|
Cuốn đầu tay
của Camus, nhà xb nhỏ ở Alger, 1937, đúng năm GCC ra đời.
Bài Préface thần sầu.
Mua khi còn tiệm sách Tẩy, Champlain,
02/10/2003.
Về cuối đời, Camus
nhận ra
trong cuốn sách đầu tay của mình, nguồn cảm hứng đẻ ra toàn bộ tác phẩm
sau đó…
và cái đề tài tủ này: sự câm lặng đáng mến của 1 bà mẹ và sự cố gắng
của 1 người
đàn ông, để tìm một công lý, hay một tình yêu, cân bằng sự câm lặng.
“Nhưng những
hoàn cảnh giúp tôi. Để sửa chữa một dửng dưng tự nhiên, tôi bị đặt để ở
giữa sự
khốn cùng và mặt trời. Sự khốn cùng ngăn cản tôi tin rằng, tất cả thì
tốt lành
dưới ánh mặt trời và trong lịch sử; mặt trời dạy tôi rằng lịch sử không
phải là
tất cả."
Người tóm lược bảnh nhất
về Camus, là Faulkner: "Camus phán rằng, vai trò thực sự độc nhất của 1
con người, sống trong 1 thế giới phi lý, là sống, ý thức về cuộc sống,
cuộc nổi loạn, và tự do của mình."
"Camus disait que le seul véritable rôle de l'homme, né dans un monde
absurde, était de vivre, d'avoir conscience de sa vie, de sa révolte,
de sa liberté."
*
Gấu
này, ngay từ khi còn nhỏ xíu ở đất Bắc, mỗi lần đói quá, rét quá,
lạnh quá, đau đớn nhục nhã quá vì bị khinh khi là đứa trẻ mồ côi ăn nhờ
ở đậu hết ông chú bà bác lại đến bên nội bên ngoại, và vì đọc Tô Hoài
viết về cái thời ông lang bạt vào Đàng Trong, thế là bèn mơ tưởng có
ngày vô được xứ Nam Kỳ!
*
Nhà văn là một
cái phong vũ biểu của thời của mình. Hình như có một nhà văn mũi lõ
phán như vậy.
“Gấu nhà văn”, tuy đã về nhà hai lần, và được đón tiếp cũng hậu hĩ ra
trò, nhưng lần thứ ba, sắp sửa về, ngửi ra mùi khói ở nơi quê nhà có gì
không thơm, thế là bèn đi một cái mail, và được phúc đáp, thời tiết bi
giờ không được đẹp như là hai lần về vừa rồi! Đừng có vác cái mặt mo về
mà khổ cái thân già, còn khổ lây đến tụi này!
Thế là bèn đếch về nữa!
Khi thằng cu Gấu lên tầu há mồm
vô Nam, bỏ chạy quê hương Bắc Kít của nó, ngoài hai cái rương [cái hòm]
bằng gỗ nhỏ, có thể để mỗi cái lên một bên vai, trong đựng mấy cuốn
sách, thằng bé còn thủ theo, toàn là những kỷ niệm về cái đói.
Và nửa thế kỷ sau trở về, cũng mang về đầy đủ những kỷ niệm đó, và trên
đường về, tự hỏi, không hiểu bà chị mình có còn giữ được chúng…
Bà giữ đủ cả, chẳng thiếu một,
nhưng, chị giữ một kiểu, em giữ một kiểu.
Nói rõ hơn, cũng những kỷ niệm về cái đói đó, ở nơi Gấu, được thời tiết
Miền Nam làm cho dịu hết cả đi, và đều như những vết sẹo thân thương
của một miền đất ở nơi Gấu.
Ui chao, chỉ nội kể về hai
chuyến trở về, cũng đủ vài trăm trang, dư dả một cuốn tiểu thuyết, "có
đầu, có đuôi", làm mọi người hài lòng, nhất là "Bác Gái"!
Mais les
circonstances m'ont
aidé. Pour corriger une indifférence naturelle, je fus placé à
mi-distance de la misère et du soleil. La misère m'empêcha de croire
que tout est bien sous le soleil et dans l' histoire; le soleil
m'apprit que l'histoire n'est pas tout. Changer la vie, oui, mais non
le monde dont je faisais ma divinité. C'est ainsi, sans doute, que
j'abordai cette carrière inconfortable où je suis, m'engageant avec
innocence sur un fil d'équilibre où j'avance péniblement, sans être sûr
d'atteindre le but. Autrement dit, je devins un artiste, s'il est vrai
qu'il n'est pas d'art sans refus ni sans consentement.
Albert Camus: L’Envers et
l’Endroit. Préface.
Nhưng hoàn cảnh đã giúp tôi. Để sửa chữa một sự dửng
dưng tự nhiên, tôi để mình ở giữa sự khốn cùng và mặt trời. Sự khốn
cùng ngăn cản tôi tin rằng mọi chuyện đều tốt đẹp dưới ánh mặt trời và
trong lịch sử, mặt trời làm cho tôi hiểu rằng lịch sử không phải là tất
cả.
Đúng là tâm trạng của Gấu, Bắc Kỳ di cư, bỏ chạy sự
khốn cùng để tìm
mặt trời! (1)
TLS, số
Nov
8 2013, có hai bài về Camus. Một, trên, và một, là trong Sổ Ghi NB
[Notes Book,
chắc hẳn?]. Trong NB, tờ báo thú nhận, đã bỏ qua (overlook) cuốn Kẻ Xa Lạ, khi
nó vừa ra lò,1942, và cho biết, cuốn sách thường bị coi là tác phẩm
đầu tay của
Camus, sự thực, thứ ba, sau L'Envers
et l'endroit, và Noces.
Thú nữa, người điểm Dịch Hạch,
La Peste, khi nó
ra lò, vô danh, hóa ra là Gabriel Marcel, thường được coi là
nhà hiện sinh Tẩy thứ nhất, the first French existentialist!
Toàn những
chi tiết thú vị.
Camus 100
Camus at 100
by Robert Zaretsky
In honor of
the French novelist, essayist, and philosopher
November
7th, 2013
Robert Zaretsky, has
published a new book, A
Life Worth Living: Albert Camus and the Quest for Meaning,
published by Harvard
University Press in honor of the centenary of Camus's birth, today.
Zaretsky
also penned the following in honor of the French novelist, essayist,
and
philosopher.
Robert
Zaretsky đã chơi 1 cuốn sách mới về Camus, “Một đời đáng sống: cuộc
truy tìm cái
nghĩa”, nhà xb ĐH Harvard Press. Bữa nay, 7 tháng 11, 2013, đúng SN
Camus 100 năm
trước đây, ông bèn đi một đường vinh danh Camus, người Tây, tiểu thuyết
gia, tiểu
luận gia và triết gia. Ông cũng là người điểm cuốn "Ký sự Algeria" trên
tờ TLS
Bài viết “xoáy” vào cái gọi là "sự im lặng", và nếu như thế,
thì cũng chiếu về Simone Weil!
Sự
Câm
Lặng
Khi nhận
Nobel, không chỉ Camus, mà Milosz, cũng nhắc tới Simone Weil mà món nợ
của cả
hai, đối với tư tưởng của bà.
Camus 100
November's
Reading group: The Outsider by Albert Camus
This
month, to mark his centenary, we'll be looking at the most famous novel
by the
reluctant poster boy for existentialism
Looking into
existentialism … Albert Camus in 1948. Photograph: Sipa Press / Rex
Features
There are
famous book openings, and then, there are famous book openings:
"Aujourd'hui,
maman est morte. Ou peut-être hier, je ne sais pas. J'ai reçu un
télégramme de
l'asile : "Mere décédée. Enterement demain. Sentiments
distingué." Cela ne veut rien dire. C'était peut-être hier."
(Or, if like
me, you find the Penguin translation a little easier: "My mother died
today. Or maybe yesterday, I don't know. I received a telegram from the
old
people's home: 'Mother deceased. Funeral tomrrow. Very sincerely
yours.' That
doesn't mean anything. It might have been yesterday.")
This
narrator's confusion about his mother's death (or, arguably, his lack
of
concern) set in train a new force in European literature, and a new way
of
examining the human conscience. It could even be argued that these few
words
changed the face of literary and popular culture. At the very least,
they
alerted the world to a new talent, Albert Camus: fag in mouth, slick of
hair,
surprisingly good in goal, and still such an important part of the
modern age
that it's unsettling to realise that on 7 November it will be 100 years
since
he was born.
We'll be
focusing on the great Frenchman for the rest of this month in the
Reading group
and most particularly his classic first novel, L'Etranger, usually but
not
always translated into English as The Outsider. I almost wrote "classic
existentialist" novel then – but, of course, that was a tag the author
himself never accepted. We'll be able to discuss such questions, not to
mention
whether to see Camus as primarily a novelist or philosopher, or if that
even
matters, later in the month.
*
Bài điểm Ký
Sự Algeria, ALGERIAN CHRONICLES mới ra lò, của TLS, thật tuyệt. Tay
điểm sách, thần sầu ở
chỗ, là nối kết được, trong 1 bài điểm sách ngắn, “viễn ảnh” của mọi
cái viết của
Camus, đều chiếu về tư tưởng của Simone Weil.
Thí dụ:
Camus
insisted that if France's political class could see what he saw, the
Berbers
would soon have food and schools and roads enough. This was a naive
belief,
perhaps, but hardly a foolish one. To see is not just to believe,
but as
Simone Weil insisted, to truly see is, quite simply, to be moral.
It may
not be coincidental that this moral sense dovetails with the
journalistic need
to place the particular over the general. It also girded Camus's claim
that
"there is always progress when a political problem is replaced by a
human
problem".
But what happens when political problems refuse to
give way
to human problems? This was the tragic question posed by French
Algeria, one
for which Camus did not have an answer. Not for want of effort, though.
In
1945, following France's liberation, the now renowned author of L'Étranger
and
voice of the French Resistance travelled to Algeria; once again prey to
food
shortages, to write a series of dispatches for his newspaper Combat.
Camus's declarations, which now seem inexceptional,
were
revelatory then. Algerian Arabs and Berbers had the right to be free
from
hunger and illiteracy, of course, but also the right to be full
citizens in
their own land. The French, Camus declared provocatively, "have to
conquer
Algeria a second time" - namely, they had to apply the principles of
1789.
Nước
Tẩy phải ‘conquer’ Algeria, một lần thứ nhì.
Đây cũng
là ý
của Malraux, khi phán, Tẩy ra đi, nhưng nước Pháp ở lại xứ Mít.
Camus 100
Cấm Chó
& Những Tên Chống Cộng
Camus 100
Catherine
Camus en 1957: "... ma mère, qui est la plus grande cause que je
connaisse
au monde",
mẹ tôi, cái
nghĩa lớn lao nhất mà tôi biết ở trên đời.
Đây là ấn bản
mới, của Le Monde về Camus, nhân kỷ
niệm lần thứ 100 năm sinh của ông.
Một triết
gia nghệ sĩ. Bernard-Henry Lévy, trong bài “Chân Dung,
Portrait”, gọi
ông, sau
những nick, “Camus, le Grec”, “Camus, le paien, [Kẻ Tà Đạo]”, kẻ đạo
đức, ce
moraliste, mà Sartre, sau khi Camus mất, đã ngả mũ chào [saluer]: “chủ
nghĩa
nhân bản cứng đầu, chật hẹp, và thuần khiết, khắt khe và nhục cảm"
[“l’humanisme têtu, étroit, et pur, austère et
sensual”, on
l’aime comme un frère].
Triết gia
nghệ sĩ?
Camus, 1938,
trong 1 bài viết về La Nausée:
Tiểu thuyết
luôn luôn là một triết học được đặt để thành hình ảnh, đến độ là, trong
1 cuốn
tiểu thuyết bảnh, triết học chuyển thành hình ảnh.
“Un roman n’est
jamais qu’une philosophie mise en images” – en sorte que , “dans un bon
roman,
toute la philosophie est passée dans les images”.
Hay câu này,
cũng của Camus, về triết, “người ta chỉ suy nghĩ bằng hình ảnh - nếu
bạn muốn là
triết gia, hãy viết tiểu thuyết”.
Camus, kẻ hiếm
Camus 100
Albert Camus
at the age of seven (center, wearing black) in his uncle’s workshop,
Algiers,
1920
Camus &
Algeria: The Moral Question
“What a misfortune is the
one
of a man without a city.” “Oh make it so that I will not be without a
city,”
the choir said [in Medea]. I am without a city.
—Albert
Camus, Notebooks, 1951–1959
A
convulsive misery
ROBERT
ZARETSKY
Albert
Camus
ALGERIAN CHRONICLES
Edited
by Alice Kaplan and translated by Arthur
Goldhammer
224pp. Harvard University Press. £16.95
(US $21.95).
9780674072589
The
timing is propitious for the publication of this
collection of Albert Camus's newspaper writings on his native Algeria,
which
falls on the centenary of the author's birth - he was born in Mondovi
on November 7, 1913. Equally important, Arthur
Goldhammer's brilliant translation of Actuelles
III (the collection's original title) also appears at a moment when
Camus's
writings have tragic resonance for events today in that part of the
world.
Camus began his career as a journalist. In 1938,
with a philosophy degree but precious little else, he joined the small
staff of
the Alger républican, a crusading and
struggling independent newspaper in Algiers. Pascal Pia, his editor,
remarked:
"He never said anything insignificant, yet he expressed himself
plainly". Even Camus, however, found it hard to write anything
significant about dogs hit by cars and the other faits
divers he first covered. But the truth of Pia's observation
blazes from a story, included in this collection, Camus wrote about his
tour of
a prison ship on a rains wept day. In one of the holds, he sees three
Arab
prisoners, faces pressed against the porthole, staring at Algiers. He
realizes
his wet raincoat carries the smell of a world from which these men have
been
banished: "I am not proud of my presence in this place", he confesses.
At the end of the short piece, he declared: "The point is not to pity
these prisoners. Nothing is more abject than the sight of human beings
subjected to inhuman conditions". This, he concludes, is the only
emotion
he has sought to convey. And it remained the emotion he conveyed in a
series of
subsequent dispatches from Kabylia. Sent by Pia to investigate the
condition of
the Berbers living in this mountainous region, Camus wrote reports that
are
equal to George Orwell's writings from Wigan and Catalonia: terse,
dry-eyed and
outraged. Describing starving children fighting with dogs over scraps,
or dying
from convulsions after eating poisonous roots, he noted: "Misery here
is
not just a word or a theme for meditation. It exists. It cries out in
desperation".
Camus insisted that if France's political class
could see what he saw, the Berbers would soon have food and schools and
roads
enough. This was a naive belief, perhaps, but hardly a foolish one. To
see is
not just to believe, but as Simone Weil insisted, to truly see is,
quite
simply, to be moral. It may not be coincidental that this moral sense
dovetails
with the journalistic need to place the particular over the general. It
also
girded Camus's claim that "there is always progress when a political
problem
is replaced by a human problem".
But what happens when political problems refuse to
give way to human problems? This was the tragic question posed by
French
Algeria, one for which Camus did not have an answer. Not for want of
effort,
though. In 1945, following France's liberation, the now renowned author
of L'Étranger and voice of the French
Resistance travelled to Algeria; once again prey to food shortages, to
write a series
of dispatches for his newspaper Combat.
Camus's declarations, which now seem inexceptional,
were revelatory then. Algerian Arabs and Berbers had the right to be
free from hunger
and illiteracy, of course, but also the right to be full citizens in
their own
land. The French, Camus declared provocatively, "have to conquer
Algeria a
second time" - namely, they had to apply the principles of 1789.
That this imperative collided with the presence of
one million French colonists who, like Camus, called Algeria home, was
the
dilemma he could never resolve. In January 1956, Camus flew to Algiers
to
address those men and women who still believed that French and Arab
Algerians
were, in his words, condemned to live together. As he called for a
civilian
truce inside a hall in Algiers, a crowd of pieds-noirs
formed outside, calling for Camus's death. He finished his speech, but
then had
to be rushed out of the building by friends serving as bodyguards.
The speech, included in this volume, is a remarkable
instance of Camus's insistence on the human dimension to the Algerian
bloodbath. Yet some argue it is, as well, an-instance of his political
naivety.
It remains for the reader to decide if Camus's declaration that we
"must
never desert when historic battles are being waged [and] aid our fellow
men
against the forces of oppression" is merely naive- or, instead, the
cornerstone
of any political morality worthy of the name.
Camus fell silent after this effort, but for one
exception.
In 1958, while the "sale guerre" in his native country grew ever more
dirty, he returned to his first trade, journalism. Gathering his
newspaper
articles and commentaries on Algeria, he published them under the title
Actuelles III. In his preface, he
lambasts France's colonial policy, castigates the use of torture and
terrorism
by both sides, and defends innocent French and Arabs at the mercy of
these
violent designs. Yet, he concludes, his book "is among other things a
history of a failure". But noble failures like the Algerian Chronicles
are
both timeless and timely.
TLS Oct 11
2013
Note: Nhân kỷ
niệm lần thứ 100 năm sinh của Camus, Harvard University Press cho tái
bản Actuelles
III, với cái tít mới, Ký Sự Algeria. Những trang viết của
Camus vẫn
vang dội lên trong những ngày này ở cái phần đất đó.
Quằn quại trong khốn cùng,
a convulsive misery: Khốn cùng ở đây không phải là 1 từ hay một đề tài
để suy
ngẫm. Nó hiện hữu. Nó la lên cơn thất vọng cùng cực của nó.
TV sẽ chuyển
ngữ bài viết ngắn này, thay cho cái hồi ức trên NYRB
Cựu thủ tướng
Tẩy bán tủ sách quí, toàn những của hiếm.
Tặng bạn quí
của ta [Sartre]
GCC [Camus]
Je fus placé
à mi-distance de la misère et du soleil
Albert
Camus: L'envers et l'endroit
Tôi được đặt
để, ở giữa quãng đường, một bên là sự khốn cùng, và một bên là mặt trời.
Đó cũng
là số
phận của… Gấu.
Sự khốn
cùng, là, nửa ở Miền Bắc
Nửa còn lại,
có Mặt Trời - không phải Mặt Trời Địa Trung Hải của Camus - mà là Mặt
Trời Miền
Nam.
Một khi mất
nó, Gấu khóc than thảm thiết! (1)
Camus 100
Je fus placé
à mi-distance de la misère et du soleil
Albert
Camus: L'envers et l'endroit
Tôi được đặt
để, ở giữa quãng đường, một bên là sự khốn cùng, và một bên là mặt trời.
Đó cũng là số
phận của… Gấu.
Sự khốn
cùng, là, nửa ở Miền Bắc
Nửa còn lại,
có Mặt Trời - không phải Mặt Trời Địa Trung Hải của Camus - mà là Mặt
Trời Miền
Nam.
Một khi mất
nó, Gấu khóc than thảm thiết! (1)
“And
Simone Weil - for there are dead people who are closer to us than many
of the
living.”
"Và Simone Weil- bởi là vì có những người chết gần gụi với chúng ta
hơn,
so với nhiều người kẻ đang sống"
TTT, khi viết, “Những người đã chết đều có thực”, là cũng từ cùng 1
nguồn cảm hứng
trên, theo GCC.
WHEN THE INTELLECTUAL AND
LITERARY WORLDS had reduced him to a
plague victim's isolation, only one honest man had the courage to
extend a
brotherly hand, and help him survive: Albert Camus. A deep friendship
developed
between the two writers, cemented further by their shared admiration
for Simone
Weil.
Khi thế giới
trí thức và văn chương xua đuổi ông tới tận cùng, đầy ông vô sự trơ
trọi cô độc
của 1 thứ nạn nhân bịnh dịch, chỉ 1 người đàn ông
lương thiện, nhân hậu có can đảm đưa bàn tay bạn
bè ra, và giúp ông
sống sót: Albert Camus. Một tình bạn sâu xa nẩy nở giữa hai nhà văn,
càng thêm bền
chặt như xi măng nhờ lòng ngưỡng mộ mà cả hai cùng san sẻ, dành cho
Simone Weil.
Where Camus
is concerned, it's impossible to
overstate the extent to which Simone Weil's thought and example counted
in his
intellectual and spiritual life, from the end of the war until his
premature
death. This is a point that even his best biographers have not
adequately
treated, thereby confirming Emerson's view, according to which literary
biography is a vain undertaking, since it tells of lives in which, by
definition, the most significant events have unfolded in silence and
invisibility. And yet here, the material evidence is abundant. From
1948, Camus
undertook the publication, in the "Espoir" collection that he
directed for Gallimard, of Simone Weil's main writings on social and
political
questions, L'Enracinement (The Need
for Roots) and La Condition
ouvrière. (Of
all the titles in the collection, these were the only ones that had any
real
success.) Along with Gustave Thibon (for the philosophical and
religious texts)
he was thus one of the very first and most ardent guardians of Simone
Weil's
work and memory. Above all, Simone Weil became a constant inspiration
for his
own reflection, as many passages in his Notebooks testify. Furthermore,
in
Stockholm, on the occasion of the Nobel Prize, he gave the most vibrant
public
confirmation of her influence. During the press conference before the
ceremony,
when he was asked which living writers mattered to him most, he named
various
Algerian and French friends, and add: “And Simone Weil - for there are
dead
people who are closer to us than many of the living.”
Ten years
earlier, the publication of Simone
Weil's writings had led him to get in touch with her family, who
welcomed him
warmly, especially Mrs. Bernard Weil, herself a remarkable woman.
Milosz also
got to know her, and after Camus's death - which devastated Mrs. Weil -
he
continued to visit her. At the end of his essay on Simone Weil, Milosz
notes a
touching and revealing detail: on the day Camus learned that he had
been
awarded the Nobel Prize, hounded by a horde of journalists and
photographers,
he took refuge at Mrs. Weil's. And we know that for Camus, tormented by
self-doubt, the crushing distinction was in many ways an ordeal - far
from
reassuring him, it left him unmoored. Just as, in a moment of sudden
distress,
a believer's natural reflex is to go into a church, the atheist Camus
felt the
irrepressible need to collect himself in the room where the young
Simone had
mediated and written.
Camus,
Albert
Tôi theo dõi
chuyện xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi Loạn
[L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi Loạn [The Rebel]. Ông viết như một con người
tự
do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch được phép, bởi vì vào lúc đó con
người tự do
là con người chống Mẽo, phò Xô Viết, nói
theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.
Cái chiến dịch
xấu xa, bỉ ổi nhắm vào ông, do Sartre chủ xướng trên tờ Thời Mới, cùng với sự
tiếp tay của Francis Jeanson, và sau đó, có thêm Simone de Beauvoir,
xẩy ra
đúng vào lúc tôi đoạn tình với Warsaw vào năm 1951. Đó là khi Sartre
dậy dỗ
Camus: “Nếu bạn không thích cả hai món, cộng sản lẫn tư bản, thì chỉ
còn có một
chỗ cho bạn an trí, đó là quần đảo Galapagos Islands”.
Camus ban
cho tôi món quà hậu hĩ, là tình bạn của ông, và thật là quan trọng, khi
có một
đồng minh như thế trong nhà xb Gallimard, nơi ông làm việc. Ông khoái
bản tiếng
Tây, do Jeanne Hersch dịch, tác phẩm Thung
Lũng Issa của tôi. Cuốn tiểu thuyết
của tôi làm cho ông nhớ tới những gì Tolstoi viết, về thời thơ ấu của
ông ta,
ông nói với tôi như vậy.
Liên hệ giữa
tôi và nhà xb Gallimard không khá. Như là một hậu quả của Giải thưởng
Văn học
Âu châu, họ in Cướp Chính Quyền
[The Seizure of Power], và
liền theo đó, Cái Đầu
Bị Cùm, hay Cầm Tưởng, The
Captive Mind, nhưng cuốn sau, đố bạn thấy nó được bầy
ở tiệm sách, và chẳng có lý do gì để mà nghi ngờ mấy ông chủ tiệm tẩy
chay, vì
những lý do chính trị. Họ in cuốn Thung
Lũng Issa là do Camus yêu cầu, nhưng
theo như ban hạch toán của nhà xb này, cuốn sách đã chẳng được đem ra
khỏi
kho - cùng lúc đó, có người đem cho tôi,
bản in lần thứ tư, của nó, tại Phi Châu.
Sau khi
Camus mất, tôi chẳng còn ai nói giùm mình một tiếng ở đó nữa, và do tờ
hợp đồng
vẫn còn giá trị, tôi đề nghị cuốn Cõi
Quê [Native Realm], qua bản dịch của
Sédir, nhưng vào lúc đó, Dinoys Mascolo, một tay Cộng Sản phụ trách ban
ngoại
văn [foreign division] đã thỉnh ý kiến của Jerzy Liowski [đảng viên
Đảng Cộng Sản
Ba Lan, lúc đó ở Paris] về giá trị cuốn sách, với chủ ý làm thịt nó, y
hệt như
thế kỷ 19 toà đại sứ của Nga Hoàng được hỏi ý kiến về thái độ chính trị
của những
di dân Nga. Tay này viết một bài điểm, khen ngợi cuốn sách. Họ bèn in.
Nhưng
sau đó, là rã đám.
Tôi nhớ một
lần trò chuyện với Camus. Ông hỏi, theo quan niệm của bạn, một tên vô
thần như
tớ [Camus] có nên cho con đi làm lễ thông công. Cuộc trò chuyện xẩy ra,
chỉ ít
lâu sau khi tôi ghé thăm Karl Jasper [một triết gia], ở Basel, và tôi
hỏi ông,
về chuyện [một thằng cựu CS như tôi - Hai Luá thêm vô], có nên dậy dỗ
con cái
như những tín đồ Ca Tô. Jasper trả lời, là một người theo Protestant,
ông ta
không khoái lắm cái đạo Ca Tô, nhưng trẻ con, theo ông, là phải được
dậy dỗ
theo đúng như niềm tin của chính chúng nó, và nếu như vậy, cứ để chúng
tiếp cận
truyền thống thánh kinh, và sau đó, chúng sẽ tự chọn cho chúng một tín
ngưỡng.
Thế là tôi
bèn trả lời Camus, đại khái như trên.
Milosz: Milosz's
ABC's
Ảnh
hưởng của Simone Weil, về tư tưởng, và về gương mẫu, vào cuộc đời trí
thức và tinh
thần của Camus, kể từ khi chấm dứt cuộc chiến cho đến cái chết yểu,
thực lớn lao, và không thể coi là cuờng điệu, khi lèm bèm về nó. Đây là
1 điểm
mà ngay cả những nhà viết tiểu sử thật bảnh về Camus cũng không làm sao
ứng phó,
điều này xác nhận quan điểm của Emerson, cái gọi là tiểu sử văn học chỉ
là 1 trò
nhảm nhí, bởi là vì, nó kể về những cuộc đời, trong đó, như định nghĩa,
những sự kiện
có ý nghĩa nhất, thì bị nhấn chìm vào im lặng, hay trở thành vô hình,
đếch làm
sao nhìn ra.
Tuy nhiên, ở trường hợp Camus, chứng cớ thì đầy rẫy. Từ 1948,
Camus lo việc in ấn, xb, trong tủ sách “Hi Vọng” mà ông đảm nhiệm tại
nhà xb
Galliamrd, những bản văn chính của Simone Weil liên quan tới những vấn
đề xã hội và chính trị, “Gốc rễ”, 'L' Enracinement (The Need for
Roots) và“Điều kiện thợ thuyền”, La Condition
ouvrière. Cùng với Gustave Thibon, là những bản văn triết
học và
tôn giáo. Camus, như thế, quả đúng là 1 trong những người gìn giữ, đầu
tiên, và
hết lòng, đối với gia tài văn học, cũng như hồi ức của/về Simone Weil.
Trên
tất cả, Simone Weil trở thành nguồn hứng
khởi hoài hoài cho sự suy tư của riêng Camus, như rất nhiều đoạn trong Sổ Ghi của
Camus chứng thực.
Còn nữa, tại Stockholm, trong dịp nhận Nobel văn chương,
Camus bèn công khai bày tỏ trước công chúng sự ngưỡng phục, và xác nhận
ảnh hưởng
của Simone Weil ở nơi ông.
Trong buổi gặp gỡ báo chí trước khi vào cuộc lễ, khi
được hỏi, trong những nhà văn hiện đang còn sống, những người nào ảnh
hưởng ông
nhiều nhất, ông kể tên một số bạn bè, và dõng dạc phán tiếp:
“And Simone Weil - for there
are dead people
who are closer to us than many of the living.”
Camus 100
In the Light
of Friendship
Trong ánh
sáng tình bạn
Simone Weil,
Czeslaw Milosz, and Albert Camus
AFTER THE
WAR, like many Polish intellectuals who hoped that their cooperation
with the
Communist regime would drive it to evolve, Milosz became a diplomat and
was
posted as cultural attaché, first to Washington, then to Paris. But he
quickly
understood that serving a Stalinist totalitarianism not only involved
compromises unacceptable to conscience and to the spirit - more simply,
it
provoked "a rebellion of the stomach: a man might convince himself that
it
would be good for his health to swallow live frogs, and being
rationally
convinced, he will swallow first one frog, and then another, but at the
third,
his stomach will rise.” And so, in 1951, he left his post, broke with
the
regime, and leapt irreversibly into the chasm that exile represented
for him -
the greatest of misfortunes, for he seemed condemned to sterility,
isolation,
and inaction. But unlike so many other exiled writers, he clung to his
native
language, his most precious possession; except for part of his private
correspondence
- in French and English - until his death he scarcely wrote in anything
other
than Polish.
Sau cuộc chiến,
như nhiều trí thức Ba Lan, hy vọng sự hợp tác của họ với chế độ CS sẽ
làm nó tiến
hóa, Milosz trở thành 1 nhà ngoại giao, với chức vụ tuỳ viên văn hóa,
trước tại
Washington, sau tại Paris. Nhưng ông lập tức hiểu ra là, phục vụ một
chủ nghĩa
toàn trị Xì ta lin nít, thì không chỉ mắc vô những thỏa hiệp không thể
chấp nhận
được đối với lương tâm và trí tuệ - nhưng, giản dị hơn nhiều, nó gây ra
“một sự nổi loạn
của cái bao tử": một con người phải tự mình nhủ mình, rằng thì là, sẽ
tốt
cho sức
khoẻ đấy, nếu đợp nhái sống, và được thuyết phục hợp lý như thế
[tốt cho sức khoẻ], anh ta sẽ chơi liền con nhái sống, và rồi, đợp thêm
1 con nữa,
nhưng đến con thứ ba là cái bao tử nổi loạn, "Ê, mi đừng làm khổ ta quá
như thế
chứ!” Và, thế là, vào năm 1951, ông rời bỏ nhiệm sở, chửi "DM" với Bắc
Bộ Phủ, và
nhảy vô cái lỗ nẻ, mà lưu vong, vừa chìa ra cho ông vừa phán, nè, đếch
có đường
lui đấy nhé: một trong những bất hạnh lớn lao nhất, bởi là vì, làm như
thế là ông
tự kết án mình, với cằn cỗi, với cô độc, với bất động. Nhưng, không như
rất nhiều
nhà văn bị lưu vong khác, ông ôm riết lấy tiếng mẹ đẻ, cái sở hữu
quí giá tuyệt vời
của ông, ngoại trừ ba cái liên lạc thư từ, riêng tư, lẻ tẻ, bằng tiếng
Tẩy hoặc
tiếng Anh – cho tới khi chết, ông gần như chỉ chơi trong cõi tiếng Ba
Lan!
He spent the first ten years of his exile
in France - particularly desperate years, not just because of his
extreme
material insecurity (he had only the precarious resources of his pen
with which
to feed his young family), but mostly because of the cowardice and
stupidity of
the French intellectual left, those right-thinking people who, under
the
pontificate of Sartre-Beauvoir, had celebrated him as long as they saw
him
garlanded with the prestige of an official envoy from “democratic”
Poland and
treated him as a leper as soon as they learned of his defection. (At
his
publisher’s –Gallimard – a house reader even had the delicacy of
submitting his
manuscripts for the imprimatur of a "progressive” Polish censor!) In
1953,
he worsened his case by publishing what would become his most
resounding work,
The Captive Mind, "written not for
a Western audience, but rather against
it," against its foolishness and its blindness. The purpose was indeed
to
remind the Western audience that "if a thing exists somewhere, it will
exist anywhere." And, in their lack of imagination, "the inhabitants of
Western countries scarcely understand that millions of their human
brothers,
who seem entirely identical to them, in fact live in a world as
fantastical as
that of the natives of Mars." Do not forget: "Man is so elastic a
creature
that we can well conceive that one day, every respectable citizen will
find it
natural to walk along on all fours brandishing a tail of striped
feathers to
signal his allegiance to the established order.”
Ông trải qua
10 năm đầu của cuộc lưu vong của mình, ở xứ Tẩy - những năm đau thương,
vô vọng,
không hẳn chỉ vì cực kỳ bất ổn về mặt vật chất (nguồn tiền bấp bênh cả
gia đình
trông vô, là từ cây viết), nhưng hầu hết là do sự hèn nhát và ngu ngốc
của giới
trí thức tả phái của Tẩy, những kẻ tin rằng họ là những người suy nghĩ
đúng, dưới cái “dù” giáo hoàng của cặp
Sartre-Beauvoir, mới ngày nào mừng rỡ, hoan hỉ đón tiếp ông, 1 thế giá
cực bảnh,
1 "thiên sứ" từ thiên đường XHCN Ba Lan, đã coi ông như 1 tên hủi, khi
nghe tin ông
‘đào thoát’ [Tại nhà xb Gallimard, nơi in tác phẩm của ông, 1 tay biên
tập đã
trình bản thảo của ông cho… Vũ Hạnh, nhờ
duyệt!] Vào năm 1953, ông làm cho hoàn cảnh của mình càng thêm tệ hại,
khi cho
xb cuốn "Cái Đầu Bị Cùm", "viết, không phải cho độc giả Tây Phương, mà
để
chống lại
nó”, chống lại cái sự điên khùng, mù lòa của nó. Thực sự, thông
điệp của
cuốn sách, là, “nếu có 1 sự việc hiện hữu ở đâu đó, nó sẽ hiện hữu ở
bất cứ nơi
đâu”.
Camus 100
J'ai grandi,
avec tous les hommes de mon âge, aux tambours de la Première Guerre et
notre
histoire, depuis, n'a pas cessé d'être meurtre, injustice ou violence.
Camus: Noces
Tôi lớn lên với những
người cùng tuổi, trong tiếng trống trận của Đệ Nhất Thế
Chiến và
lịch sử của chúng tôi, từ đó, không ngừng chỉ là sát nhân, bất công,
hay bạo lực.
Câu trên, Gấu
Cà Chớn mới gõ Google, là 1 trong những câu đọc hồi mới lớn, cùng với
những câu,
thí dụ:
Vào mỗi thời
đại, con người nhận ra mình, trước kẻ khác, tình yêu và cái chết.
A chaque époque,
l’homme se choisit en face d’autrui, de l’amour et de la mort.
Sartre: Situations
Facing History
Đếch khoái trừu tượng và
cực đoan, Camus bèn kiếm ra một cách, của riêng ông, để viết về chính
trị:
thoáng, nhã, cao thượng, và hơi buồn buồn
Một trong những
cái bảnh [merit] của Kẻ Xa Lạ
là tính kinh tế [the economy] của văn xuôi. Khi
cuốn sách xuất hiện, người ta nói, nó thuổng sự tinh ròng và ngắn gọn
của Hemingway [it was said
that it emulated Hemingway’s purity and brevity]. Nhưng ngôn ngữ của
anh Tẩy
[the Frenchman’s language] thì nhiều dụng tâm, và trí thức hơn của anh
Mẽo,
much more premeditated and intellectual than the American’s.Nó sáng sủa
và chính xác, clear and precise, đến
nỗi hình như không phải viết, mà là nói, hay bảnh hơn nữa, nghe, heard.
Cái cách
thức tuyệt đối - qua đó, văn phong được vặt sạch mọi hoa hoè hoa sói,
và cấm không
được buông thả, xả láng, self-indulgence - là cái điều góp phần làm nên
“y như
thiệt”, rất ư là thiệt, verisimilitude, của câu chuyện thật khó mà
thiệt được, rất
ư là đáng ngờ, implausible story.
Và tới
đây thì những tính cách của “viết” và
của “nhân vật” trộn vào nhau: Meursault, chính anh ta, thì cũng như
“ông vua cởi
chuồng”, nhìn thấy hết, transparent, trực tiếp, direct, và nguyên tố,
cơ bản, elemental.
Điều
khủng
khiếp nhất về anh ta, là, anh ta đếch thèm để ý đến những người khác
[cái ý nghĩa
“người dưng”, dửng dưng, là do vậy, thành thử Dương Tường mới khư khư
giữ lấy cách
dịch của ông]. Những từ lớn, kêu như chuông, tư tưởng lớn, tôn giáo,
công lý, cái
chết, tự do – anh ta làm mặt lạnh với tất cả, và anh ta làm mặt
lạnh luôn cả với những đau khổ của người khác. Khi anh hàng
xóm Raymond Sintes đánh cô bồ người Ả Rập, “Kẻ Tà Đạo” Meursault bèn
biếu anh
ta 1 cái “alibi”, [ngoại phạm, đếch có mặt tại hiện trường], để trình
với cảnh
sát, điều này không có nghĩa anh có cảm tình với người hàng xóm, mà chỉ
là do…
bất cẩn, bất cần, negligence. Ngược lại, có những chi tiết nhỏ nhặt,
hay một vài
khúc phim nhảm nhí, chuyện thường ngày ở huyện, certain daily episodes,
lại làm
anh quan tâm, thí dụ, mối liên hệ giữa anh già Salmadano với con chó.
Có vẻ như
anh ta rất có cảm tình với những trò lẩm cẩm này. Nhưng những gì làm
anh cảm động
thì không liên quan đến đàn ông hay là đàn bà, mà là với cảnh quan con
người,
human landscapes, nhưng, anh ta tước đi hết mọi tính người, chỉ giữ lại
những
thực tại cảm giác, sensorial realities, nóng thì bảo là nóng, lạnh thì
bảo là lạnh:
sự xô đẩy, chen lấn, tiếng ồn ào nơi lối xóm, những mùi của mùa hè,
những bãi
biển cát nóng bỏng.
Anh ta là
1
kẻ xa lạ theo đúng nghĩa cơ bản, radical sense, bởi vì anh ta giao tiếp
tốt với những sự vật hơn là với con người. Và để giữ mối liên lạc với
con
người, anh ta bèn biến con người thành con vật, hoặc thành đối tượng,
tức là những
đồ vật. [Câu này khủng thật: in order to maintain a relationship with
humans,
he must animalize them or objectify them.]
Anh ta
ứng xử
thật tới, he gets on so well, với cô bồ Marie, là theo kiểu đó: quần áo
cô mặc,
đôi dép cô đi, cái cơ thể cô “nhịp nhàng, réo rắt” ở nơi anh [strike a
chord in
him]. Cô gái không đánh thức tình cảm ở nơi anh, mà 1 cái gì dài,
durable, hơn:
cô đánh thức cả một chuỗi ham muốn, Meursault chỉ quan tâm tới cái bản
năng, thú
vật ở nơi cô. Thế giới của Meursault không phải là thế giới tà đạo,
pagan, nó là
1 thế giới mất tính người, dehumanized.
Kỳ cục
là, mặc
dù bài xã hội, antisocial, M. không phải là 1 kẻ nổi loạn, a rebel, bởi
vì anh
ta không có ý niệm gì về “nonconformity” [không phù hợp, không thuận
theo]. Điều
anh ta làm không mắc mớ [tied] với nguyên lý, hay niềm tin, khiến anh
thách đố
trật tự xã hội: cách sống của anh là như thế. Anh ta từ chối khế ước xã
hội,
the social pact, vượt nghi lễ, tập tục mang dấu ấn cuộc sống tập thể,
theo kiểu
tự nhiên như người Hà Lội, và cũng chẳng thèm để ý tới điều anh ta làm
nữa (ít
ra là như vậy, cho đến khi anh ta bị kết án). Với những người kết án
anh, những
điều trên mới tệ hại hơn nhiều so với tội ác của anh. Nếu anh ta có
những ý nghĩ,
những giá trị để biện minh cho hành động của mình, có thể họ sẽ khoan
dung hơn.
Họ sẽ đưa anh đi học tập cải tạo, phục hồi nhân phẩm. Nhưng anh ta là
như vậy,
bất trị, incorrigible, hết xài về mặt xã hội (cannot be reclaimed for
society)
Khi công tố viện phán, M hết thuốc chữa, anh ta chẳng có gì nói về mặt
luật pháp
mà anh ta đếch thèm để ý đến, Meursault has nothing to do with “a
society whose
laws he is unaware of”, ông ta hoàn toàn có lý, từ phía quan tòa.
Meursault là
1 thứ quỉ, a kind of monster. Nhưng trường hợp của anh ta cũng làm bật
ra những
khía cạnh quỉ ma, giới hạn của xã hội, theo nghĩa, mọi xã hội, dù cởi
mở tới cỡ
nào, thì cũng luôn đặt ra những chướng ngại vật, và trừng phạt, trên
con đường
mà 1 cá nhân, mỗi cá nhân, trong thâm sâu của nó, luôn đòi hỏi, 1 tự do
tuyệt đối.
Ở bên
trong
cái chủ nghĩa bi quan của Kẻ Xa Lạ,
tuy nhiên, vẫn âm ỉ cháy một ngọn
lửa hy vọng.
Nhất là đoạn cuối khép lại cuốn truyện, ở đó, không phải cam phận,
resignation,
nhưng mà là sự sáng suốt ngự trị. M. đá cho anh thầy tu 1 phát, ra khỏi
sự giận
dữ của anh, [đi chỗ khác chơi, ta đếch có thì giờ với mi, thì giờ của
ta quí lắm,
đâu có còn bao nhiêu, hà, hà! [Nhà thơ TTT, một lần
ngồi Quán
Chùa, chê đoạn này thua xa đoạn tương tự trong Đỏ và Đen].
Anh thầy tu cố ôm lấy M, cố thuần phục anh ta, bằng cách
dụ khị, ta sẽ cầu nguyện cho con, sẽ ôm lấy số mệnh của con, như là 1
thằng đàn
ông mở lòng ra trước sự “dửng dưng dịu dàng của cõi đời” [the chaplain
who had
tried to domesticate him, by offering to pray for him, and embraces,
with
serene confidence, his destiny as a man open to ‘the tender
indifference of the
world’]. (1)
Cách đọc Frédéric Beigbeder, ngắn, nhưng có
vẻ thú hơn của Vargas Llosa:
Bởi là vì theo Albert
Camus, đời thì phi lý. Tại sao tất cả cái đó? Để làm gì? Tại sao cái ký
sự vô ích đó? Bạn không có chuyện gì hết hay sao mà lại ngồi đọc nó?
Mọi chuyện thì đều hư ảo ở dưới đó (Camus là Ecclésiaste ở đám chân
đen). Cái sự sáng suốt lầm lì không ngăn Camus nhận Nobel vào năm 1957,
(khi ông 44 tuổi, trẻ nhất sau Kipling). Tại sao? Bởi là vì ông tóm tắt
chủ nghĩa hiện sinh của ông, trong 1 câu thật đơn giản:
“Đời thật đáng sống nhờ nó
đếch có nghĩa gì hết!”
Tuyệt cú mèo, hà hà! Đếch
cái gì dính với đếch cái gì! Rồi sao? Thì đúng là thế, cái gọi là “hạnh
phúc đếch tránh được”.
Ngược hẳn với cái trò rởm đời của Sartre, từ chối Nobel, 7 năm sau đó,
Camus nhận Nobel là vì ông cũng đếch thèm để ý đến. Người ta có thể
đếch thèm để ý đến cả vũ trụ, và cũng có thể chấp nhận nó, quá nữa,
“êu”nó.
Hay là tự tử liền tù tì, bởi vì đó là “vấn đế triết học rất ư là nghiêm
trọng”
Ngay cả cái chết của Camus, thì cũng phi lý!
Chỉ có 1 cái đếch phi lý,
là văn phong của ông, do ông phịa ra [inventer]: Những câu ngắn (“Chủ
từ, động từ, túc từ, chấm”, như ghi chú của Malraux trong sổ đọc, gửi
cho nhà biên tập], một cách viết khô, trung tính, thì quá khứ kép, nó
đã ảnh hưởng nặng lên tất cả những tác giả của cả 1 nửa thế kỷ, kể cả
đám Tiểu Thuyết Mới…
Chủ nghĩa nhân bản lịch sự, tử tế của Albert Camus có thể làm người ta
đôi khi chán, nhưng văn phong sắc bén của ông, không bao giờ!
Luôn luôn có kẻ bắt chước, nhưng không bao giờ ngang hàng!
[Có đấy! Đề nghị bạn đọc
“Những Con Dã Tràng” của GCC!
Đừng nghĩ Gấu hoang tưởng, nhưng ý trên, là của 1 độc giả,
cũng là nhà văn, bạn của GCC. Anh ta nói, hơn cả Camus, vì Meursault
đâu có ho lao?
Cái anh chàng trong "Những Con Dã Tràng" ho lao, buổi chiều, ‘vừa húng
hắng ho, vừa nhìn cái đu trên có cô gái, lao tới rồi lại lao lui…
ngay độc giả cũng "chịu không thấu, giật bắn mình, bấn xúc xích, và....
ướt vãi.."!
GCC nhớ là, bà cụ C. đọc,
lắc đầu, nhìn Gấu, phán, thằng này bịnh!]
Camus 100
Số báo này, “hồ
sơ” Camus, là của "em" Minh Huy Tran
Tribute 1 2 3 4
Một
Trái Tim Hy Lạp
Today
Mom died
"Bữa nay mẹ tôi mất"
(Aujourd’hui maman est morte).
Maman tiếng Tẩy, trong câu mở
ra Kẻ Xa Lạ, "Bữa nay mẹ tôi mất" dịch sang tiếng Hồng Mao,
sao?
Tiếng Mít, thì xừ Tẩy mũi tẹt TTD phán, phải dịch “Mẹ”, không được dịch
“Mẹ tôi”. Bi giờ bản dịch mới nhất tiếng Anh, phán, phải dịch “My
mother”, thay vì “Mother”!
Nhưng “Bà Bô, Madame
Bovary”, mà dịch sang tiếng Hồng
Mao, là “Mrs. Bovary”, thì đúng là ngớ ngẩn!
~ Posted by
Simon Willis, September 17th 2013
It was billed as a conversation about translation, but it was more
like a masterclass in the translator's art. Last night at the London
School of
Economics, the novelist Adam Thirlwell spoke with Ali Smith, Julian
Barnes and
the translator Sandra Smith, who has translated 11 novels by Irène
Némirovsky,
and most recently "L'Etranger" by Albert Camus. Sandra Smith did most
of the talking, and listening was a bit like eavesdropping on a
seminar. Her
first lesson was that there are many wrong ways to translate a novel,
but there
is no one right way. "It's subjective," she said. In the front row, I
made some notes.
—Translation
isn't just about the words.
You also have to translate the punctuation. The exclamation mark,
Barnes said,
is used differently in French and English. It's rare in English, "but
the
French just scatter them around". But, Sandra Smith said, what about
Flaubert? He used punctuation in a very innovative way. "You do have to
respect that." For instance, he sometimes used commas where there ought
to
be full stops, which allowed him to simulate two thoughts running
simultaneously through a character's head. Punctuation can bring out a
state of
mind.
—Where
should the translation start?
Should "Madame Bovary" be called "Mrs Bovary" in English,
Thirlwell asked. "No," said Barnes. Why not? "Because it's
daft!"
—Barnes,
who speaks French, always vets
the French translations of his novels. "I want it to sound like a
French
novel," he said. "I never recognise my own style in it."
—French
has a tendency to emphasise the
ends of sentences. When Sandra Smith is translating a list of
adjectives, for
example, she will sometimes reverse their order to maintain the right
balance.
—You
always have to remember the
difference between American English and English English. Barnes
recently
reviewed a new translation of "Madame Bovary", and pulled up short
when he read that Charles Bovary was wearing "pants" held up by
"suspenders". He ought to have been wearing trousers held up by
braces. When he's reading European novels in translation, he said, "I
don't like having to go through the lens of American English to get
back
here."
—Puns
are difficult. Once Jimmy Carter
was giving a speech in Japan, with a translator. He made a pun, and
then the
translator spoke in Japanese. The audience burst out laughing.
Afterwards,
Carter asked the translator how he'd translated the line. "I said, 'The
President of the United States has just made a pun. Please laugh.'"
Simon
Willis is apps editor of Intelligent
Life and writes regularly about translation for the magazine
—Translation
isn't just about
the words. You also have to translate the punctuation.
Dịch không phải chỉ là từ. Bạn có khi phải dịch cả cách chấm câu!
Quả thế thực. Văn của GCC, thí dụ, cái dấu phảy rất quan trọng.
Thường bị
chê là lạm dụng nó. Nhưng cái dấu phảy là...văn Gấu!
Khi GCC dịch
Hemingway, lúc đó tiếng Anh quá
tệ, phải để hai bản song song, một Tẩy, một Hồng Mao, đến lúc đó
thì Gấu mới
phát giác Maurice Edgar Coindreau, chuyên gia về Faulkner và Hemingway,
dịch nhảm
quá. Ông cắt 1 câu tiếng Anh của Hemingway, thành 1 chùm câu tiếng Tẩy.
Văn
Hemingway không dịch như thế được.
Văn Camus,
cũng từ đó mà ra, đúng như
Sartre nhận ra: Mỗi câu là 1 hòn đảo, mỗi câu là từ hư vô vọt ra, mỗi
câu là 1
khởi đầu viết.
Cái em Bắc
Kít đâu có biết chó gì về Camus!
Đếch khoái trừu tượng và
cực đoan, Camus bèn kiếm ra một cách, của riêng ông, để viết về chính
trị:
thoáng, nhã, cao thượng,
và hơi buồn buồn.
Ở Mẽo, Camus, trước hết,
là 1 anh Tẩy; ở Tây, ông, quan trọng hơn hết, là 1 anh chân đen, tức 1
anh Tây tới thuộc địa, là xứ Algeria, và làm nhà ở đó. Như một nhà văn
miệt vườn Mississippi, và cùng với người đó, là 1
căn cước bí ẩn, một "Miền Nam Sâu Thẳm", thí dụ với Faulkner, thì với
Camus, ông cũng có 1 căn cước thần bí như vậy, hay, một quá khứ có thể
sử dụng được, một con người “Địa Trung Hải” đã từng ăn nằm dài dài với
lịch sử biển.
Camus có cái thứ thần bí
đó: Có 1 cái gì “hoang dã” ở nơi ông, nhìn một phát là thấy liền.
Hà, hà!
Camus
là một con người của vùng biên cương, ông sinh ra và sống tại một vùng
ven căng thẳng, dữ dằn, giữa Âu Châu và Phi Châu, Tây Phương và Hồi
Giáo, một xã hội kỹ nghệ hóa và kém mở mang. Kinh nghiệm ngoại vi,
ngoại biên này đem đến cho ông, như một gã Âu Châu, một cái nhìn đa
dạng, rối rắm [a complex view] về thế giới của riêng ông. Một mặt, ông
thấy mình dễ dàng nhập vô văn hóa đó, hơn những kẻ sống ở trung tâm,
không thể phán đoán, và đánh giá [appreciate], ý nghĩa của văn hoá mà
họ thuộc về nó. Mặt khác, ông cảm thấy mình xốn xang hơn, hục hặc hơn,
ngửi ra sự hiểm nguy, và, quan tâm tới sự yếu ớt của hạ tầng cơ sở của
xã hội hơn, so một người nào khác.
Tôi không buộc tội Camus, về chủ nghĩa vị chủng tộc của ông, về chuyện
ông không màng tới những nền văn hóa còn lại của thế giới, bởi vì ông
quá Âu Châu [he was profoundly European] theo một nghĩa phổ cập của từ
này. Sự thực là, Âu Châu và những vấn đề của Âu Châu ở trung tâm những
tác phẩm của ông, điều này không giảm trừ, nhưng đóng khung, khoanh
vùng chúng, trong những giới hạn rõ rệt, chính xác.
Khi Camus để mình vướng vào những vấn đề của Thế Giới Thứ Ba – như
những khổ đau của người Kabyles, hay là đàn áp dân thuộc địa tại
Madagascar – ông làm như thế trong viễn tượng đại lục, a continental
perspective. Ông tố cáo những sự kiện – và đây là lời tố cáo nặng nề
nhất mà ông đã từng – làm ô nhục Âu Châu.
Tuyệt
cú mèo!
Vargas
Llosa, lúc đầu chê Camus, y chang TTT. Nhưng may quá, ông nhận ra kịp.
Còn câu
phán của TTT về Camus, hóa ra lại vận vào ông!
Camus 100
La Morale d’un
Philosophe
« Je dois
condamner aussi un terrorisme qui s'exerce aveuglément dans les rues
d'Alger
par exemple, et qui un jour peut frapper ma mère ou ma famille. Je
crois à la justice,
mais je défendrai ma mère avant la justice.” Telle est, expressis
verbis, la transcription que donne Dominique Birmann dans
son article du Monde du 14 décembre
1957. Il y rapporte une partie des propos que Camus a tenus devant des
étudiants
algériens dont certains venaient de l'insulter. Camus a d'ailleurs
confirmé
l'exactitude de ceux-ci dans sa lettre au directeur du Monde
du 17 décembre. En 1994, Carl Gustaf Bjurstrom,
traducteur en suédois du discours
de Camus devant l'Academie du prix Nobel et témoin de la scène, en
livre une
autre transcription, différente, plus véridique sans doute, au ton plus
en
rapport avec l'atmosphère qui règnait alors : « On jette en ce moment
des bombes
dans les tramways d'Alger. Ma mère peut se trouver dans un de ces
tramways. Si
c'est là votre justice, je préfère ma mère à la justice.” On ne compte
plus les
interprétations et les citations plus ou moins déformées de ce mot.
Camus y condanme
évidemment le terrorisme comme moyen d'action et en cela il est dans la
droite
ligne de ses écrits anterieurs. Mais il s'y joue sans doute aussi
quelque chose
de plus radical, dont Camus s'explique au détour de ses « Elements pour
Le premier homme », parus bien après sa
mort, et qui manifestent son attachement viscéral à sa mère: «Aux
Arabes. Je
vous défendrai à n'importe quel prix, sauf au prix de ma mère, parce
qu'elle a
connu plus que vous l'injustice et la douleur. Et, si dans votre rage
aveugle,
vous touchez à elle ou risquez d'y toucher, je serai votre ennemi
jusqu'au
bout. » (Bibliothèque de la Pléiade IV, p. 918.)
« Et
que le politiquement correct ne s'avise pas de retoucher ses cigarettes
sur les
photos, prévient sa fille Catherine.
Il fumait et, d'ailleurs, il n'est
pas
mort de cela. »
Này,
đừng có
lấy điếu thuốc lá ra khỏi miệng bố tôi nhe. Ông ghiền thuốc. OK.
Nhưng ông đâu có
chết vì ghiền thuốc?
Il
y a un « look Camus », aussi antithétiques ces deux termes puissent-ils
paraitre à première vue. « Entre Humphrey Bogart et Gerard Philipe »,
risque
Jeanyves Guerin, maitre d'oeuvre du Dictionnaire Albert Camus
(Robert
Laffont), évoquant sa silhouette. Figé par la mort dans une photogénic
d'une
cohérence troublante- Camus n'a quasiment pas « bougé » entre ses
débuts en
littérature, vers 1940, et sa mort, vingt ans plus tard -, l'auteur de L'étranger
semble immuable: imper ou gabardine, costume de bonne coupe, chemise
claire,
cravate, cheveux lisses en arrière, cigarette (une Gauloise Disque
Bleu). « Et
que le politiquement correct ne s'avise pas de retoucher ses cigarettes
sur les
photos, prévient sa fille Catherine. Il fumait et, d'ailleurs, il n'est
pas
mort de cela. »
Un style élégant et fluide
Entre
les écrivains clochards - Léautaud, Céline -, les dandys des lettres -
Cocteau,
Guitry -, Camus incarne une troisième voie. Son biographe, Herbert R.
Lottman,
a beau évoquer des « complets voyants de style méditerranéen », on
parlera
plutôt d'un style « chic et de bon gout ». Un style élégant, fluide,
sans
effets tapageurs, tout à fait à l'image de l'excellent danseur
qu'était
l'auteur du Mythe de Sisyphe, au dire de tous ses amis de
Saint-Germain-des-Prés. Il y a du comédien des années 1950 dans cette
prestance. II paraissait interpréter son propre rôle dans un film
inachevé, a
pu écrire Dominique Aury, l'auteur d'Histoire d'O. Et l'on ne
s'etonnera
pas que Marguerite Duras et Peter Brook aient sérieusement songé à lui
pour le
premier rôle de Moderato Cantabile, qui échut finalement à
Jean-Paul
Belmondo (ce qui donne une idée de l'aura de l'écrivain ... ). Comme
toujours,
les signes que nous envoie l'apparence de Camus - telle qu'on peut la
voir sur
les clichés « chimiquement purs» de Cartier-Bresson, par exemple - en
disent
long sur l'homme. Un homme en mouvement - il écrivait debout -, qui
marche,
avance, et non un homme de lettres, qui poserait avantageusement à son
bureau,
devant une bibliothèque fournie. Et, le contemplant, on ne peut s'
empêcher de
songer à la définition du « charme » qu'il a lui-même fournie dans La
chute:
« Une manière de s'entendre répondre oui sans avoir posé aucune
question
claire! » J.D.
[Lire,
số đặc biệt về Camus, Tout sur Camus,
Tháng Hai, 2010]
Les mots d'
Albert Camus
Chacun des
dix mots que l'écrivain a couchés dans ses Carnets comme ceux qui lui
étaient les plus chers, les plus intimes, met en
lumière un
aspect de son oeuvre et de sa vie. Lire
rappelle ces mots, véritables balises de l'univers camusien, et y joint
illustrations, sources ou élements d’explication.
Dans ses
Carnets, redigés entre 1935 et 1959, Camus indique ses «dix mots
preférés (Bibliothèque
de la Pleiade IV, p. 1107) : « Le monde, la douleur, la terre, la mère,
les hommes,
le désert, l'honneur, la misère, l'été, la mer. »
Dans Albert Camus, soleil et ombre, Roger
Grenier remarque qu' on peut prendre chacun de ces mots et « chercher à
quelle
oeuvre de l'écrivain il s'applique».
Prize
motivation:
"for his important literary production, which with clear-sighted
earnestness illuminates the problems of the human conscience in our
times"
Vòng hoa
Nobel: [Phát cho mi mề đây Nobel], vì sản phẩm văn học quan
trọng, mà, với
sự chân thành, nghiêm cẩn sáng suốt, nó chiếu sáng những vấn đề của ý
thức,
luơng tâm con người, ở những thời của chúng ta.
Chaque
génération, sans doute, se croit vouée à refaire le monde. La mienne
sait
pourtant qu'elle ne le refera pas. Mais sa tâche est peut-être plus
grande.
Elle consiste à empêcher que le monde se défasse.
Each
generation doubtless feels called upon to reform the world. Mine knows
that it
will not reform it, but its task is perhaps even greater. It consists
in
preventing the world from destroying itself.
Mỗi thế hệ đều
nghĩ, chúng mình sinh ra, là để làm lại thế giới.
Thế hệ của tớ bảnh hơn nhiều.
Chúng tớ sinh ra là để cố làm sao cho thế giới đừng tự làm thịt, chính
nó!
Camus: Diễn
văn Nobel
Mô phỏng
Camus: Mít được Trời cho ra đời để cứu xứ Mít, để cho xứ Mít đừng tự
làm thịt
chính xứ Mít, là ông… Nobel Toán Mít!
"HE GRABBED
THE BOY AND TOSSED HIM ... INTO THE AIR."
… there was a city on this
shore, called Vineta. It was so rich and so fortunate, that no city has
ever been more glorious; but its inhabitants, unluckily, gave
themselves up to arrogance and love of display. As a punishment, says
Bataki, the city of Vineta was overtaken by a flood, and sank into the
sea. But these inhabitants cannot die, nor is their city destroyed. And
one night in every hundred years, it rises in all its splendour up from
the sea, and remains on the surface just one hour."
"Yes, it must be so," said Thumbietot, "for this I have seen."
"But when the hour is up, it sinks again into the sea, if, during that
time, no merchant in Vineta has sold anything to a single living
creature. If you, Thumbietot, had only had ever so tiny a coin to pay
the merchants, Vineta might have remained up here on the shore; and its
people could have lived and died like other human beings."
"Herr Ermenrich," said the boy, "now I understand why you came and
fetched me in the middle of the night. It was because you believed that
I should be able to save the old city. I am so sorry it didn't turn out
as you wished, Herr Ermenrich."
He covered his face with his hands and wept. It wasn't easy to say
which one looked the more disconsolate – the boy, or Herr Ermenrich.
Source
GCC lướt internet, mò ra
cái xen nói trên. Hoá ra là anh cu Nils có “mission” cứu thành phố Hà
Lội, bị Chúa nguyền phải sa xuống “đáy địa ngục” [chữ này của Tạ Tỵ],
nhưng "vấp ngã" [chữ này của cớm & biên khảo gia & nhà thơ]!
Oe, lần đi Stockholm lãnh Nobel, cứ nghĩ mình đang ở trên lưng một chú
ngỗng, như Nils.
Người được trao cho sứ mạng, cứu, không chỉ 1 thành phố Hà Lội, hay Xề
Gòn, mà cả 1 dân tộc, đất nước Mít, là ông có cái "bỉu bói" Nobel.
Chỉ ông ta, "đỉnh của đỉnh" của văn minh Sông Hồng, mới làm được điều
này.
Nhưng không hiểu sao, Bắc Bộ Phủ biết được, ra đòn trước, bằng cách lấy
cái nhà ra nhử, thế là ô hô ai tai!
Trả lời Minh Tran Huy, DTH cho biết, bà cũng được Nguyễn Văn Linh đưa
cái nhà ra “dzụ”, nhưng bà lắc đầu! (1)
Camus 100
Orhan Pamuk
tiểu thuyết gia đã rất thành công với Tên
tôi là Đỏ, Pháo đài trắng hay Cuốn
sách đen, nhưng vì là một nhà văn rất tham vọng, “phổ màu” của ông
còn muốn
bao trùm rộng lớn hơn nữa, lên chính trị, hội họa cổ điển, những tản
văn ngắn,
và lên sự đọc.
“Những màu
khác” minh chứng cho tham vọng văn chương Orhan Pamuk. Cuốn sách là sự
nối dài
đầy ngoạn mục, những “ngoại truyện” bổ sung cho các tiểu thuyết của
ông, những
thêm thắt về cảm giác vốn đã huy hoàng trong cuốn hồi ký tuyệt vời Istanbul, và nhất là ở đây, ta được chứng
kiến Pamuk trong tư cách một người đọc cự phách; người đọc ấy hào phóng
dẫn dắt
ta đến với thế giới những tác giả mà ông sùng mộ nhiều chục năm nay:
Camus,
Flaubert, Dostoyevsky, Nabokov… những thế giới của sự đọc ấy mở rộng
nhiều lần
đường biên giới của sự viết ký tên Pamuk.
Blog NL
Khi “Những sắc
màu khác” mới ra lò, TV có đi vài bài, và có ý định đi hết cuốn, nếu
không, thì
những bài liên quan tới xứ Mít, nhưng nhớ là, một “tay nào đó”, hình
như đại diện
cho NN, mail, cho biết đã có bản quyền cuốn sách, cho nên GCC bèn ngưng.
Cách viết
NSMK, theo GCC, là những kinh nghiệm cá nhân, riêng tư, của Pamuk, một
nhà văn
Thổ, khi đọc “thế giới”, trong cái tham vọng vươn ra thế giới, qua
những tác giả
như Dos, Camus… Pamuk có "giấc mơ Thổ" của ông, khi viết Istanbul, và cũng giấc mơ
đó, khi viết NSMK. Độc giả TV có thể nhận ra điều này, khi đọc ông viết
về Dos,
hay về Camus.
Trên tờ TLS
số 21 Tháng Ba, 2008, Christopher de Bellaigue, điểm cuốn "Những mầu
sắc khác", tập
tiểu luận của Pamuk, coi ông là tiểu thuyết gia hơn là tiểu luận gia.
Theo người
viết, Pamuk là một thứ nhà văn hướng nội, introspective writer, mặc dù
dính líu
vô những chuyện chính trị, và từng bị buộc tội "sỉ nhục cộng đồng
Turki". Và có thể nói, toàn bộ tiểu thuyết của ông
tạo nên một trong những tự thuật lằng nhằng,
lẵng nhẵng nhất trong văn chương. [Pamuk is an introspective writer.
Indeed, it
might be said that the sum of his novels constitues one of the most
sustained,
if elliptical, autobiographies in literature].
Về tính lằng
nhằng, lẵng nhẵng, tác giả bài viết kể lại kinh nghiệm viết của Pamuk:
Vào năm
1988, một nhà văn chưa được người đời biết tới tên là Orhan Pamuk đang
phải chiến
đấu, làm thế nào hoàn tất cuốn Cuốn
Sách Đen, cuốn thứ tư và là cuốn tham vọng
nhất của ông cho tới lúc đó. "Trong khi chữ bò mãi ra", Pamuk nhớ lại
trong Những mầu sắc khác,
"cuốn sách dầy mãi lên, thú viết sâu đậm
thêm", nhưng đây đúng là một niềm an ủi nho nhỏ, bởi vì "cuốn tiểu
thuyết nhất định không chịu ngưng"! [the novel refused to end].
Riêng về nhà
văn bắc cầu, người viết nhận xét, trong Những mầu sắc khác, Pamuk để lộ
mình ra
nhiều hơn là ông tưởng. Những mầu
sắc khác cho chúng ta thấy một con người cô
đơn, quyết tâm tự học, thiên về tự tha thứ cho mình, và bịnh hoạn [Other Colors
shows him to be a solitary, determined autodidact, prone to
self-indulgence and
morbidity].
Bài diễn văn
Nobel được in lại trong sách, bắt đầu bằng những lời cảm tạ, vinh danh
ông bố,
chấm dứt bằng liệt kê những lý do khiến ông viết, cho thấy, đây là một
người
nhân bản, human, mâu thuẫn, vị tha, và ích kỷ, đúng như chính tác giả.
Tin Văn đã cống
hiến bản dịch một số bài viết trong cuốn này, thí dụ bài viết về Những Con Quỉ
của Dostoevsky.
Pamuk cũng
coi Dos như là một trong những sư phụ của ông. (a)
Orhan
Pamuk
Phi lý của
Camus ở đâu mà ra?
Sartre mở
ra cuốn “Chủ nghĩa hiện sinh là gì ?” bằng câu của Dos: “Nếu Thượng Đế
không
có, thì mọi chuyện đều được phép”, và coi đây là khởi điểm của chủ
nghĩa hiện
sinh. Từ ý này, Sartre phán, thật hách, như... Nghị Hách: Con người bị
kết án
phải tự do!
Tôi
luôn luôn coi Những Con Quỉ là một cuốn
sách công khai hoá những bí mật nhục nhã mà đám trí thức tiến bộ (những
kẻ sống
xa trung tâm, ở mép bờ của Âu Châu, hục hặc với những giấc mơ Tây
Phương của họ,
và bị hành hạ bởi những hồ nghi của họ về Thượng Đế), mong giấu kín,
chúng ta.
Ui
chao, bạn đọc những dòng trên, song song với những đoạn trong Bếp Lửa, thí dụ đoạn Tâm và Đại cà khịa
với nhau về Dostoevsky, hay Tâm trả lời tay Nhiên, khi qua Bắc Ninh dậy
học tại
một trường đạo...
Cách đọc sách
của Pamuk không phải như là 1 phê bình gia, mà như là 1 tiểu thuyết
gia. Ông đọc
những vị thầy của ông – như là 1 độc giả Thổ - để trở thành 1 nhà văn,
viết từ
miền đất của ông, từ cái đế quốc Thổ hoang tàn đổ nát. Đây là 1 phát
giác rất
quan trọng, “của riêng Gấu”, về ông, ngay khi đọc “Những Sắc Màu Khác”.
Và cách
này, quy về Gấu, nhìn lại những gì Gấu đọc thời mới lớn, thì nó ra nhận
xét này:
Gấu đọc Mác Xít, để cố tìm cách giải thích cuộc chiến Mít, tại sao nó
xẩy ra, và
sau này, từ khi ra được hải ngoại, đọc Lò Thiêu, để hiểu Cái Ác Bắc
Kít, nguồn
cơn của cuộc chiến, không phải chủ nghĩa Mác.
Tôi nhớ là đã tự hỏi chính mình, vào thời
kỳ đó, là, tại sao chẳng có ai nói về những phát giác như thế ở trong
cuốn sách. Nó có quá nhiều điều để nói với chúng tôi về chính thời đại
của chúng tôi, tuy nhiên, trong những sinh hoạt tả phái, [left circles]
điều này [cuốn sách] bị vờ đi, và có thể, vì lý do đó, cho nên, khi tôi
đọc, cuốn sách như nói thầm với tôi, một bí mật.
Pamuk
10 tiếng nói
văn chương ngoại thật bảnh. Trong có hai, Gấu cực khoái, Enrique
Vila-Matas, và
Orhan Pamuk.
Cái nick, tên “Mơ Mộng Lưu
Vong” - le “Rêveur en Exil” - thay vì, "Kẻ mơ mộng đang tỉnh thức", "Le
Rêveur en Éveil, cũng
có thể
ban cho GCC.
Tất nhiên, cả vòng hoa Nobel văn chương, chôm
của GCC:
"who in the quest for the
melancholic soul of his native city
has discovered new symbols for the clash and interlacing of cultures."
"Người mà trong khi tìm kiếm
linh hồn sầu muộn của thành phố quê hương của
mình, đã khám phá ra những biểu tượng mới cho cuộc đụng độ và quấn quít
lấy
nhau của những nền văn hoá."
Vòng hoa trao tặng Pamuk vinh
danh nhà văn Nobel 2006 một cách nào đó, là kết hợp
của hai vòng hoa, của Gấu, tặng Sài Gòn, viết khi ở nhà tù Bangkok và
trại tị nạn
Thái Lan:
Trong những đêm chập chờn mất
ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong
tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo
đường xưa
cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần
đời đó mới
đáng kể...
Nhìn bước đi của thời gian, của
thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến
tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ
thuộc địa,
thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù.
Lần Cuối Sài Gòn
Kẻ mơ mộng tỉnh
thức: Từ này, nguyên của Borges.
Trong
"Chuyện Nghề" (The Writer's Apprenticeship), Borges viết:
Nghề văn,
nghề thơ, là một nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có một điều cần -
tất
cả mọi điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là một từ không chỉ có
nghĩa "bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó. Thí dụ, một nhà văn
cần sự cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi cô đơn. Anh ta cần
tình yêu,
anh ta được chia, tình yêu, và luôn cả, tình yêu không được chia.
Theo một
nghĩa nào đó, nhà văn là một kẻ mơ-ngày, a day-dreamer, một kẻ sống
cuộc đời
kép. Anh ta bắt đầu viết, bằng cách bắt chước những nhà văn mà anh ta
thích. Đó
là cách nhà văn trở thành chính mình, bằng cách làm mất bản thân - cung
cách kỳ
cục của một cuộc sống kép, sống hết mình trong thực tại này, cùng lúc,
trong thực
tại khác - thực tại mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của những giấc
mơ".Một cuộc
sống
kép, sống hết mình trong thực tại này, và cùng lúc, trong một thực tại
khác...
Một kẻ mơ ngày.... Murakami có lẽ cũng nghĩ như vậy, khi ông cho rằng,
viết, là
một cách mơ mộng, nhưng mà trong tình trạng tỉnh thức, “écrire, c’est
comme
rêver éveillé” (1)
Camus 100
In the Light
of Friendship
Trong ánh
sáng tình bạn
Simone Weil,
Czeslaw Milosz, and Albert Camus
MILOSZ
DEFINED HIMSELF as an "ecstatic pessimist", and perhaps it is in this
that
he is closest to Simone Weil. In the face of the mystery of evil, there
is
little room in their faith for Providence (which would alleviate
suffering) or
for the communion of saints (which would give it meaning). Is a
consoling
religion a baser form of religion? "Love is not consolation, it is
light" - this phrase of Simone Weil's is admirable; but why would light
not bring some consolation? In any case, that is what simple souls
naturally
perceive when they piously go to light a votive candle before an image
of the
Virgin or some saint.
Milosz tự
coi mình là 1 nhà “bi quan cực khoái”, và có thể vì vậy mà ông thật cận
kề với
Simone Weil. Đối diện với khuôn mặt hiểm độc bí ẩn của cái ác, đếch có
chỗ cho
cái gọi là niềm tin vào Chúa Trời (tin vào Chúa thì sẽ bớt đau), hay là
vào sự
hội thông với các vì thánh (sẽ đem lại ý nghĩa). Liệu cái thứ tôn giáo
an ủi, vỗ
về, là hình thức “tệ hại” của tôn giáo?
“Yêu không phải là an ủi, vỗ
về, nó là ánh
sáng” – câu này của Simone Weil mới đáng nể làm sao. Nhưng tại sao ánh
sáng không
mang lại tí ti an ủi nào đó?
Trong bất cứ
trường hợp, thì đây là điều mà những linh hồn bé mọn, đơn giản, cảm
nhận, mỗi lần
đốt lên một ngọn đèn cầy trước bức thánh tượng Virgin, hay một vì nào
đó.
*
Czeslaww
Milosz và Albert Camus là hai người bạn đã chia sẻ một sự hiểu biết cá
nhân về,
như thế nào những tư tưởng lớn có thể biến thành chuyên chế, không
khoan dung,
và tàn sát. Trong khi cả hai suy tư về cuộc làm thịt người dã man khủng
khiếp
giữa thế kỷ 20, họ cảm thấy cùng bị hút về, và ngày càng gần gũi, với
một tinh
thần xuất sắc của một người bạn khác, một
người bạn - Simone Weil - mà như Camus diễn tả: “… có những người chết
gần gụi
với chúng ta hơn, so với nhiều người đang sống”
Sinh năm
1911, tại một thành phố nhỏ của nước Nga thời còn Nga Hoàng (và thực
sự, trong
suốt cuộc đời của mình, như nhiều người trí thức Ba Lan – hãy nghĩ tới
Conrad!
– ông quan sát sự bí ẩn Nga với sự sáng
suốt khiếp sợ), Czeslaw Milosz thuộc dòng dõi quí tộc, nửa Ba Lan, nửa
Lithuania. Ngay từ khi còn trẻ, ông đã cùng chia sẻ với ông bố một cuộc
sống du
mục. Là kỹ sư, ông bố từng trách nhiệm hệ thống đường xá dọc suốt,
chiều dài
cũng như chiều rộng, vùng Siberia, và sau cùng đã chứng kiến những trận
đánh diễn ra trong cuộc
Cách Mạng Bolshevic. Những kinh nghiệm như thế như đã tiên đoán số phận
lưu
vong của ông con trai.
Milosz trải
qua thời trai trẻ và những năm đại học ở Vilnius, một thành phố
baroque và cosmopolitan, cư dân của nó phần lớn nói tiếng Ba Lan và
Yiddish, nhưng
cũng nói tiếng Lithuanian, Byelorussian, và tiếng Nga. Vào giữa thập
niên
1930, ông du học Paris, và ở đó, ông hoàn thiện tới chỉ sự hiểu biết
tiếng Tẩy,
văn Tẩy, và giao du với 1 người bà con xa, người này sau trở thành ông
anh tinh
thần (sư phụ cũng được, his spiritual mentor), một nhà cựu ngoại giao
Lithuanian, sau trở thành một nhà thơ Pháp cực bảnh, O.V. de Lubicz
Milosz
(1877-1939), ông này mạnh mẽ khuyên đệ tử của mình, nè chớ có bỏ thơ
đấy nhé,
mi đúng có thiên hướng, như là 1 thi sỡi!
V/v
O.V. L Milosz.
Sinh Nhật
Trên Đồi Sắn
Les morts,
les morts sont au fond moins morts que moi... (a)
O.V.L Milosz
[... Những
người chết vậy mà không chết bằng tui.]
Trưa nắng mệt
chết giấc trên đồi
Vẳng quanh
tiếng cuốc bổ liên hồi
Đào huyệt
chôn ư? Ơi chúng bạn
Cứ để yên xác
tù nằm phơi.
Nhìn xem
gương mặt hắn thanh thản
Lộng nắng
như say chợp ngủ vùi
Người mong
giam hãm đặng bêu riếu
Hắn dầm
thân" xấp ngửa theo đời
Cho hết cuộc
ham mê rồ dại" *
Bởi tính xuẩn
ngốc chót kết buộc
Hắn tự chôn
theo gió đáy trời.
1979
*
Thư gửi bạn của Tư Mã Thiên
[Chú thích của
tác giả]
TTT: Thơ ở
đâu xa
(a)
Tous les morts sont ivres
de pluie vieille et froide
Au cimetière étrange de Lofoten
L'horloge du dégel tictaque lointaine
Au coeur des cercueils pauvres de Lofoten
Et grâce aux trous creusés par le noir printemps
Les corbeaux sont gras de froide chair humaine
Et grâce au maigre vent à la voix d'enfant
Le sommeil est doux au morts de Lofoten
Je ne verrai très
probablement jamais
Ni la mer ni les tombes de Lofoten
Et pourtant c'est en moi comme si j'aimais
Ce lointain coin de terre et toute sa peine
Vous disparus, vous suicidés, vous lointaines
Au cimetière étranger de Lofotene
- Le nom sonne à mon oreille étrange et doux.
Vraiment, dites-moi, dormez vous, dormez-vous ?
- Tu pourrais me conter des choses plus drôles
Beau claret dont ma coupe d'argent est pleine.
Des histoires plus charmantes et moins folles ;
Laisse-moi tranquille avec ton Lofoten.
Il fait bon. Dans le foyer doucement traine
La voix du plus mélancolique des mois.
- Ah! les morts, y compris ceux de Lofoten -
Les morts, les morts sont au fond moins morts que moi.
Oscar Vladislas de Lubicz
Milosz
Éditions André Silvaire
Có thể, TTT đọc bài thơ
này, cùng lúc với thơ Nguyễn Bắc Sơn, cùng lúc, viết thư cho đảo xa
& về lại Sài Gòn từ Đà Lạt…. và, nhận ra cái ý tưởng bàng bạc giữa
thơ của Oscar Milosz, và của NBS:
Tous les morts sont ivres
&
Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến
thành mây bay.
Đúng ý
Alain, như Steiner trích dẫn làm đề tử trong cuốn mới ra lò của ông, Thơ của Tư tưởng:
Toute pensée
commence par un poème.
(Every thought begins with a poem.)
Mọi tư tưởng bắt đầu bằng 1 bài thơ
-Alain: "Commentaire sur 'La Jeune Parque," 1953
Tất cả những người chết thì đều say
Tất cả những người đã chết
thì đều say mưa,
[một thứ mưa] xưa, và lạnh
Ở nghĩa trang là lạ là Mạc Đĩnh Chi ở Sài Gòn
Đồng hồ băng tan tích tắc ở xa xa
Ở trái tim của những chiếc hòm nghèo nàn của Sài Gòn
Và nhờ những lỗ thủng được
khoét bởi mùa xuân đen
[VC gọi là Đại Thắng Mùa Xuân, Đỉnh Cáo -
hay Cao thì cũng được - Chói Lọi]
Những con quạ mập phì vì thịt người lạnh
Và nhờ ngọn gió gầy có tiếng nói của con nít
Giấc ngủ mới mềm dịu biết bao với những người chết ở Sài Gòn
[Cái gì gì giống như “Ngã
ở trên núi khi vác củi”:
Hồn dưng dưng chẳng chút oán sầu?]
Có lẽ Gấu sẽ chẳng bao giờ
nhìn thấy [lại]
Biển Vũng Tầu,
Không,
Những nấm mồ ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi
Cũng không.
Nhưng, rõ ràng là, ở trong thằng cu Gấu
[Thằng cu Nghệ, TTT, đúng hơn],
Mới yêu thương làm sao,
Cái nơi chốn xa xăm và tất cả nỗi khổ đau của nó.
Lũ Chúng Ta [chữ của VHC]
Mất tích, tự tử, lạc loài
Ở nơi nghĩa địa là lạ là Mạc Đĩnh Chi
-Ui chao, chỉ nội cái tên thôi mà đã dội ở nơi tai Gấu
Một cái gì là lạ và dịu dàng.
Thực sao, hãy nói cho Gấu biết, bạn ngủ ư, bạn ngủ ư?
Toa có thể kể cho moa
nghe những chuyện tức cười hơn
Rượu vang thì đẹp và cái ly sành của moa
thì đầy
Những chuyện thú vị, và ít khùng điên ba trợn
Hãy mặc moa với Sài Gòn của toa
[Toa ở đây là ông bạn miệt vườn, bạn quí của
thằng Bắc Kít di cư là GCC]
Trời thì đẹp. Trong bếp
lửa,
Nhè nhẹ kéo dài,
Tiếng thở dài dài,
Buồn xiết bao,
Của những ngày ở Sài Gòn.
-Ui chao! những người chết, kể cả những người đã chết ở Sài Gòn,
Những người chết, những người chết, nói cho cùng,
Thì không chết bằng Gấu chết.
Không chạm tới
được nỗi cô đơn của người lạ
Camus 100
In the Light
of Friendship
Trong ánh
sáng tình bạn
Simone Weil,
Czeslaw Milosz, and Albert Camus
\
…. in
Stockholm, on the occasion of the Nobel
Prize, he gave the most vibrant public confirmation of her influence.
During
the press conference before the ceremony, when he was asked which
living
writers mattered to him most, he named various Algerian and French
friends, and
add: “And Simone Weil - for there are dead people who are closer to us
than many
of the living.”
Vào dịp lãnh Nobel, ở
Stockholm, ông công khai bày tỏ trước công chúng ảnh hưởng
của Simone Weil ở nơi ông:
“Và Simone Weil - bởi là vì có những người chết cận kề với chúng ta hơn
so với
nhiều kẻ đang sống”.
Trong bài diễn văn nhận
giải, ông cũng không quên nhắc tới Simone Weil:
Simone Weil, to whose
writings I am profoundly indebted, says:
"Distance
is the soul of beauty."
MILOSZ
DEFINED HIMSELF as an "ecstatic pessimist;' and perhaps it is in this
that
he is closest to Simone Weil. In the face of the mystery of evil, there
is
little room in their faith for Providence (which would alleviate
suffering) or
for the communion of saints (which would give it meaning). Is a
consoling
religion a baser form of religion? "Love is not consolation, it is
light" - this phrase of Simone Weil's is admirable; but why would light
not bring some consolation? In any case, that is what simple souls
naturally
perceive when they piously go to light a votive candle before an image
of the
Virgin or some saint.
*
Camus,
Albert
Tôi theo dõi
chuyện xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi Loạn
[L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi
Loạn [The Rebel]. Ông
viết như một con người tự
do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch được phép, bởi vì vào lúc đó con
người tự do
là con người chống Mẽo, phò Xô Viết, nói
theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.
Cái chiến dịch
xấu xa, bỉ ổi nhắm vào ông, do Sartre chủ xướng trên tờ Thời Mới, cùng với sự
tiếp tay của Francis Jeanson, và sau đó, có thêm Simone de Beauvoir,
xẩy ra
đúng vào lúc tôi đoạn tình với Warsaw vào năm 1951. Đó là khi Sartre
dậy dỗ
Camus: “Nếu bạn không thích cả hai món, cộng sản lẫn tư bản, thì chỉ
còn có một
chỗ cho bạn an trí, đó là quần đảo Galapagos Islands”.
Camus ban
cho tôi món quà hậu hĩ, là tình bạn của ông, và thật là quan trọng, khi
có một
đồng minh như thế trong nhà xb Gallimard, nơi ông làm việc. Ông khoái
bản tiếng
Tây, do Jeanne Hersch dịch, tác phẩm
Thung Lũng Issa của tôi. Cuốn tiểu thuyết
của tôi làm cho ông nhớ tới những gì Tolstoi viết, về thời thơ ấu của
ông ta,
ông nói với tôi như vậy.
Liên hệ giữa
tôi và nhà xb Gallimard không khá. Như là một hậu quả của Giải thưởng
Văn học
Âu châu, họ in Cướp Chính Quyền [The
Seizure of Power], và liền theo đó, Cái Đầu
Bị Cùm, hay Cầm Tưởng, The Captive Mind, nhưng cuốn sau, đố bạn
thấy nó được bầy
ở tiệm sách, và chẳng có lý do gì để mà nghi ngờ mấy ông chủ tiệm tẩy
chay, vì
những lý do chính trị. Họ in cuốn Thung
Lũng Issa là do Camus yêu cầu, nhưng
theo như ban hạch toán của nhà xb này, cuốn sách đã chẳng được đem ra
khỏi
kho - cùng lúc đó, có người đem cho tôi,
bản in lần thứ tư, của nó, tại Phi Châu.
Sau khi
Camus mất, tôi chẳng còn ai nói giùm mình một tiếng ở đó nữa, và do tờ
hợp đồng
vẫn còn giá trị, tôi đề nghị cuốn Cõi
Quê [Native Realm], qua bản dịch của
Sédir, nhưng vào lúc đó, Dinoys Mascolo, một tay Cộng Sản phụ trách ban
ngoại
văn [foreign division] đã thỉnh ý kiến của Jerzy Liowski [đảng viên
Đảng Cộng Sản
Ba Lan, lúc đó ở Paris] về giá trị cuốn sách, với chủ ý làm thịt nó, y
hệt như
thế kỷ 19 toà đại sứ của Nga Hoàng được hỏi ý kiến về thái độ chính trị
của những
di dân Nga. Tay này viết một bài điểm, khen ngợi cuốn sách. Họ bèn in.
Nhưng
sau đó, là rã đám.
Tôi nhớ một
lần trò chuyện với Camus. Ông hỏi, theo quan niệm của bạn, một tên vô
thần như
tớ [Camus] có nên cho con đi làm lễ thông công. Cuộc trò chuyện xẩy ra,
chỉ ít
lâu sau khi tôi ghé thăm Karl Jasper [một triết gia], ở Basel, và tôi
hỏi ông,
về chuyện [một thằng cựu CS như tôi - Hai Luá thêm vô], có nên dậy dỗ
con cái
như những tín đồ Ca Tô. Jasper trả lời, là một người theo Protestant,
ông ta
không khoái lắm cái đạo Ca Tô, nhưng trẻ con, theo ông, là phải được
dậy dỗ
theo đúng như niềm tin của chính chúng nó, và nếu như vậy, cứ để chúng
tiếp cận
truyền thống thánh kinh, và sau đó, chúng sẽ tự chọn cho chúng một tín
ngưỡng.
Thế là tôi
bèn trả lời Camus, đại khái như trên.
Milosz's
ABC's
Simone Weil
Cách đây vài
năm, tôi trải qua rất nhiều buổi chiều tại căn phòng của gia đình bà,
nhìn ra
những khu vườn Luxembourg Gardens, tại cái bàn đầy vết mực từ cây viết
của bà,
nói chuyện với bà mẹ, một người đàn bà tuyệt vời, ở vào tuổi tám mươi.
Albert
Camus, ngày được Nobel văn chương, đã trốn đám phóng viên, bằng cách
trú ẩn
trong căn phòng này.
Milosz: Sự
quan trọng của Simone Weil (1)
(1): Note:
TV sẽ đi bài này.
Camus 100
In the Light
of Friendship
Simone Weil,
Czeslaw Milosz, and Albert Camus
Czeslaw
Milosz and Albert Camus were two friends who shared a personal
knowledge of how
great ideals can turn to tyranny, intolerance, and slaughter. While
both reflected
on the terrible carnage of the mid-twentieth century, they found
themselves
drawing ever closer to the remarkable spirit of yet another friend. As
Camus
would say of Simone Weil: “... there are dead people who are closer to
us than
many of the living."
BORN IN 1911
in a small town in czarist Russia (and indeed throughout his life, like
many
Polish intellectuals - think of Conrad! – he observed the Russian
enigma with
horrified perspicacity), Czeslaw Milosz was the scion of an
aristocratic,
half-Polish, half-Lithuanian family. In his earliest youth, he shared
in the
nomadic life of his father, a roadworks engineer responsible for
construction
across the length and breadth of Siberia, and eventually even witnessed
the
fighting of the Bolshevik revolution. These early experiences
prefigured his
destiny as an exile.
Milosz spent his youth and his university
years in Vilnius, a baroque and cosmopolitan city, whose population
mostly
spoke Polish and Yiddish, but also Lithuanian, Byelorussian, and
Russian. In
the mid-1930s, he sojourned in Paris where he perfected his excellent
knowledge
of French language and literature, and frequented a distant cousin who
became
his spiritual mentor, the former Lithuanian diplomat turned great
French poet
O.V. de Lubicz Milosz (1877-1939), who strongly encouraged his vocation
as a
poet.
Returning to Poland on the eve of the war,
he worked for the national radio. In 1939, immediately following the
German
invasion, he became active in the Warsaw underground network of
anti-Nazi
resistance. The occupation was especially horrific in Poland; as Milosz
concluded,
... horror
is the law of living creatures, and the object of civilization is to
mask this
truth. Since civilized habits have a certain power of endurance, during
their
occupation of Western Europe a sort of restraint often led the Germans,
albeit
only cosmetically, to dress up their intentions, while in Poland no
inhibitions
held them back.
This
confrontation with naked horror decisively stamped his view of reality:
the
daily order that surrounds our existence is illusory, "men are
condemned
in advance, for the order in which they are settled and which shapes
each of
their thoughts and emotions is, like any order, ripe for destruction.”
A bomb
blows off the facade of a house, which, still upright, grotesquely
displays its
vulnerable and secret entrails; our lives, which seem stable, solid,
and
permanent, alike unfold in the fragile cardboard of a theatre set.
Everything
is provisional; everything can crumble in a flash into the gaping hole
of a
dark abomination. Our condition is forever precarious; even the most
elementary
human decency can shatter and vanish in the blink of an eye: "The
nearness
of death destroys all shame. Men and women are transformed as soon as
their
execution date has been set by a fat little man rigged out with a
riding crop
and shiny boots. They copulate in public on a tiny square of earth
enclosed by
barbed wire, their last refuge in this world.”
AFTER THE
WAR, like many Polish intellectuals who hoped that their cooperation
with the
Communist regime would drive it to evolve, Milosz became a diplomat and
was
posted as cultural attaché, first to Washington, then to Paris. But he
quickly
understood that serving a Stalinist totalitarianism not only involved
compromises unacceptable to conscience and to the spirit - more simply,
it
provoked "a rebellion of the stomach: a man might convince himself that
it
would be good for his health to swallow live frogs, and being
rationally
convinced, he will swallow first one frog, and then another, but at the
third,
his stomach will rise.” And so, in 1951, he left his post, broke with
the
regime, and leapt irreversibly into the chasm that exile represented
for him -
the greatest of misfortunes, for he seemed condemned to sterility,
isolation,
and inaction. But unlike so many other exiled writers, he clung to his
native
language, his most precious possession; except for part of his private
correspondence
- in French and English - until his death he scarcely wrote in anything
other
than Polish.
He spent the first ten years of his exile
in France - particularly desperate years, not just because of his
extreme
material insecurity (he had only the precarious resources of his pen
with which
to feed his young family), but mostly because of the cowardice and
stupidity of
the French intellectual left, those right-thinking people who, under
the
pontificate of Sartre-Beauvoir, had celebrated him as long as they saw
him
garlanded with the prestige of an official envoy from “democratic”
Poland and
treated him as a leper as soon as they learned of his defection. (At
his
publisher’s –Gallimard – a house reader even had the delicacy of
submitting his
manuscripts for the imprimatur of a "progressive” Polish censor!) In
1953,
he worsened his case by publishing what would become his most
resounding work,
The Captive Mind, "written not for
a Western audience, but rather against it," against its
foolishness and its blindness. The
purpose was indeed
to
remind the Western audience that "if a thing exists somewhere, it will
exist anywhere." And, in their lack of imagination, "the inhabitants of
Western countries scarcely understand that millions of their human
brothers,
who seem entirely identical to them, in fact live in a world as
fantastical as
that of the natives of Mars." Do not forget: "Man is so elastic a
creature
that we can well conceive that one day, every respectable citizen will
find it
natural to walk along on all fours brandishing a tail of striped
feathers to
signal his allegiance to the established order.”
WHEN THE
INTELLECTUAL AND LITERARY WORLDS had reduced him to a plague victim's
isolation, only one honest man had the courage to extend a brotherly
hand, and
help him survive: Albert Camus. A deep friendship developed between the
two
writers, cemented further by their shared admiration for Simone Weil.
Where Camus is concerned, it's impossible
to overstate the extent to which Simone Weil's thought and example
counted in
his intellectual and spiritual life, from the end of the war until his
premature death. This is a point that even his best biographers have
not
adequately treated, thereby confirming Emerson's view, according to
which
literary biography is a vain undertaking, since it tells of lives in
which, by
definition, the most significant events have unfolded in silence and
invisibility. And yet here, the material evidence is abundant. From
1948, Camus
undertook the publication, in the "Espoir" collection that he
directed for Gallimard, of Simone Weil's main writings on social and
political
questions, L'Enracinement (The Need for Roots) and La Condition
ouvrière. (Of
all the titles in the collection, these were the only ones that had any
real
success.) Along with Gustave Thibon (for the philosophical and
religious texts)
he was thus one of the very first and most ardent guardians of Simone
Weil's
work and memory. Above all, Simone Weil became a constant inspiration
for his
own reflection, as many passages in his Notebooks testify. Furthermore,
in
Stockholm, on the occasion of the Nobel Prize, he gave the most vibrant
public
confirmation of her influence. During the press conference before the
ceremony,
when he was asked which living writers mattered to him most, he named
various
Algerian and French friends, and add: “And Simone Weil - for there are
dead
people who are closer to us than many of the living.”
Ten years earlier, the publication of
Simone Weil's writings had led him to get in touch with her family, who
welcomed him warmly, especially Mrs. Bernard Weil, herself a remarkable
woman.
Milosz also got to know her, and after Camus's death - which devastated
Mrs.
Weil - he continued to visit her. At the end of his essay on Simone
Weil, Milosz
notes a touching and revealing detail: on the day Camus learned that he
had
been awarded the Nobel Prize, hounded by a horde of journalists and
photographers, he took refuge at Mrs. Weil's. And we know that for
Camus,
tormented by self-doubt, the crushing distinction was in many ways an
ordeal -
far from reassuring him, it left him unmoored. Just as, in a moment of
sudden
distress, a believer's natural reflex is to go into a church, the
atheist Camus
felt the irrepressible need to collect himself in the room where the
young
Simone had mediated and written.
In 1960, Milosz settled in the United
States, where Berkeley had offered him the chair in Slavic languages
and
literature. His university activities did not stop him from pursuing
his
literary work: he produced over forty volumes of poetry and essays, an
oeuvre
rewarded with many prizes, and finally, in 1980, the Nobel. After the
collapse
of communism and until his death, he divided his time between Berkeley
and
Cracow. After over half a century's absence, his native land must have
seemed
stranger to him than the foreign countries where he had spent the
greater part
of his life, and written most of his work, itself the fruit of exile.
For Milosz, the discovery of Simone Weil's
writings, as it had for Camus, gave new direction to his inner life.
The traces
of this revelation are found throughout his essays, his correspondence,
and
even his teaching (he gave a course on Manichaeism, directly inspired
by Simone
Weil's thought; and furthermore he edited, and had published in Polish,
a thick
volume of her selected works).
Milosz's religious posture seems to be both
symmetrical with, and the inverse of, Simone Weil's. The latter's
reflection on
naturally Christian pagans, and on naturally pagan Christians, could be
taken
to sum up their respective positions quite well. Simone Weil, though
inhabited
by a great desire to enter the Church to be able to partake of the
sacraments,
nevertheless denied herself that happiness, and deliberately stayed on
the
threshold, sharing in the destitution of the neo-pagans. Milosz, by
contrast,
born and educated in the Church, often wished to leave it; he wanted to
escape
the chauvinist and political Polish Church of his childhood, just as
much as he
wished to escape the depressing caricature of Protestantism into which
he saw
Western post-Council Catholicism sinking.
MILOSZ
DEFINED HIMSELF as an "ecstatic pessimist;' and perhaps it is in this
that
he is closest to Simone Weil. In the face of the mystery of evil, there
is
little room in their faith for Providence (which would alleviate
suffering) or
for the communion of saints (which would give it meaning). Is a
consoling
religion a baser form of religion? "Love is not consolation, it is
light" - this phrase of Simone Weil's is admirable; but why would light
not bring some consolation? In any case, that is what simple souls
naturally
perceive when they piously go to light a votive candle before an image
of the
Virgin or some saint.
SIMON LEVS
is an eminent French author currently living in Western Australia.
Camus 100
Simon Leys viết về ánh sáng tình bạn giữa Simone Weil, Czeslaw Milosz
và Albert
Camus, trên 1 số báo local của Toronto. Bài này, thú thực, Gấu tính
viết từ
khuya, nhưng may quá, Leys viết giùm!
Camus 100
TV sẽ chuyển
ngữ bài viết “Trở về Tipsapa: Return to Tipasa”. Bản tiếng Anh có thêm
đề từ:
Return
to Tipasa
'You have
navigated with raging soul far from the
paternal
home, passing beyond the sea's double
rocks, and
you now inhabit a foreign land'
- Medea
Noces, thì
đã được ông Tẩy mũi tẹt TTD chuyển qua tiếng Mít là Giao Cảm.
August 12,
2013
The Life of
the Artist: A Mimodrama in Two Parts (1)
Posted by
Albert Camus
Translator’s
note:
“La Vie
d’Artiste,” originally published in a small Algerian journal in
February, 1953,
was recently collected in the fourth and final volume of the Pléiade
edition of
Albert Camus’s complete works. The play, now printed as an appendix to
the
short story collection “Exile and the Kingdom,” stands out as the only
of
Camus’s works in which the written words were not intended to be seen
or heard
by an audience. Unlike his other plays, “La Vie d’Artiste” contains no
dialogue; the text of the mime, or “mimodrame,” as Camus called it, is
made up
entirely of actions and directions. Composed in a clipped, elliptical
style,
and alternating between humor and horror, the play, appearing in
English here
for the first time, poses the question: How is one to be a pure,
authentic
artist and live in a world that corrupts and destroys purity?
This
question is also at the center of Camus’s later, better-known short
story
“Jonas, or The Artist at Work,” included in the same collection. While
the two
pieces have similar themes, “La Vie d’Artiste” is distinctly bleak in a
way the
later work is not. At the time the mime was written, Camus was
suffering from
deep personal and professional wounds as a result of a public argument
with
Jean-Paul Sartre over the political positions taken in Camus’s book
“The
Rebel.” This quarrel, coupled with his faltering marriage, sent Camus
into a
spiral of physical illnesses and a yearlong period of creative
sterility.
Whereas
“Jonas” ends with the artist recovering from a fall, surrounded by his
loving
wife, his friend, and his children, “La Vie d’Artiste” shows the
unnamed artist
alone, his wife dead, his friend gone, his children having fled long
ago. In
the short story, Jonas is granted a reprieve—an escape from his work,
however
temporary it may be—while the play’s painter is given no such luxury.
Ultimately,
“La Vie d’Artiste” is the more immediate, unfiltered response to the
anxieties
plaguing Camus at that stage in his life, while “Jonas” is the softer
version
that came to him with time and reflection. The short story concludes
with a
blank canvas “in the center of which Jonas had merely written, in very
small
letters, a word that could be made out, but without any certainty as to
whether
it should be read ‘solitary’ or ‘solidary.’ ” In the play, as the
curtain
slowly falls, we leave the artist beginning “to paint the dead face” of
his
wife.
—Ryan
Bloom
“Đời nghệ sĩ”,
kịch Camus, lần đầu tiên xuất hiện trên 1 tờ báo bèo ở Algeria, Tháng
Hai,
1953, nay được đưa vô ấn bản toàn bộ tác phẩm Pléiade, và được coi như
là phụ lục
của tuyển tập truyện ngắn Lưu Đày và
Quê Nhà.
Theo GCC,
Lưu Đày và Quê Nhà, chỉ nội cái tít thôi, nói lên toàn thể tác
phẩm của Camus,
và nó miêu tả, cực đúng, khí hậu nhân sinh, vào thời
kỳ này, như 1
đối cực của nghiệt ngã toàn cầu hóa.
How is one
to be a pure, authentic artist and live in a world that corrupts and
destroys
purity?
Làm sao 1 nghệ sĩ, thứ
thật trong trắng, thật chân thực, lại có thể sống trong
1 thế giới nhơ bẩn như hiện nay?
[nguyên văn: làm thế nào, là 1 nghệ sĩ trong trắng, chân thực, và sống
trong 1
thế giới làm hư ruỗng, huỷ diệt trong trắng, chân thực?]
|