No
Longer and Not Yet
G.
Lukacs, trong Solzhenitsyn:
Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich (1969) [William David Graf, dịch
từ
tiếng Đức, nhà xb The MIT Press, Cambridge,
Mass 1971] viết:
Liên hệ mỹ học giữa truyện ngắn [novella] và truyện dài [tiểu thuyết,
novel]
thường được phân tích, nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên hệ
nội tại
giữa hai thể loại, trong cuộc phát triển văn học [their historical
connection
and their interrelationship throughout the course of literary
development]. Tuy
nhiên, đây là một vấn đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình hình
văn học
hiện thời [the present-day situation]. Tôi [Lukacs] đang nghĩ tới sự
kiện,
truyện ngắn [novella] thường xuất hiện hoặc, như là một con chim báo
bão
[nguyên văn: tiền thân, precursor] cho sự ra đời của hùng ca, sử thi,
hay những
hình thức bi kịch lớn, hoặc như là đội quân hậu vệ [rearguard], một
cách viết ở
tận cùng một giai đoạn. Nói cách khác, hoặc nó xuất hiện như là một Sẽ
Có, [a
Not-Yet, Nochnicht], hay một Không Còn Nữa [a No-Longer, Nichtmehr].
Áp
dụng nhận xét trên vào Một Ngày... của Solz., Lukacs viết: Với
một
chút dè dặt, người ta có thể nói, thể loại giả tưởng cận và đương thời
đã từ bỏ
truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong toan tính cung cấp, cái
gọi là
bằng chứng, về một cách thế đạo đức của con người. [With this
reservation, one
can say of contemporary and near-contemporary fiction that it often
withdraws
from the novel into the novella, in its attempt to provide proof of
man's moral
stature…..] "Không phát hiện quá khứ thì sẽ không khám phá hiện tại. Một
Ngày Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenitsyn là một khai mở ý
nghĩa cho
tiến trình lại khám phá ra cái tôi, cái ngã, the self, ở trong văn
chương,
trong hiện tại xã hội chủ nghĩa." [Lukacs].
Trên
Tin Văn, Gấu đã áp dụng
tư tưởng của Lukacs, trên, để giải thích sự xuất hiện
của truyện ngắn NHT.
*
Hannah
Arendt cũng sử dụng cặp từ No Longer/Not Yet, để
giải thích hố thẳm
giữa
Proust và Kafka.
Nếu áp
dụng cái nhìn của bà vào trường hợp nhóm Sáng Tạo, và cú đả phá văn
chương tiền chiến
của họ,
xem ra có thể giải thích câu hỏi Võ Phiến đặt ra, trong Tổng Quan
Văn Học.
*
Hannah Arendt mở ra bài viết No
Longer and Not Yet, điểm
cuốn The Death of Virgil của
Herman
Broch, trong tập tiểu luận Essays in Understanding, bằng nhận
xét
của Hume, trọn văn minh nhân loại dựa vào sự kiện, ‘một thế hệ thì
không lui khỏi
sàn diễn liền lập tức và một thế hệ khác kế tiếp nó, như trường hợp tằm
và bướm’.
Ở vài điểm ngoặt lịch sử, ở vài đỉnh cao của khủng hoảng, một số phận
tương tự
như tằm và bướm giáng xuống một thế hệ: thế hệ già suy tàn, thế hệ mới
không bắt
buộc phải sinh ra tiếp theo liền; giữa những thế hệ, giữa những
con người vì lý
do này hay lý do khác, vẫn thuộc về thế hệ già, và những người hoặc cảm
thấy cơn
thảm họa ở trong xương trong hồn trong tuỷ, hay là đã trưởng thành cùng
với nó,
sợi ‘sên’ bị gẫy, và một “lỗ hổng, khoảng trống”, một thứ khoảng đất
không
người lịch sử xuất hiện, và chỉ có thể diễn tả bằng thuật ngữ “không
còn nữa, và
chưa xẩy ra nhưng sẽ có” [For the decline of the old, and the
birth of the new,
is not necessarily an affair of continuity; between the generations,
between
those who for some reason or other still belong to the old and those
who either
feel the catastrophe in their very bones or have already grown up with
it, the
chain is broken and an "empty space," a kind of historical no man's
land, comes to the surface which can be described only in terms of "no
longer and not yet."]
Đoạn
Gấu gạch đít trên, giải thích thái độ của nhóm Sáng Tạo khi đả phá
văn học tiền chiến, thế hệ già.
Đây cũng là thái độ của PTH, khi nói về nhóm Nhân Văn Giai Phẩm: Sợi
sên nối tiếp giữa họ bị gãy, và một lỗ hổng lịch sử xuất hiện.
*
by Canetti
There
can be no doubt: a
century is exactly big enough for human desire. For if a man is very
lucky, he
will grow that old.
Chẳng nghi ngờ chi: một thế kỷ là quá đủ cho lòng thèm khát sống dai
như đỉa
của con người rồi.
Bởi vì nếu thằng cha đó rất
may mắn, nó sẽ sống tới cái tuổi già đó.
Hay như mấy anh Tẫu nói:
Thất thập cổ lai hy.
Gấu hả?
Tám bó OK rồi!
NQT
*
However, the true writer, as
we see him, is the thrall of his time, its serf and bondsman, its
lowest slave….
I would simply say: he is the dog of his time.
Canetti
*
Thảo nào nhà đại phê bình gọi Gấu là... Chó!
NQT
No
Longer and Not Yet
Hannah Arendt mở ra bài viết
No Longer and Not Yet, điểm cuốn The Death of Virgil của Herman Broch,
trong
tập tiểu luận Essays in Understanding, bằng nhận xét của Hume:
Trọn văn minh
nhân loại dựa vào sự kiện, ‘một thế hệ thì không lui khỏi sàn diễn liền
lập tức
và một thế hệ khác kế tiếp nó, như trường hợp tằm và bướm’. Ở vài điểm
ngoặt
lịch sử, ở vài đỉnh cao của khủng hoảng, một số phận tương tự như tằm
và bướm
giáng xuống một thế hệ: thế hệ già suy tàn, thế hệ mới không bắt buộc
phải sinh
ra tiếp theo liền; giữa những thế hệ, giữa những con người vì lý do này
hay lý do
khác, vẫn thuộc về thế hệ già, và những người hoặc cảm thấy cơn thảm
họa ở
trong xương trong hồn trong tuỷ, hay là đã trưởng thành cùng với nó,
sợi ‘sên’
bị gẫy, và một “lỗ hổng, khoảng trống”, một thứ khoảng đất không người
lịch sử
xuất hiện, và chỉ có thể diễn tả bằng thuật ngữ “không còn nữa, và chưa
xẩy ra
nhưng sẽ có” [For the decline of the old, and the birth of the new, is
not
necessarily an affair of continuity; between the generations, between
those who
for some reason or other still belong to the old and those who either
feel the
catastrophe in their very bones or have already grown up with it, the
chain is
broken and an "empty space," a kind of historical no man's land,
comes to the surface which can be described only in terms of "no longer
and not yet."]
Tại Âu châu, một đứt đoạn tuyệt
đối của liên tục đã xẩy ra trong và sau Đệ Nhất Thế Chiến. Những ‘lèm
bèm’ của đám
trí thức về một thoái trào cần thiết của văn minh Tây phương hay thế hệ
bỏ đi nổi
tiếng, như nó thường được thốt ra bởi đám “phản động”, thì, nền tảng sự
thực của
nó là ở đứt đoạn này, và đem đến hậu quả hấp dẫn hơn, so với thứ đầu óc
‘tự
do', khi đám này bầy ra trước chúng ta một giải pháp, hoặc tiên phong
hoặc giật
lùi, một giải pháp chẳng có một ý nghĩa nào, bởi vì nó vẫn giả dụ sợi
sên liên
tục không bị đứt, gẫy.
Bây giờ, đọc Hannah Arendt,
thì Mít chúng ta mới hiểu ra được, tại làm sao mà đám Sáng Tạo, bằng
mọi cách, ‘đả
phá, huỷ diệt, tàn sát’ văn học tiền chiến: Họ nhìn ra cái sợi sên bị
đứt gẫy, và một lỗ hổng xuất hiện.
*
Võ Phiến, khi nhắc tới Sáng Tạo, bởi vì trong đầu ông,
cả đám
chết hết, chỉ còn Mai Thảo, cũng cùng ở Mẽo, nên chỉ hỏi Mai Thảo!
Ông có đọc mấy ông kia, trước
1975, hẳn có, nhưng làm sao nhớ, ngoài một số cảm tưởng còn sót lại, và
cùng với
chúng, sự dè bỉu, đố kỵ, chưa kể nỗi hân hoan của kẻ sống sót nói về
nạn nhân:
Nhìn như một cách thế thì
cách
thế Sáng Tạo có những chỗ khó bảo là “tuyệt
đẹp”. Chẳng hạn trong lối “khai tử” nền văn nghệ tiền chiến có một cách
thế kiêu
căng, chẳng hạn trong lối diễn đạt của những vị trong nhóm chủ trương
có một cách
thế kiêu kỳ: hoặc hoa hoè hoa sói, kiểu cách ưỡn ẹo, hoặc tối tăm rối
rắm.
Khi VP viết những dòng trên, đám
ST đang ngồi tù.
Ông không có được một chút xót
thương những người vấp ngã!
Biết ơn, lại càng không!
Cũng được đi. Nhưng, phải chỉ
ra, kiêu căng, õng ẹo, tối tăm, kiêu kỳ, rối rắm ở những chỗ nào, của
ai, trong
nhóm.
Phán như thế, ai phán cũng được.
Những lời tuyên bố hung hăng
nhưng rỗng tuếch của Mai Thảo thật khó mà coi là đại diện cho nhóm
được. Nó chỉ
là mặt nổi, kiểu khoa trương, kèn trống ỏm tỏi khiến mọi người chú ý
tới sự ra đời
của nhóm: vở mới, vở mới, mại dô, mại dô.
Muốn biết chủ trương của nhóm, phải đọc những bài viết của Thanh Tâm
Tuyền, những cuộc thảo luận
của nhóm…
VP viết [trang 184 VHTQ]: Thơ tự do không phải là cái mới
mẻ nữa. Nó không phải là sáng kiến của văn nghệ hôm nay, của cách mạng.
Tại sao?
Ông không cho biết.
Trang 186, sau khi
trích lời phi lộ của Nhất Linh, khi chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay,
trong có câu,
“Sở dĩ ngày nay văn nghệ chưa rung cảm được độc giả vì văn nghệ chưa
nói được lòng
người”, VP hạ một câu: Cách mạng đã bị phủ nhận.
VP rõ ra là đố kỵ nhóm Sáng Tạo!
No Longer and Not Yet
HUME
ONCE REMARKED that the
whole of human civilization depends upon the fact that "one generation
does not go off the stage at once and another succeed, as is the case
with
silkworms and butterflies." At some turning-points of history, however,
at
some heights of crisis, a fate similar to that of silkworms and
butterflies may
befall a generation of men. For the decline of the old, and the birth
of the
new, is not necessarily an affair of continuity; between the
generations,
between those who for some reason or other still belong to the old and
those
who either feel the catastrophe in their very bones or have already
grown up
with it, the chain is broken and an "empty space," a kind of
historical no man's land, comes to the surface which can be described
only in
terms of "no longer and not yet." In Europe
such an absolute interruption of continuity occurred during and after
the First
World War. All the loose talk of intellectuals about the necessary
decline of
Western civilization or the famous lost generation, as it is usually
uttered by
"reactionaries," has its basis of truth in this break, and
consequently has proved much more attractive than the corresponding
triviality
of the "liberal" mind that puts before us the alternative of going
ahead or going backward, an alternative which appears so devoid of
sense
precisely because it still presupposes an unbroken chain of continuity.
Speaking
merely in terms of
European literature, this gap, this opening of an abyss of empty space
and
empty time, is most clearly visible in the disparity between the two
greatest
literary masters of our time, Marcel Proust and Franz Kafka. Proust is
the last
and the most beautiful farewell to the world of the nineteenth century,
and we
return to his work, written in the key of the "no longer," again and
again when the mood of farewell and of sorrow overwhelms us. Kafka, on
the
other hand, is our contemporary only to a limited extent. It is as
though he
wrote from the vantage point of a distant future, as though he were or
could
have been at home only in a world which is "not yet." This puts us at
a certain distance whenever we are to read and discuss his work, a
distance
which will not grow smaller, even though we may know that his art is
the
expression of some future world which is our future, too-if we are to
have any
future at all.
All
other great European
novelists and poets find their place and their standard of measurement
somewhere in between these dead masters. But Hermann Broch's book falls
in a
different category from the rest. That he has in common with Proust the
form of
the inner monologue and with Kafka the utter and radical renunciation
of
entertainment, as well as a preoccupation with metaphysics, that he
shares with
Proust a deep fondness for the world as it is given to us, and that he
shares
with Kafka the belief that the "hero" of the novel is no longer a
character with certain well-defined qualities but, rather, man as such
(for the
real life of the man and poet Virgil is no more than an occasion for
Broch's
philosophical speculations)-all this is true, and the histories of
literature
may say it later.
What
is
more important, at
least at this moment, is that Brach's work-through its subject matter
and
through its entirely original and magnificent poetic diction-has become
something like the missing link between Proust and Kafka, between a
past which
we have irretrievably lost and a future which is not yet at hand. In
other
words, this book is by itself the kind of bridge with which Virgil
tries to
span the abyss of empty space between the no longer and the not yet.
And since
this abyss is very real; since it has become deeper and more frightful
every
single year from the fateful year of 1914 onward, until the death
factories erected
in the heart of
Europe definitely cut the already outworn thread with which we still
might have
been tied to a historical entity of more than two thousand years; since
we are
already living in the "empty space," confronted with a reality which
no preconceived traditional idea of the world and man can possibly
illuminate - dear as this tradition may have remained to our hearts -
we
must be
profoundly grateful for the great work of poetry which clings so
desperately to
this one subject.
Curiously
enough, very little in Broch's earlier work indicates the future author
of The
Death of Virgil. The Sleepwalkers,
apart from its qualities
as a novel, shows only that its author is fed up with storytelling,
thoroughly
impatient with his own work: he tells his readers that they had better
find for
themselves the end of the story, and neglects character and plot in
order to
squeeze into his book long speculations about the nature of history. Up
to a
certain date Broch was a good, playful, amusing story-teller, not a
great poet.
The
event which made of Broch
a poet seems to have coincided with the last stage of darkening in Europe. When the night
arrived, Broch woke up.
He awoke
to a reality which so overwhelmed him that he translated it immediately
into a
dream, as is fitting for a man roused in the night. This dream is The Death of Virgil.
Critics
have said that the
book is written in lyrical prose, but this is not quite correct. The
style,
unique in its concentrated tension, bears I more of a resemblance to
those
invocations of the Homeric hymns in which the God is summoned over and
over
again, each time with another residence, another mythological setting,
another
place of worship-as though the worshiper had to make sure, absolutely
sure,
that he could not miss the God. In the same way Broch invokes Life, or
Death,
or Love, or Time, or Space, as if he wanted to make sure, absolutely
sure, that
he would not miss the mark. This gives the monologue its passionate
urgency,
and brings out the tense, concentrated action of all true speculation.
In the
"0" s of the
invocations are imbedded the exciting descriptions, the extensive
landscape painting
in which the work is so very rich. These read like a long and tender
song of
farewell to all Western painter, and they transcend through their form
of
invocation these describe objects, as though they embraced all that is
beautiful or all that is y, all that is green or all earthly dustiness,
all
nobility or all vulgarity.
The
subject of Broch's book,
as the title indicates, is the last twenty-four hours of Virgil's life.
But
death is treated not merely as an event but as the ultimate achievement
of
man-whether in the sense that moments of dying are one's last and only
chance
for knowing what life was all about or in the sense that it is then one
passes
judgment upon one's own life. This judgment is not self-accusation, for
it is
too late for that, nor self-justification, for it is, in a way, too
early for
that; it is the ultimate effort to find the truth, the last definitive
word for
the whole story. This makes of the last judgment a human affair, to be
settled
by man himself, though at the limits of his forces and possibilities-as
if he
wanted to spare God this whole trouble. The "no longer and not yet"
on this level means the no longer alive and the not yet dead; and the
task is
the conscious achievement of judgment and truth.
This
grandiose concept of
death as an ultimate task instead of as an ultimate calamity prevents
Broch's
speculations from falling into the trap of modern death-philosophy, for
which
life has in itself the germ of death and for which, consequently, the
moment of
death appears as the "goal of life." If death is the last task of the
living man, then life has been given, not as a death-infected gift,
but,
rather, under certain conditions-that we forever "stand on the bridge
that
is spanned between invisibility and invisibility and nevertheless… are
caught
in the stream. "
The
actual subject matter of
the book is the position of the artist in the world and in history: of
the man
who does not "do" like a human being; but "creates" like
God-though in appearance only. The artist is forever excluded from
reality, and
banished into the "empty province of beauty." His playing at
eternity-and this bewitching game that we call beauty-turns into the
"laughter that destroys reality," the laughter that springs from the
terrible intuition that the Creation itself, and not merely man's
playing at creating,
can be destroyed. With this laughter the poet "descends to the
mob-patterns," to the cynical, debased vulgarity over which he had been
carried on his litter through the slums of Brundisium. Mob and artist
alike are
greedy with self-idolatry, caring only for themselves, and excluded
from all
true community, which is based on helpfulness. "Intoxicated with
loneliness," from which spring in equal part "the intoxication of
blood, the intoxication of death, and . . . the intoxication of
beauty,"
they are both equally treacherous, equally unconcerned with truth,
therefore
entirely unreliable and in need of forgetting reality, by means of
beauty or
circus games; both are intoxicated with "empty forms and empty
words."
Because
the "no longer
and not yet" cannot be bridged with the rainbow of beauty, the poet is
bound to fall "into vulgarity ... where vulgarity is at its worst, into
literarity." From this insight rises the decision which becomes the
central plot of the story, the decision to burn the Aeneid,
to have the work "consumed by the fire of
reality." This deed, this sacrifice, suddenly appears as the only
escape
left from the "empty province of beauty," the only door through
which, even when dying and in the very last moment, the poet may still
perceive
the promised land of reality and human fellowship.
It
is
at this moment that the
friends enter the scene, trying to prevent what clearly are mere fever
delusions of the dying man. There follows the long dialogue between
Virgil and
Octavian-one of the most truthful and impressive pieces of writing in
all
historical fiction-which ends with the abandonment of this sacrifice.
The
sacrifice, after all, would have been made only for the salvation of
the soul,
out of anxiety about the self, for the sake of the symbol-while the
abandonment
of the plan and the gift of the manuscript win from the face of the
imperial
friend a last happy smile. Then
comes death, the boat
ride down to the depths of the elements when gently, one after another,
the
friends disappear, and man returns in peace from the long voyage of
freedom
into the quiet waiting of an inarticulate universe. His death seemed to
him a
happy death: for he had found the bridge with which to span the abyss
that
yawns between the "no longer and not yet" of history, between the
"no longer" of the old laws and the "not yet" of the new
saving word, between life and death: "Not quite here but yet at hand;
that
is how it has sounded and how it would sound."
The
book is written in a very
beautiful and extremely complicated German; the achievement of the
translator
is beyond praise.
A
review of The
Death of Virgil, by Hermann Broch,
translated by Jean Starr Untermeyer, The Nation, September 14, 1946.
Hannah
Arendt
Essays
in Understanding
Tại Âu châu, một đứt đoạn tuyệt
đối của liên tục đã xẩy ra trong và sau Đệ Nhất Thế Chiến. Những ‘lèm
bèm’ của đám
trí thức về một thoái trào cần thiết của văn minh Tây phương hay thế hệ
bỏ đi nổi
tiếng, như nó thường được thốt ra bởi đám “phản động”, thì, nền tảng sự
thực của
nó là ở đứt đoạn này, và đem đến hậu quả hấp dẫn hơn, so với thứ đầu óc
‘tự
do', khi đám này bầy ra trước chúng ta một giải pháp, hoặc tiên phong
hoặc giật
lùi, một giải pháp chẳng có một ý nghĩa nào, bởi vì nó vẫn giả dụ sợi
sên liên
tục không bị đứt, gẫy.
Bây giờ, đọc Hannah Arendt,
thì Mít chúng ta mới hiểu ra được, tại làm sao mà đám Sáng Tạo, bằng
mọi cách, ‘đả
phá, huỷ diệt, tàn sát’ văn học tiền chiến: Họ nhìn ra cái sợi sên bị
đứt gẫy, và một lỗ hổng xuất hiện.
*
Khoanh
vùng vào
văn chương Âu châu mà nói, cái hố thẳm mở ra một không gian trống và
thời gian
rỗng này, nhìn rõ nhất là ở sự lệch pha, không đồng điệu, giữa hai ông
khổng
lồ, hai vị sư phụ vĩ đại nhất của thời đại chúng ta, đó là Marcel
Proust và Franz
Kafka. Proust là lời giã từ cuối cùng, đẹp như mơ, gửi tới thế giới của
thế kỷ 19,
và khi chúng ta trở lại với tác phẩm của ông, viết trong âm điệu "no
longer", "không
còn nữa”,
["than ôi, hoa rụng bên kia sông mất rồi, hết rồi, hết rồi, em ơi chiều
nay cơn
mộng tan rồi”, "ố là là", hết Loan, hết Dũng, hết Đôi Bạn mất rồi…], và
thế là
cái tâm trạng não nề [‘từ lúc đưa em về là biết xa ngàn trùng’] khiến
chúng ta
vãi lệ chứa chan!
Kafka, về một mặt khác, là người đương thời với chúng ta, chỉ tới một
giới
hạn. Sự tình như thể, ông viết từ một điểm thuận tiện cho ông, nghĩa
là, từ một
tương lai xa xa, như thể, ông chỉ có thể ‘ở nhà’ trong một thế giới
‘not
yet’, "chưa có nhưng sẽ có". Godot sẽ tới, nhưng chiều nay, thì chưa!
Điều này
đẩy chúng ta vào một cái vị thế xa xa, bất cứ khi nào chúng ta đọc, và
bàn về tác
phẩm của ông, một khoảng cách chẳng bao giờ trở nên nhỏ
lại, mặc dù
chúng ta biết nghệ thuật của ông thì là biểu hiện của một thế giới
tương lai
nào đó, cũng là thế giới của chúng ta – giả như chúng ta có được tương
lai!
Nếu Nhất Linh, ông Trùm tiền
chiến, đóng vai Proust, thì Kafka Mít, là
Thanh
Tâm Tuyền!
Cái hố
thẳm giữa họ, được cuộc chiến khốn kiếp làm đầy.
*
Tất cả những nhà văn
và thi sĩ
lớn khác của Âu Châu tìm thấy chỗ, và những chuẩn mức đo lường của họ ở
đâu đó
giữa hai vị thầy đã mất này. Nhưng sách của Hermann Broch rớt vào một
phạm trù
khác hẳn so với số còn lại. Ông có chung, với Proust giọng độc thoại
nội tâm, và
với Kafka sự chối bỏ hoàn toàn và triệt để, điều mua vui, giải trí,
cũng như sự
bận bịu với cái siêu hình. Ông chia sẻ với Proust một sự yêu mến quá
đỗi, thật
là thâm sâu, với cõi đời, như là nó được trao cho chúng ta; và ông chia
sẻ với
Kafka, niềm tin tưởng, rằng, “người hùng” của tiểu thuyết thì hết còn
là một nhân
vật với một số phẩm chất được định nghĩa tới nơi tới chốn, mà chỉ là
“một con
người như thế đó” (bởi vì đối với cuộc đời thực của một con người và
nhà thơ,
Virgil chỉ là một cơ hội cho những dự đoán triết học của Broch) - tất
cả thì đều
thực, và những lịch sử của văn học sau này có thể sẽ nói ra điều này.
Điều quan trọng hơn – ít ra vào
lúc này, là, tác phẩm của Broch – qua những đề tài mà nó quan tâm, qua
trọn tính
uyên nguyên, qua giọng rất đỗi thơ tuyệt vời của nó – có một điều gì
giống như
một đường dây dẫn bị thiếu, mất, giữa Proust và Kafka, giữa một quá khứ
mà chúng
ta đã mất và không thể nào lấy lại được và một tương lai chưa ở trong
tay. Nói
một cách khác, cuốn sách, tự thân nó, thì giống như một cây cầu mà
Virgil cố gắng
băng qua hố thẳm của quãng không giữa “không còn nữa” và “chưa nhưng sẽ
có”. Và
kể từ khi mà cái hố thẳm này thì thực, rất đỗi thực, kể từ khi mỗi năm
nó
lại mỗi
sâu thêm, đáng sợ thêm, kể từ năm định mệnh 1914 trở đi, cho tới khi
những cơ
xưởng của Thần Chết được dựng lên ở ngay trái tim của Âu Châu, cắt đứt
luôn sợi dây đã cũ mòn
mà nhờ nó chúng ta còn bám víu được với thực thể hơn hai ngàn năm lịch
sử;
và, kể từ khi chúng ta hoàn toàn sống trong “cõi trống rỗng”, đối đầu
với một
thực tại mù tịt về ý tưởng truyền thống về thế giới và con người có thể
thắp sáng
– quý báu như thể truyền thống này vẫn còn nằm ở trong tim của
chúng ta – chúng ta phải cám ơn sâu xa tác phẩm thi ca lớn lao cố bám
víu thật
tuyệt vọng vào đề tài này.
Điều khá kỳ quặc là tác phẩm
trước đó của Broch chẳng hề tiên đoán, ông
sẽ ị ra Cái Chết của Virgil. Những
kẻ mộng du, ngoại trừ những phẩm
chất của nó,
như là một cuốn tiểu thuyết, chỉ cho thấy một điều là, tác giả của nó
thì đầy ứ
tài kể chuyện, xuyên suốt tác phẩm, ông tỏ ra nôn nóng với tác phẩm của
riêng mình:
ông nói với độc giả của mình, tốt nhất, hãy cố mà tìm cho ra kết cục
của câu
chuyện, đừng trông mong ở nơi ông; ông lơ là nhân vật, tình tiết và chỉ
xoắn mãi
vào những ức đoán dài dòng về bản chất của lịch sử. Cho tới một thời
điểm nào đó,
Broch quả là một tay kể chuyện tốt, chịu chơi, biết chọc cười, làm độc
giả vui,
nhưng không phải là một thi sĩ lớn.
Cái biến động làm cho Broch
thành một nhà thơ có vẻ trùng hợp với màn cuối u tối của Âu Châu. Khi
bóng đêm
chụp xuống, thế là a ê hấp, Broch thức giấc…
Ui
chao, đọc đoạn trên đây, làm
sao không nghĩ đến ông anh nhà thơ cho được! Ông tỉnh giấc, trở thành
nhà thơ, đúng
vào màn cuối u tối của miền đất ông ra đời, rời bỏ nó, đúng lúc đêm đen
chụp xuống,
1954.
Biến
động làm Broch
thành một nhà thơ có vẻ trùng hợp với giai đoạn u tối sau cùng của Âu
Châu. Khi bóng đêm
chụp
xuống, thế là a ê hấp, Broch thức dậy. Ông tỉnh giấc trước thực tại
khiến ông
ngỡ ngàng và thế là ông lập tức chuyển dịch nó vào trong một giấc mơ,
quá xứng
hợp với một người thức giấc trong đêm. Giấc mơ này là Cái Chết của Virgil.
Những nhà phê bình
phán, cuốn sách được viết bằng một thứ văn xuôi trữ tình, điều này
không hẳn đã
đúng. Văn phong, độc nhất, do căng thẳng dồn nén, rất giống những lời
cầu khấn
trong những thánh ca Homer, trong đó Thượng Đế được con người kêu gọi
hoài hoài,
mỗi lần là mỗi nơi chốn Thượng Đế cư ngụ, mỗi khung cảnh thần thoại,
nơi khấn bái,
thờ phụng, như thể kẻ cầu nguyện phải cảm thấy chắc chắc, tuyệt đối
chắc chắn,
anh ta không thể nào quên Thượng Đế. Trong cùng đường hướng như vậy,
Broch cầu
khấn Đời sống, hay Cái chết, hay Tình yêu, hay Thời gian, hay Không
gian, như
thể ông muốn hoàn toàn chắc chắn, tuyệt đối chắc chắc, ông
không quên một điểm nào. Điều này đem cho cuộc
độc thoại khẩn thiết tình cảm thê thiết của nó và làm bật ra hành động
căng thẳng,
tập trung từ dự đoán rất thực […]
Đề tài của cuốn sách
của Broch, như cái tít chỉ ra, là 24 giờ chót của cuộc đời Virgil.
Nhưng cái chết
thì được coi như không phải là một sự kiện mà là một thành tựu
tối hậu của
con người - hoặc theo nghĩa, những khoảnh khắc hấp hối là cơ may sau
cùng và độc
nhất để biết đời sống là cái gì, hay theo nghĩa, đó là thời khắc mà con
người
phán đoán về chính cuộc đời của mình, kẻ đang chết đó. Phán đoán này
không phải
là tự buộc tội, bởi vì lúc đó đã quá muộn để mà mất thì giờ với một
việc như thế,
cũng không phải tự biện minh, bởi vì, nếu như thế, thì việc này lại quá
sớm; đó
là cố gắng tối hậu để tìm ra sự thực, lời nói chung quyết của trọn câu
chuyện. Điều
này làm cho phán đoán sau cùng là chuyện của con người, con người tự
tính sổ với
con người, tránh cho Thượng Đế khỏi vướng bận vào chuyện tầm phào như
thế!