Notes
1
Một cuộc gặp gỡ
Kundera ở xứ Mít
K
trả lời phỏng vấn
|
Trang Kundera
Tiểu thuyết
–Trùm,
L'Archi-Roman
Thư ngỏ
nhân Sinh nhật Carlos Fuentes.
Mon Cher Carlos,
Sinh nhật của bạn nhưng cũng là của tôi : Bạn ăn mừng 70, thất thập cổ
lai hy,
và cũng đúng 30 năm đã qua, kể từ khi tôi gặp bạn ở Prague. Bạn tới đó,
vài
tháng sau cuộc xâm lăng của Liên Xô, với Julio Cortazar, với Gabriel
Marcia
Marquez, để tỏ mối lo âu của bạn, với chúng tôi, những nhà văn Tiệp.
Vài năm sau đó, tôi định cư ở Pháp, còn bạn, là vị đại sứ của Mexico.
Chúng ta thuờng gặp nhau, trò chuyện. Chính trị thì ít, nhưng tiểu
thuyết thì nhiều.
Đặc biệt là về cái món tiểu thuyết, cả hai thật gần gụi với nhau.
Thời kỳ đó, chúng ta đều ngỡ ngàng về cái sự bà con giữa xứ sở Châu Mỹ
La Tinh
lớn lao của bạn, và xứ Trung Âu nhỏ bé của chúng tôi, hai mảnh đất của
thế giới
đều mang nặng dấu ấn hồi ức lịch sử về 1 thời kỳ baroque, và nó làm cho
nhà văn
trở nên quá nhạy cảm với sự quyến rũ, mồi chài của sự tưởng tượng mang
tính kỳ
quái dị, thần tiên, ma mị. Và còn 1 điểm chung nữa : hai phần đất của
chúng ta
đều đóng 1 vai trò quyết định trong cuộc tiến hoá của tiểu thuyết thế
kỷ 20,
tiểu thuyết hiện đại, hay có thể nói, thời kỳ sau-Proust : thứ nhất,
trong
những thập niên 1910, 1920, 1930, nhờ ở nhóm Nhị Thập Bát Tú, là những
tiểu
thuyết gia lớn của phần Âu Châu của tôi : Kafka, Musil, Broch,
Gombrowicz…
(chúng tôi ngạc nhiên vì nhận ra 1 điều là đã dành cho Broch một sự
ngưỡng mộ
lớn lao hơn nhiều, so với những đồng bào của ông ngưỡng mộ ông, và cũng
thật
khác biệt, so với họ : theo chúng tôi, ông ta mở ra những khả thể mới
mang tính
mỹ học của tiểu thuyết ; ông ta, trước hết, là tác giả của cuốn
Những kẻ mộng
du) ; rồi thì, trong những năm 1950, 1960, 1970, nhờ ở 1 chòm Nhị
Thập Bát
Tú khác, trong phần đất của các bạn, tiếp tục biến đổi mỹ học của tiểu
thuyết :
Juan Rulfo, Carpentier, Sabato, rồi bạn và những bạn bè của bạn.
Hai điều trung thành xác định chúng ta : trung thành với cuộc cách mạng
nghệ
thuật hiện đại của thế kỷ 20 ; và trung thành với tiểu thuyết. Hai sự
trung
thành đó chẳng hề tụ hội. Bởi vì [trường phái] tiền phong (nghệ thuật
hiện đại
trong ấn bản ý thức hệ hóa của nó) luôn luôn xếp xó tiểu thuyết ở bên
ngoài chủ
nghĩa hiện đại, coi nó như là đã bị vượt qua, mang tính qui ước không
sao chịu
đựng nổi, nghĩa là, miễn bàn. Nếu, sau này, vào những năm 1950, và
1960, những
đấng tiền phong 'hậu phong' bắt đầu tái sáng tạo và tuyên xưng chủ
nghĩa hiện
đại dành cho tiểu thuyết, họ đã làm điều này, thuần túy theo 1 đường
hướng mang
tính phủ định: một cuốn tiểu thuyết không nhân vật, không
tình
tiết, không câu chuyện, không chấm câu, nếu có thể, thứ
tiểu
thuyết tự gọi nó, hay để cho mọi người gọi nó là phản- tiểu thuyết
[từ
này của Sartre. GNV].
Kỳ cục: những người sáng tạo ra thơ hiện đại không có ý làm cái gọi là phản
thơ. Ngược lại, kể từ Baudelaire, chủ nghĩa hiện đại thơ
ca cố tới gần,
một cách thật là triệt để, cái yếu tính của thơ, cái chiều sâu thật đặc
trưng
của nó. Trong cùng 1 đường hướng như thế, tôi tưởng tượng ra 1 thứ tiểu
thuyết
hiện đại không phải như phản-tiểu thuyết nhưng mà là tiểu
thuyết-trùm,
hay tổng-tiểu thuyết, hay tiểu thuyết-vua, an arch-novel.
Cái thứ tiểu thuyết-trùm này, thì, thứ nhất, xoáy vô điều mà
chỉ tiểu
thuyết mới nói, đám khác đi chỗ khác chơi, cho được việc tiểu thuyết;
thứ nhì,
nó sẽ làm sống lại tất cả những khả thể bị lơ là, bị bỏ quên, mà nghệ
thuật này
đã tích luỹ được trong bốn thế kỷ của lịch sử của nó. Hai mươi lăm năm
trước
đây, tôi đọc cuốn Terra Nostra của bạn: tôi đọc đúng cái thứ
tiểu thuyết
có tên do tôi phịa ra đó: 1 cuốn tiểu thuyết-trùm. Điều này
chứng tỏ,
quả có thứ đó, có thể có thứ đó, và sẽ còn có nữa, nữa.
Thứ hiện đại lớn lao của tiểu thuyết. Cái mới thật khó khăn, và thật
ngỡ ngàng.
Ôm bạn quí của ta,
Milan
Note: Bài viết trên là cái thư K viết cho tờ
L .A Times, vào năm 1998. Bản
tiếng Anh bỏ đi phần Milan Kundera viết thêm, về Broch. TV post cả hai,
sau
đây; trong vài từ viết thêm này, thú vị là, K có nhắc đến Annah Arendt,
và bài
viết của bà về Broch, và thú vị hơn nữa, bài này TV đã ‘đi’ (1) rồi
!
(1) Thế còn cậu, có ‘đi’
không ?
- Không, tôi không ‘đi’ !
Đây là cái mẩu đối thoại, giữa GNV và 1 mắm mì, lần đầu tiên theo mấy
đàn anh
Nam Bộ, là bạn quí HPA, dân biểu DVB lên xóm.
Cuốn tiểu thuyết-vua mà K muốn vinh danh, là
cuốn « Thượng Đế Đã Chết
Trong Thành Phố », tức cuốn La Peau
[Làn Da] mà GNV này đã chuyển ngữ, từ những năm trước 1975, của
Malaparte, một
nhà văn Ý, mà K coi là 1 tiền khuôn mẫu, pré-modèle, của nhà văn dấn
thân. Một
tay ở trong nước tính ‘đi’ lại cuốn này, và GNV có đề nghị, nếu đi, thì
phải đi
trọn gói, nghĩa là dịch toàn bộ cuốn truyện, vì khi GNV dịch, bỏ đi đến
2/3 cuốn
sách, theo đề nghị của ông Nhàn chủ nhà xb Vàng Son.
Có 1 giai thoại về bản dịch này. Khi GNV dịch
xong, ông Nhàn đem trình [chắc
thế] cho tay Khoát, hay Quát, là chủ nhà xb Sóng Mới, chủ đích thực của
nhà xb
VS của ông Nhàn. Tay chủ SM bèn đưa cho tay NL, tác giả Đôi Mắt Người Xưa [ ?]
kiểm tra ; theo ông Nhàn kể lại với Gấu, tay này mê quá, nhưng
tiếc hùi hụi,
bản dịch tuyệt cú mèo, nhưng bỏ đi nhiều quá !
Bạn phải đọc cuốn La Peau, thì mới hiểu được
cái sự tiếc hùi hụi của NL. Cuốn truyện
miêu tả
những ngày Yankees mũi lõ giải phóng đất Ý, và có rất nhiều nét y chang
cái
cảnh quân đội Mẽo, những năm có mặt tại Miền Nam ! GNV không hiểu
tại làm
sao mà ông Nhàn, rất ư là cù lần, mà thật là tốt bụng, lại kiếm ra cuốn
này, và đưa Gấu dịch !
Mon,
June 21, 2010
Anh Tru
than,
Lau qua khong nhan duoc tin
tuc tu anh. Thinh thoang van vao TAN VIET doc bai.
Suc khoe anh dao nay ra sao?
Anh con nho hinh anh nay
khong? Saigon 1972 tai quan Huong Xua
quan
GoVap.
Nguyen Dinh Thuan hoi tham
anh
Dia chi e-mail cua NDT:
Than,
Ng Tr Khoi
Hi, bạn
ta!
Cái hình, luôn cả website của
bạn, có trên TV rồi.
NTK
Gấu nhớ hoài không ra hình
chụp
khi nào, ở đâu, chỉ nhớ, thời gian làm cho ông Nhàn.
Cả 1
đoạn đời của GNV, những
ngày ‘hard times’, còn lại, là nhờ bức hình trên đây. Còn 1 cái nữa,
chụp đúng
vài ngày sau 30 Tháng Tư 1975, tại Sở Thú, cùng với Cậu Tư, Tư Long,
của Gấu Cái.
Không có Cậu Tư, chắc là chết trong trại cải tạo Bà Bèo, năm 1985, sau
chuyến vượt
biển tại Bãi Vàm Láng.
Tiểu thuyết
và sự sinh đẻ
Trong khi đọc
lại Trăm Năm Cô Đơn 1 ý nghĩ quái dị văng ra khỏi đầu
tôi : những nhân
vật chính của những cuốn tiểu thuyết lớn không có con. Chỉ chừng 1% cư
dân trên
thế giới không có con, nhưng ít nhất cũng 50% những nhân vật lớn từ giã
tiểu thuyết
không được tái sản xuất.
Pantagruel, Panurge, don Quichotte, cả ba đại gia súng đều hư. Valmont,
nữ hầu
tước Merteuil, nữ chủ tịch Những liên hệ nguy hiểm, dĩa hư. Tom
Jones, nhân vật nổi tiếng của Fielding, bể ống khói, vào thời đó, chưa
có trụ sinh,
kể như xong. Werther, chắc giống trường hợp TCS. Ông nhạc sĩ này súng
hư
là cái chắc, vì rất nhiều em thật xinh, dù chưa từng được là người yêu
của ông,
cũng nhận bừa nhận phứa, vì có sao đâu, dĩa vẫn còn nguyên, chưa bị bể
làm hai !
Hà, hà !
Tất cả những
nhân vật của Stendhal đều mắc chứng vô sinh; cũng vậy, là rất nhiều
nhân vật
của Balzac; và của Dos; và trong thế kỷ vừa mới qua, Marcel, người kể
chuyện
trong Đi tìm thời gian đã mất, À la recherche du temps
perdu, và,
tất cả những nhân vật lớn của Musil, Ulrich, cô em/hay chị, Agathe,
Walter, cô
vợ Clarisse, và Diotime; và Chveik; và những nhân vật của Kafka, trừ 1
tay rất
trẻ, Karl Rossmann, súng cực ngon, chứng cớ, anh ta đã làm cô người làm
mang
bầu, và chính vì điều này, để xóa bỏ đứa bé khỏi cuộc đời của mình,
chàng bèn
quất ngựa truy phong, vượt biển, qua Mẽo, và nhờ vậy, thay vì 1 đứa bé,
thì là
tiểu thuyết đã được sinh ra ở xứ sở không có lịch sử này.
Cái sự vô sinh này không phải do những tiểu thuyết gia muốn như thế, mà
là tinh
thần của chính cái gọi là nghệ thuật tiểu thuyết. Nó tởm cái chuyện có con!
Tiểu
thuyết ra đời cùng với
Thời hiện đại, chắc cũng 1 thứ ‘ngôn sứ’, với chức năng làm con người
thành cái
gọi là ‘le seul véritable subjectum’, cái ‘subjectum thực sự, duy
nhất’, như
Heidegger phán, ‘nền tảng của tất cả’. Nhờ tiểu thuyết, phần lớn,
mà con
người định vị nó, trên sàn diễn Âu Châu, như là 1 cá nhân. Nếu
đếch
có tiểu
thuyết, chỉ trông mong vào đời sống thực, nghèo nàn, khốn khổ, chẳng ra
làm
sao, là cuộc sống thực của chúng ta, thì chúng ta chẳng biết chó gì,
hay chỉ
biết tí ti, về ông bô bà bô của chúng ta, ‘hai đấng khịa già, như Bắc
Kít ân
cần gọi, thì như thế nào nhỉ, khi chúng ông chưa ra đời?’ Cũng thế,
chúng ta
chỉ biết lơ tơ mơ về những người gần gụi chúng ta; chúng ta thấy họ tới
rồi đi;
vừa đi khuất là chỗ của họ đã được thay thế bởi những người khác; họ
làm thành một
chuỗi dài những con người dễ thay thế. Chính tiểu thuyết lọc riêng ra 1
cá nhân
con người, ở trong cái chuỗi dài thòng đó, làm sáng chói lên tất cả
tiểu sử của
nó, những ý nghĩ, những tình cảm của nó, làm cho nó không thể bị thay
thế: làm
cho nó trở thành trung tâm của tất cả.
Don Quichotte chết và tiểu thuyết kể như
xong. Cái sự kể như xong này chỉ
có thể hoàn hảo, ấy là vì don Quichotte tuyệt tự. Giả như súng của Đức
Ông, như
của Đoàn Chính Thuần, trong Lục Mạch Thần
Kiếm, đi đến đâu, gặp em nào, là để lại dấu ấn ở em đó, khiến xém
tí nữa là
anh em lấy lộn nhau, thì cuộc đời của Đức Ông sẽ được nối dài, bắt
chước, mô
phỏng, đạo, phản đối, tranh chấp, tố cáo, bảo vệ, phản bội: cái chết
của ông bố làm cửa mở toang, chẳng
phải là chúng ta đã từng nghe kể, từ khi còn bé tí, khi mà súng chưa
dùng được vào
cái "việc ấy, chuyện ấy", ngoài cái chuyện tè, rằng, cuộc đời của mi sẽ
được tiếp
tục ở trong những đứa con của mi ; những đứa con của mi là sự bất
tử của
mi. Nhưng, nếu câu chuyện về cuộc đời của tôi sẽ tiếp tục vượt quá cả
cuộc sống
của riêng tôi, thì điều này có nghĩa là, nó đếch có hoàn tất. Có con
thì ‘không
thể kể như xong’! Có con nghĩa là đời của mi đâu có phải là 1 toàn thể,
thực thể độc lập! Điều này có nghĩa, có 1 điều gì đó hoàn toàn cụ thể,
và
hoàn toàn trần tục, mà qua nó, 1 cá nhân chảy ra, hoà tan vào đó, và
chìm vào
quên lãng, tình nguyện biến mất : gia đình, hậu duệ, bộ lạc, quốc
gia.
Điều này có nghĩa, cá nhân, như là « nền tảng của tất cả »,
hóa ra là
1 ảo tưởng, 1 vụ cá cược, một giấc mộng của vài thế kỷ Âu Châu.
Với Trăm năm cô đơn của
Garcia
Marquez, nghệ thuật tiểu thuyết bước ra khỏi giấc mộng đó : trung
tâm của
sự chú tâm thì không còn là 1 cá nhân, mà
là 1 đoàn, lũ cá nhân ; cả 1 đoàn lũ đó, đứa
nào đứa đó thì đều là
đồ zin, không làm sao bắt chước, mô phỏng, sao chép, tuy nhiên, mỗi cá
nhân như
thế đó, thì cứ như 1 tia nắng mặt trời, loé lên trên 1 con sóng trên
mặt sông, mỗi
cá nhân như thế thì khư khư ôm trong nó 1 tương lai bị quên lãng của
chính nó,
mà nó ý thức được điều này, chẳng có cá nhân nào hiện diện suốt trên
sàn diễn, từ đầu truyện tới cuối truyện ; bà mẹ của cả bộ lạc, bà
Ursule già,
khi chết, thọ 120 tuổi. Một cuộc sống quá dài, khi cuốn tiểu thuyết
chấm dứt
thì bà vẫn còn sống; và tất cả những nhân vật của nó có những cái tên
tương tự, Arcadio José Buendia, José Arcadio, José Arcadio thứ nhì,
Aureliano
Buendia, Aureliano thứ nhì - như thế là
để xóa nhòa những mép bờ của chúng, và để cho độc giả chẳng biết đâu mà
lần,
lẫn lộn tứ lung tung. Với tất cả bề ngoài như thế, cho thấy 1 điều, cái
thời
đại của chủ nghĩa cá nhân Âu Châu không là thời đại của những nhân vật
như chúng.
Nhưng, nếu thế, thì cái thời đại của chúng là cái gì ? Một thời
đại trở
lại quá khứ của Mọi Da Đỏ Mỹ Châu ? Hay là 1 thời đại tương lai
khi mà cá
nhân con người hòa tan vào lũ kiến người ? Tôi có cảm tưởng, cuốn
tiểu
thuyết này, là 1 phong thần, phong thánh cho nghệ thuật
tiểu thuyết, đồng thời còn là lời giã từ thời đại tiểu
thuyết.
*
Cách Kun. đọc Garcia Marquez cho thấy, ông bỏ
qua sự liên hệ giữa GM và
Faulkner.
Không phải K không biết đến Faulkner. Ông đã từng cho thấy, ông rất mê
cuốn Những cây sồi dại, The Wild Palms
của F.
Trong Những di chúc bị phản bội, K. nhắc đến
Faulkner, và mong ước của F, chỉ mong được lịch sử gạch tên sau khi
chết.
Tuy nhiên, cái sự trùng tên của những nhân
vật trong Trăm năm cô đơn, hay nói rõ hơn, kỹ thuật
viết Trăm Năm Cô Đơn, là từ Faulkner mà ra.
Sartre là người nhìn ra điều này, khi đọc Âm Thanh và Cuồng
Nộ, của F, và, do ông đọc Heidegger, và quá mê,
bèn ngộ ra, và sau đó, là bài viết Thời tính
trong tiểu thuyết của F, qua bài viết, ông đưa ra 1 câu phán để
đời :
«Une technique romanesque renvoie toujours à la métaphysique du
romancier».
Một kỹ thuật tiểu thuyết luôn quy chiếu về siêu hình học của tiểu
thuyết
gia. Với F, là siêu hình về thời gian.
Trong Âm Thanh và Cuồng Nộ,
F đập
nát cái đồng hồ thời gian tuyến tính, và thay thế bằng thời gian qua
hồi nhớ của
1 tên khùng, thành thử cái câu phán của Shakespeare là quá đúng cho
cuốn tiểu
thuyết, là vậy : Đây là 1 câu chuyện được kể bởi 1 tên khùng, đầy
âm thanh
và cuồng nộ, và chẳng có ý nghĩa gì hết.
GM đệ tử F, viết Trăm Năm Cô Đơn,
muợn cái nguồn của Thầy, là cuốn Absalom,
Absalom!, và còn mượn luôn cái gọi là siêu hình học về thời gian
của
Thầy
trong Âm Thanh và Cuồng Nộ, nhưng
thay vì đập bể chiếc đồng hồ tuyến tính, và cho thằng khùng kể chuyện,
thì ông
tạo những vòng tròn đồng tâm, cứ thế xoay tít, mỗi nhân vật mỗi vòng
tròn, đồng
tâm, đồng trục, đồng hiện, trong cõi trăm năm như 1 lời nguyền, và nỗi
ám ảnh, đẻ
ra những thằng người có đuôi…
K quên ẩn dụ này, và chắc chẳng hề đọc Thế Giang !
Nên nhớ, cuốn tiểu thuyết chấm dứt, khi hai nhân vật cùng máu mủ cố có
được
1 đứa con không có đuôi, thế là đại họa xẩy ra, chấm dứt thiên đàng
Macondo
[Mackeno !]
Ui chao khi con bọ VC cố làm người là gây họa lớn là vậy !
Chán quá, đúng là THNM, nhìn đâu cũng thấy VC !
*
Tham
chiếu:
Thứ Hai
28/6/2004
Nguyễn
Quốc Trụ
Đáp
lời Đoàn Cầm Thi:
«Une technique romanesque
renvoie toujours à la métaphysique du romancier».
Câu dịch mà tôi đề nghị,
đúng ra là như vầy: Kỹ thuật tiểu thuyết luôn quy
chiếu về siêu hình học của tiểu thuyết gia. (Một kỹ thuật tiểu thuyết
luôn quy
chiếu về "cái gọi là" (la) siêu hình học của tiểu thuyết gia. Những
từ gạch dưới, là để bỏ đi.)
Theo tôi nên dịch từ
Métaphysique là Siêu hình học, hiểu theo nghĩa, một hệ
tư tưởng, của một nhóm, một trường phái, hay một tiểu thuyết gia. Thí
dụ, siêu
hình học của Sartre là chủ thuyết hiện sinh, của Hegel là chủ nghĩa duy
tâm,
Marx là duy vật biện chứng: Hiện hữu có trước yếu tính, từ đó, chỉ một
bước, là
tới nhận định tôn giáo là thuốc phiện
của quần chúng. Với họ, đây là hệ tư tưởng, hay cái nhìn (vision) của
họ về
thực tại, về thế giới… Còn với tiểu thuyết gia, là viễn ảnh về thế giới
do ông
ta bịa đặt ra. Chẳng hạn, như Sartre gọi, Kafka là một "tiểu thuyết gia
của sự siêu việt bất khả", the novelist of impossible transcendence
(trong
bài điểm Kẻ Xa Lạ của Camus, trong Situations I - Nhận
định I): Cửa Nhà Trời kia rồi, nhưng
khoan đã, tí nữa mới tới lượt bạn, như trong truyện ngắn Trước luật
pháp -
Devant La Loi của ông. Thành thử nếu bạn tìm ra được siêu hình học của
một tiểu
thuyết gia, là cùng lúc, bạn nhận ra kỹ thuật viết của người đó. Chính
vì vậy
mà Kafka cho rằng, kỹ thuật chính là linh hồn (ông dùng từ hữu thể,
être) của
văn chương, chứ không phải là nội dung.
Câu "Kỹ thuật tiểu thuyết…",
như Đoàn Cầm Thi (ĐCT) đã biết,
trích từ bài “Về cuốn Âm Thanh và Cuồng Nộ: Thời tính trong tiểu thuyết
của
Faulkner”. Có thể câu của Sartre, là từ
Heidegger, tức là từ Hữu thể và Thời gian mà ra. Sartre đọc Heidegger,
và đem
áp dụng vào thế giới tiểu thuyết của Faulkner, cố tìm ý nghĩa, hay là
trật tự,
cho một thế giới vô trật tự; nói một cách khác, cố cắt nghĩa, giải
thích kỹ
thuật viết của Faulkner, mà ông gọi là kỹ thuật của sự hỗn độn. Từ đó,
ông nhận
ra Faulkner, thay vì chấp nhận thời gian của chiếc đồng hồ, ông đập nát
nó ra,
sắp xếp lại, dựa trên ý thức của một tên khùng, và thay tiếng tích tắc
bằng
tiếng hú của nó. Với Garcia Marquez, thí dụ vậy, một “đệ tử” của
Faulkner, cũng
là một siêu hình học về thời gian: như là những vòng tròn đồng hiện,
những nhân
vật trùng tên, trong Trăm Năm Cô Đơn.
Thành thử vì lý do đó, không thể dịch
romancier (tiểu thuyết gia) là “tác
giả” được, trong khi ở nhiều trường hợp khác, hai từ “tác giả”, “tiểu
thuyết
gia” có thể được sử dụng thay đổi cho nhau mà không sợ hiểu lầm.
Khi mượn câu của Sartre, làm đề từ cho bài
viết về Cơ hội Của Chúa, của
Nguyễn Việt Hà (NVH), Đoàn Cầm Thi có thể, nhận ra có một "kỹ thuật của
sự
hỗn độn" ở trong Cơ Hội Của Chúa, và điều này làm bà liên tưởng tới câu
của Sartre, khi ông viết về Faulkner. Nhưng theo tôi, kỹ thuật hỗn độn
của NVH
không phải do anh tạo ra, mà mượn ngay từ xã hội hiện đại Việt Nam.
* * *
Có những cuốn sách dở - cứ cho rằng dở -
nhưng chúng báo hiệu những chuyển
đổi.
Nguyên Ngọc là người đầu tiên nhận ra điều
này, khi cho rằng, tới Nỗi Buồn
Chiến Tranh, "chúng ta" mới có tiểu thuyết. Với Cơ hội Của Chúa,
chúng ta có cơ hội của những con người, và những nỗi buồn vui của họ.
Chính cái
dở của nó lại làm cho chúng ta hy vọng.
Những tranh luận chung quanh cuốn tiểu
thuyết, mà không có những quy chụp
tác giả của nó, như đã từng xảy ra với Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp...
chứng tỏ
sự thành công của NVH, qua đó, của xã hội Việt Nam đương thời: Sống
chính trị
có nghĩa là mọi chuyện được quyết định bằng lời lẽ, bằng thuyết phục,
chứ không
phải bằng quyền lực và bằng bạo lực. (To
be political, to live in a polis, meant that everything was decided
through
words and persuation and not through force and violene. Hannah Arendt.
Con
người: Con vật xã hội hay chính trị.)
Cuốn Cơ
hội Của Chúa cho thấy
tín hiệu đáng mừng đó.
Một
trong những câu văn mở ra
bài viết của Sartre, đẹp và bi thương như một câu thơ mang hình thức
một câu
hỏi, làm nhớ tới câu thơ nổi tiếng của Holderlin (Tại sao lại có những
thi sĩ
trong một thời điêu đứng như thế này?):
“Tại
sao cửa sổ đầu tiên mở
ra cõi tiểu thuyết đó lại là ý thức của một tên khùng?”.
Câu
này “quy chiếu” về một
câu của Shakespeare, mà Faulkner sử dụng làm đề tựa cuốn sách:
“Đây là
một câu chuyện được
kể bởi một tên khùng,
Đầy âm
thanh và cuồng nộ, và
chẳng có ý nghĩa gì.”
[It is
a tale told by an
idiot, full of sound and fury, signifying nothing. Macbeth].
Cá nhân
người viết cũng đã
từng mô phỏng câu trên của Sartre, và tự hỏi:
“Tại
sao cửa sổ đầu tiên mở
sang khu vườn Thúy lại bị đóng chặt mãi mãi, chỉ vì một tên xưng xuất
là thằng
bán tơ?”
Câu mô
phỏng trên đây, một
cách nào đó, có thể là chiếc chìa khóa, mở ra thế giới tiểu thuyết của
NVH và
của nhiều tác giả Việt Nam
khác.
NQT
[Trích
e_Văn]
--------------------------------------------------------------------------------
Thời
Tính Trong Tiểu Thuyết
Faulkner:
Nói đến
viễn ảnh, là nói tới
thời gian. Một thời gian chưa có, nhưng sẽ có. Đối lại với Giấc Đại
Mộng của
Marx, về một con người hoàn toàn trong một thế giới không còn giai cấp,
chúng
ta có "Viễn ảnh Nội Tâm", hay "Cơn Ác Mộng Riêng Tư" của
Kafka. (G. Steiner tự hỏi: Tại sao một cơn ác mộng riêng tư của một cá
nhân lại
biến thành sự thực khủng khiếp cho cả một thế kỷ: thế kỷ 20, thế kỷ Lò
Thiêu,
thế kỷ Gulag?]
Nhưng
thôi, hãy trở về với
đàn cừu, hãy "khoanh vùng" vào một cõi văn chương, như Sartre đã làm,
khi bàn về cuốn "Âm Thanh và Cuồng Nộ", và vấn đề Thời Tính trong
tiểu thuyết của Faulkner:
"Đọc
Âm Thanh và Cuồng
Nộ, người ta đụng ngay phải những cái kỳ cục của kỹ thuật. Tại sao ông
đập nát
thời gian trong câu chuyện, và làm rối tung lên, những mẩu đoạn? Tại
sao cái
cửa sổ đầu tiên mở ra thế giới tiểu thuyết của ông, [Tại sao cái cửa sổ
mở sang
khu vườn Thúy], lại là ý thức của một tên khùng? [lại bị đóng chặt lại
mãi mãi,
chỉ vì một tên xưng xuất, là thằng bán tơ?]. Và ông trả lời: một kỹ
thuật tiểu
thuyết luôn qui về một siêu hình học của tiểu thuyết gia... và thật rõ
như ban
ngày, siêu hình học của Faulkner là một siêu hình học về thời gian. (Une technique romanesque
renvoie toujours à là métaphysique du romancier... or il saute aux yeux
que la
métaphysique du Faulkner est la métaphysique du temps.).
Theo người viết, không chỉ
với Faulkner không thôi, mà với đa số nhà văn,
chỉ là một siêu hình học về thời gian. Nói một cách khác, viễn ảnh của
nhà văn
mới là quan trọng (hơn là kỹ thuật), và chính nó quyết định sự sống còn
của tác
phẩm. Trường hợp của Greene, hay của Orwell, chuyện họ làm gián điệp
nằm trong
viễn ảnh mà họ (cảm) thấy, về một thế giới không còn chủ nghĩa cộng
sản. Viễn
ảnh, hay tầm nhìn của những nhà văn như Tô Hoài, Nguyễn Khải... chẳng
hạn, đều
bị chặn đứng bởi một "tương lai gần", là chiến thắng miền nam.
Nói
như vậy, có thể có người
hỏi ngược lại, rằng người viết đã lấy hậu quả để chứng minh cho một vấn
đề chỉ
mới còn ở trong lý thuyết, theo kiểu châm ngôn của các cụ ngày xưa: gà
gáy ban
đêm là có cháy nhà, trong khi sự thực, do nhà cháy, gà tưởng trời sáng,
nên mới
gáy. Tuy nhiên, ở đây, người viết chỉ muốn "khoanh vùng" vào cái viễn
ảnh nội tâm của một nhà văn. Leys cho rằng, có những nhà văn tìm thấy
tia sáng
sáng tạo khởi đầu ở trong những con chữ. Có những người khác, trong một
hình
ảnh, mà ông gọi là viễn ảnh nội tâm. Lấy trường hợp Dương Thu Hương
chẳng hạn,
ngay ngày đầu giải phóng miền nam, trong khi cả thế giới "hồ hởi" với
những người cộng sản miền bắc, thì bà thốt lên: hỏng rồi! Một cách nào
đó, bà đã
nhìn ra tương lai của cả một đất nước, từ một viễn ảnh nội tâm.
Source
Cách
đọc Trăm Năm Cô Đơn, trên, của GNV, là từ bài viết,
cũng của GNV, còn
nhớ đại khái, trên tạp chí Thanh Niên
của Thành Đoàn VC khi Gấu còn ở VN, được viết hình như liền tù tì sau
khi bản dịch
cuốn sách ra lò. Đưa bài viết xin đăng, là để làm mồi dẫn đến việc viết
1 cái đơn,
giống như cái thư, gửi người hùng Huỳnh Tấn Mẫm, thông qua nhà văn Mít
Butor,
khi đó cộng tác với tờ TN, xin 1 chân tà lọt ở tờ báo trên, nhưng không
được đáp
ứng. Nhà thơ Việt gốc Đại Hàn ‘Chung Dow Quan’ rất rành vụ này, nói thế
để chứng
tỏ, GNV chẳng hề phịa.
Cái lý do lắc đầu không nhận
GNV, thì không liên quan gì tới gốc Ngụy của GNV, Gấu đoán thế, và nhà
thơ DTQ
cũng biết thế, và không tiện nêu ra ở đây!
Hà, hà!
Năm Mới, chúc mọi chuyện bình
an.
NQT
*
L'IDYLLE, FILLE DE
L'HORREUR
(Marek Bienczyk: Tworki)
Tout se passe en Pologne
vers la fin de la Seconde Guerre mondiale. Le
fragment le plus connu de l'Histoire est vu sous un angle inconnu:
depuis un
grand hôpital psychiatrique de Varsovie: Tworki. Pour être original à
tout
prix? Au contraire : dans ces temps noirs, rien n'était plus naturel
que de
chercher un coin pour s'échapper. D'un côté l'horreur, de l'autre, le
refuge.
L'hôpital est géré par les Allemands (pas par des monstres nazis, ne
cherchez pas de clichés dans ce roman) ; ils emploient quelques très
jeunes
Polonais comme comptables, parmi eux trois ou quatre juifs avec de
fausses
cartes d'identité. Ce qui frappe immédiatement: ces jeunes gens ne
ressemblent
pas à la jeunesse de nos jours: ils sont pudiques, timides, maladroits,
avec
une soif naïve de morale et de bonté; ils vivent leurs « amours
virginales»
dont les jalousies et les déceptions, dans l'étrange atmosphère d'une
gentillesse obstinée, ne se transforment jamais en haine.
Est-ce parce qu'un demi-siècle les sépare que la jeunesse d'alors
diffère
tellement de celle de nos jours? Je vois une autre raison à cette
dissemblance:
l'idylle qu'ils étaient en train de vivre était la fille de l'horreur;
de
l'horreur cachée mais toujours présente, toujours à l'affût. Voilà le paradoxe
luciférien: si une société (par exemple, la nôtre) dégorge
violence et
méchanceté gratuites, c'est que la vraie expérience du mal, du règne du
mal,
lui manque. Car plus cruelle est l'Histoire, plus beau apparaît le
monde du
refuge; plus ordinaire est un événement, plus il ressemble à une bouée
de
sauvetage à laquelle les « échappés» s'accrochent.
Il y a des pages dans le roman où les mots reviennent comme des
refrains et
où la narration devient chant qui vous porte et emporte. Où cette
musique,
cette poésie prend-elle sa source? Dans la prose de la vie; dans des
banalités
on ne peut plus banales: Jurek est amoureux de Sonia: ses nuits d'amour
sont
mentionnées avec une extrême brièveté, mais le mouvement de la
balançoire où
Sonia est assise est décrit lentement, en détail. « Pourquoi aimes-tu
tellement
te balancer?» demande Jurek. « Parce que ... c'est difficile à
expliquer. Je
suis là, tout en bas, et juste après tout en haut. Et inversement.»
Jurek
écoute cette confession désarmante et, émerveillé, regarde là-haut, où
« près
des cimes des arbres, les semelles, de beige clair, devenaient sombres
»,
regarde en bas où elles « redescendaient jusque sous son nez »,
regarde,
toujours émerveillé, et n'oubliera pas.
Vers la fin du roman, Sonia s'en ira. Elle s'est échappée jadis à
Tworki,
pour y vivre, terrorisée, son idylle fragile. Elle est juive; personne
ne le
sait (pas même le lecteur). Pourtant, elle va voir le directeur
allemand de
l'hôpital, elle se dénonce, le directeur crie : « Vous êtes folle, vous
êtes folle! »,
prêt à la mettre à l'isolement pour la sauver. Mais elle persiste.
Quand nous
la reverrons, elle ne sera plus vivante: « au-dessus du sol, à une
branche
épaisse d'un peuplier élancé, Sonia pendait, Sonia se balançait, Sonia
était
pendue».
D'un côté l'idylle de la quotidienneté, l'idylle retrouvée,
revalorisée,
transformée en chant; de l'autre côté, la jeune fille pendue.
Thánh nữ, cô
con gái của sự
ghê rợn
Tất cả
xẩy ra tại Ba Lan vào
cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Cái mẩu được biết nhất của Lịch sử thì được nhìn
từ 1 góc
không được biết: từ một bệnh viện tâm thần lớn ở Varsovie, có tên là
Tworki. Để
được thật là ‘zin’, bằng mọi giá? Không đâu: trong những thời kỳ đen
tối, cái
chuyện kiếm cho được 1 nơi chốn để mà trú ẩn là 1 điều quá dễ hiểu,
thật tự nhiên.
Một bên là sự ghê rợn, một bên là nơi trú ẩn.
Bệnh viện do người Đức trông
coi (không phải những con quỉ Nazi, đừng kiếm bản kẽm ở đây, trong cuốn
tiểu
thuyết này); họ dùng vài thiếu nữ Ba Lan như là thư ký, trong số họ có
ba hoặc
bốn cô là người Do Thái, với căn cước giả. Điều đập vào mắt liền lập
tức, là,
những cô thiếu nữ này không giống chi với lớp trẻ của thời chúng ta: họ
thật là
trong trắng, e thẹn, vụng về, và họ thật là khao khát đạo đức, điều
lành, điều
tốt theo 1 cung cách thật là ngốc nghếch; họ sống những ‘tình yêu thánh
thiện’
của họ, và những yêu đương, giận hờn, ghen tuông, thất tình, trong 1
bầu khí lạ
kỳ của 1 sự dịu dàng cực kỳ ngoan cố, bướng bỉnh, không hề biến thành
hận thù.
Liệu cái khoảng cách 1 nửa thế
kỷ làm cho họ khác biệt hẳn với lớp trẻ của thời chúng ta? Tôi nhìn ra
1 lý do
khác, nó cắt nghĩa 1 cách khác, cái sự khác biệt đó: cái cuộc sống
thánh thiện,
mà những thánh nữ đang sống đó, là đứa con gái của điều ghê rợn, sự
khủng khiếp;
một sự ghê rợn khủng khiếp tuy giấu mặt, nhưng luôn luôn hiện diện,
luôn luôn rình
mò, sẵn sàng để ra đòn. Đây là nghịch
lý Lucifer: nếu 1 xã hội (xã hội
của chúng
ta, thí dụ) buông, thả, cho xổng chuồng, vô tư, thoải mái sự hung bạo và những điều độc ác, ấy là vì, nó
thiếu, thứ kinh nghiệm thực về cái ác, về sự trị vì của cái ác. Bởi vì
lịch sử
càng độc ác dữ dằn tới đâu, thì cuộc sống ở nơi ẩn trốn càng thánh
thiện tới đó!
Và 1 sự kiện càng bình thường, giản dị, thì càng trở thành 1 thứ phao
cứu tử mà
những kẻ ‘vượt thoát’ cố bám vào!
Ui
chao, đây đúng là thứ kinh
nghiệm mà GNV này đã từng kinh qua, thời kỳ Mậu Thân, qua cuộc tình
thánh thiện
với thánh nữ là… cô bạn:
Sự
thực, riêng với anh, có lẽ là, anh đã tưởng tượng ra em. Như một
đối đầu, thách đố. Như thể, anh may mắn được gặp em, vậy là quá đủ rồi.
Như thể
anh quá sợ, cuộc chiến lúc nào cũng soi mói, rình mò. "Mày chê tao nhơ
bẩn,
chắc gì mày đã hơn tao?", anh nghe như nó nói, với ánh mắt cười cợt,
với nụ
cười đe dọa. Như thể, anh càng yêu em trong sạch, thánh thiện, nghĩa là
bình
thường, giản dị chừng nào, cuộc chiến thua chúng ta chừng đó.
Những
ngày Mậu Thân căng
thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt
thay cho
cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố
cùng với
tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng
mình run
rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc
cảm thấy
còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình
thường,
giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Tiếu
lâm
thật!
Có
những trang sách, những từ
trở lại như những điệp khúc, và ở đó, dòng kể trở thành một bài hát, nó
nâng bổng,
rồi đẩy chúng ta đi xa tít. Âm nhạc đó, thơ ca đó, nguồn của nó ở đâu?
Trong dòng
đời: trong những cái làm xàm, bá láp không thể nào làm xàm, bá láp hơn!
[Ui
chao,
Kundera thuổng GNV, khi hắn ta dõng dạc phán, cái hồn văn chương Miền
Nam ở
trong nhạc sến!]: Jurek yêu Sonia, những đêm tình ái của họ thì được
nhắc tới thoáng qua, cực thoáng qua, nhưng sự chuyển động của cái
đu mà
Sonia đang ngồi trên đó, thì lại được miêu tả hết sức là chậm rãi, chi
ly từng
chi tiết. “Sao mà em mê lắc lư cái đu như thế?”, Jurek hỏi. “Bởi vì…
thật khó giải
thích quá.
Đây nè, em đây nè, ở mãi tít phía dưới kia, rồi em đây nè, ở mãi tít
trên cao đó
đó; hay ngược lại” Jurek nghe em giãi bày, mặt ngẩn tò te, sướng điên
lên được,
và nhìn mãi lên phía trên cao kia, nơi “gần những ngọn cây, gót giầy
của em, mầu
nâu sáng, bỗng trở nên đậm hơn, u tối hơn’, và rồi nhìn xuống, "bóng
dáng nàng xẹt
ngang qua, ngay dưới mũi anh", nhìn này, nhìn này, chàng ngẩn tò te,
điên lên vì
hạnh phúc, và chẳng thể nào quên được.
Gần
cuối truyện, Sonia bỏ đi.
Nàng, ngày nào, trốn tới Tworki, để sống trong khiếp vía, cái cuộc sống
mong
manh của 1 cuộc đời thánh thiện, của 1 con người thánh nữ. Nàng là
người Do Thái;
chẳng ai biết điều này, (ngay cả độc giả). Tuy nhiên, nàng tới gặp tay
giám đốc
bệnh viện người Đức, và nói với ông ta, tự tố cáo mình. Viên giám đốc
la lên,
mi khùng rồi!, và tính cứu nàng, bằng cách
tách riêng ra khỏi mọi người. Nhưng nàng khăng khăng không chịu. Khi
chúng ta
sau đó gặp lại, thì nàng không còn sống nữa, “ở bên trên đó, bên trên
mặt đất, trên
1 cành dương cao đặc lá, là cái xác người đung đa đung đưa.."
Một bên
là cái hồn của văn chương,
một bên là cô thiếu nữ treo cổ!
Milan Kundera
LE ROMAN ET LA PROCRÉATION
(Gabriel Garcia Marquez: Cent ans de
solitude)
C'est en relisant Cent ans de solitude qu'une idée
étrange me vient: les
protagonistes des grands romans n'ont pas d'enfants. À peine un pour
cent de la
population n'a pas d'enfants, mais au moins cinquante pour cent des
grands
personnages romanesques quittent le roman sans s'être reproduits. Ni
Pantagruel, ni Panurge, ni don Quichotte n'ont de progéniture. Ni
Valmont, ni
la marquise de Merteuil, ni la vertueuse Présidente des Liaisons
dangereuses. Ni Tom Jones, le plus célèbre héros de
Fielding. Ni Werther. Tous les protagonistes de Stendhal sont sans
enfants; de
même que beaucoup de ceux de Balzac; et de Dostoïevski; et au siècle
récemment
passé, Marcel, le narrateur d'À la recherche
du temps perdu, et, bien sûr, tous les grands personnages de Musil,
Ulrich,
sa sœur Agathe, Walter, sa femme Clarisse, et Diotime; et Chveik; et
les
protagonistes de Kafka à l'exception du très jeune Karl Rossmann qui a
engrossé
une bonne, mais c'est précisément pour cela, afin d'effacer l'enfant de
sa vie,
qu'il s'enfuit en Amérique et que le roman peut naître. Cette
infertilité n'est
pas due à une intention consciente des romanciers; c'est· l'esprit de
l'art du
roman (ou le subconscient de cet art) qui répugne à la procréation.
Le roman est né avec les Temps modernes qui ont fait de l'homme, pour
citer
Heidegger, le « seul véritable subjectum», le «fondement de tout».
C'est en
grande partie grâce au roman que l'homme s'installe sur la scène de
l'Europe en
tant qu'individu. Loin du roman, dans nos vies réelles, nous ne savons
pas
grand-chose de nos parents tels qu'ils étaient avant notre naissance;
nous ne
connaissons nos proches que par fragments; nous les voyons arriver et
partir; à
peine disparaissent ils, leur place est prise par d'autres: ils forment
un long
défilé d'êtres remplaçables. Seul le roman isole un individu, éclaire
toute sa
biographie, ses idées, ses sentiments, le rend irremplaçable: fait de
lui le
centre de tout.
Don Quichotte meurt et le roman s'achève; cet achèvement n'est si
parfaitement définitif que parce que don Quichotte n'a pas d'enfants;
avec des
enfants, sa vie serait prolongée, imitée ou contestée, défendue ou
trahie; la
mort d'un père laisse la porte ouverte; c'est d'ailleurs ce que nous
entendons
depuis notre enfance : ta vie va continuer dans tes enfants; tes
enfants sont
ton immortalité. Mais si mon histoire peut continuer au-delà de ma
propre vie,
cela veut dire que ma vie n'est pas une entité indépendante; cela veut
dire
qu'elle est inaccomplie; cela veut dire qu'il y a quelque chose de tout
à fait
concret et terrestre en quoi l'individu se fond, consent à se fondre,
consent à
être oublié : famille, progéniture,
tribu, nation. Cela veut dire que l'individu, en tant que « fondement
de
tout », est une illusion, un pari, le rêve de quelques siècles
européens.
Avec Cent ans de solitude de
Garcia Marquez l'art du roman semble sortir de
ce rêve; le centre d'attention n'est plus un individu, mais un cortège
d'individus; ils sont tous originaux, inimitables, et pourtant chacun
d'eux
n'est que l'éclair fugace d'un rayon de soleil sur l'onde d'une
rivière; chacun
d'eux porte avec lui son oubli futur et chacun d'eux en est conscient;
aucun ne
reste sur la scène du roman depuis le début jusqu'à la fin; la mère de
toute
cette tribu, la vieille Ursule, a cent vingt ans quand elle meurt, et
c'est
longtemps avant que le roman ne se termine; et tous portent des noms
qui se
ressemblent, Arcadio José Buendia, José Arcadio, José Arcadio le
Second,
Aureliano Buendia, Aureliano le Second, pour que les contours qui les
distinguent s'estompent et que le lecteur les confonde. Selon toute
apparence,
le temps de l'individualisme européen n'est plus leur temps. Mais quel
est donc
leur temps? Un temps qui remonte au passé indien de l'Amérique? Ou un
temps
futur où l'individu humain se fondra dans la fourmilière humaine? J'ai
l'impression que ce roman, qui est une apothéose de l'art du roman, est
en même
temps un adieu adressé à l'ère du roman.
L'INTOUCHABLE SOLITUDE D'UN ÉTRANGER
(Oscar Milosz)
Năm
1949, André Gide làm một
quyển hợp tuyển thơ Pháp cho nhà xuất bản Gallimard. Ông viết trong lời
mở đầu:
«X. trách tôi đã không dành một chỗ nào cho Milosz. [ ... ] Quên sao?
Không. Là
vì tôi không thấy một cái gì đặc biệt để đáng đưa ra. Tôi lặp lại: lựa
chọn của
tôi không có tính cách lịch sử gì hết, chỉ có phẩm chất mới làm tôi
quyết
định.» Câu nói phách lối của Gide có lý một phần: Oscar Milosz chẳng
dính gì
trong hợp tuyển này ; thơ của ông không phải là thơ tiếng Pháp; vì ông
giữ tất
cả nguồn cội gốc rễ Ba Lan-Li-tu-a-ni, ông núp trong ngôn ngữ Pháp như
trốn
trong tu viện. Chúng ta hãy xem lời từ chối của Gide như một cách quý
phái để
gìn giữ cái cô đơn không chạm tới được của một người lạ ; một Người Xa
Lạ.
TV sẽ
giới thiệu bài viết về
Oscar Milosz của Czeslaw Milosz, trong To Begin Where I Am
Về hai mùa
xuân lớn và về anh/chị
em nhà Skvorecky
1
Khi, vào tháng Chín 1968, bị chấn
thương nặng nề do cú Liên Xô xâm lăng Tchécoslovaquie, tôi tới Paris dưỡng
thương vài ngày. Josef và Zdena
Skvorecky cũng có ở đó. Hình ảnh 1 chàng thanh niên trở lại với tôi, và
1 giọng
điệu thật hung hăng: “Đám Tchèques như các người, thực sự muốn gì? Bộ
tụi mi quá
chán chủ nghĩa xã hội rồi ư?”
Cũng trong những ngày đó, chúng
tôi lèm bèm đã đời với một nhóm bạn Tẩy, và họ, mắt sáng ngời khi nói
đến nổi dậy,
vùng lên, đến hai mùa Xuân, một của Tây và một của Tchèque. Nghe thì
sướng thật,
nhưng có sự khác biệt.
Cú vùng lên Mai 1968, bất ngờ,
không ai đợi chờ, trong khi Mùa Xuân Prague, là một thành tựu của một
chặng đường
dài, cắm rễ trong Khủng Bố Stalin vào những năm đầu sau 1948.
Mai 1968, khởi động do những
người trẻ tuổi, mang dấu ấn của một thứ cách mạng trữ tình, đẹp như thơ
[như mơ
thì cũng được, lyrisme révolutionaire]. Mùa Xuân Prague, hứng
khởi của nó,
là từ chủ nghĩa bi quan hậu cách mạng của đám người lớn.
Mai 1968 phản đối lại - bằng
1 cuộc nổi dậy do ham vui mà ra - văn hóa Âu Châu, mà đám trẻ này coi
là bực bội,
công chức, cứng ngắc. Mùa Xuân Prague, phản đối, cùng thứ văn hóa đó,
nhưng
trong bao năm bị nghẹt thở dưới sự ngu dốt đần độn ý thức hệ, và nhằm
bảo vệ tính
Ky Tô nhiều hơn là vô tín ngưỡng phóng đãng, l’incroyance libertine,
của nghệ
thuật hiện đại (tôi nói hiện đại, không phải hậu hiện đại).
Mai 1960 dán cho nó tấm biển,
chủ nghĩa quốc tế.
Mùa Xuân Prague muốn, lại đem đến cho 1 quốc gia
nhỏ bé nguồn gốc và sự độc lập của nó.
2
Cái sự khởi đầu của Mùa Xuân
Prague được ghi dấu ở trong tôi bằng cuốn tiểu thuyết đầu tay của Sk., Những kẻ hèn nhát, xb năm 1956, và được
đón nhận bằng những đợt pháo bông lớn lao của lòng thù hằn của những VC
cầm
quyền Tchèque, [VC thì ở đâu cũng mắm xốt, Bắc Kít, Chếch Kít, Mao
Ít….]. Cuốn
tiểu thuyết đánh dấu bước đi đầu tiên của văn chương thì nói về bước đi
đầu tiên của lịch sử: một tuần lễ của Tháng Năm 1945, trong thời gian
đó, sau 6 năm bị Đức
đô hộ, nở ra cái gọi là Cộng Hòa tchécoslavique.
Nhưng, tại sao thù hằn như
thế?
Cuốn tiểu thuyết cực chống VC?
Không phải. Tuyệt không, cực không.
Sk kể câu
chuyện 1
chàng thanh niên 20 tuổi, yêu đến phát khùng nhạc jazz (cũng như Sk),
và phát
khùng lên vì thành quả cách mạng, về một vài ngày chấm dứt cuộc chiến,
quân đội
Đức quỳ gối, lực lượng kháng chiến tchèque vụng về xoay sở, nhận ra họ,
và, sau
cùng là sự xuất hiện của quân đội Nga.
Chẳng
có tí chống cộng điên cuồng ở đây, nhưng thay
vì vậy, thì là một
không khí, một thái độ không chính trị: nhẹ như mây, thoáng như khí
trời,
“không-ý thức hệ một cách cực kỳ vô lễ” [impoliment
non-idéologique]!
Kundera: Une
Rencontre
Không ý thức hệ cực kỳ vô lễ:
Tuyệt!
Chắc cũng giống như ị một bãi
cực bự, ở nơi ta đã từng ở, rồi.. về.
Về đâu?
Hà Nội chứ còn đâu nữa!
Và rồi
thì là chỗ nào cũng
tưng tửng, têu tếu, một thứ khôi hài không đúng lúc. Điều này làm tôi
[Kundera]
nghĩ, tất cả những nơi khác trên thế giới, người ta không cười như thế.
Làm sao
mà chê được cảm quan về cái cười, ý nghĩa của sự khôi hài ở Bertolt
Brecht?
Nhưng sự chuyển thành kịch tác phẩm “Anh bộ đội can đảm Chveik” [Brave Soldat Chveik] cho thấy, ông chẳng hiểu
tí chó nào về chất tếu của Hasek. Tính tếu của Sk (như của Hasek hay
của
Hrabal), là thứ tưng tửng bất cần đời [giống của GNV?] của những kẻ ở
cách xa quyền
lực hàng ngàn cây số, và giả như có vời họ tới để mà dâng hiến quyền
lực thì họ
cũng đếch thèm, và còn điều này, họ coi lịch sử là 1 con mụ phù thuỷ
già, mù, và
những lời phán đạo đức của nó làm họ bật cười, thí dụ,"lước Việt Lam nà
một"! Và tôi nhận thấy 1 điều thật ý nghĩa, đúng là cái tinh thần không
nghiêm trọng, chống lại đạo đức, chống lại ý thức hệ, chính nó đã bắt
đầu vào
lúc rạng đông của những năm 1960, một thập niên lớn của văn hóa tchèque
(vả
chăng, có thể nói, đó là lần cuối cùng, nó được coi là ‘lớn’)
3
Ui
chao, thập niên 1960 mới đẹp,
mới đáng yêu làm sao [Câu này thì Kundera nói giùm GNV]. Tôi có thể
nói, có tí đểu
giả trong đó: một chế độ chính trị, thứ lý tưởng, là 1 chế độ độc tài
đang rã
ra, c’est une dictature en décomposition, cái bộ máy
kìm kẹp của nó, tuy ngày càng rệu rạo, nhưng
vẫn còn có đó để mà
tạo những cú hích cái tinh thần phê phán và nhạo báng của nhân dân! Vào
mùa hè
1967, bị quê bởi đại hội táo bạo của Hội Nhà Văn, và có thể nghĩ, sự
trâng tráo
đã đi quá xa, Bắc Bộ Phủ bèn ra lệnh bóp chặt chim và cu và bướm của
chúng lại,
đi 1 đường chính trị cứng rắn, durcir leur politique. Nhưng tinh thần
phê phán đã
nhiễm tới cả Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng, và vào Tháng Giêng, họ đưa
ra 1 ông
VC vô danh ra làm Chủ Tịt: Alexander Dubcek. Mùa Xuân Praque bắt đầu:
Thú vị nhất,
xứ sở bèn từ chối cách sống được Cẩm Linh đặt để: Những biên cương, cửa
ải, hải
quan.. đều mở toang, và những cơ quan tổ chức xã hội (nghiệp đoàn, hội
đoàn, tổ
chức, cơ sở), vốn được thành lập để thông báo, và tuân theo đường lối
của nhà nước,
trở thành độc lập, biến thành những dụng cụ, cơ cấu không chờ đợi của
một thứ dân
chủ không ngờ. Một hệ thống ra đời (chẳng hề có 1 phương án dự trù có
trước,
sans aucun projet préalable), và có lẽ phải nói, trước đây chưa hề có:
một nền
kinh tế nhà nước hoá, nationalisée, 100%, một nền nông nghiệp ở trong
tay tiểu điền chủ, không phải những người quá giầu, cũng không quá
nghèo, trường
học, và y tế, free, khỏi phải trả tiền, và còn điều này: chấm dứt quyền
lực thuộc
về cớm, chìm cũng như không chìm, chấm dứt đàn áp, bách hại chính trị,
tự do,
tha hồ viết, bãi bỏ kiểm duyệt, khởi đi như thế, làm sao mà không có
trăm hoa nở
rộ: văn chương, nghệ thuật, tư tưởng, tạp chí. Tôi không biết những
viễn ảnh
trong tương lai của 1 hệ thống như thế; trong một vùng địa lý-chính trị
như ở đó,
làm gì có, nhưng ở một khu vực địa lý chính trị khác?, ai mà biết được,
nhưng
trong bất cứ trường hợp, chỉ nội nghĩ đến nó, vào cái giây phút đầu
tiên 1 hệ
thống như thế hiện hữu, cái giây phút đó mới tuyệt vời làm sao.
Trong Phép Lạ ở
[Miracle en] Bôhême, (hoàn tất năm
1970), Sk kể về cả một thời kỳ này, từ 1948 đến 1968. Điều ngạc nhiên,
là ông đưa
ra 1 cái nhìn bi quan không chỉ về tính ngu si nhảm nhí, la bêtise, của
quyền lực,
mà còn về những kẻ nghi kỵ, tranh cãi, sự múa may bông phèng nhố nhăng
của họ,
leur gesticulation vaniteuse, trên sàn diễn Mùa Xuân Prague. Chính vì
điều này mà ở Tchécoslavique, sau thảm họa xâm lăng của Nga xô, cuốn
sách không chỉ bị cấm,
như tất cả những tác phẩm của Sk, nhưng mà còn chẳng được yêu thích ở
cả những kẻ
chống đối, đám này bị nhiễm trùng, virus, của chủ nghĩa đạo đức, không
làm sao
chịu nổi sự tự do phóng đãng, l’inopportune liberté, của cái nhìn, tự
do phóng đãng
của cái cười, tiếu lâm, hài hước, [l’ironie].
4
Khi,
vào tháng Chín 1968, ở
Paris, đám Sk và tôi đã bàn cãi, tranh luận với những người bạn Pháp,
về hai mùa
Xuân của chúng tôi, chúng tôi không thoát khỏi những lo lắng: Tôi, về
cái ngày
trở lại Prague, còn họ, chuyện di trú khó khăn tới Toronto. Đam mê văn
chương Mỹ
và nhạc Jazz của Josef đã khiến anh chọn lựa thành phố này. (Như thể,
ngay từ khi
còn trẻ măng, mỗi một trong chúng ta đã chọn lựa cho mình một nơi chốn
lưu
vong, tôi, thì là xứ Tẩy, họ, Bắc Mỹ). Nhưng, dù là những tha phương tứ
xứ,
cosmopolites, anh em nhà Sk là những kẻ "yêu nước". Nhưng, tôi biết,
bây giờ, dưới
những cuộc khiêu vũ được dẫn dắt bởi những kẻ đồng phục,
uniformisateurs, thay
vì yêu nước [patriote], thì phải nói, (1 cách khinh bỉ, avec dédain),
những kẻ
quốc gia (nationaliste). Nhưng xin lỗi các bạn, vào cái thời thê luơng
này, en
ces temps sinistres, làm sao mà có thể nói, "không" yêu nước? Anh em
nhà Sk có 1
căn nhà nhỏ ở Toronto, và họ dành 1 phòng lo in ấn, xb những nhà văn
tchèques,
[y chang nhà văn THT của chúng ta, nhưng ông THT này chỉ in ấn những
nhà văn
phe của ông mà thôi!], bị cấm tại xứ sở của họ.
Chẳng có gì quan trọng
hơn 1
việc làm như thế. Quốc gia tchèque không sinh ra (nhiều lần sinh ra),
nhờ những chiến thắng quân sự, mà luôn luôn là nhờ văn học. Và tôi
không
nói văn học, như là một võ khí chính trị. Tôi nói văn học như là văn
học. Vả chăng,
chẳng thể có 1 thế lực chính trị, hay một cơ sở, tổ chức chính trị nào
lật đổ một
nhà xb theo cái kiểu của… THT, ấy xin lỗi, của anh em nhà Sk! Họ là
những nhà
xb chỉ trông cậy vào sức lực, hoàn cảnh, điều kiện của riêng họ. Và tất
nhiên,
sự hy sinh, cũng của riêng họ. Tôi chẳng hề quên điều này. Tôi không hề
quên họ.
Tôi ở Paris, và trái tim quê nhà của
tôi, le cœur
de mon pays natal, đối với tôi, thì ở Toronto
[Kundera lại nói giùm GNV!].
Sự xâm lăng và đô hộ của Nga xô chấm dứt, chẳng có
lý do gì để in ấn, xb ở nước ngoài những tác phẩm tchèque. Kể từ đó,
Zdena và
Josef thỉnh thoảng về thăm Prague,
nhưng luôn luôn
trở về sống ở trong tổ quốc của họ [là cái xó Toronto. NQT]. Trong tổ quốc của xứ
sở lưu
vong cũ của họ. Dans
la patrie de leur vieil exil.
|