai Lúa đang vẽ
ra ở
trong đầu của mình, cuốn tiểu thuyết tương lai, một đại tác phẩm của
"chàng", và cuốn này sẽ nối liền được hai thành phố, là, Hànội và
Sàigòn.
Đọc Lukacs, ổng nói vô ích, mày sẽ không thể chọn cho mày một chỗ đứng
nào ở
trong cuốn sách đó. Bởi vì, bất cứ một cuốn tiểu thuyết nào, cũng phải
đẻ ra từ
một cái đầu ý thức hệ!
Bạn không thể nào tưởng tượng ra được, cơn chấn động, nỗi thất vọng
khủng khiếp
ở "thằng bé", khi giấc mộng lớn bị ông Lukacs vứt vô thùng rác!
Trong bài
Phỏng vấn
dởm Hai Lúa đã nói đến nỗi thất vọng toán học. Nỗi thất vọng văn
chương này
còn khủng khiếp hơn nhiều!
Chỉ mãi sau này, đọc Barthes, (1) Hai Lúa mới biết rằng, mình vẫn có
thể viết
được một cuốn sách nối liền được hai thành phố, mà chẳng cần phải chọn
bên!
(1) Nếu những nguyên lý mang tính ý thức hệ này nọ này khả hữu cùng một
lúc,
chẳng hồ nghi, một chọn lựa mang tính ý thức hệ không làm nên cái gọi
là
HữuThể, Being, của phê bình, và chân lý không phải là Đất Thánh,
[Sanction: phê
chuẩn, thừa nhận], của nó. Roland Barthes: Phê bình là gì?
*
Bếp
Lửa
trong Văn Chương
Ui
chao, mới đọc lại một tí,
mà thấy sướng điên lên được!
Gấu
"1973" đây ư?
Muốn tìm một cách đọc khác cho Bếp Lửa, có lẽ
phải làm như Marx nói: Giải
phóng nó ra khỏi cái vỏ huyền hoặc, để tìm lại cái nhân thuần lý.
Ui chao, hoá ra hồi đó đã "rành" Marx như thế này ư? Mà
đọc câu
này ở đâu nhỉ?
Hình như từ Pour Marx của Althusser?
Nếu thế, có thể đếch phải Marx, mà Althusser phán, và sau này, khi hấp
hối, thú
nhận [trước bàn thờ], "chúng ta" đã phịa ra cả một nền triết học ảo
cho Marx!
Bếp Lửa trong
Văn Chương
LA POSTÉRITÉ
GEORG LUKACS :
UN MARXISTE TRAGIQUE
Spécialiste de littérature, Lukâcs
s'intéresse au
phénomène de “réification” mis en évidence par Marx.
Issu probablement de la petite bourgeoisie juive hongroise, Georg
Lukâcs
(1885-1971) sera l'assistant à l'université de Heidelberg du sociologue allemand Max
Weber
(1864-1920) et étudiera aussi avec Georg Simmel (1858-1918). Il se fait
connaître en 1916 par sa Théorie sur le roman, avant de se
convertir au
marxisme* et de participer en 1919 au soulèvement communiste hongrois
mené par
Béla Kun, dont il sera le commisssaire à l'Instruction.
Après l'échec du mouvement, il se réfugie en Autriche, puis en
Allemagne, avant
de rejoindre Moscou en 1933. En Allemagne, il fréquente
l'intelligentsia, et
c'est lui que Thomas Mann peindra en 1924 à travers le personnage de
Naphta
dans La Montagne magique. Un an auparaavant, il avait publié un
livre
considéré comme l'un des plus grands textes de philosophie du xxe
siècle:
Histoire et conscience de classe. Il y approfondit le thème de la
réification chez Marx, c'est-à-dire la tendance du capitalisme*
à
transformer l'homme en chose (du latin, res, chose).
Ce processus recouvre selon lui tous les aspects de l'aliénation de
l'hommme
dans l'économie capitaliste et il montre qu'étroitement liée à la
rationalisation formelle du droit, de l'État et des administrations, la
réification tend à tout corrompre, même les syndicats et les partis
politiques
ouvriers. Seule la conscience de classe du prolétariat peut, d'après
lui,
rétablir sa subjectivité et garanntir son autonomie.
Cette thèse fut unanimement condamnée par les sociaux-démocratiques et
les
bolcheviques, et l'ouvrage fut mis à l'index. Lukâcs réagit en reniant
ce livre
dont tous les exemplaires seront bientôt détruits. Il échappera au
stalinisme
et, rentré à Budapest
en 1944, il entamera une carrière de professeur d'histoire de l'art et
d'esthétique, devenant un expert éminent tant de Goethe et d'Hegel que
de
Balzac et de Thomas Mann. En 1954, il publie La Destruction de la
raison
où il expose, sur un ton dogmatique, la décadence mentale de la
civilisation du
grand capital et de l'impérialisme à partir du XIXe siècle. Paradoxe:
lui qui
se bat comme un beau diable pour réintégrer le parti communiste
hongrois, dont
il a été exclu après sa participation aux événements de 1956 - il a été
ministre de la Culture du premier gouvernement Nagy - est considéré à
l'Ouest
comme un marxiste dissident.
Ses livres, traduits en France dès 1947, rencontrent un grand succès,
particulièrement dans les années 1960 auprès de penseurs contestataires
comme
le situationniste Guy Debord (1931-1994) Le sociologue marxiste
d'origine
hongroise Joseph Gabel (1912-2004) établira entre autres, dans La
Fausse
Conscience (Éditions de Minuit, 1962), un lien entre sa théorie de
la
réification et la schizophrénie analysée du point de vue
psychopathologique. P.
T.
[Báo Le Point, số đặc biệt về Marx]
*
Cái sự gen đột biến, biến thành ruồi, tay tổ sư Mác Xít Lukasc đã tiên
đoán ra
được, và gọi là "vật hóa", la réification, nhưng ông đổ tội cho tư
bản chủ nghĩa, có khuynh hướng biến con người thành đồ vật, và chỉ có ý
thức giai
cấp vô sản mới đảm bảo cho con người thoát khỏi sự trù ẻo này.
Bài giới thiệu Lukacs, cũng thường thôi, phần lớn đều là những chuyện
được
nhiều người biết, tuy nhiên, sự kiện, nhà xã hội học Joseph Gabel,
trong tác
phẩm Ngụy Ý Thức, tìm ra mắc mớ giữa lý thuyết “ruồi hóa” của
Lukacs, và
chứng bịnh thần kinh phân liệt, thì quả là quá thú vị!
*
Gấu đọc Lukacs từ cái hồi mới lớn, chữ Tây ăn đong, vậy mà nhờ làm cho
Mẽo, sắm
đủ thứ sách thời thượng, nào là Mác, nào là hiện sinh, nào là tiểu
thuyết mới,
chỉ để trả thù cái hồi nghèo quá, không có tiền mua sách toán, mà đành
phải bỏ
ngang chứng chỉ Toán Đại Cương, bởi vì ngoài tập cours in ronéo của
thầy
Monavon ra, đâu có biết hình dáng một cái bài tập, một cái bài toán
chứng chỉ
Toán Đại Cương nó ra làm sao!
Cái cours của thầy, hồi đó, là cũng do sinh viên góp tiền in, nhưng
ngoài ra,
sinh viên chẳng hề phải đóng một thứ tiền gì nữa, chế độ học vấn của
Ngụy xem
ra bảnh hơn của nhà nước VC quá nhiều.
Gấu đọc Histoire et conscience de classe, Lịch sử và Ý thức giai cấp,
"tân thánh kinh" của chủ nghĩa CS, là cũng vào những ngày đó. Rồi đọc
cours của Saussure, cũng thời đó! Ngồi Quán Chùa, khoe với ông anh, ông
nói,
mày cho tao mượn đọc thử coi!
Mới đó, mà ông anh cũng đã đi xa được mấy niên rồi.
BHD thì lại càng biền biệt.
Lạ một điều, có vẻ như BHD rất được độc giả Tin Văn quí mến. Đó là phần
thưởng
tuyệt vời Gấu cũng không ngờ, và cũng đành "khiêm tốn" đón nhận, và
thật lòng cảm ơn quí vị xa gần!
Tks all of U.
BHD & Gấu
Ảnh hưởng sâu đậm của Lukacs ở Gấu là cuốn Lý thuyết tiểu thuyết. Còn
ảnh hưởng
Mác xít, là từ Henri Lefèbvre với cuốn Duy vật biện chứng và Duy vật
lịch sử,
và Trần Văn Toàn, với cuốn Tìm hiểu triết học Marx, mới được tái bản
tại Việt
Nam, [chưa, xin lỗi. NQT]
Lý
Đợi phỏng vấn
Trần Văn Toàn
Nhưng, tuyệt vời nhất, là thời gian đọc Henri Lefèbvre, tại nhà thương
Grall,
giữa cái chết, cái sống, và cái sự chờ đợi BHD ghé thăm.
Đó là sau khi ăn mìn VC tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh.
Tuyệt!
*
Hãy để chủ nghĩa duy vật lịch
sử hiện ra
trước mắt anh, như một cột lửa trong đêm trường tư bản....
George Steiner: Tuyệt Bi (Absolute Tragedy)
Tôi đọc Nguyễn Đình Thi cùng với Henri Lefèbvre tại nhà thương hải quân
Pháp
tại Sài Gòn (nhà thương Grall), vào năm 1965, thời gian tôi được hưởng
cả hai
trái mìn claymore tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, để chào mừng người Mỹ vừa
đổ bộ xuống
bãi biển Đà Nẵng.
Một cách nào đó, ông là một trong những ông thầy của tôi, cả về việc
viết, việc
đọc, lẫn việc dịch thuật.
Nói là đọc tại nhà thương Grall cho giản tiện sự việc. Thật sự tôi đọc
Nguyễn Đình
Thi tại nơi làm việc, Đài Liên Lạc Vô Tuyến Điện thoại quốc tế, một
đỉnh cồn trên
tầng lầu trên cùng một building của người Pháp, ngay kế bên Đài Phát
Thanh Sài
Gòn. Đọc giữa hai lần giải phẫu. Lần thứ nhất, ngay sau vụ nổ, và một
lần sau
đó mấy tháng, để ‘cấy, ghép xương’ (làm greffe).
Cuốn sách của Nguyễn Đình Thi, đúng như cái tên của nó (Triết học nhập
môn), là
một cuốn sách vỡ lòng. Do đọc cùng lúc với cuốn của Henri Lefèbvre
(hình như
cuốn duy vật biện chứng pháp, le matérialisme dialectique), tôi đã có ý
nghĩ,
ông Ta đâu có thua gì ông Tây nổi tiếng đó; bởi vì nếu ông Tây đặt nặng
ý niệm,
rằng, trên đường rong ruổi, cái gọi là lý thuyết và cái gọi là thực
hành
(praxis), hai cái quyện vào nhau, triệt tiêu lẫn nhau để có được con
người hoàn
toàn, l’homme total, theo Marx; Nguyễn Đình Thi coi động/tĩnh là hai
yếu tố quan
trọng của duy vật biện chứng. Tĩnh là phần lý thuyết, động là phần thực
hành.
Cuốn của Nguyễn Đình Thi hồi đó, được các giáo sư tại Đại Học Văn Khoa
sử dụng như
là sách giáo khoa, cho sinh viên năm dự bị, hay năm đầu cử nhân triết.
Không
hiểu, ở ngoài ấy, hồi đó, ông có được như vậy không, và liệu có thể
coi, cuốn
sách của ông thuộc loại "giao lưu hòa giải, xóa lằn ranh quốc-cộng"?
Nói tóm lại kinh nghiệm đầu "đọc" [hay... "độc"] Mác xít
của tôi, là do hai ông thầy kể trên.
Cùng lúc đọc, viết. Truyện ngắn đầu tay của tôi, Những Ngày Ở Sài
Gòn, thai
nghén tại nhà thương sau khi đọc một bài thơ của một người bạn, thi sĩ
Cao Thoại
Châu, trên báo Văn, tiền thân tờ Văn bây giờ, của Nguyễn Xuân Hoàng.
Viết tại
đỉnh cồn, một tay bị băng bột, phải tựa lên thành ghế, một tay viết.
Ban đêm
ngủ phải nằm sát tường, để có chỗ dựa cho cánh tay băng bột. [Vậy mà
cũng vác
cánh tay đi chơi với ‘Cô Bé’. Thấy mọi người chăm chú nhìn, cô cười
nói, họ nhầm
anh với một anh lính chiến!]
Xong, gửi báo tuần báo Nghệ Thuật. Truyện được đăng, sau đó được tòa
soạn nhắn xuống
lấy tiền nhuận bút. Nhân thế, quen Viên Linh, liền sau đó thay Thanh Nam
làm tổng
thư ký. Anh xúi tôi viết tiểu luận, phê bình, điểm sách, điểm phim!
[Mới đây,
gặp lại, anh chìa cho tôi xem, một trong những bài điểm sách đầu tiên
của tôi,
là cuốn Thị Trấn Miền Tây, của Viên Linh, đăng trên báo Văn Học Sài
Gòn, không
phải tờ Văn Học Cali bây giờ]
Tôi nói với ông anh. Ông bảo sợ gì chuyện đó. Thì cứ viết, bằng cách
giới thiệu
những trào lưu văn học thế giới. Thấy tôi ngần ngại, ông bảo, Nguyễn
Đình Thi cũng
viết cuốn Triết Học Nhập Môn theo kiểu đó, vừa đọc, vừa dịch, vừa giới
thiệu, vừa
sáng tác. Đừng sợ sai, sai thì sửa. Không làm như vậy, chẳng bao giờ có
tác phẩm.
Kinh nghiệm của Nguyễn Đình Thi, qua ông anh, đã theo tôi suốt bao năm
mê mải
với mớ chữ. Tôi cứ thế giới thiệu, nào trào lưu hiện sinh [Tôi còn nhớ
tên loạt
bài viết cho Nghệ Tthuật: Thế nào là văn chương dấn thân?], tới những
tác giả
tiếp theo trào lưu hiện sinh như Roland Barthes, Gérard Genette... Tôi
giới thiệu
Beckett vào năm 1965 - 1966, trước khi ông được Nobel vào năm 1969. Ra
hải
ngoại, vẫn ‘mửng’ đó, tôi giới thiệu Borges, Steiner, Naipaul, Said...
nghĩa là
vừa đọc, vừa [tập] dịch [tiếng Anh].
Kinh nghiệm Nguyễn Đình Thi, qua ông anh, thật là quá quí đối với tôi,
một học sinh
trường Việt, vốn liếng ngoại ngữ chẳng là bao, cứ thế vừa đọc, vừa học.
Nay
viết ra đây, hy vọng có chút ích cho những người lớp sau.
Kinh
nghiệm
NDT
|